Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ thƣơng mại thực tiễn thực hiện tại công ty cổ phần tƣ vấn đầu tƣ LIGHTHOUSE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.05 KB, 46 trang )

1
TÓM LƯỢC
Sự phát triển ngày càng đa dạng của các loại thị trường trong nền kinh tế thị
trường, dịch vụ ngày càng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của
hầu hết các quốc gia. Dịch vụ ngày càng phát triển, các hoạt động liên quan tới dịch vụ
càng trở nên sôi động, tạo nên sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ
không chỉ với các doanh nghiệp trong nước mà còn với cả doanh nghiệp nước ngoài.
Khi đó, vấn đề giao kết hợp đồng cung ứng trong dịch vụ cũng là vấn đề được nhiều
doanh nghiệp quan tâm, bởi để đảm bảo đạt được một hợp đồng thì quá trình giao kết
là vô cùng quan trọng. Xuất phát từ thực tế đó, trên cơ sở những kiến thức đã học cũng
như thời gian thực tế tại Công ty cổ phần tư vấn đầu tư LIGHTHOUSE, đề tài nghiên
cứu: “Pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại - Thực tiễn
thực hiện tại Công ty cổ phần tư vấn đầu tư LIGHTHOUSE” đã làm rõ được
những nội dung sau:
Đề tài đã trình bày tổng quát những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến hợp
đồng cung ứng dịch vụ như khái niệm, đặc điểm, các nguyên tắc giao kết hợp đồng,
quá trình giao kết bao gồm đề nghị giao kết, chấp nhận giao kết, thời điểm giao kết....
Như vậy, về mặt lý luận liên quan đến pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch
vụ trong thương mại đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Đề tài còn làm rõ thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ và
thực hiện pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại tại Công
ty cổ phần tư vấn đầu tư LIGHTHOUSE. Từ đó, đưa ra định hướng hoàn thiện pháp
luật và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại.
Vấn đề về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại là rất rộng và
còn nhiều vấn đề. Với khoảng thời gian nghiên cứu không nhiều chưa thế đề cập được
chi tiết mọi vấn đề nghiên cứu và không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận
được sự chỉ bảo và ý kiến đóng góp của các thấy cô.

1


1
1


2
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập tại khoa Kinh tế- Luật của trường Đại học Thương Mại
cùng với khoảng thời gian được thực tập tại Công ty cổ phần tư vấn đầu tư
LIGHTHOUSE, được sự giúp đỡ của nhà trường, các thầy cô giáo, anh chị nhân viên
trong công ty, gia đình, bạn bè… em đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài:
“Pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại - Thực tiễn thực
hiện tại Công ty cổ phần tư vấn đầu tư LIGHTHOUSE”.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến nhà trường, các thầy cô trong Khoa
Kinh tế - Luật, Bộ môn Luật chuyên ngành, đặc biệt là cô PGS.TS.Trần Thị Thu
Phương, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ để em có thể hoàn thành bài khóa luận
này.
Em cũng xin cảm ơn anh chị nhân viên tại công ty đã giúp đỡ em trong suốt quá
trình thực tập, tìm hiểu tại công ty.
Mặc dù đã nỗ lực hết mình trong quá trình thực tập, nghiên cứu tại công ty nhưng
do thời gian và kiến thức còn hạn chế, hiểu biết của bản thân về vấn đề nghiên cứu còn
thực sự chưa đầy đủ. Vì vậy, bài viết không thể tránh khỏi những thiếu xót. Kính mong
nhận được sự nhận xét, đóng góp ý kiến, hướng dẫn của các thầy cô, bạn bè, các anh
chị đang làm việc công ty để bài viết của em hoàn chỉnh hơn, cũng như củng cố kiến
thức và em có thể rút ra được kinh nghiệm thực tế về lĩnh vực nghiên cứu sau khi tốt
nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Phạm Thị Thu Phượng

2


2
2


3
MỤC LỤC

3

3
3


4
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Bộ luật dân sự: BLDS
Luật Thương mại: LTM
Luật Doanh nghiệp: LDN
Công Ước Viên 1980: CƯV 1980 (CISG)
Tổ chức thương mại thế giới: WTO

Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 GATT: Hiệp định GATT
Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ GATS: Hiệp định GATS

4

4
4


LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận.
Sự phát triển ngày càng đa dạng của các loại hình thị trường trong nền kinh tế thị
trường, dịch vụ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế của hầu hết các
quốc gia. Dịch vụ đã trở thành hàng hóa và việc trao đổi, mua bán dịch vụ ngày càng
trở nên sôi động, phổ biến khi thị trường thương mại dịch vụ được mở cửa. Từ đó, tạo
ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nhau cũng như giữa
các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ Việt Nam với các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ
nước ngoài. Bởi vậy, hợp đồng cung ứng dịch vụ được coi như một công cụ pháp lý
nhằm bảo vệ lợi ích của chủ thể khi tham gia thị trường thương mại dịch vụ. Hợp đồng
cung ứng dịch vụ còn là một chế định nhằm tạo ra cơ sở pháp lý giúp cho các chủ thể
kinh doanh dịch vụ có được môi trường kinh doanh lành mạnh và bình đẳng. Do đó,
pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại luôn được các doanh
nghiệp chú trọng. Tuy nhiên trong thực tiễn hoạt động kinh doanh dịch vụ vẫn còn tồn
tại những khuyết điểm nhất định, môi trường chính sách dịch vụ ở Việt Nam là một hệ
thống khá phức tạp với nhiều loại luật, văn bản dưới luật… Các văn bản quy phạm
pháp luật về cung ứng dịch vụ còn nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác
nhau với hiệu lực pháp lý cao thấp cũng khác nhau, xong vẫn chưa tạo được tính thống
nhất và tính hệ thống, chưa thể bắt kịp được sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
Do đó, có nhiều cách hiểu khác nhau trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về

hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại vào thực tiễn cũng là điều tất yếu. Vậy thực
trạng pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại trong thực tế diễn
ra như thế nào? Vai trò của hợp đồng cung ứng dịch vụ trong hoạt đông thương mại là
như thế nào? Để trả lời cho câu hỏi đó em xin trình bày đề tài: “Pháp luật về giao kết
hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại - Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần
tư vấn đầu tư LIGHTHOUSE”.

2. Tổng quan nghiên cứu
Hiện nay có rất nhiều các công trình nghiên cứu liên quan đến hợp đồng và các
hoạt động thương mại dịch vụ. Sau đây là một số các công trình nghiên cứu khác nhau
liên quan đến hợp đồng cung ứng dịch vụ trong hoạt động thương mại:
o Th.S Hà Công Bảo Anh (2013) “Hợp đồng thương mại dịch vụ và vai trò của nó đối
với doanh nghiệp”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại.
o Nguyễn Thị Tuyết Lan (2014): “ Lý luận và thực tiễn về sự thống nhất ý chí để giao
kết hợp đồng thương mại”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, tr. 18-22. Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.

5


o Nguyễn Thị Chiều ( 2013): “ Chế độ pháp lý về hợp đồng dịch vụ- thực tiễn áp dụng
tại công ty TNHH Mộc Dũng”. Luận văn tốt nghiệp, tr. 15-25.
o Hoàng Thị Vịnh ( 2014), “ Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ
luật học, Học viện khoa học xã hội.
o Phan Chí Hiếu ( 2005), “ Hoàn thiện chế định hợp đồng”, tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp số 4.
o Dư Hoài Phương ( 2014), “ Hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại
trong điều kiện sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, trường
Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
o Nguyễn Thị Hường (2010): “Tự do giao kết hợp đồng – Những vấn đề lý luận và thực

tiễn”. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Luận văn phân tích những khía cạnh cơ bản
và các trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc này và đề xuất những kiến nghị hoàn thiện
cho pháp luật về tự do giao kết hợp đồng ở Việt Nam.
Tại Việt Nam đã có nhiều đề tài nghiên cứu về hợp đồng dịch vụ thương mại
nhưng chưa đi sâu vào pháp luật giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại. Bởi
vậy cho nên em chọn đề tài: “Pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ
thương mại - Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần tư vấn đầu tư
LIGHTHOUSE”. Đề tài đi vào nghiên cứu pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ trong thương mại, về thực trạng áp dụng các quy định đó tại Công ty cổ phần
tư vấn đầu tư LIGHTHOUSE từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại.

3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu.
 Xác lập vấn đề nghiên cứu:
- Đề tài sẽ làm rõ những quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ

-

thương mại, tìm ra ưu, nhược điểm của các quy định pháp luật Việt Nam về giao kết
hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại.
Đề tài sẽ làm sáng tỏ và nghiên cứu các thành tựu, sự tiến bộ về các quy định pháp luật

-

Việt Nam về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại.
Phát hiện và đề xuất các phương pháp khắc phục lỗ hổng pháp lý liên quan đến các

-

quy định pháp luật về quá trình giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại.

Đề xuất môi trường pháp lý lý tưởng và công bằng trong hoạt động giao kết hợp đồng

-

cung ứng dịch vụ thương mại.
Đề xuất các giải pháp khắc phục những bất cập trong hoạt động giao kết hợp đồng

-

cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp.
Đề xuất các cải tiến và hoàn thiện hành lang pháp lý cơ bản về hoạt động giao kết hợp
đồng cung ứng dịch vụ thương mại.
 Tuyên bố vấn đề nghiên cứu:

6


- Đề tài chủ yếu nghiên cứu tổng thể và toàn diện các vấn đề lý luận và quy định pháp
-

luật Việt Nam hiện hành về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại.
Đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ

-

thương mại và thực tiễn thực hiện các quy phạm pháp luật đó tại Công ty cổ phần tư
vấn đầu tư LIGHTHOUSE.
Xây dựng phương hướng và giải pháp cụ thể hoàn thiện các quy định, chế định thích

hượp tạo hiệu quả trong quá trình giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại tại

doanh nghiệp.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu.
Khóa luận nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện các quy định của pháp
luật về giao kết hợp đồng nói chung và pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch
vụ trong thương mại nói riêng. Đề tài nghiên cứu về thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ
phần tư vấn đầu tư LIGHTHOUSE.

- Mục tiêu nghiên cứu.
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về hợp đồng cung ứng dịch vụ trong
hoạt động thương mại và nội dung pháp luật về hoạt động cung ưng dịch vụ thương
mại.
Thứ hai, phân tích thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng
cung ứng dịch vụ, thực trạng thực hiện tại Công ty cổ phần tư vấn đầu tư
LIGHTHOUSE. Từ đó đánh giá những bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật
của công ty.
Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn, khóa luận đưa ra
một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật về
hợp đồng cung ứng dịch vụ trong hoạt động thương mại tại Công ty cổ phần tư vấn
đầu tư LIGHTHOUSE.

-

Phạm vi nghiên cứu
Do kiến thức còn hạn chế và thời gian nghiên cứu không nhiều nên khóa luận chỉ
tập trung nghiên cứu:
Thứ nhất, những quy định hiện hành của pháp luật về giao kết hợp đồng cung
ứng dịch vụ thương mại, như Luật Thương mại 2005, Bộ luật dân sự 2017.… và một
số văn bản luật chuyên ngành khác.
Thứ hai, thực tiễn thực hiện pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ

thương mại tại Công ty cổ phần tư vấn đầu tư LIGHTHOUSE.

5. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập dữ liệu:

7


Thu thập dữ liệu luôn đóng vai trò quan trọng trong quá trình nghiên cứu, tìm
hiểu thông tin về pháp luật, về doanh nghiệp. Việc thu thập dữ liệu giúp việc nghiên
cứu có luận cứ chặt chẽ hơn, có kiến thức sâu rộng về vấn đề nghiên cứu.
Đầu tiên, thu thập dữ liệu sơ cấp: quá trình nghiên cứu cần tìm hiểu và nghiên
cứu các văn bản quy phạm pháp luật về giao kết hợp đồng, về hợp đồng cung ứng
dịch vụ thương mại cũng như các tài liệu của công ty, văn bản quy phạm pháp luật…
để nắm bắt thực trạng áp dụng tại Công ty cổ phần tư vấn đầu tư LIGHTHOUSE.
Thứ hai, thu thập dữ liệu thứ cấp: cần tìm hiểu thông tin cụ thể hơn từ công ty và
các vă bản pháp luật của Nhà Nước có thông tin liên quan.

- Phương pháp phân tích dữ liệu:
Phương pháp này dùng để truyền tải thông tin về một cách trực tiếp, giúp chúng
trở lên dễ hiểu, dễ tổng hợp hơn, có thể truyền đạt được. Những thông tin sau khi đã
thu thập cần chọn lọc và xử lý để đúng với mục tiêu đề tài hướng tới. Trong đề tài em
sử dụng một số phương pháp phân tích thông tin như:
o Phương pháp thống kê: các thông tin được khai thác một cách gián tiếp thông qua
internet, sách báo, tạp chí… Nắm được nội dung cơ bản của vấn đề nghiên cứu, tiến
hành tìm kiếm thông tin liên quan phục vụ cho việc viết bài thông qua mạng internet.
Tham khảo các thông tin từ đó rút ra nội dung cơ bản, tìm kiếm thông tin cần thiết
phục vụ cho bài nghiên cứu.
o Phương pháp phân tích, tổng hợp: dùng để phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng
các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động cung ứng dịch vụ tại Công ty cổ

phần tư vấn đầu tư LIGHTHOUSE.
Đề tài vận dụng chủ yếu các phương pháp phân tích, tổng hợp để làm rõ các quy
định của pháp luật hiện hành về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại. Từ
đó phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng và
quá trình áp dụng thực tiễn vào hoạt động giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ thương
mại tại Công ty cổ phần tư vấn đầu tư LIGHTHOUSE.
Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng các phương pháp thu thập, xử lý số liệu và phương
pháp khảo sát đánh giá thực tiễn để tìm hiểu thêm thực tiễn áp dụng các quy phạm
pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ tại Công ty cổ phần tư vấn đầu tư
LIGHTHOUSE. Nhằm làm rõ thêm về thực trạng áp dụng quy định của pháp luật
trong giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại. Qua đó có thể đưa ra những
giải pháp, kiến nghị giúp tăng cường hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật trog
giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại tại Công ty cổ phần tư vấn đầu tư
LIGHTHOUSE.

6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp.
8


Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng
cung ứng dịch vụ trong thương mại.
Chương 2: Thực trạng các quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ trong thương mại và thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần tư vấn đầu tư
LIGHTHOUSE.
Chương 3: Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong hoạt động thương mại.

9



CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VẤN ĐỀ
GIAO KẾT HỢP ĐỒNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ TRONG THƯƠNG MẠI

1

Khái niệm cơ bản liên quan đến giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong

thương mại
1
Khái niệm và đặc điểm hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại.
 Khái niệm hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại
Khoản 9 Điều 3 Luật Thương mại 2005 (LTM 2005) định nghĩa “Cung ứng dịch
vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có
nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán, bên sử dụng dịch vụ
(sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử
dụng dịch vụ theo thỏa thuận”. Như vậy, khái niệm này nhìn nhận cung ứng dịch vụ
dưới góc độ là một hoạt động thương mại. Theo đó, hoạt động cung ứng dịch vụ mang
đầy đủ các đặc điểm của một hoạt động thương mại: có ít nhất hai bên tham gia và
nhằm mục đích sinh lợi. Tuy nhiên, từ khái niệm nêu trên, có thể thấy luật quy định rất
rõ ràng bên sử dụng dịch vụ (khách hàng) phải trả tiền dịch vụ. Mà trả tiền dịch vụ
theo thỏa thuận với bên cung cấp dịch vụ cũng có nghĩa là mua và bán dịch vụ hay
rộng hơn và bao quát hơn đó là thương mại dịch vụ. Vì vậy, có thể nói, hợp đồng cung
ứng dịch vụ là hợp đồng mua bán dịch vụ. Hợp đồng này cũng mang tính thương mại.
Theo quy định tại Điều 513 – Bộ luật dân sự năm 2015 (BLDS 2015) về Hợp
đồng dịch vụ như sau: “Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên
cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ
phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ”. Vậy bên cung ứng dịch vụ thực hiện
dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền cho bên cung ứng dịch vụ.
Từ những khái niệm trên ta có thể hiểu: Hợp đồng cung ứng dịch vụ trong

thương mại là hợp đồng thương mại. Hợp đồng này là sự thỏa thuận giữa các bên, theo
đó bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ thực hiện, cung cấp dịch vụ cho khách hàng, bên
khách hàng có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ theo thỏa thuận.
 Đặc điểm hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại.
Nói về đặc điểm của hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại thì hiển nhiên
nó luôn có đặc điểm của hợp đồng thương mại, hợp đồng thương mại được ký kết
nhằm mục đích kinh doanh, sinh lợi nhuận, kiểm soát quyền và nghĩa vụ của các bên.
Mục đích này được thể hiện tại các điều khoản mà các bên thảo thuận trong hợp đồng
như: thực hiện hoạt động sản xuất, trao đổi hàng hóa, dịch vụ… ngoài ra hợp đồng
cung ứng dịch vụ trong thương mại còn có các đặc điểm khác như:
Thứ nhất, về chủ thể. chủ thể của hợp đồng thương mại dịch vụ thường được gọi
là bên cung cấp dịch vụ và bên thuê dịch vụ hay còn gọi là khách hàng. Đây là một
điểm khác biệt so với hợp đồng mua bán hàng hóa. Chủ thể của hợp đồng mua bán

10


hàng hóa thường được gọi là bên bán và bên mua. Cách gọi này còn thể hiện sự
chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa trong quan hệ mua bán hàng hóa giữa hai bên, khi
nghĩa vụ của người bán không chỉ đơn thuần là giao hàng mà còn gắn liền với nghĩa
vụ chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa đó cho người mua. Còn hợp đồng cung ứng
dịch vụ thì một bên cung cấp dịch vụ nhưng không chuyển giao quyền sở hữu dịch vụ
đó, bên kia sử dụng dịch vụ và có nghĩa vụ thanh toán. Chủ thể của hợp đồng cung
ứng dịch vụ trong thương mại có thể là cá nhân, tổ chức và phải có ít nhất một bên là
thương nhân.
Thứ hai, về đối tượng. Đặc điểm cơ bản nhất của hợp đồng cung ứng dịch vụ là
đối tượng của hợp đồng. Đối tượng của hợp đồng là một loại dịch vụ nào đó: tính chất
của hợp đồng sẽ tùy thuộc vào loại hình dịch vụ. Vì dịch vụ là sản phẩm vô hình
không tồn tại dưới dạng vật chất nên không cần quan tâm đến nơi chứa dịch vụ, không
quan tâm tới việc cất giữ, tồn kho hay dự trữ dịch vụ. Điều quan trọng nhất của hợp

đồng cung ứng dịch vụ là các bên phải mô tả kỹ dịch vụ đó, nêu ra những yêu cầu cụ
thể mà mục tiêu các bên muốn hướng tới khi mua bán dịch vụ, điều này yêu cầu các
bên phải hiểu rõ các dịch vụ đó. Bên cung ứng dịch vụ bằng khả năng của mình phải
thực hiện công việc mà bên sử dụng dịch vụ yêu cầu, còn bên sử dụng dịch vụ được
hưởng những lợi ích từ việc thực hiện dịch vụ. Ngoài ra, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 19/VBHN-BCT ngày 09/5/2014 của Bộ Công thương “Quy định chi tiết luật
thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh
có điều kiện”, khi thực hiện kinh doanh loại hình nào, các chủ thể có thể dựa vào đó
để lựa chọn những dịch vụ phù hợp, được phép kinh doanh. Bởi vậy đối tượng cung
ứng dịch vụ của doanh nghiệp phải tuân theo đúng pháp luật đã quy định, không được
thuộc những đối tượng dịch vụ, hàng hóa bị cấm theo pháp luật, trừ trường hợp theo
khoản 2 điều 5 Nghị định số 19/VBHN-BCT: “Việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ thuộc
Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh ban hành kèm theo Nghị định này trong
trường hợp cụ thể phải được Thủ tướng Chính phủ cho phép.”
Thứ ba, về nội dung, nội dung chủ yếu của hợp đồng là quyền và nghĩa vụ của
hai bên. Trong đó bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ chủ yếu là thực hiện dịch vụ cho
bên kia, còn bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ chủ yếu là thanh toán phí sử dụng dịch
vụ (phí dịch vụ).
Thứ tư, về hình thức, hình thức của hợp đồng có thể bằng lời nói, bằng văn bản
hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mà pháp luật quy
định phải được thiết lập bằng văn bản thì phải tuân theo các quy định đó (Điều 74 Luật
Thương mại 2005). Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật Việt Nam, một số loại hợp
đồng cung ứng dịch vụ sau đây phải được lập dưới hình thức văn bản hay một hình

11


thức pháp lý tương đương: hợp đồng dịch vụ khuyến mại, hợp đồng dịch vụ quảng cáo
thương mại, hợp đồng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, hợp đồng đại diện cho
thương nhân, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, hợp đồng đại lý thương mại, hợp

đồng gia công, hợp đồng xây dựng, hợp đồng vận chuyển theo chuyến bằng đường
biển, hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo hiểm…
Thứ năm, về tính chất pháp lý, hợp đồng cung ứng dịch vụ là hợp đồng song vụ,
có bồi hoàn. Nghĩa là cả bên cung ứng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ đều có quyền
và nghĩa vụ nhất định khi tham gia hợp đồng, trong đó quyền của bên này tương ứng
với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Quyền và nghĩa vụ do các bên thỏa thuận với
nhau và không được trái với pháp luật, đạo đức xã hội.
Thông thường quyền và nghĩa vụ của bên thuê dịch vụ như:

- Bên thuê dịch vụ có quyền yêu cầu bên làm dịch vụ thực hiện công việc theo đúng
-

chất lượng, số lượng, thời hạn và các nội dung khác mà hai bên đã thỏa thuận.
Có quyền nhận kết quả công việc mà bên làm dịch vụ đã thực hiện.
Có quyền đơn phương chẩm dứt thực hiện hợp đồng, yêu cầu bồi thường thiệt hại, nếu

-

bên làm dịch vụ vi phạm nghĩa vụ. Khi đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng, bên
thuê dịch vụ phải báo trước cho bên làm dịch vụ trong một khoảng thời gian hợp lý và
phải trả tiền công theo số lượng, chất lượng mà bên làm dịch vụ đã thực hiện và bồi
thường thiệt hại (nếu có).
Bên thuê dịch vụ có nghĩa vụ cung cấp cho bên làm dịch vụ thông tin, tài liệu và các

-

phương tiện cần thiết để thực hiện công việc nếu các bên có thỏa thuận hoặc việc thực
hiện dịch vụ có yêu cầu.
Bên thuê làm dịch vụ phải trả tiền công (thường gọi là tiền thù lao) cho bên làm dịch
vụ theo thỏa thuận khi xác lập họp đồng. Tiền công được trả tại địa điểm thực hiện

dịch vụ khi hoàn thành dịch vụ, nếu các bên không có thoả thuận khác.
Quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ:

- Bên cung ứng dịch vụ có quyền yêu cầu bên thuê dịch vụ phải cung cấp thông tin, tài
-

liệu và phương tiện để thực hiện dịch vụ vì lợi ích của bên thuê dịch vụ.
Được phép thay đổi điều kiện dịch vụ vì lợi ích của bên thuê dịch vụ mà không nhất

-

thiết phải chờ ý kiến của bên thuê dịch vụ nếu việc chờ ý kiến sẽ gây thiệt hại cho bên
thuê dịch vụ, nhưng phải báo ngay cho bên thuê dịch vụ biết.
Bên cung ứng dịch vụ có quyền yêu cầu bên thuê dịch vụ phải trả tiền công theo thỏa
thuận trong hợp đồng. Nếu trong hợp đồng các bên không thỏa thuận cụ thể, thì tiền
công được xác định theo mức trung bình đối với công việc cùng loại tại thời điểm và
địa điểm hoàn thành công việc.

12


- Bên cung ứng dịch vụ cũng có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và
yêu cầu bồi thường thiệt hại, nếu bên thuê dịch vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình
hoặc thực hiện không đúng như nghĩa vụ mà các bên đã cam kết.
Thứ sáu, về lợi ích thu được:

- Có thể là hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba.
Thông thường, bên thuê dịch vụ là người hưởng lợi khi bên cung ứng dịch vụ đã
thực hiện công việc dịch vụ. Tuy nhiên, nhiều trường hợp, người thứ ba là người được
hưởng lợi từ việc bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc.


- Có thể là dịch vụ đơn giản, có thể là dịch vụ phức tạp.

2

Trong hợp đồng dịch vụ giản đơn thì chỉ là mối quan hệ trực tiếp giữa bên thuê
dịch vụ và bên cung ứng dịch vụ. Trong hợp đồng dịch vụ phức tạp sẽ có hai quan hệ:
quan hệ giữa bên thuê dịch vụ và bên cung ứng dịch vụ (gọi là quan hệ bên trong) và
quan hệ giữa người làm dịch vụ và người thứ ba (gọi là quan hệ bên ngoài). Trong
quan hệ bên trong, các bên phải thỏa thuận cụ thể về nội dung làm dịch vụ theo đó bên
cung ứng dịch vụ phải thực hiện những hành vi nhất định vì lợi ích của bên thuê dịch
vụ. Trong quan hệ bên ngoài, bên cung ứng dịch vụ phải nhân danh mình để tham gia
các giao dịch dân sự, mà không được nhân danh bên thuê dịch vụ để giao dịch với
người thứ ba. Bên cung ứng dịch vụ hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi của mình
trước người thứ ba, nếu pháp luật không quy định khác hoặc các bên không có thỏa
thuận khác.
Hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại có thể chịu sự điều chỉnh của điều
ước quốc tế về thương mại dịch vụ, luật quốc gia, tập quán thương mại quốc tế và có
thể bao gồm cả án lệ.
Khái niệm giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại
Có nhiều quan điểm khác nhau về giao kết hợp đồng dân sự, BLDS 2015 cũng
chưa định nghĩa rõ về giao kết hợp đồng dân sự. Tổng hợp lại các quan điểm có thể
thấy rằng: “Giao kết hợp đồng dân sự là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo những
nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau các quyền và nghĩa vụ dân
sự”. Giao kết hợp đồng được bắt đầu bằng việc một bên đề nghị với bên kia giao kết
hợp đồng và đồng thời thường kèm theo ngay nội dung chủ yếu của hợp đồng và thời
hạn trả lời. Trong trường hợp đó, người đề nghị không được thay đổi, mời người thứ
ba trong thời hạn chờ trả lời và phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình. Tóm
lại, giao kết hợp đồng dân sự thể hiện sự thỏa thuận, thống nhất ý chí để làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên trong quan hệ hợp đồng.

Luật TM 2005 cũng không có quy định thế nào là giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ trong thương mại. Tuy nhiên từ định nghĩa trên có thể hiểu: Giao kết hợp đồng

13


cung ứng dịch vụ trong thương mại là việc các bên có liên quan bày tỏ ý chí, nguyện
vọng của mình để qua đó xác lập hợp đồng cung ứng dịch vụ với nội dung, hình thức
phù hợp với ý chí của các bên và tuân thủ theo những nguyên tắc giao kết nhất định.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ trong thương mại
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ trong thương mại.
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng gia tăng, từ đó các
loại dịch vụ ra đời ngày càng nhiều. Thương mại dịch vụ nói chung góp phần thúc đẩy
lưu thông hàng hóa, thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, tạo cơ hội việc làm cho
người lao động và khai thác nguồn lực tự nhiên và kinh tế xã hội để phát triển kinh tế.
Vì vậy, hoạt động cung ứng dịch vụ chiếm phần lớn trong nền kinh tế. Các công ty
chuyên hoạt động về lĩnh vực dịch vụ xuất hiện phổ biến. Đó là quy luật tự nhiên, có
cung ắt có cầu, có cầu ắt có cung. Để xác lập quyền, nghĩa vụ và các vấn đề khác có
liên quan, giữa bên cung ứng dịch vụ và bên nhận cung ứng dịch vụ sẽ thực hiện giao
kết hợp đồng. Để các bên có thể thỏa mãn tối đa các yêu cầu của mình, đảm bảo quyền
và lợi ích của các bên, sự ràng buộc đó được thể hiện dưới dạng hợp đồng cung ứng
dịch vụ trong thương mại. Để có được một hợp đồng cung ứng dịch vụ đảm bảo quyền
và lợi ích của các bên trước hết cần diễn ra quá trình giao kết hợp đồng cung ứng dịch
vụ thương mại. Đây là quá trình đưa ý chí các bên lại gần và thống nhất đồng điệu với
nhau, là bước đầu tiên tạo nên hợp đồng cung ứng dịch vụ tương lai. Do đó, cần có các
quy định cụ thể về vấn đề giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại nhằm
đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, cũng nhằm hạn chế những trường hợp
hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại bị vô hiệu do không đáp ứng được các

điều kiện có hiệu lực của hợp đồng xảy ra khi các bên giao kết với nhau. Những quy
định cụ thể được điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương
mại được ra đời tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể có căn cứ xác định trách nhiệm
của mình và của đối tác. Các văn bản pháp luật hiện hành cơ bản điều chỉnh vấn đề
này gồm LTM 2005, BLDS 2015. Tùy từng loại dịch vụ khác nhau sẽ chịu thêm sự
điều chỉnh của những văn bản luật chuyên ngành cụ thể.
Ngoài ra, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế và là thành viên của
các Hiệp định, Điều ước quốc tế… Chẳng hạn, Ngày 18/12/2015, Việt Nam đã chính
thức phê duyệt việc gia nhập Công ước Viên về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
của Liên hợp quốc (“CISG”) để trở thành viên thứ 84 của Công ước này. Công ước
Viên bắt đầu có hiệu lực ràng buộc tại Việt Nam từ ngày 1/1/2017. Vào ngày
11/01/2007, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), bởi vậy Việt Nam cũng là thành viên của Hiệp định chung về Thuế quan và

14


Thương mại 1994 (GATT)… Do vậy khi giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong
thương mại các doanh nghiệp Việt Nam cũng chịu sự điều chỉnh của những Hiệp định,
Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ
trong thương mại.
Pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại
bao gồm các quy định của pháp luật điều chỉnh về quá trình giao kết hợp hợp đồng,
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại.
Khi giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại các bên giao kết phải
tuân theo các thủ tục: đề nghị giao kết hợp đồng, chấp nhận giao kết hợp đồng và thời
điểm giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại.
• Đề nghị giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại được quy định từ Điều
386 đến Điều 395 BLDS 2015 bao gồm các quy định cụ thể về thời hạn, thời điểm, sửa

đổi, thay đổi, rút lại, hủy bỏ và chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng.
Khi một người muốn thiết lập một hợp đồng thì ý muốn đó phải thể hiện ra bên
ngoài thông qua một hành vi nhất định. Như vậy bên đối tác mới có thể biết được ý
muốn của họ và mới có thể đi đến việc giao kết một hợp đồng. Đề nghị giao kết hợp
đồng là việc một bên biểu hiện ý chí, muốn bày tỏ cho bên kia ý muốn tham gia giao
kết với họ một hợp đồng dân sự. Một lời đề nghị được coi là đề nghị giao kết hợp đồng
thì phải chứa đựng một số yếu tố cơ bản sau:
- Thể hiện rõ được nguyện vọng muốn đi đến giao kết hợp đồng của bên đề nghị.
- Phải có chứa toàn bộ mọi điều kiện cơ bản của hợp đồng.
- Phải xác định rõ bên được đề nghị.
Việc đề nghị giao kết hợp đồng có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác
nhau: người đề nghị có thể trực tiếp (đối mặt) với người được đề nghị để trao đổi, thỏa
thuận hoặc có thể thông qua điện thoại…Ngoài ra, lời đề nghị còn được chuyển giao
bằng công văn, giấy tờ…
Bộ Nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế năm 2004 (PICC)
có quy định về đề nghị giao kết HĐ: “Một đề nghị được gọi là đề nghị giao kết HĐ
nếu nó đủ rõ ràng thể hiện ý chí của bên đưa ra đề nghị bị ràng buộc khi đề nghị giao
kết được chấp nhận” – điều 2.1.2 (Định nghĩa đề nghị giao kết hợp đồng) .
• Chấp nhận giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại được quy định từ
Điều 393 đến Điều 399 BLDS 2015.
Chấp nhận giao kết hợp đồng có thể là một tuyên bố hoặc cách xử sự khác của
bên được đề nghị cho thấy họ chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Bản thân sự im
lặng hay bất tác vi không có giá trị như một chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Việc
chấp nhận một đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực khi dấu hiệu của việc chấp nhận
giao kết hợp đồng đến bên đề nghị. Tuy nhiên, nếu theo đề nghị giao kết hợp đồng, các

15


thói quen đã được xác lập giữa các bên hoặc theo tập quán, bên được đề nghị có thể

chỉ ra là mình đã chấp nhận giao kết hợp đồng bằng việc thực hiện một hành vi mà
không cần thông báo cho bên đề nghị biết, việc chấp nhận có hiệu lực khi hành vi đó
được hoàn thành.
• Thời điểm giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại được quy định tại
Điều 400 BLDS 2015.
Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao
kết. Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp
đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của
thời hạn đó. Nếu giao kết bằng lời nói thì thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là
thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Nếu giao kết bằng văn bản
thì thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn
bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.



Hiệu lực của hợp đồng được quy định tại 401 BLDS 2015:

“1. Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác.
2. Từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối
với nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa thuận của
các bên hoặc theo quy định của pháp luật”.
Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác. Như vậy, từ thời điểm hợp đồng
có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo cam kết. Hợp
đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định
của pháp luật. Và quy định này là nhẳm đảm bảo việc thực hiện hợp đồng của các bên,
đồng thời rõ ràng hơn trong việc thay đổi nội dung hợp đồng (tức là phải có sự thỏa
thuận giữa các bên).
Những quy định về hợp đồng dân sự trong BLDS 2015 được coi là nguồn luật

chung điều chỉnh các quan hệ hợp đồng dân sự và các quan hệ hợp đồng khác, nếu như
không có quy định của luật chuyên ngành. Trong Bộ luật Dân sự 2015, Hợp đồng dịch
vụ được quy định tại Chương XVI, Mục 9 từ Điều 513 đến Điều 521 với khái niệm,
đối tượng của hợp đồng dịch vụ, quyền và nghĩa vụ của các bên thuê dịch vụ/ bên
cung ứng dịch vụ, đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dịch vụ.
Luật TM 2005 được áp dụng điều chỉnh các hoạt động thương mại thực hiện trên
lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kể cả các hoạt động thương mại
thực hiện ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp
các bên lựa chọn áp dụng LTM 2005. Luật TM 2005 không quy định cụ thể các điều
khoản chủ yếu trong hợp đồng dịch vụ, các bên tham gia tự đưa ra các điều khoản

16


-

-

trong hợp đồng dịch vụ nhưng các điều khoản do hai bên thỏa thuận không được trái
pháp luật và điều chỉnh theo hướng quy định các quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng. Và theo Điều 46 LTM 2005 quy định về dịch vụ cấm kinh doanh, dịch vụ
hạn chế kinh doanh và dịch vụ kinh doanh có điều kiện:
“1. Căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng thời kỳ và điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Chính phủ quy định cụ thể danh
mục dịch vụ cấm kinh doanh, dịch vụ hạn chế kinh doanh, dịch vụ kinh doanh có điều
kiện và điều kiện để được kinh doanh dịch vụ đó.
2. Đối với dịch vụ hạn chế kinh doanh, dịch vụ kinh doanh có điều kiện, việc
cung ứng dịch vụ chỉ được thực hiện khi dịch vụ và các bên tham gia hoạt động cung
ứng dịch vụ đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.”
Nghị định số 19/VBHN-BCT quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa,

dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện. bởi vậy,
những hàng hóa , dịch vụ bị cấm được quy định trong Nghị định này sẽ bị nghiêm cấm
kinh doanh trừ trường hợp theo khoản 2 điều 5 Nghị định số 19/VBHN-BCT: “Việc
cung ứng hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh ban
hành kèm theo Nghị định này trong trường hợp cụ thể phải được Thủ tướng Chính phủ
cho phép”.
Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Liên hiệp quốc năm
1980 (CISG), vấn đề giao kết hợp đồng được quy định từ điều 14 đến điều 24 Phần II
Công Ước Viên 1980. Công Ước quy định: “ Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho
một hay nhiều người xác định được coi là một chào hàng nếu có đủ chính xác và nếu
nó chỉ rõ ý chí của người chào hàng muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp có sự
chấp nhận chào hàng đó. Một đề nghị là đủ chính xác khi nó nêu rõ hàng hóa và ấn
định số lượng về giá cả một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc quy định thể thức xác
định những yếu tố này.” – Khoản 1 Điều 14 CƯV 1980. Về hiệu lực của lời chào hàng,
hủy bỏ lời chào hàng, chấp nhận chào hàng, trả lời chào hàng… lần lượt được quy
định từ Điều 15 đến Điều 24 của Công Ước Viên 1980.
Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT năm 2004 đều
có những quy định về giao kết hợp đồng dân sự, chẳng hạn:
Nguyên tắc tự do hợp đồng: “Các bên trong hợp đồng được tự do giao kết hợp đồng,
thỏa thuận nội dung của hợp đồng” – điều 1.1 (Tự do hợp đồng ).
Nguyên tắc thiện chí và trung thực: “các bên trong hợp đồng phải hành động phù hợp
với tinh thần thiện chí và trung thực trong các giao dịch thương mại quốc tế” – điều
1.7 (Thiện chí và trung thực) .
Phương thức giao kết HĐ: “Một HĐ có thể được giao kết bằng việc chấp thuận một
chào hàng hoặc bằng hành vi của các bên theo đó đã thể hiện đầy đủ nội dung của sự
thỏa thuận” – điều 2.1.1 (Phương thức giao kết hợp đồng).

17



Hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại có hiệu lực khi đáp ứng các điều
kiện về chủ thể, mục đích và nội dung, hình thức, đảm bảo thực hiện đúng các nguyên
tắc giao kết hợp đồng. Ngoài ra, để làm rõ nội dung hợp đồng, có sự bổ sung bởi phụ
lục hợp đồng. Phụ lục hợp đồng có hiệu lực như hợp đồng, nhưng nội dung của phụ
lục không được trái với hợp đồng. Trường hợp phụ lục có điều khoản trái với nội dung
của điều khoản trong hợp đồng thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác. Nếu các bên chấp nhận phụ lục hợp đồng có điều khoản trái với
điều khoản trong hợp đồng thì coi như điều khoản đó trong hợp đồng đã được sửa đổi.
Pháp luật có vai trò trong việc đảm bảo các chủ thể trong hoạt động thương mại
thực hiện đúng các quy chuẩn về giao kết hợp đồng nói chung cũng như giao kết hợp
đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại nói riêng. Đồng thời ngăn chặn các hành vi
vi phạm về giao kết hợp đồng, thực hiện không đúng trình tự giao kết, hủy bỏ hay thay
đổi một cách tự ý đề nghị giao kết… Nếu không có pháp luật quy định rõ thì việc giao
kết hợp đồng cung ứng dịch vụ sẽ gặp nhiều khó khăn, bất cập. Ngoài ra, nâng cao ý
thức pháp luật của các chủ thể khi tham gia hoạt động giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ trong thương mại. Nếu pháp luật không quy định hoặc quy định sơ sài thì sẽ
không có chế tài nào có thể kiểm soát được hoạt động thương mại trên thị trường, từ
đó sẽ dẫn tới rất nhiều rủi ro khác như tự ý hủy bỏ giao kết gây thiệt hại cho đối tác mà
không chịu bất cứ hình thức bồi thường nào…
1.2.3. Các nguyên tắc pháp luật điều chỉnh lĩnh vực giao kết hợp đồng cung
ứng dịch vụ trong thương mại.
 Tôn trọng quyền tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã
hội.
Bộ luật Dân sự quy định cho các chủ thể được tự do giao kết hợp đồng nhằm tạo
điều kiện cho các chủ thể có thể thoả mãn nhu cầu vật chất cũng như tinh thần. Dựa
trên nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ các điều kiện tư cách chủ thể đều
có thể tham gia giao kết bất kỳ một giao dịch hợp đồng dân sự nào. Tuy nhiên, hợp
đồng chỉ có hiệu lực pháp luật, được pháp luật công nhận và bảo vệ khi ý chí của các
bên giao kết hợp đồng phù hợp với ý chí của nhà nước. Tức là sự tự do ý chí giao kết
hợp đồng của các chủ thể phải nằm trong khuôn khổ, giới hạn nhất định, giới hạn lợi

ích của các cá nhân khác, lợi ích chung của xã hội. Nếu các bên tự do vô hạn thì hợp
đồng dân sự sẽ trở thành phương tiện để người giàu bóc lột người nghèo, sẽ là nguy cơ
đối với lợi ích chung của xã hội, lợi ích của cộng đồng. Bởi vậy, cần phải tăng cường
sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ dân sự. Chính vì vậy, trong xã hội ta – xã
hội xã hội chủ nghĩa, lợi ích chung của toàn xã hội (lợi ích cộng đồng) và đạo đức xã
hội không cho phép bất cứ cá nhân, tổ chức nào được lợi dụng ý chí tự do để biến
những hợp đồng dân sự thành phương tiện bóc lột. Bên cạnh việc bảo đảm lợi ích của
mình, các chủ thể phải chú ý tới quyền, lợi ích của người khác, của toàn xã hội; tự do

18


của mỗi chủ thể không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Lợi ích của cộng đồng, của
toàn xã hội được quy định bởi pháp luật và đạo đức xã hội trở thành giới hạn cho sự tự
do ý chí của các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng nói riêng, và trong mọi hành
vi của chủ thể nói chung.
 Đề cao tinh thần tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.
Nguyên tắc này được quy định nhằm bảo đảm trong việc giao kết hợp đồng
không ai bị cưỡng ép hoặc bị những cản trở trái với ý chí của mình; đồng thời thể hiện
bản chất của quan hệ pháp luật dân sự. Hơn nữa, ý chí tự nguyện của cac bên chủ thể
tham gia hợp đồng chỉ được bảo đảm khi các bên bình đẳng với nhau trên mọi phương
diện. Chính vì vậy, pháp luật không thừa nhận những hợp đồng được giao kết thiếu sự
bình đẳng và ý chí tự nguyện của một trong các bên chủ thể. Tuy nhiên, trên thực tế thì
việc đánh giá một hợp đồng có được giao kết bảo đảm ý chí tự nguyện của các bên hay
chưa, trong một số trường hợp lại là một công việc hoàn toàn không đơn giản và khá
phức tạp bởi nhiều nguyên do chủ quan và khách quan khác nhau.
Sự thống nhất ý chí của chủ thể giao kết hợp đồng với sự bày tỏ ý chí đó trong
nội dung hợp đồng mà chủ thể này đã giao kết chính là cơ sở quan trọng để xác định
một hợp đồng đã đảm bảo nguyên tắc tự nguyện hay chưa. Hay nói cách khác, việc
giao kết hợp đồng chỉ được coi là tự nguyện khi hình thức của hợp đồng phản ánh một

cách khách quan, trung thực mong muốn, nguyện vọng của các bên chủ thể tham gia
hợp đồng. Ngoài ra, mọi thông tin do chủ thể cung cấp, đề cập trong đề nghị giao kết,
trong hợp đồng giao kết đều phải dựa trên nguyên tắc trung thực, ngay thẳng. Mọi
thông tin đều phải đúng sự thật, không được lừa dối, sai sự thật. Do đó, theo quy định
của pháp luật thì tất cả những hợp đồng được giao kết do bị nhầm lẫn, lừa dối hay bị
đe doạ đều không đáp ứng được nguyên tắc tự nguyện khi giao kết và do đó bị vô hiệu.

19


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIAO
KẾT HỢP ĐỒNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ TRONG THƯƠNG MẠI VÀ THỰC
TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TƯ VẤN ĐẦU TƯ
LIGHTHOUSE.
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về giao
kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại.
2.1.1. Tổng quan tình hình pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ
trong thương mại.
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, đang trong quá trình hội nhập kinh tế
thế giới nên các hoạt động thương mại đang trên đà phát triển mạnh mẽ, đa dạng và
phức tạp. Bởi vậy, cần có pháp luật điều chỉnh các hoạt động này nhằm thúc đẩy quản
lý của nhà nước và sự hội nhập diễn ra tốt hơn. Tùy vào từng thời kỳ, tình hình kinh tế
xã hội mà pháp luật điều chỉnh các hoạt động thương mại có những điều chỉnh khác
nhau, LTM 2005 điều chỉnh những vấn đề liên quan đặc thù thương mại. Ngoài ra một
số trường hợp không có quy định trong LTM 2005 thì áp dụng đến BLDS 2015. Điển
hình như một số quan hệ pháp luật trong giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong
thương mại không được quy định trong LTM 2005 mà phải áp dụng quy định của
BLDS 2015. Trước đây Bộ luật dân sự 2005( BLDS 2005) còn hiệu lực là một trong
những Bộ luật điều chỉnh các hoạt động thương mại sau đó Bộ luật này được sửa đổi,
bổ sung thành BLDS 2015. Trong đó pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ

thương mại cũng là một trong những nội dung được sửa đổi trong BLDS 2015 để phù
hợp với hoạt động thương mại trong thực tế.
Tính đến thời điểm hiện tại LTM 2005 và BLDS 2015 vẫn đang là các văn bản
hiện hành điều chỉnh giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại. Trong các
văn bản này chứa đựng các quy định điều chỉnh về nguyên tắc giao kết, đề nghị giao
kết, chấp nhận giao kết, thời điểm có hiệu lực, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
cung ứng dịch vụ trong thương mại. Khi các quy định này hình thành và có hiệu lực đã
tạo cơ sở pháp lý cho mọi chủ thể tham gia quan hệ giao kết hợp đồng cung ứng dịch
vụ trong thương mại.
Hiện nay, BLDS 2015 và LTM 2005 thay thế cho các văn bản cũ, là căn cứ giúp
cho các chủ thể xác định được nghĩa vụ, quyền hạn, thể thức giao kết hợp đồng. Dù có
nhiều điểm tích cực từ hai văn bản pháp luật này mang lại, tuy nhiên nó vẫn còn có
những điểm hạn chế nhất định, nhiều quy định còn có nhiều cách hiểu khác nhau gây
khó khăn trong quá trình thực hiện pháp luật.
Ngoài hai văn bản trên thì Công Ước Viên 1980 (CƯV 1980), các Điều Ước
Quốc tế như Hiệp định chung về Thuế quan và Thương Mại - GATT( 1994) ( Hiệp

20


định GATT) mà Việt Nam là thành viên cũng có những quy định về giao kết hợp đồng
nói chung. Tuy nhiên, chúng đều có những quy định khác so với các quy định của
pháp luật Việt Nam từ đó gây khó khăn cho các chủ thể trong hoạt động giao kết hợp
đồng cung ứng dịch vụ thương mại.
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng
cung ứng dịch vụ trong thương mại.
 Chủ trương chính sách, đường lối của Đảng.
Đường lối chính sách của Đảng định ra mục tiêu và phương hướng phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước trong một giai đoạn nhất định, định ra những phương
pháp cách thức cơ bản để có thể thực hiện những mục tiêu và phương hướng đó. Pháp

luật nước ta chính là kết quả của sự thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Sự chi phối của đường lối, quan điểm của Đảng tới pháp luật hợp đồng
nói chung, pháp luật về giao kết hợp đồng nói riêng là sự chi phối mang tính hệ thống,
diễn ra từ khâu xây dựng, hoàn thiện pháp luật đến khâu thực thi và áp dụng pháp luật
về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại trên thực tế. Vì thế đường lối
chính sách của Đảng là một trong những nhân tố có sức ảnh hưởng lớn nhất nội dung
của pháp luật, nội dung các quy định trong tất cả các văn bản quy phạm pháp luật, từ
Hiến pháp, Luật cho đến các văn bản dưới luật đều phải phù hợp, không được trái với
đường lối chính sách của Đảng và tất nhiên pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ trong thương mại cũng chịu sự ảnh hưởng bởi đường lối chính sách của Đảng.
 Trình độ phát triển kinh tế - xã hội
Yếu tố quan trọng quyết định đến việc thực thi pháp luật nói chung và pháp luật
về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại nói riêng chính là cơ sở kinh
tế. Điều kiện kinh tế thấp kém, đời sống vật chất kém thì nhu cầu sử dụng dịch của con
người sẽ hạn hẹp hơn; ngược lại, kinh tế càng phát triển đời sống vật chất càng cao thì
con người lại càng hướng tới việc sử dụng các dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu giải trí
của bản thân như du lịch, ăn uống,…Như vậy, độ phát triển kinh tế tác động thường
xuyên, trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả thực thi pháp luật về giao kết hợp đồng
cung ứng dịch vụ trong thương mại trên thực tế. Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, không có loại hình dịch vụ nào phát triển. Tất cả các hoạt động đều có một
nhiệm vụ duy nhất là thực hiện theo đúng quy định của pháp luật để phục vụ cho lợi
ích chung của Nhà nước, của xã hội. Với điều kiện đó, khó có thể tìm thấy hành vi trái
pháp luật trong việc giao kết hợp đồng. Ngược lại, trong cơ chế kinh tế thị trường,
quyền tự do kinh doanh của con người được tôn trọng, trên cơ sở đó, hệ thống pháp
luật về giao kết hợp đồng nói chung và giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong
thương mại nói riêng đã phát triển mạnh mẽ để thực hiện quyền tự do của hai bên
trong quan hệ giao kết hợp đồng.

21



Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Việt Nam đã gia nhập Công Ước Viên 1980 và
cũng là thành viên của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương Mại - GATT( 1994).
Điều này sẽ giúp cho Việt Nam thống nhất pháp luật trong hoạt động thương mại với
các quốc gia trên thế giới. Từ đó sẽ có khung pháp lý hiện đại, công bằng và an toàn để
thực hiện các hoạt động thương mại quốc tế, có căn cứ để giải quyết các tranh chấp
phát sinh có điều kiện cạnh tranh công bằng hơn trên trường quốc tế. Tuy nhiên, điều
này cũng có những bất cập đối với hoạt động thương mại nói chung cũng như giao kết
hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại nói riêng. Chẳng hạn, CƯV 1980 và các Điều
Ước Quốc tê có những quy định khác so với pháp luật Việt Nam, điều này sẽ gây khó
khăn cho các chủ thể giao kết hợp động trong việc lựa chọn luật áp dụng, bất cập về
thẩm quyền xảy ra tranh chấp trong hoạt động thương mại quốc tế hay trong việc giao
kết hợp đồng với những nước không phải là thành viên.
Hiện nay, việc giao kết các hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại được sử
dụng rộng rãi để giao kết hợp đồng với cả các đối tượng trong nước và đối tượng nước
ngoài. Theo đó, bên cung ứng dịch vụ và bên thuê dịch vụ có quyền tự do thỏa thuận
để xác lập các quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng cung ứng dịch vụ có thể
hình thành trong tương lai. Quá trình giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong
thương mại có thể coi là một quá trình hợp tác, cạnh tranh của các bên, trước hết vì lợi
ích của chính họ, sau là vì lợi ích chung của hai bên.
 Chủ thể tham gia giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại.
Chủ thể tham gia giao kết hợp đồng bao gồm cá nhân và tổ chức. Điểm a khoản 1
Điều 117 Bộ luật Doanh nghiệp năm 2015 quy định điều kiện chủ thể tham gia giao
kết hợp đồng như sau: “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự
phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập”. Theo đó, cá nhân, tổ chức tham gia giao
kết hợp đồng phải có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp luật dân sự phù hợp với
từng loại hợp đồng.

o Đối với cá nhân:
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự

và nghĩa vụ dân sự (Điều 16 Bộ luật dân sự). Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là
khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự
(Điều 19 Bộ luật Dân sự 2015). Thông thường, người từ đủ 18 tuổi là người có năng
lực hành vi dân sụ đầy đủ, trừ một số trường hợp: Người mất năng lực hành vi dân sự;
Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, Người có khó khăn trong nhận thức và làm
chủ hành vi.
Đối với các hợp đồng thông thường thì người từ đủ 18 tuổi trở lên có thể tham
gia giao kết hợp đồng. Tuy nhiên tùy từng loại hợp đồng mà cho phép người dưới 18

22


tuổi có thể tự mình tham gia giao kết; một số loại hợp đồng thì người trên 18 tuổi
những cũng không đủ điều kiện tham gia giao kết. Người dưới 18 tuổi tham gia giao
kết hợp đồng thường phải có người đại diện hợp pháp hoặc người giám hộ đồng ý
hoặc thực hiện trên sự đồng ý của người dưới 18 tuổi.
o Đối với Tổ chức:
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các
quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 86 Bộ luật Dân sự 2015). Một tổ chức được coi là pháp
nhân khi đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015:

- Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan.
- Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này.
- Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của
-

mình.
Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Khi tổ chức tham gia giao kết hợp đồng phải thông qua người đại diện theo pháp
luật của tổ chức đó. Do đó, chủ thể giao kết hợp đồng của pháp nhân vừa phải đáp ứng

điều kiện đối với cá nhân lại phải là người đại diện hợp pháp của tổ chức (hoặc người
đại diện theo ủy quyền). Tuy nhiên, đối với từng loại hợp đồng có các điều kiện khác
đối với chủ thể tham gia giao kết thì các chủ thể cũng phải đáp ứng các điều kiện đó
như điều kiện về chuyên môn, khả năng lao động,…
Theo LTM 2005 thì chủ thể của hợp đồng dịch vụ là các thương nhân. Theo điều
6 LTM 2005 thì thương nhân gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Để
trở thành thương nhân thì cá nhân đủ 18 tuổi trở lên, pháp nhân có đủ điều kiện kinh
doanh thương mại theo quy định của pháp luật thì cơ quan nhà nước có toàn quyền cấp
giấy chứng nhận kinh doanh và trở thành thương nhân.
Trình độ chuyên môn, hiểu biết của mỗi bên trong giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ thương mại ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả thực thi các quy
định về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại. Trong mối quan hệ
giữa pháp luật và ý thức pháp luật thì ý thức pháp luật là nhân tố thúc đẩy việc thực
hiện pháp luật trong đời sống xã hội và ý thức pháp luật là cơ sở bảo đảm cho việc áp
dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật. Ý thức pháp luật của một chủ thể cao hay thấp
một phần lớn phụ thuộc vào trình độ pháp luật của chính chủ thể đó; Tuy nhiên, không
phải cứ có trình độ pháp luật tốt thì sẽ có ý thức pháp luật cao. Việc thực thi pháp luật
về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại trên thực tế bị chi phối trực
tiếp và rất lớn bởi ý thức pháp luật của bên thuê dịch vụ và bên cung ứng dịch vụ. Trên
thực tế, có nhiều trường hợp do không biết hoặc không hiểu quy định của pháp luật về
giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ dẫn tới hợp đồng bị vô hiệu. Vi phạm pháp luật

23


trong trường hợp nào cũng ảnh hưởng tiêu cực đến quyền và lợi ích hợp pháp của
chính các chủ thể trong quan hệ pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ cho
nên hiểu luật mà cố tình vi phạm pháp luật thì sự ảnh hưởng tiêu cực đó còn lớn hơn
nhiều lần.

2.2. Thực trạng các quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ trong thương mại.
2.2.1. Nguyên tắc pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ
trong thương mại.
Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực vào ngày 01/01/2017, tại Điều 3 Bộ Luật dân sự
2015 có quy định về nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự như sau: “Cá nhân, pháp
nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự
nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ
thể khác tôn trọng.”

 Tôn trọng quyền tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã
hội:
Nguyên tắc này được thể hiện trong Khoản 1 điều 11 Luật Thương Mại 2005:
“Các bên có quyền tự do thỏa thuận không trái với các qui định của pháp luật mỹ tục
và đạo đức xã hội để xác lập quyền, nghĩa vụ các bên trong hoạt động thương mại và
bảo hộ các quyền đó”.
Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế 2004 qui định tại điều
1.1 (Tự do hợp đồng ):
“Các bên được giao kết hợp đồng và thỏa thuận nội dung hợp đồng”.
Theo những điều khoản trên, nguyên tắc tự do giao kết tức là:
Một là, tự do về chủ thể. Mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ các điều kiện về tư cách
của chủ thể thì đều có thể tham gia bất cứ một giao dịch hay hợp đồng dân sự nào.
Hai là, tự do về nội dung. Nội dung của giao kết hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí
của các bên tham gia giao kết hợp đồng. Các bên có quyền tự quyết định về đối tượng
của giao kết hợp đồng dân sự, phụ thuộc vào nhu cầu của chủ thể. Nội dung của giao
kết hợp đồng không phụ thuộc vào chủ thể nào khác, mà phục vụ chính mong muốn
của chủ thể, các bên trong quan hệ hợp đồng có quyền tự do thỏa thuận về các điều
khoản, các quy định trong hợp đồng.
Ba là, tự do lựa chọn hình thức. Trừ những trường hợp pháp luật quy định hợp

đồng phải tuân theo một hình thức nhất định, các chủ thể trong quan hệ hợp đồng, có
toàn quyền trong việc sử dụng một cách linh hoạt hình thức cho giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa của mình, hợp đồng thông qua lời nói, văn bản, ….
Tóm lại, nguyên tắc thể hiện: mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ các điều kiện tư
cách chủ thể đều có thể tham gia giao kết bất kỳ một giao dịch, hợp đồng dân sự nào,

24


nếu muốn. Tuy nhiên, hợp đồng chỉ có hiệu lực pháp luật, được pháp luật công nhận
và bảo vệ khi ý chí của các bên giao kết hợp đồng phù hợp với ý chí của nhà nước.
Việc tham gia giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại, các chủ thể,
trước tiên, mong muốn mang lại một lợi ích vật chất nhất định. Vì vậy, nguyên tắc đầu
tiên được bộ luật nêu ra đối với giao kết hợp đồng đó là các chủ thể được tự do giao
kết hợp đồng nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể có thể thỏa mãn nhu cầu của mình.
Tuy nhiên, nếu sự tự do này đi quá xa mà không có sự quản lý của nhà nước, sẽ
dẫn đến nhiều hạn chế, hệ quả tiêu cực, có thể dẫn tới xâm phạm lợi ích công cộng. Do
vậy, vế thứ hai của nguyên tắc khẳng định rằng, sự tự do đó không được trái pháp luật,
đạo đức xã hội. Đặc biệt, nước ta là nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì lợi ích
của cộng đồng của xã hội càng được nêu cao, pháp luật cũng như đạo đức xã hội
không chấp nhận tồn tại sự bóc lột, bất công do sự tự do gây ra. Lợi ích của mỗi cá
nhân, đều được pháp luật bảo vệ bằng việc quy định nguyên tắc tự do, nhưng sự tự do
đó buộc phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật và đạo đức xã hội để đảm bảo lợi ích
chung. Bất cứ hợp đồng nào trái với điều khoản pháp luật hoặc trái với đạo đức xã hội,
xâm phạm đến lợi ích công cộng đều sẽ mặc nhiên không phát sinh hiệu lực.
Trong thực tế, vẫn có những trường hợp không được đảm bảo đúng theo nguyên
tắc tự do, bình đẳng giao kết hợp đồng. Chẳng hạn, các hợp đồng cung cấp, cung ứng
dịch vụ từ các công ty nhà nước độc quyền phân phối như điện, nước, điện thoại, chủ
thể giao kết là người dân sử dụng dịch vụ này phải ký kết vào những hợp đồng mẫu đã
được soạn sẵn mà không được thay đổi, thỏa thuận. Thậm chí, khi xảy ra sự cố gây

thiệt hại cho người sử dụng cũng không có điều khoản để bồi thường như việc tự ý
ngắt điện mà không thông báo làm hư hỏng các thiết bị điện hoặc các sản phẩm đang
được sản xuất chưa hoàn thành… Quyền tự do thỏa thuận nội dung hợp đồng của các
bên bị giới hạn bởi các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm sự thỏa thuận của các
bên không xâm hại đến những lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ hay trật tự công cộng
(các nguyên tắc cơ bản của pháp luật) như việc các bên không thể tự thỏa thuận trước
trong hợp đồng việc bồi thường thiệt hại hợp đồng bằng một mức ấn định trước trong
hợp đồng vì nguyên tắc bồi thường thiệt hại của pháp luật Việt Nam là chỉ chấp nhận
cho việc bồi thường đối với những thiệt hại thực tế từ hành vi vi phạm hợp đồng của
bên kia (Điều 302 và 303 Luật TM 2005).

 Đề cao tinh thần tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng:
Nguyên tắc này cũng được quy định tại điều 1.7 (Thiện chí và trung thực) Bộ Nguyên
tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế:
“1. Các bên trong hợp đồng phải tuân theo những yêu cầu về thiện chí và trung
thực trong thương mại quốc tế.

25


×