Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong inh doanh, thương mại bằng phương thức tòa án thực tiễn thực hiện tại tòa án nhân dân th

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.23 KB, 80 trang )

LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Kinh tế - Luật trường đại học Thương Mại và được
sự hướng dẫn của thầy giáo hướng dẫn Thạc sỹ.Nguyễn Thái Trường em đã thực hiện
đề tài nghiên cứu“Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại
bằng phương thức Tòa án - Thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân thành phố Thái
Nguyên.
Để hoàn thành khóa luận này, em xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo đã tận
tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu và rèn luyện ở
trường Đại học Thương Mại.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn Thạc Sỹ Nguyễn Thái Trường đã
tận tình, chu đáo hướng dẫn em thực hiện khóa luận này.
Trong quá trình thực tập, cũng như là trong quá trình làm bài khóa luận tốt
nghiệp, trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên khóa luận tốt
nghiệp của em không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến
đóng góp Thầy, Cô để bài khóa luận của em được hoàn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn!

i


MỤC LỤC

ii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Giải nghĩa

BLDS


BLTTDS
LTM
VKS
TAND
TCKDTM

Bộ Luật dân sự
Bộ Luật Tố tụng dân sự
Luật thương mại
Viện kiểm sát
Tòa Án nhân dân
Tranh chấp kinh doanh thương mại

iii


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận.
Trong bối cảnh đất nước đang phát triển toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội,
hoạt động kinh doanh thương mại của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại những tác động cũng như đóng góp đáng kể cho sự
phát triển chung của đất nước. Sự phát triển của các thành phần kinh tế, sự gia tăng số
lượng các doanh nghiệp đã và đang tạo ra một môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn
nhưng cũng không kém phần phức tạp và cạnh tranh gay gắt. Các tranh chấp kinh
doanh, thương mại cũng từ đó mà phát sinh với số lượng ngày càng tăng qua các năm
cùng với tính chất phức tạp của nó. Vì vậy việc giải quyết các tranh chấp phát sinh là
điều cần thiết để đảm bảo một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các chủ thể kinh
doanh và để giúp các doanh nghiệp tránh được những hậu quả tiêu cực do mâu thuẫn
và xung đột lợi ích gây ra.
Khi các quan hệ kinh doanh càng phát triển, những tranh chấp xảy ra là điều

không tránh khỏi, những lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp nào vừa đảm bảo có
lợi cho thương nhân vừa duy trì được mối quan hệ làm ăn là việc mà các thương nhân
cần cân nhắc. Pháp luật hiện hành công nhận các phương thức giải quyết tranh chấp
trong kinh doanh sau: Thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Theo đó, khi xảy ra
tranh chấp kinh doanh các bên có thể giải quyết tranh chấp thông qua việc trực tiếp
thương lượng với nhau. Trong trường hợp không thương lượng được, việc giải quyết
tranh chấp có thể được thực hiện với sự trợ giúp của bên thứ ba thông qua phương thức
hòa giải, trọng tài hoặc tòa án.
Toà án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền
lực nhà nước được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay
quyết định của Toà án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được
đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Ở Việt Nam các đương sự
thường lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Toà án
như một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích của mình khi
thất bại trong việc sử dụng cơ chế thương lượng, hoà giải. Nếu như việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài mang đặc điểm tôn trọng quyền thỏa thuận hay ý chí của các
bên tham gia để đưa ra phán quyết thì đặc trưng cơ bản của thủ tục giải quyết tranh
chấp bằng Tòa án là thông qua hoạt động của bộ máy tư pháp và nhân danh quyền lực
nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành, kể cả bằng sức mạnh
cưỡng chế. Nhờ đó, việc giải quyết tranh chấp thương mại thông qua Tòa án còn trực

1


tiếp góp phần vào việc nâng cao ý thức, tôn trọng pháp luật cho các chủ thể kinh
doanh.
Hơn nữa trong quá trình tham gia vào hoạt động thụ lí đơn và xét xử các vụ án
dân sự, hình sự và kinh doanh thương mại tại Tòa án địa phương, tác giả nhận thấy cơ
chế giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại bằng phương thức Tòa án còn
tồn tại rất nhiều bất cập từ hệ thống pháp luật áp dụng đến cách thi hành của cơ quan

xét xử. Xuất phát từ sự cấp thiết cần nâng cao, đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp
luật giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu thực
tiễn của xã hội đối với các hoạt động kinh tế, tác giả quyết định chọn đề tài “Pháp luật
về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng phương thức Tòa án Thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên” là đề tài khóa luận
của mình.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan.
Theo số liệu đánh giá của ngành Tòa án, hàng năm mỗi đơn vị Tòa án cấp quận
huyện thụ lý hàng trăm vụ án lớn nhỏ liên quan đến tranh chấp kinh doanh thương mại.
Hầu hết là các tranh chấp từ hợp đồng mua bán hàng hóa, tranh chấp hợp đồng tín
dụng, tranh chấp hợp đồng dịch vụ, yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán…Sự gia
tăng của các tranh chấp như trên cũng như những loại án đặc thù trong lĩnh vực kinh
doanh thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp, đòi hỏi sự không ngừng nghiên cứu
và làm mới các yêu cầu luật pháp cũng như chuyên môn trong lĩnh vực giải quyết tranh
chấp loại này để giải quyết ổn thỏa, đảm bảo quyền lợi cho các bên là việc làm không
phải đơn giản. Để đáp ứng nhu cầu này, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu và
nhiều bài viết về vấn đề này. Có thể kể đến là:
- Luận văn thạc sĩ học của Đinh Thị Trang thuộc Khoa luật – Đại học Quốc gia
Hà Nội nghiên cứu về “Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo
thủ tục tố tụng Tòa án ở Việt Nam hiện nay” được công bố năm 2013 . Luận văn đã
phân tích rõ ràng, cụ thể về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại (TCKDTM). Qua đó, có cái nhìn khái quát về thực trạng pháp
luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết TCKDTM ở nước ta hiện nay;
phân tích, đánh giá những ưu điểm và tồn tại của hệ thống này. Nêu thực trạng pháp
luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết TCKDTM ở nước ta trên cơ sở đó
đưa ra một số nhận xét về những bất cập của hệ thống pháp luật về thẩm quyền của Tòa
án trong việc giải quyết TCKDTM, nhận xét những nguyên nhân của những bất cập đó
để có định hướng, kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của
Tòa án nói riêng, pháp luật giải quyết TCKDTM nói chung.

2



- Khóa luận tốt nghiệp của Bùi Trọng Tuấn thuộc khoa Kinh Tế Ngoại Thương
của trường đại học Ngoại thương nghiên cứu đề tài “ Giải quyết tranh chấp ở nước ta
hiện nay- Thực trạng và giải pháp” đăng ngày 29/08/2013. Luận văn cũng đưa ra
những giải pháp cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Tòa án
trong việc giải quyết TCKDTM trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các quy định về giải
quyết TCKDTM bằng Tòa án trên thế giới để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết TCKDTM mang bản sắc Việt Nam, phù
hợp với chuẩn mực, thông lệ quốc tế.
- Khóa luận “Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân
thành phố Nghệ An - Thực trạng và giải quyết” của Hà Văn Hải, sinh viên khoa Luật
trường đại học Vinh đăng ngày 18/12/2013. Phân tích nội dung các quy định của pháp
luật hiện hành về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các TCKDTM. Thực
tiễn thi hành pháp luật, trên cơ sở đó chỉ ra những bất cập, hạn chế, vướng mắc trong
thực thi pháp luật về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các TCKDTM.
Những công trình này tiếp cận ở các khía cạnh khác nhau của pháp luật về giải
quyết trong tranh chấp kinh doanh thương mại, đều đưa ra được những ưu điểm và
nhược điểm trong quy định của pháp luật về tranh chấp kinh doanh thương mại. Tuy
nhiên, trên phương diện thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật giải quyết về tranh
chấp kinh doanh, thương mại tại các cơ quan tố tụng còn nghiên cứu, khai thác chưa
đầy đủ. Hay nói một cách khác, lĩnh vực nghiên cứu này vẫn còn tồn tại một số vấn đề
đang còn tranh luận cần tiếp tục làm rõ trong điều kiện hiện hành ở Việt Nam.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu.
Khi giải quyết các TCKDTM tại TAND thì quan hệ giữa các bên tranh chấp và
những người tham gia giải quyết không chỉ chịu sự điều chỉnh của luật thương mại mà
còn chịu sự điều chỉnh của luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân là cơ quan giữ vai trò
quan trọng trong hệ thống các cơ quan thực thi và bảo vệ tính ổn định, trật tự pháp luật
của xã hội, góp phần thực hiện nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho. Đặc biệt
trong giai đoạn hiện nay, trước những yêu cầu của việc cải cách bộ máy tư pháp và sửa

đổi hoàn thiện BLTTDS. Xác định và nhận thức đúng đắn về vai trò giải quyết
TCKDTM của tòa án có ý nghĩa rất quan trọng, đó là cơ sở để hoàn thiện các quy định
của pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của TAND trong lĩnh vực này.
Dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành, các tài liệu tham khảo và
thực tiễn áp dụng pháp luật tại đơn vị thực tập, khóa luận này sẽ đưa ra các cơ sở pháp
lý làm tiền đề để đi sâu vào phân tích lý luận cũng như thực tiễn áp dụng, thực thi pháp
luật tại đơn vị, từ đó có những kiến nghị cần thiết nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại cũng như việc đảm
3


bảo thực thi pháp luật tại đơn vị nói riêng và các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt
động thương mại nói chung. Khóa luận đi sâu nghiên cứu các vấn đề sau:
Thứ nhất là phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh giải
quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng phương thức Tòa Án.
Thứ hai là phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật điều chỉnh giải
quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng phương thức Tòa Án và thực tiễn
thực hiện tại Toà Án nhân dân thành phố Thái Nguyên.
Thứ ba là một số kiến nghị góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng phương thức Tòa
Án.
Từ những phân tích ở trên, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật về giải quyết tranh
chấp trong kinh doanh, thương mại bằng phương thức Tòa án - Thực tiễn thực hiện tại
Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Để đạt được mục đích đặt ra, khóa luận đi sâu nghiên cứu thực trạng các quy định
pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân
( TAND) theo quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện pháp luật giải
quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Thái

Nguyên.
4.2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu một cách tổng quát các vấn đề lý luận cơ bản
trong quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa
án (chủ yếu dựa trên văn bản pháp luật hiện hành là Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 và
các văn bản pháp lý có liên quan cùng với thực tiễn hoạt động xét xử các loại án kinh
doanh thương mại tại Tòa án nhân dân hiện nay). Từ đó, có phương hướng đề xuất các
giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng giải quyết các vụ án tranh chấp kinh doanh
thương mại tại Tòa án hiện nay. Mục tiêu cụ thể như sau:
- Đánh giá thực trạng của pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
bằng thủ tục tố tụng tại Tòa án ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá được thực trạng cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên.
- Tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án.
Qua đó tìm hiểu, phát hiện ưu và nhược điểm của thủ tục này để các cơ sở kinh
doanh thương mại có được sự lựa chọn tốt nhất trong việc giải quyết các tranh chấp của

4


mình, nhanh chóng khắc phục những hạn chế bất cập làm ảnh hưởng đến quá trình sản
xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó đề xuất những phương hướng hoàn thiện pháp luật tố
tụng hiện nay ở Việt Nam để phục vụ tốt hơn trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Khóa luận tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu hệ thống
các quy định của pháp luật Việt Nam về tranh chấp trong kinh doanh thương mại và
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, khóa
luận còn đưa ra thực tiễn việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án
nhân dân thành phố Thái Nguyên.

- Phạm vi thời gian: Quá trình nghiên cứu đề tài sử dụng dữ liệu giai đoạn
01/10/2012 đến 28/11/2017, đề xuất giải pháp định hướng đến năm 2022.
- Nguồn tài liệu nghiên cứu: Trong phạm vi bài khóa luận, tác giả chủ yếu sử
dụng bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 làm tài liệu nghiên cứu chính trong bài khóa
luận của mình. Trong quá trình sử dụng nghiên cứu bộ luật Tố tụng dân sự 2015 kết
hợp so sánh với Bộ Luật tố tụng dân sự 2004. Ngoài ra trong bài khóa luận còn sử dụng
các nguồn tài liệu bổ sung như: Bộ Luật Dân sự 2015; Luật thương mại 2005…
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng một số biện pháp cơ bản như:
Chương 1 của đề tài được triển khai thông qua phương pháp phân tích các vấn đề
lý luận cơ bản của pháp luật về tranh chấp trong kinh doanh, thương mại cùng phương
pháp so sánh các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề tranh chấp trong kinh
doanh, thương mại đặc biệt là giữa Bộ luật Tố tụng dân sự với các văn bản hướng dẫn
thi hành.
Chương 2 thông qua các biện pháp thu thập số liệu, phân tích, đánh giá về tình
trạng từ đó đánh giá được có hay không sự tăng lên về số lượng, tính chất, mức độ của
tranh chấp trong kinh doanh, thương mại trên địa bàn cả nước và cụ thể là tại thành phố
Thái Nguyên.
Chương 3 là các biện pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong nghiên cứu áp
dụng cùng với biện pháp suy luận diễn dịch, quy nạp để đưa ra những đánh giá chung
nhất, tạo ra một số đề xuất kiến nghị dựa trên các phân tích đó nhằm hoàn thiện các
quy định của pháp luật về tranh chấp trong kinh doanh, thương mại.

5


6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp.
Đề tài nghiên cứu ngoài lời mở đầu và phần kết luận thì đề tài được bố cục nội
dung chính gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh giải quyết tranh

chấp trong kinh doanh, thương mại bằng phương thức Tòa Án.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh, thương mại bằng phương thức Tòa Án và thực tiễn thực hiện tại Toà Án nhân
dân thành phố Thái Nguyên.
- Chương 3: Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng phương thức Tòa
Án.

6


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU
CHỈNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
BẰNG PHƯƠNG THỨC TOÀ ÁN.
1.1. Khái quát chung về tranh chấp trong kinh doanh, thương mại và giải
quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại bằng phương thức Tòa Án.
1.1.1 Khái quát chung về tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng
phương thức Tòa án.
1.1.1.1 Khái niệm tranh chấp trong kinh doanh, thương mại.
Tranh chấp thương mại là một trong những hệ quả của hoạt động thương mại.
Tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra trong hoạt
động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất thường xuyên cũng như hậu quả của nó
gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả nền kinh tế nói chung,
pháp luật Việt Nam cũng đã sớm có những quan tâm nhất định đến hoạt động này cũng
như các phương thức giải quyết. Có thể nói, trong các loại tranh chấp trên thì tranh
chấp về thương mại (tranh chấp kinh doanh) là loại hình tranh chấp phổ biến nhất.
Thuật ngữ "tranh chấp" nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về quyền
lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan. Những bất đồng, mâu thuẫn này có
thể phát sinh từ những quan hệ xã hội do nhiều ngành luật điều chỉnh nên chúng được
gọi theo ngành luật đó. Ví dụ: Tranh chấp về tiền lương giữa người tranh chấp kinh

doanh thương mại và người sử dụng tranh chấp kinh doanh thương mại được gọi là
tranh chấp tranh chấp kinh doanh thương mại. Tương tự như vậy, tranh chấp dân sự,
tranh chấp đất đai... đều là những tranh chấp có liên quan đến lợi ích kinh tế của các
bên. Do đó chúng có thể được gọi là tranh chấp kinh tế theo nghĩa rộng. Một đặc trưng
của các tranh chấp kinh tế theo nghĩa rộng đó là các chủ thể tham gia vào quan hệ này
không nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Luật Thương mại năm 2005 đưa ra khái niệm khá đơn giản về hoạt động thương
mại nhưng cũng khắc họa đủ nội hàm của khái niệm. Theo khoản 1 Điều 3 Luật này,
hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác. Cũng theo khái niệm này, quan niệm về hoạt động thương mại cũng đã
được mở rộng, bao gồm mọi hoạt động có mục đích sinh lợi. Hướng tiếp cận này của
Luật Thương mại năm 2005 cho thấy, khái niệm về hoạt động thương mại đã được mở
rộng tương đồng với khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật
Doanh nghiệp năm 2005 và nay là Luật Doanh nghiệp năm 2014.

7


Theo khoản 6 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014, kinh doanh là việc thực hiện
liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 khi liệt kê các tranh chấp về kinh doanh, thương
mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án tại điều 30 cũng dùng thuật ngữ “ tranh
chấp trong hoạt động kinh doanh, thương mại” :
“1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân,
tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.”
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 khi liệt kê các tranh chấp thuộc thẩm quyền
giải quyết của Trọng tài, cũng sử dụng thuật ngữ “ hoạt động thương mại” bao gồm:
- Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.

- Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương
mại.
- Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng
tài 1.
Như vậy, mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp
thương mại” hay “tranh chấp trong kinh doanh” mà sử dụng thuật ngữ “tranh chấp về
kinh doanh, thương mại”, nhưng nội dung của các tranh chấp về kinh doanh, thương
mại được liệt kê tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thực chất là các tranh chấp
thương mại theo hướng tiếp cận của Luật Thương mại năm 2005 và Luật Trọng tài
thương mại năm 2010. Tuy có sự khác nhau về cách thức biểu đạt và ngôn ngữ sử
dụng, nhưng nhìn chung quan niệm về hoạt động kinh doanh hay hoạt động thương
mại và tranh chấp trong kinh doanh hay tranh chấp thương mại được thể hiện qua các
quy định trong các văn bản pháp luật của Việt Nam hiện hành cũng khá nhất quán.
Tại điều 3 Luật thương mại 2005 cũng quy định: “ Hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư,
xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.” 2
Từ các nội dung xem xét nêu trên, có thể hiểu:
“Tranh chấp trong kinh doanh (hay tranh chấp thương mại) là những mâu thuẫn
(bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện
các hoạt động kinh doanh hoặc có liên quan đến hoạt động kinh doanh”.

1
2

Luật trọng tài thương mại 2010
Điều 3 Luật thương mại 2005

8



1.1.1.2 Đặc điểm của tranh chấp trong kinh doanh, thương mại.
Tranh chấp thương mại có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể. Mâu thuẫn được hiểu là
trạng thái xung đột, đối xứng nhau về quyền và nghĩa vụ giữa các bên tranh chấp. Quan
hệ thương mại và bất đồng giữa các bên trong quan hệ thương mại là điều kiện cần và
đủ để tranh chấp phát sinh. Trong hoạt động thương mại, các bên vừa hợp tác đồng thời
vừa cạnh tranh nhau để đạt được những mục đích đề ra. Do đó, việc phát sinh những
mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên là điều tất
yếu.
Các quan hệ thương mại có bản chất là các quan hệ tài sản nên nội dung tranh
chấp thường liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên. Thông thường, những
mâu thuẫn bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh trong các mối quan hệ
cụ thể bao gồm:
(i) Mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; kí gửi; thuê,
cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn kĩ thuật; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng
đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng
đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá
khác; đầu tư tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác.
(ii) Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
(iii) Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
(vi)Tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Thứ hai, những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các
bên phải phát sinh từ hoạt động thương mại.
Căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng hoặc vi
phạm pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại phát sinh do các bên
có vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy nhiên cũng có thể có những vi

phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không làm phát sinh tranh chấp. Tranh chấp
thương mại phải là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát
sinh từ những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung
ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác.

9


Thứ ba, các tranh chấp thương mại chủ yếu là những tranh chấp phát sinh giữa
các thương nhân (cá nhân kinh doanh, pháp nhân) với nhau. Ngoài thương nhân là chủ
thể chủ yếu của tranh chấp thương mại, trong những trường hợp nhất định, các cá nhân,
tổ chức khác (không phải là thương nhân) cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương
mại khi trong các giao dịch bên không có mục đích sinh lợi chọn áp dụng luật thương
mại. Khoa học pháp lý gọi giao dịch này là giao dịch hỗn hợp (hành vi hỗn hợp). Về
bản chất, hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với
thương nhân không phải là hoạt động thương mại thuần túy, nhưng bên không nhằm
mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng luật thương mại thì quan hệ này trở thành quan hệ
pháp luật thương mại và tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật này phải được quan
niệm là tranh chấp thương mại. Một quy tắc được pháp luật của Pháp và nhiều quốc gia
áp dụng để giải quyết loại tranh chấp này đó là căn cứ vào bị đơn là thương nhân hay
không phải là thương nhân. Nếu bị đơn là thương nhân thì nguyên đơn (bên có hành vi
dân sự) có thể chọn Tòa Thương mại hoặc Tòa Dân sự để giải quyết vụ tranh chấp.
Trường hợp nguyên đơn chọn Tòa Thương mại thì các quy định khắt khe hơn của luật
thương mại được áp dụng để giải quyết vụ tranh chấp. Ngược lại, bị đơn không phải là
thương nhân thì nguyên đơn (bên có hành vi thương mại) chỉ có quyền kiện ra Tòa Dân
sự và luật dân sự được áp dụng để giải quyết vụ tranh chấp mà các quy định của luật
thương mại không thể áp dụng cho đối phương không phải là thương nhân.
Dựa trên những căn cứ pháp lý khác nhau như: Phạm vi lãnh thổ, số lượng các
bên tranh chấp, căn cứ vào lĩnh vực tranh chấp, quá trình thực hiện, thời điểm phát sinh

tranh chấp, tranh chấp thương mại được chia thành các loại tranh chấp khác nhau.
Tranh chấp thương mại đã trở thành một hiện tượng tất yếu khách quan của nền
kinh tế thị trường. Khi tranh chấp thương mại phát sinh đòi hỏi cần phải được giải
quyết một cách minh bạch và hiệu quả; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể,
góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại, bảo đảm trật tự
pháp luật, kỷ cương xã hội.
1.1.2 Khái quát chung về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại
bằng phương thức Tòa án.
1.1.2.1 Khái niệm giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng
phương thức Tòa án.
Như khái niệm trên đã khái quát:”Tranh chấp trong kinh doanh (hay tranh chấp
thương mại) là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa
các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh doanh hoặc có liên quan đến
hoạt độngkinh doanh”.

10


Pháp luật hiện hành công nhận các phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh sau: Thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Theo đó, khi xảy ra tranh chấp
kinh doanh các bên có thể giải quyết tranh chấp thông qua việc trực tiếp thương lượng
với nhau. Trong trường hợp không thương lượng được, việc giải quyết tranh chấp có
thể được thực hiện với sự trợ giúp của bên thứ ba thông qua phương thức hòa giải,
trọng tài hoặc tòa án.
Từ đó có thể thấy “Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng
phương thức Tòa án là cơ chế để cơ quan tư pháp Nhà nước tham gia vào việc giải
quyết các bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên trong kinh doanh, thương mại trong
trường hợp không thương lượng, hòa giải được và trường hợp đó thuộc thẩm quyền
giải quyết của Toà án trên cơ sở thỏa thuận tự nguyện của các bên .”
Chính vì lẽ đó, việc giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh dựa trên nguyên

tắc quan trọng là quyền tự định đoạt của các bên. Cơ quan nhà nước và trọng tài
thương mại chỉ can thiệp theo yêu cầu của các bên tranh chấp.
1.1.2.2 Đặc điểm giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng
phương thức Tòa Án.
Việc xác định một tranh chấp dân sự hay tranh chấp trong kinh doanh thương
mạicó ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giải quyết vụ việc tranh chấp. Nếu xác
định sai quan hệ pháp luật tranh chấp sẽ dẫn đến áp dụng sai pháp luật nội dung đối với
vụ việc. Vì vậy để hiểu rõ căn cứ phát sinh cũng như đặc điểm của tranh chấp trong
kinh doanh, thương mại thì cần phải phân biệt rõ ràng hai loại tranh chấp này.
Khác với tranh chấp dân sự là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể của luật dân
sự (cá nhân, pháp nhân) trong quan hệ pháp luật dân sự (về nhân thân và/hoặc tài sản)
thì tranh chấp kinh doanh thương mại là tranh chấp phát sinh giữa các thương nhân có
đăng ký kinh doanh trong hoạt động thương mại, đầu tư, kinh doanh.
Trong một số trường hợp, việc xác định đâu là tranh chấp dân sự và đâu là tranh
chấp kinh doanh thương mại khá phức tạp. Cụ thể:
+ Tranh chấp phát sinh mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh,
nhưng đều có mục đích lợi nhuận.
Trường hợp này, nếu căn cứ theo Khoản 1 Điều 30 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015
thì đây được xác định là tranh chấp dân sự vì một bên hoặc các bên thiếu điều kiện về
chủ thể là có đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, việc xác định như vậy có phần không hợp
lý vì các lý do sau:
- Việc một bên hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh có thể do nguyên nhân
khách quan hoặc chủ quan như: chưa kịp tiến hành đăng ký kinh doanh; đã tiến hành

11


thủ tục đăng ký kinh doanh nhưng chưa được cấp hoặc bị từ chối cấp; cố ý vi phạm
nghĩa vụ đăng ký kinh doanh của thương nhân.
Điều 7 Luật thương mại 2005 quy định về nghĩa vụ đăng ký kinh doanh của

thương nhân: “Thương nhân có nghĩa vụ đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật. Trường hợp chưa đăng ký kinh doanh, thương nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về
mọi hoạt động của mình theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp
luật”. Như vậy, việc một bên hoặc các bên không/chưa có đăng ký kinh doanh khi giao
dịch không làm loại trừ trách nhiệm phát sinh từ giao dịch.
- Các bên trong tranh chấp đều có mục đích lợi nhuận. Ý chí của các bên khi tham
gia giao dịch đều nhằm mục tiêu lợi nhuận nên dù không có đăng ký kinh doanh, họ
đều hiểu và chấp nhận những quy tắc của giao dịch thương mại.
- Việc xác định loại tranh chấp này là tranh chấp kinh doanh thương mại phù hợp
với hướng dẫn tại Điểm b Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP của Hội
đồng thẩm phán: “Toà kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các
yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của BLTTDS; các
tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh
doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận”.
+ Tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại giữa các bên đều có mục
đích lợi nhuận mà chỉ một bên có đăng ký kinh doanh, bên còn lại có các loại giấy tờ
pháp lý khác không phải là đăng ký kinh doanh như: Giấy chứng nhận đăng ký hoạt
động, Giấy phép thành lập và hoạt động.
Đây là trường hợp mà bên không có đăng ký kinh doanh được thành lập và hoạt
động theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Trong các trường hợp này, việc xác
định loại tranh chấp cần căn cứ vào quy định tương ứng tại các văn bản pháp luật khác.
Ví dụ 1: tranh chấp phát sinh giữa Tổ chức hành nghề luật sư (có Giấy đăng ký
hoạt động) với khách hàng là Doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp (có đăng ký kinh
doanh) trong việc cung ứng dịch vụ thì đây xác định là tranh chấp dân sự theo Khoản 1
Điều 59 Luật Luật sư.
+ Tranh chấp mà một bên không có mục đích lợi nhuận nhưng chọn áp dụng
Luật Thương mại.
Khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại quy định phạm vi điều chỉnh của Luật Thương
mại bao gồm cả “hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch
với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp
dụng Luật này”.

12


Như vậy, nếu bên không có mục đích lợi nhuận chọn áp dụng Luật Thương mại
thì không thể xác định tranh chấp này là tranh chấp kinh doanh thương mại và áp dụng
Luật Thương mại để giải quyết.
Tòa án và trọng tài đều là những hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh, chúng đóng vai trò một bên trung lập với các bên trong quan hệ tranh chấp.
Hoạt động giải quyết tranh chấp của tòa án và trọng tài có điểm giống nhau và có thể
phân biệt với các hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh khác đó là chúng căn cứ
vào pháp luật và hợp đồng của các bên trong quan hệ tranh chấp, xem xét sự thật vụ án
và độc lập ra phán quyết, phán quyết này được đảm bảo thi hành. Vì chúng có thẩm
quyền xem xét và ra phán quyết cho nên thủ tục tố tụng của tòa án và trọng tài rất chặt
chẽ và được pháp luật quy định. Thủ tục tố tụng tòa án và tố tụng trọng tài đều dựa trên
những nguyên tắc chung như : tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự, đảm bảo
sự độc lập của người tài phán, … Tuy nhiên, vì đây là hai hình thức giải quyết tranh
chấp độc lập, cho nên giữa tố tụng tòa án và tố tụng trọng tài cũng có những sự khác
biệt cơ bản sau đây :
Thứ nhất, về tính chất pháp lý.
Giữa tòa án và trọng tài có sự khác biệt rất rõ về tính chất pháp lý của mỗi loại cơ
quan này. Tòa án là một cơ quan nhà nước nằm trong hệ thống cơ quan tư pháp. Trong
quá trình tố tụng, tòa án nhân danh Nhà nước để xem xét, xử lý vi phạm pháp luật
nhằm duy trì trật tự công cộng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà
kinh doanh. Trong khi đó, các trung tâm trọng tài đều tồn tại với tư cách là một tổ chức
phi chính phủ, một tổ chức mang tính chất xã hội – nghề nghiệp.
Thứ hai, về thẩm quyền.
Thẩm quyền theo vụ việc : dưới góc độ thẩm quyền theo vụ việc, thực tế cho thấy

tòa án thường có thẩm quyền rộng hơn so với trọng tài. Tòa án có thẩm quyền giải quyết
hầu hết tất cả các tranh chấp trong kinh doanh. Trong khi đó, khác với tòa án, thẩm quyền
của trọng tài có thể thay đổi, hoặc thu hẹp lại tùy theo từng trung tâm trọng tài.
Thẩm quyền theo lãnh thổ : Đối với tòa án, không phải vụ tranh chấp trong kinh
doanh nào cũng được tòa thụ lý giải quyết. Đơn kiện chỉ được tòa án thụ lý giải quyết
khi được chuyển đến tòa án có thẩm quyền giải quyết. Ngược lại, trong tố tụng trọng
tài không đặt ra vấn đề thẩm quyền về mặt lãnh thổ. Các bên tranh chấp có quyền lựa
chọn bất cứ trung tâm trọng tài nào để giải quyết cho mình theo ý muốn và sự tín
nhiệm của họ.
Thứ ba, các giai đoạn tố tụng
Trong tố tụng trọng tài, trọng tài chỉ xét xử một lần các tranh chấp kinh doanh.
Phán quyết của trọng tài là quyết định chung thẩm, có hiệu lực thi hành, không bị
13


kháng cáo, kháng nghị. Đây là nguyên tắc đặc trưng của tố tụng trọng tài so với tố tụng
tòa án. Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất của tố tụng trọng tài là nhân danh ý chí và
quyền định đoạt của các bên đương sự. Các bên đương sự đã tự do lựa chọn và tín
nhiệm người phán xử cho mình thì đương nhiên phải phục tùng quyết định của người
đó. Trong khi đó, trong tố tụng tòa án có nhiều cấp xét xử từ sơ thẩm đến phúc thẩm,
trong một số trường hợp phán quyết của tòa án còn có thể được xem xét lại theo thủ tục
giám đốc thẩm và tái thẩm.
Thứ tư, về nguyên tắc xét xử tập thể.
Tố tụng trọng tài không có nguyên tắc xét xử tập thể như trong tố tụng tòa án.
Việc chọn một hay nhiều trọng tài viên để giải quyết tranh chấp cho mình là quyền của
các bên tranh chấp, pháp luật không can thiệp. Pháp luật chỉ can thiệp vào vấn đề này
khi các bên không thỏa thuận được với nhau về cách thức lựa chọn trọng tài viên mà
thôi. Ví dụ, khi các bên không đạt được sự nhất trí trong việc chọn một trọng tài viên
để giải quyết tranh chấp cho mình theo quy định của pháp luật, mỗi bên tranh chấp sẽ
chọn cho mình một trọng tài viên. Hai người được chọn sẽ chọn một người thứ ba làm

Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Trong trường hợp hai trọng tài không chọn được người thứ
ba đó thì quyền quyết định thuộc về tòa án.
Thứ năm, tính công khai của hoạt động tố tụng.
Trong tố tụng tòa án, Việc xét xử của tòa án không chỉ có mục đích bảo vệ quyền
và lợi ích của các đương sự mà còn có ý nghĩa giáo dục việc tuân theo pháp luật. Do
vậy, hầu hết các phiên tòa đều được tiến hành công khai, các bản án thường được công
bố rộng rãi trước công chúng. Điều này dẫn đến khó khăn khi bảo vệ các thông tin bí
mật. Trong khi đó, trong tố tụng trọng tài, mọi tình tiết và kết quả đều không được công
bố công khai nếu không được sự chấp thuận của các bên. Xuất phát từ nhu cầu phải
bảo vệ một cách nghiêm ngặt các bí mật nghề nghiệp của các nhà kinh doanh mà pháp
luật không bắt buộc các phiên họp xét xử trọng tài phải tiến hành công khai.
Thứ sáu, về phán quyết.
Ở cả hai hình thức tố tụng này, việc xét xử tranh chấp đều được kết thúc bằng
việc ra bản án, quyết định của tòa án hoặc phán quyết trọng tài. Nhưng phán quyết của
trọng tài và bản án, quyết định của tòa án trong nhiều trường hợp cũng có những điểm
khác nhau cơ bản.
Trong tố tụng tòa án, bản án, quyết định của tòa án khi đã có hiệu lực nếu các bên
không tự nguyện thi hành thì cơ quan thi hành án sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế
cần thiết theo quy định của pháp luật. Trong khi đó, ở một số quốc gia, không phải lúc
nào quyết định của trọng tài cũng được đảm bảo thi hành bằng cưỡng chế của Nhà
nước. Ở nhiều Quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, khi quyết định của trọng
14


tài hợp pháp mà không được bên thua kiện thi hành tự nguyện thì theo yêu cầu của phía
bên kia, cơ quan thi hành án sẽ cưỡng chế thi hành như một phán quyết của tòa án. Tuy
nhiên, cũng có một số quốc gia, mà ở đó sự phối hợp hoạt động giữa tòa án và trọng tài
chưa cao và chưa được pháp luật quy định (ví dụ như ở Việt Nam trong thời gian từ
trước khi có Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 trở về trước) thì việc sử dụng cơ chế
tòa án phê chuẩn quyết định của trọng tài để trên cơ sở đó mà cưỡng chế thi hành các

quyết định trọng tài là chưa có điều kiện thực hiện. Vì vậy, ở các quốc gia này các
quyết định giải quyết tranh chấp của trọng tài không được đảm bảo thi hành bằng sự
cưỡng chế của Nhà nước. 3
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh giải quyết tranh chấp
trong kinh doanh, thương mại tại Tòa án.
1.2.1 Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh, thương mại tại Tòa án.
Hệ thống pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra hành lang pháp lí để
công ty, đơn vị hành chính sự nghiệp của nhà nước được tạo lập, vận hành và phát
triển, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp thông qua
các văn bản pháp luật như bộ luật Dân sự, luật Thương mại, luật Doanh nghiệp, luật
tranh chấp kinh doanh thương mại, bộ luật Tố tụng dân sự, luật Trọng tài thương mại
và các văn bản hướng dẫn có liên quan.
Để nền kinh tế thị trường vận hành hiệu quả, hoạt động kinh doanh thương mại
diễn ra có trật tự, do đó cần thiết phải thiết kế và xây dựng một hệ thống các văn bản
pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, có tính thống nhất cao và một cơ chế hữu hiệu đảm bảo
việc thi hành chúng.
1.2.1.1 Cơ sở thực tiễn
Sau công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, sự hình thành nền kinh tế thị trường
ở nước ta trong những năm đầu của thế kỷ này được diễn ra trong bối cảnh sự phát
triển theo chiều rộng và chiều sâu của các quan hệ kinh tế với tốc độ nhanh chóng chưa
từng có để từng bước khẳng định nó là bộ phận không thể thiếu được của thị trường thế
giới. Cũng từ đó mà tranh chấp trong kinh tế nói chung và trong kinh doanh thương
mại nói riêng với tính cách là hệ quả tất yếu của quá trình này cũng trở nên phong phú
hơn về chủng loại và gay gắt phức tạp hơn về tính chất và quy mô.
Tranh chấp kinh doanh thương mại là hiện tượng phát sinh tất yếu trong hoạt
động kinh doanh thương mại, vấn đề cần quan tâm là phải có biện pháp để giải quyết
hợp lý những tranh chấp đó nhằm giúp các chủ thể kinh doanh có được sự tin tưởng
Khóa luận “Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Nghệ An Thực trạng và giải quyết” của Hà Văn Hải, sinh viên khoa Luật trường đại học Vinh đăng ngày
18/12/2013.

3

15


trong cơ chế điều hành, quản lý kinh tế của nhà nước. Vì vậy, việc đổi mới và hoàn
thiện hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại phù hợp với cơ chế thị
trường là yêu cần cần thiết, quan trọng nhằm đảm bảo việc thực hiện chức năng kinh tế
của nhà nước.
Trong những năm gần đây việc giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án ngày
càng trở nên phổ biến và chiếm tỷ trọng lớn trong các phương thức mà các bên lựa
chọn giải quyết khi có tranh chấp thương mại phát sinh. Để hoạt động giải quyết các vụ
án tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án có hiệu quả, việc ban hành hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh là điều cần thiết. Nó không chỉ đáp ứng được tình hình kinh tế xã hội mà còn tăng cường tính pháp lý về hoạt động của Tòa án trong giải quyết án, tạo
môi trường bình đẳng đối với các chủ thể tham gia đầu tư, kinh doanh.
1.2.1.2 Cơ sở pháp lý
Bên cạnh những cơ sở từ thực tiễn kinh tế xã hội đề ra, việc ban hành hệ thống
các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh thương mại còn dựa trên hệ
thống các văn bản pháp luật như : Hiến pháp 2013; bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Bộ
luật dân sự 2015, Luật Thương mại 2005 và các văn bản pháp luật khác.
Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam, Nhà nước bảo đảm các quyền, lợi
ích hợp pháp của mọi chủ thể. Khi cá nhân, pháp nhân hay chủ thể khác có quyền, lợi
ích hợp pháp bị xâm phạm thì theo thủ tục do pháp luật quy định chủ thể đó được khởi
kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ. Và bộ luật Tố tụng dân sự 2015 là cơ sở
pháp lý quan trọng để Tòa án giải quyết vụ án các vụ án và bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các cá nhân, pháp nhân. Điểm đặc thù khi giải quyết tranh chấp thương mại
tại Toà án là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản được quy định tại Chương II ,
Chương III bộ luật Tố tụng dân sự, từ Điều 3 đến Điều 45 trong đó có nguyên tắc thẩm
phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 12). Dựa

vào nội dung các tranh chấp thương mại mà Toà án có thẩm quyền giải quyết theo quy
định tại Điều 30 bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 cho đến nay
thì những quy định tại bộ luật này vẫn đang phát huy tác dụng tích cực của nó.
Luật thương mại 2005
Bên cạnh pháp luật về thủ tục tố tụng trong bộ luật Tố tụng dân sự 2015 là nguồn
luật quan trọng để Toà án áp dụng khi xét xử tranh chấp đưa đến tại toà án, thì đối với
hoạt động quản lí lĩnh vực về thương mại tại tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên
còn phải tuân theo quy định tại luật Thương mại 2005. Luật thương mại 2005 là luật
riêng điều chỉnh cho hoạt động thương mại. Đối với những vấn đề phát sinh trong tranh
chấp từ quan hệ thương mại thì thứ tự ưu tiên áp dụng luật là: Luật chuyên ngành và
16


Luật thương mại. Nếu như không có quy định về vấn đề phát sinh này thì áp dụng quy
định của bộ luật Dân sự 2015.
Bộ luật Dân sự 2015
Dù mới có được quy định có hiệu lực áp dụng từ tháng 01 năm 2017. Bộ luật dân
sự 2015 đã phát huy vai trò tích cực và đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hệ thống
pháp luật Việt Nam. Nó thể hiện những quan điểm cơ bản nhất của nhà nước trong điều
chỉnh các quan hệ pháp luật tư, thiết lập các nguyên tắc quan trọng nhất cho các mối
quan hệ trong đời sống dân sự, đồng thời xác lập các quy tắc điều chỉnh cho quan hệ
dân sự phát sinh. Các đạo luật điều chỉnh các khía cạnh khác nhau của quan hệ pháp
luật tư (như thương mại, đất đai, tín dụng, sở hữu trí tuệ….) cũng đều phải căn cứ vào
các nguyên tắc chung của Bộ luật dân sự 2015. Vì lí do trên mà khi Tòa án tiến hành
giải quyết các tranh chấp về kinh tế, thương mại cũng cần phải xem xét, cân nhắc tới
các quy định trong Bộ luật này. Cụ thể các vấn đề liên quan tới tranh chấp thương mại
như trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng ; xử lí vi phạm hợp đồng; vấn đề lãi suất… đều được quy định từ
chương 17 tới chương 21 trong Bộ luật dân sự năm 2015. Do đó để đảm bảo giải quyết
các vụ án một cách chính xác và hiệu quả, đảm bảo quyền lợi của các bên , Tòa án

nhân dân thành phố Thái Nguyên cũng cần dựa vào những quy định trong Bộ luật này.
Các văn bản pháp luật khác
Có thể thấy, các văn bản pháp luật chủ yếu mà toà án thường dùng làm căn cứ
pháp lý để giải quyết các vụ án tranh chấp thương mại thuộc thẩm quyền của mình là:
Bộ luật Dân sự năm 2005 ( mới đây là BLDS 2015); Luật Thương mại năm 2005; Bộ
luật tố tụng dân sự 2015. Tuy nhiên, trên thực tế còn có nhiều những vụ án kinh tế,
thương mại phức tạp, liên quan tới nhiều lĩnh vực trong thực tiến. Do đó, Tòa án nhân
dân thành phố Thái Nguyên cũng cần xem xét tới các quy định trong các Bộ luật và các
văn bản có liên quan như Luật kinh doanh bất động sản năm 2014; Luật chứng khoán
năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2010); Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005; Luật Xây dựng
năm 2014; Luật Doanh nghiệp năm 2014; Luật Đầu tư năm 2014; Luật Đầu tư công
năm 2014; Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010), Luật các
tổ chức tín dụng 2010 để giải quyết vụ án một cách triệt để nhất.

17


1.2.2 Nội dung cơ bản của pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Tòa án.
1.2.2.1 Những tranh chấp trong kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của
Tòa án.
Trong nền kinh tế thị trường mở, nhiều thành phần các quan hệ kinh doanh rất đa
dạng và phức tạp. Tranh chấp kinh tế cũng vì vậy mà phức tạp không kém. Việc phân
loại tranh chấp kinh doanh, thương mại giúp chúng ta đơn giản hoá được chúng và có
cách giải quyết phù hợp nhất. Có nhiều cách để phân loại các tranh chấp kinh doanh
thương mại, ví dụ như dựa vào lĩnh vực tranh chấp, chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng
kinh tế.
Theo quy định tại Điều 30 bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì những loại việc tranh
chấp kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án được chia thành các nhóm:
- Nhóm thứ nhất, các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương

mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận.
- Nhóm thứ hai, là các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công
nghệ giữa các cá nhân, tổ chức với nhau đều có mục đích lợi nhuận. Trong điều kiện
phát triển ngày một cao của khoa học công nghệ, hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ ngày một gia tăng về số lượng, tinh vi về tính chất, nghiêm trọng về hậu quả.
- Nhóm thứ ba, là nhóm tranh chấp kinh doanh, thương mại giữa công ty với các
thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc
thành lập, hoạt động giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia tách chuyển đổi hình thức tổ
chức của công ty. Nếu giữa công ty với các thành viên của công ty hoặc giữa các thành
viên của công ty có tranh chấp với nhau, nhưng tranh chấp đó không liên quan đến việc
thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ
chức của công ty mà chỉ liên quan đến các quan hệ khác như quan hệ tranh chấp kinh
doanh thương mại, quan hệ dân sự
- Nhóm thứ tư và cũng là điểm mới của Bộ luật này, Bộ luật tố tụng 2015 quy
định tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về
chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty cũng sẽ là một loại tranh
chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của tòa án, điều này thực sự đã góp
phần thắt chặt những lỗ hổng trong hệ thống pháp luật của đất nước.
- Cuối cùng là, các tranh chấp kinh doanh thương mại khác mà pháp luật có quy
định
Hiện nay các tranh chấp về kinh doanh, thương mại rất đa dạng và phong phú,
khó có thể liệt kê hết được. Các tranh chấp khác trong kinh doanh thương mại có thể ví

18


dụ như tranh chấp phát sinh từ quan hệ ủy thác, giám định, đấu giá, đấu thầu, hay
những tranh liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh…
Việc giải quyết tranh chấp thương mại tại toà án được tiến hành theo thủ tục tố

tụng toà án quy định trong pháp luật tố tụng dân sự. Một trong những điểm đặc thù khi
giải quyết tranh chấp thương mại tại toà án là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản
được quy định tại Chương II BLTTDS, từ Điều 3 đến Điều 24 trong đó có nguyên tắc
thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 12).
Do đó, bên cạnh pháp luật về thủ tục tố tụng, pháp luật nội dung là nguồn luật quan
trọng để toà án áp dụng khi xét xử tranh chấp đưa đến toà án nói chung và tranh chấp
thương mại nói riêng. Dựa vào nội dung các tranh chấp thương mại mà toà án có thẩm
quyền giải quyết theo quy định tại Điều 30 BLTTDS, có thể thấy, các văn bản pháp luật
chủ yếu mà toà án thường dùng làm căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp thương
mại thuộc thẩm quyền của mình là: Bộ luật Dân sự năm 2015; Luật Thương mại năm
2005; Luật kinh doanh bất động sản năm 2014; Luật chứng khoán năm 2010; Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2005; Luật Xây dựng năm 2014; Luật Doanh nghiệp năm 2014; Luật
Đầu tư năm 2014; Luật Đầu tư công năm 2014; Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2010,
……..
Từ thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại tại toà án có thể rút ra những
vướng mắc chủ yếu hiện nay mà toà án nhân dân các cấp gặp phải trong việc áp dụng
pháp luật, đó là, còn lúng túng trong việc áp dụng quy định của BLDS và các luật
chuyên ngành khi giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại. Tranh chấp thương mại
thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án theo quy định tại Điều 30 BLTTDS rất đa dạng,
phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế. Pháp luật hiện hành của Việt Nam về
giải quyết TCKDTM tại TAND không ngừng được sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn
thiện. Theo đó, việc giải quyết TCKDTM tại TAND phải tuân theo các nguyên tắc chặt
chẽ của LTM và BLTTDS. Chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp cũng như tham
gia vào quá trình giải quyết tranh chấp được quy định rõ ràng. Thủ tục, trình tự giải
quyết TCKDTM tại các cấp Tòa án được quy định chặt chẽ hơn nhằm đảm bảo quyền
và lợi ích cho các bên trong tranh chấp.
1.2.2.2 Thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại tại Tòa
án.
Các nội dung cần phân tích như “ Điều kiện để giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh thương mại bằng phương thức Tòa Án” gồm những tranh chấp trong kinh

doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa Án căn cứ theo điều 30 BLTTDS 2015.
Để tranh chấp trong kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì
trước hết phải xác định được hai điều kiện: thứ nhất đó là tranh chấp trong kinh doanh
19


thương mại và thứ hai là các tranh chấp này phải thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
Án.
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại tại tòa án gồm:
thẩm quyền theo vụ việc, theo sự lựa chọn của nguyên đơn, theo cấp Tòa án, theo sự
lựa chọn của nguyên đơn.
- Thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại của Tòa Án
theo vụ việc.
Thẩm quyền theo vụ việc là việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại thuộc cơ quan nào: cơ quan quản lí cấp trên , tòa án dân sự hay tòa
kinh tế. Căn cứ theo quy định tại Điều 317 Luật thương mại 2005 năm và Điều 30
BLTTDS năm 2015 thì có bốn hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương
mại: thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án, nghĩa là các bên được lựa chọn hình
thức giải quyết tranh chấp trong knh doanh thương mại nhưng quy định về thẩm quyền
giải quyết tại tòa án theo vụ việc lại được quy định tại điều 30 BLTTDS 2015.
- Thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại của Tòa Án
theo cấp xét xử.
Việc phân định thẩm quyền tòa án chủ yếu dựa vào tính chất các loại việc tranh
chấp theo quy định tại Luật tổ chức tòa án năm 2014 có hiệu lực từ ngày 1/6/2015 và
Điều 35,36,37, 38 BLTTDS năm 2015, quy định tổ chức tòa án nhân dân bao gồm: Tòa
án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi là TAND cấp tỉnh); Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh và tương đương (sau đây gọi chung là TAND cấp huyện), Tòa án
quân sự (Điều 3 Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014)
- Thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại của Tòa Án

theo lãnh thổ.
Khi đã xác định tranh chấp được giải quyết tại Toà án cấp nào, còn phải xác định
Toà án ở địa phương nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Để tạo điều kiện thuận
lợi cho việc xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ và thi hành án, Điều 39 Bộ Luật tố
tụng dân sự 2015 quy định: “Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân
hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo
thủ tục sơ thẩm những tranh chấp kinh doanh, thương mại, tranh chấp kinh doanh
thương mại quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của bộ luật này; Các đương sự có
quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của
nguyên đơn để giải quyết những tranh chấp về kinh doanh, thương mại, tranh chấp
kinh doanh thương mại quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này; Đối

20


tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải
quyết”
- Thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại của Tòa Án
theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 40 BLTTDS năm 2015, nguyên đơn, người yêu
cầu có quyền lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại trong
một số trường hợp nhất định. Theo đó, nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của
bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối
cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết. Nếu tranh chấp trong kinh doanh thương
mại phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án
nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết. Nếu tranh chấp trong
kinh doanh thương mại về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể
yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại
giải quyết, nếu tranh chấp phất sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu
Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết. Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ

sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu tòa án nơi một trong các bị
đơn cư trú, làm việc có trụ sở giải quyết.4
1.2.2.3 Trường hợp các bên tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài hay có thỏa
thuận trọng tài nhưng bị vô hiệu hoặc thỏa thuận không thực hiện được
Trong trường hợp các bên tranh chấp không có thỏa thuận tòa án hoặc có thỏa
thuận tòa án nhưng thỏa thuận đó bị vô hiệu hoặc không thực hiện được thì thẩm quyền
giải quyết thuộc về Trọng tài được quy định cụ thể tại điều 6 Luật trọng tài 2010:
“Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi
kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô
hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được.” Như vậy tòa án sẽ phải từ
chối thụ lý trong trường hợp có thỏa thuận trọng tài. Căn cứ theo điều luật này, trong
trường hợp các bên tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Tòa
Án thì tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc
không thể thực hiện được.
Trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu căn cứ điều 18 Luật Trọng tài thương
mại 2010 , và Điều 3 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật trọng tài thương mại, thoả thuận trọng tài bị vô hiệu nếu thuộc một trong các
trường hợp theo điều 18 luật trọng tài thương mại quy định.
Khóa luận tốt nghiệp của Bùi Trọng Tuấn thuộc khoa Kinh Tế Ngoại Thương của trường đại học
Ngoại thương nghiên cứu đề tài “ Giải quyết tranh chấp ở nước ta hiện nay- Thực trạng và giải pháp”
đăng ngày 29/08/2013.
4

21


Trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được. Căn cứ Điều 4 Nghị
quyết 01/2014/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số điều của Luật trọng tài thương
mại, thoả thuận trọng tài bị coi là không thể thực hiện được trong các trường hợp quy
định như: trung tâm trọng tài nơi các bên thoả thuận giải quyết tranh chấp đã chấm dứt

hoạt động mà không có tổ chức kế thừa và các bên không có thoả thuận thay thế trung
tâm trọng tài khác; trọng tài viên trọng tài vụ việc mà các bên thoả thuận lựa chọn từ
chối tham gia giải quyết hoặc Trung tâm trọng tài từ chối việc chỉ định Trọng tài viên
và các bên không có thoả thuận thay thế;…….Ngoài ra, để bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng, đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng
hàng hóa, dịch vụ, mặc dù điều khoản trọng tài đã được thỏa thuận, người tiêu dùng
vẫn được sử dụng Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ
được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận.
Vậy nếu chứng minh được thỏa thuận trọng tài thuộc một trong các trường hợp vô
hiệu hoặc không thể thực hiện được được nêu trên đây thì thẩm quyền giải quyết tranh
chấp trong kinh doanh thương mại cũng thuộc về Tòa án.
Điều này cho thấy sự linh hoạt của pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại dựa trên nguyên tắc quan trọng là quyền tự định đoạt của các bên.
Không phải lúc nào cơ quan nhà nước cũng có thẩm quyền giải quyết một vụ việc tranh
chấp kinh doanh thương mại nếu hình thức đó không bộc lộ những ưu điểm nổi trội so
với hình thức giải quyết trọng tài.
1.2.2.4 Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại tại
Tòa Án.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại tại Tòa án cấp sơ thẩm.
Giải quyết theo trình tự sơ thẩm các vụ án tranh chấp trong kinh doanh thương
mại là một hoạt động quan trọng trong tòan bộ các hoạt động giải quyết vụ án kinh
doanh thương mại. Theo quy định của BLTTDS năm 2015 thì thủ tục giải quyết vụ án
tranh chấp trong kinh doanh thương mại tại Tòa án cấp sơ thẩm gồm: khởi kiện và thụ
lý vụ án tranh chấp; hòa giải và chuẩn bị xét xử; phiên tòa sơ thẩm.
Giải quyết theo trình tự sơ thẩm các vụ án tranh chấp trong kinh doanh thương
mại là một hoạt động quan trọng trong tòan bộ các hoạt động giải quyết vụ án kinh
doanh thương mại. Đây là giai đoạn mà các tài liệu, chứng cứ, tình tiết trong vụ án
được đưa ra xem xét, đánh giá và quyết định. Mặt khác, đây là bước đầu tiên trong một
loạt các thủ tục pháp lý trong việc giải quyết các vụ án tranh chấp kinh doanh thương
mại.

Thứ nhất, khởi kiện và thụ lý vụ án tranh chấp trong kinh doanh thương mại.

22


×