Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Khảo sát đặc điểm lỗ lưỡi trên hình ảnh CBCT ở xương hàm dưới người khảo sát đặc điểm lỗ lưỡi trên hình ảnh cbct ở xương hàm dưới người Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.06 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM LỖ LƯỠI TRÊN HÌNH ẢNH CBCT
Ở XƯƠNG HÀM DƯỚI NGƯỜI VIỆT
Dương Mỹ Linh*, Phạm Thị Hương Loan**, Lương Văn Tô My**, Lê Đức Lánh**

TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm khảo sát đặc điểm của lỗ lưỡi giữa và lỗ lưỡi bên, tần suất xuất hiện của lỗ
lưỡi phụ và các đặc điểm thông nối của lỗ lưỡi bên ở xương hàm dưới người Việt trên CBCT.
Đối tượng và Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, gồm 148 hình ảnh CBCT hiện đang lưu trữ tại
Bộ môn Tia X được chụp từ các bệnh nhân đến khám và điều trị tại Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả: 100% các cá thể có ít nhất một lỗ lưỡi giữa, trong đó mỗi cá thể có thể có nhiều hơn 1 lỗ. 51% lỗ
lưỡi giữa nằm ở vị trí trên gai cằm, 48% ở dưới gai cằm và chỉ có 1% nằm ở vị trí ngay gai cằm. Đường kính dọc
và ngang của lỗ lưỡi giữa là 1,12 ± 0,63 mm và 0,89 ± 0,3 mm. Khoảng cách trung bình đến bờ dưới XHD là 8,61
± 2,09 mm. Tỉ lệ lỗ lưỡi phụ rất thấp (8%). Tỉ lệ lỗ lưỡi bên ở vùng răng cửa-răng nanh là 27,7% với đường kính
dọc và ngang trung bình là 0,79 ± 0,21 mm và 0,83 ± 0,23 mm, lỗ lưỡi bên vùng răng cối nhỏ - răng cối lớn xuất
hiện nhiều hơn 72,3% với đường kính ngang và dọc là 0,92 ± 0,34 mm và 0,98 ±1,58 mm. Lỗ lưỡi bên cách bờ
dưới XHD với khoảng cách an toàn là 8,93 ± 1,5 mm (ở vùng R cửa- nanh) và 8,48 ± 1,58 mm (ở vùng R cối nhỏ
- R cối lớn). Với đặc điểm thông nối của ống lưỡi bên, ghi nhận được có 19,6% thông nối với ống cửa, 30,4%
thông nối với ống răng dưới và có 8,8% thông nối ở vị trí giữa lỗ lưỡi bên với ống răng dưới và ống cửa
Kết luận: Cùng với việc xác định ống cửa XHD, việc xác định các đặc điểm và khoảng cách đến bờ trước và
bờ dưới XHD của lỗ lưỡi giúp xác định được giới hạn vùng an toàn để lấy xương vùng cằm. Sự hiện diện của
ống lưỡi bên, đặc biệt là các ống có đường kính lớn sẽ giúp các nhà lâm sàng tránh được nguy cơ chảy máu và tổn
thương thần kinh do can thiệp trong xương ở vùng này.
Từ khóa: lỗ lưỡi, xương hàm dưới, cone beam CT.

ABSTRACT
ASSESSING ANATOMICAL STRUCTURE OF MANDIBULAR LINGUAL FORAMEN IN CBCTS


IMAGES OF VIETNAMESE
Duong My Linh, Pham Thi Huong Loan, Luong Van To My, Le Duc Lanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 2 - 2016: 55 - 60
Objectives: (1) To assess the location, quantity and frequency of the median lingual foramina, the frequency
of the accessory median lingual foramen and the connection of the lateral lingual foramen.
Materials and Methods: A cross-sectional study of 148 CBCT images examined in the Oral Radiology
Department, Faculty of Odonto-Stomatology, University of Medicine and Pharmacy, Ho Chi Minh City.
Results: All the patients had at least one of median lingual foramina (LF), the foramina located in three
points regarding mental spine: upper (51%), lower (48%) and at the mental spine (1%). Accessory lingual
foramen was found with very low percentage (8%). On the other hand, 27.7% of lateral LF located at the incisivecanine region and 72.3% of them was in the premolar-molar region. Furthermore, 19.6% of lateral LF connected
* BS Răng Hàm Mặt 2008-2014, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP.HCM
** Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS. Dương Mỹ Linh
ĐT: 0919149048
Email:

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

55


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016

to the mandibular incisive canal, 30.4% of them to the mandibular canal and 8.8% of ones connected to both
íncisive and madibular canals.
Conclusion: In accompany with examining the mandibular incisive canal, defining the existing, distance
from the mandibular lingual foramina to the anterior and inferior margin by CBCT determined the safe zone to
harvest chin bone. Identifying the lateral LF may help dental practitioners prevent bleeding and nerve injury

complications in mandibular surgery.
Key words: lingual foramen, mandibular, cone-beam CT

MỞ ĐẦU
Xương hàm dưới (XHD), nhất là vùng cằm,
đã từng được coi là vùng an toàn và là vùng cho
xương lý tưởng trong các phẫu thuật ghép
xương tự thân, nay trở thành một vùng đặt ra
nhiều câu hỏi cho các nhà lâm sàng khi tiến hành
phẫu thuật trên vùng này. Những trường hợp
chảy máu dữ dội hay tụ máu lan tỏa vùng sàn
miệng sau phẫu thuật gây bít kín đường thở, đe
dọa tính mạng bệnh nhân được ghi nhận ngày
càng nhiều làm cho các nghiên cứu sâu hơn về
giải phẫu ở vùng cằm được quan tâm nhiều hơn.
Hình ảnh CBCT có khả năng phát hiện những
cấu trúc nhỏ ở vùng răng- xương ổ vì chúng có
độ phân giải cao và lượng tia thấp, rất hữu ích
trong quan sát lỗ lưỡi và ống lưỡi. Ở Việt Nam
hiện chưa có nghiên cứu nào về lỗ lưỡi và ống
lưỡi. Nghiên cứu này nhằm khảo sát số lượng, vị
trí và kích thước của lỗ lưỡi giữa, tần suất xuất
hiện của lỗ lưỡi phụ, số lượng, kích thước và đặc
điểm thông nối của lỗ lưỡi bên.

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Nghiên cứu cắt ngang mô tả với mẫu thuận
tiện gồm 148 hình ảnh CBCT hiện đang lưu trữ
tại Bộ môn Tia X được chụp từ các bệnh nhân
đến khám và điều trị tại Khoa Răng Hàm Mặt,

Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Mẫu được chọn thỏa các tiêu chuẩn là hàm
dưới còn đủ răng có hoặc không có răng khôn,
không mang khí cụ chỉnh hình, không có sang
thương bệnh lý, gãy xương hoặc có răng mọc
ngầm sâu, hình ảnh XHD trên CBCT nhìn thấy
rõ vùng cằm.
Trình tự của phương pháp nghiên cứu:
Bước 1: Chọn mặt phẳng khảo sát

56

Lỗ lưỡi giữa: khảo sát trên lát cắt thiết diện
qua đường giữa XHD.
Lỗ lưỡi phụ: khảo sát trên lát cắt ngang
Lỗ lưỡi bên trên lát cắt ngang và lát cắt thiết
diện.
Bước 2: Khảo sát đặc điểm lỗ lưỡi
Lỗ lưỡi giữa: xác định gai cằm, vị trí lỗ lưỡi:
Ngang / trên / dưới gai cằm, đo đường kính
ngang và dọc; khoảng cách từ lỗ lưỡi giữa đến
bờ dưới XHD, đến bờ trước XHD.
Ghi nhận lỗ lưỡi phụ nếu có ở 2 bên lỗ lưỡi
giữa.
Khảo sát lỗ lưỡi bên: xác định sự hiện diện,
vị trí của lỗ lưỡi bên: vùng II (vùng răng cửananh), vùng III (vùng răng cối nhỏ - cối lớn)
phân loại theo von Arx (2011)(25), xác định sự
thông nối của ống lưỡi bên với ống cửa và ống
răng dưới.
Bước 3: Thu thập và xử lý số liệu: Các số liệu,

dữ liệu thu thập và phân tích bằng phần mềm
SPSS 16.0. Tất cả các phép kiểm thống kê đều sử
dụng với độ tin cậy 95%.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Có 148 hình ảnh CBCT đạt tiêu chuẩn chọn
từ 148 cá thể người Việt tuổi từ 18 đến 67 tuổi,
kết quả thu được như sau:

Đặc điểm của lỗ lưỡi giữa
Bảng 1: Số lượng và vị trí lỗ lưỡi giữa
Số lỗ (%)
1
2
3
4
Tổng

Trên gai
cằm
63 (23%)
42 (15%)
21 (8%)
13 (5%)
139 (51%)

Ngay gai
cằm
2 (1%)
0

0
0
2 (1%)

Dưới gai
Tổng
cằm
7 (3%)
72 (27%)
42 (15%)
84 (30%)
45 (17%)
66 (25%)
35 (13%)
48 (18%)
129 (48%) 270 (100%)

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Tất cả các cá thể đều có lỗ lưỡi ngay đường
giữa (100%), tương tự với các nghiên cứu khác
của Katakami (2008)(5), Babiuc (2011)(1), Sheikhi
(2012)(20) (100%). Tỉ lệ này cao hơn nghiên cứu
của Parnia (2011)(16) (49%), von Arx (2011)(25)
(96,2%), Makris (2010)(12) (81%) và Romanos
(2012)(17) (86%).
Về ý nghĩa lâm sàng thì vị trí của lỗ lưỡi giữ
vai trò quan trọng hơn trong phòng ngừa biến

chứng(19,24). Nghiên cứu này ghi nhận được có
89,9% (Bảng 2) lỗ lưỡi giữa nằm ở vị trí trên gai
cằm, tương tự với nghiên cứu của Kawai (2007)(7)
(86,8%) và thấp hơn nghiên cứu của Tagaya
(2009)(22) (95%) và Sheikhi (2012)(20) (99%). Chỉ có
1% lỗ lưỡi nằm ngay gai cằm, thấp hơn kết quả

Nghiên cứu Y học

của Liang (2007)(9) (25%), Naketar (2011)(14) (8%)
(đều nghiên cứu trên XHD khô) và Tagaya
(2009)(22) (khảo sát trên hình ảnh CT là 49,5%). Sự
khác biệt này có thể do cỡ mẫu của chúng tôi
chưa đủ lớn do vậy cần thêm nhiều nghiên cứu
trên cỡ mẫu lớn hơn để khảo sát đặc điểm này.
Hầu hết các trường hợp lỗ lưỡi nằm ở vị trí thấp
- dưới gai cằm (88,5%), tỉ lệ này cao hơn các
nghiên cứu khác như Kawai (2007)(7) (83,8%),
Tagaya (2009)(22) (57%) cũng như Sheikhi (2012)(20)
(74,5%).
Ghi nhận về chiều hướng của ống lưỡi: đa số
các ống lưỡi dưới gai cằm đi theo hướng ra trước
và lên trên, phù hợp với nghiên cứu của
Babiuc(1),Tagaya(22) và von Arx(25).

Bảng 2: Kích thước lỗ lưỡi giữa
Đặc điểm

Tỉ lệ % Trên
tổng cá thể


Lỗ trên gai cằm
Lỗ ngay gai cằm
Lỗ dưới gai cằm
Tổng

89,9%
88,5%
1%

Đường kính (mm)
dọc
ngang
1,07 ± 0,3
1,15 ± 0,4
1,40 ± 0,0
0,74 ± 0,0
0,88 ±0,31
0,79 ± 0,3
1,12 ± 0,6
0,89 ± 0,3

Khoảng cách đến XHD (mm)
bờ dưới
thành ngoài
9,03 ± 2,29
4,92 ± 1,67
9,52 ± 1,76
5,79 ± 1,23
7,28 ± 2,21

4,47 ± 1,47
8,61 ± 2,09
5,06 ± 1,46

Đường kính dọc trung bình chung của lỗ
lưỡi giữa là 1,12 ± 0,63 mm và đường kính ngang
trung bình 0,89 ± 0,30 mm phù hợp với nghiên
cứu của von Arx (2011)(25) là 1,01 mm và 0,97
mm. Ở lỗ lưỡi trên và dưới gai cằm, đường kính
dọc tương tự như Sheikhi (2012)(20) (1,12 ± 0,31
mm - lỗ trên gai cằm và 0,9 ± 0,39 mm - lỗ dưới
gai cằm).

nhiều hơn so với ống dưới gai cằm. Đây cũng là
một đặc điểm cần lưu ý trên lâm sàng.

Khoảng cách trung bình của ống tới thành
ngoài XHD trung bình là 4,92 ± 1,67 mm (ống
trên gai cằm) và 4,47 ± 1,47 mm (dưới gai cằm)
phù hợp với nghiên cứu của Sheikhi(20) (2012) là
4,73 mm và 4,8 mm. Đối với khoảng cách tới bờ
dưới của XHD của ống trên gai cằm là 9,03± 2,29
mm, khoảng cách này nhỏ hơn khoảng cách
tương ứng trên người Nhật là 11,4 mm (Kawai
2007(7)) và trên người Iran là 10,08 mm (Sheikhi
2012(20)). Ngược lại đối với ống dưới gai cằm,
khoảng cách này là 7,28 ± 2,21 mm, lớn hơn so
với Kawai (4,40 mm)(7) và Sheikhi (6,43 mm(20).
Kết quả này có thể giải thích rằng ống trên gai
cằm có khuynh hướng nghiêng xuống dưới


Khảo sát lỗ lưỡi phụ

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

Đồng thời cũng ghi nhận một trường hợp có
lỗ dưới gai cằm thông ra mặt ngoài XHD, đây là
thông nối loại I theo ghi nhận của Trikeriotis
(14/50 cá thể)(24). Sự thông nối này có thể góp
phần vào sự lan tràn của carcinoma giữa bản
xương ngoài và trong của XHD(4).
Tỉ lệ lỗ lưỡi phụ ghi nhận trong nghiên cứu
này là 8% cao hơn so với nghiên cứu của Nagar
(2001)(13) (trên xương hàm khô 1,6%) và thấp hơn
trong các nghiên cứu của Kawai (2007)(7) (42,6%).
Sự sai biệt này có thể do kích thước lỗ lưỡi phụ
khá nhỏ nên khó ghi nhận chính xác. Mặt khác
nghiên cứu của Kawai trên hình ảnh CBCT của
xương hàm khô có thể loại trừ được những cử
động vô ý của bệnh nhân, được chụp bằng máy
PSR9000N có kích thước voxel là 0,1mm(7), hai
yếu tố này có thể làm tăng độ rõ nét của hình
ảnh CBCT, từ đó ghi nhận chính xác hơn các lỗ
có đường kính nhỏ.

57


Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016

Khảo sát lỗ lưỡi bên
Bảng 3: Số lượng và kích thước lỗ lưỡi bên vùng II và III

Vùng II
Vùng III

Số lượng

Đường kính dọc (mm)

43 (27,7%)
113 (72,3%)

0,79 ± 0,21
0,83 ± 0,23

Theo Patil (2013)(15), các lỗ lưỡi bên vùng răng
trước mà không tính đến các lỗ lưỡi giữa thì có ý
nghĩa nhiều hơn trên lâm sàng vì implant
thường được đặt vào vùng này hơn là ở vị trí
ngay đường giữa. Chúng tôi ghi nhận được 43 cá
thể có lỗ lưỡi vùng II hay lỗ lưỡi ở vùng răng cửa
và răng nanh (chiếm 27,7%), tỉ lệ này thấp hơn
các nghiên cứu khác (34%(23) và 42,6%(7)) và cao
hơn trong nghiên cứu của Patil(15) (19,7%). Sự
thay đổi kết quả trong những nghiên cứu này có
thể do sự loại trừ những lỗ lưỡi có kích thước
quá nhỏ(15) vì đa số tác giả đồng ý rằng chỉ những

lỗ lưỡi có kích thước đủ lớn mới có ý nghĩa trong
lâm sàng] và các kích thước này có liên quan trực
tiếp tới kích thước mạch máu đi trong ống lưỡi
tương ứng(3).
Sự hiện diện ít nhất một lỗ lưỡi bên vùng III
trên hình ảnh CBCT của người Việt ghi nhận
được là 72,3%, tỉ lệ này cao hơn tỉ lệ trong nghiên
cứu của Tepper(2000)(23) (trên hình ảnh CT 53%),
Katakami(2009)(5) (trên hình ảnh CBCT 40%) và
Sahman(2014)(18) (trên hình ảnh CBCT của người
Thổ Nhĩ Kì là 24,8%). Có tác giả cho rằng sự khác
nhau giữa các nghiên cứu có thể do chủng tộc(16).
Một nghiên cứu khác của Liang (2009)(10) thì cho
29 rằng lỗ lưỡi bên vùng răng cối nhỏ và răng cối
lớn thường được ghi nhận nhiều hơn ở người
Indonesia và Eskimos. Điều này có thể gợi ý
rằng sự phân bố của lỗ lưỡi bên vùng III có liên
quan tới yếu tố chủng tộc.
- Về đường kính của lỗ lưỡi bên: Gahleitner
(2001)(3) cho rằng đường kính của lỗ lưỡi bên rất
quan trọng bởi vì chúng liên quan trực tiếp với
đường kính của mạch máu đi qua lỗ lưỡi, do vậy
đường kính càng lớn thì càng dễ bị chảy máu(3,6).
Lustig (2003) cho rằng đường kính lỗ lưỡi bên từ
0,18 đến 1,80 mm có tốc độ chảy máu là 0,7-3,7
ml/phút(11). Điều này có thể lý giải được những

58

Đường kính ngang

(mm)
0,92 ± 0,34
0,98 ± 0,35

Khoảng cách đến bờ dưới XHD (mm)
8,93 ± 1,50
8,48 ± 1,58

trường hợp chảy máu trầm trọng khi tổn thương
các mạch máu này. Đường kính trung bình của
lỗ lưỡi bên vùng II là 0,79 ± 0,21 mm (chiều dọc)
và 0,83 ± 0,23 mm (chiều ngang). Ở vùng III thì
đường kính theo chiều dọc và theo chiều ngang
lần lượt là 0,92 ± 0,34 mm và 0,98 ± 0,35 mm, kích
thước này gần như tương đương với kích thước
lỗ lưỡi bên trong nghiên cứu của von Arx
(2011)(25) (0,9mm và 1,2mm) và Kilic (2014)(8) (0,92
mm) và tương đối lớn hơn so với kích thước của
Sahman (2012)(18) (0,64 mm). Đa số các tác giả cho
rằng hình ảnh CBCT của lỗ lưỡi bên ở vùng răng
cối và răng cối nhỏ là rất quan trọng trong kế
hoạch điều trị cấy ghép implant bởi vì chúng
giúp các nhà lâm sàng đánh giá được những
mạch máu đi trong ống này(7). Về hình dạng hơi
oval theo chiều ngang của lỗ lưỡi bên có thể giải
thích rằng lỗ lưỡi có thể có thiết diện hình tròn,
nhưng hầu hết ống lưỡi bên đều chạy trong
xương hàm theo hướng chếch về phía trước nên
khi mở vào mặt trong XHD theo hướng chéo(25).
- Về khoảng cách của lỗ lưỡi bên đến bờ dưới

XHD: Ở vùng II, khoảng cách trung bình từ lỗ
lưỡi bên tới bờ dưới XHD là 8,93 mm, lớn hơn so
với Sekerci(19) (7,11mm). Khoảng cách này tương
đối lớn hơn so với khoảng cách tương ứng ở
vùng III. Điều này có nghĩa là lỗ lưỡi bên vùng II
nằm gần với đỉnh sống hàm hơn, do vậy hệ
thống mạch máu và thần kinh đi trong lỗ lưỡi
bên vùng II này dễ bị tổn thương khi can thiệp
phẫu thuật(22). Khoảng cách trung bình của lỗ
lưỡi bên vùng III đến bờ dưới XHD là 8,48mm,
tương đương nghiên cứu của Kilic(8) (8,18 mm).
Khoảng cách này dài hơn so với nghiên cứu của
Tagaya(22) (7,7mm), von Arx(25) (7,07 mm) và
Sekerci(19)(6,83 mm). Một số tác giả đề nghị rằng
nên chọn những implant có chiều dài sao cho
implant vẫn còn cách bờ xương XHD một

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
khoảng an toàn cao 8 mm(4) và kết quả khoảng
cách trong nghiên cứu này thì phù hợp với đề
nghị trên.

Sự thông nối của ống lưỡi bên và các cấu
trúc giải phẫu lân cận
Nghiên cứu này ghi nhận 29 cá thể có thông
nối giữa lỗ lưỡi bên với ống cửa, chiếm tỉ lệ
19,6%, thấp hơn nghiên cứu của Von Arx(25) với tỉ

lệ 44,8%. Sự thông nối của lỗ lưỡi bên với ORD
trong nghiên cứu của chúng tôi chiếm 30,4% phù
hợp với nghiên cứu của Katakami (2009)(5) (33%)
và hơi thấp hơn trong nghiên cứu của Patil(15)
(45,4%). Kawai (2006)(6) đã ghi nhận trên xác một
nhánh của ĐM xương ổ răng dưới đi ra lỗ lưỡi
bên ở vùng răng cối nhỏ. Mặt khác, Schiller(21)
cũng ghi nhận trên xương hàm khô các nhánh
của ĐM dưới lưỡi đi vào các lỗ lưỡi bên vùng
răng cối nhỏ. Như vậy ngoài sự thông nối của lỗ
lưỡi bên với ORD còn có sự thông nối giữa mạch
máu xương ổ răng dưới và ĐM dưới lưỡi qua
các ống lưỡi bên.
Ngay tại vị trí lỗ cằm có 13 cá thể (8,8%) có
thông nối giữa ống lưỡi bên vùng III, ống cửa và
ORD (vùng răng cối nhỏ hàm dưới). Đây là vị trí
thông nối quan trọng cần lưu ý vì tổn thương
mạch máu ở vùng này có thể khó kiểm soát vì
chảy 31 máu cùng lúc của 3 động mạch xương ổ
dưới, động mạch răng cửa hàm dưới và động
mạch đi vào lỗ lưỡi bên. Đa số các tác giả cho
rằng ĐM đi vào lỗ lưỡi bên vùng này thường là
nhánh của ĐM dưới lưỡi, ĐM dưới cằm hoặc
thông nối của hai ĐM này(3,9). Trong đó ĐM dưới
cằm là một cấu trúc quan trọng có thể gây chảy
máu vùng sàn miệng nghiêm trọng(2). Tổn
thương mô mềm gần lỗ lưỡi bên có thể gây chảy
máu trầm trọng. Vì vậy những lỗ lưỡi vùng này
là một cấu trúc quan trọng trên lâm sàng ngay cả
khi chúng có đường kính nhỏ hơn 1 mm(4).


KẾT LUẬN
1. Về sự hiện diện của lỗ lưỡi giữa và lỗ lưỡi
bên:
- 100% các cá thể có ít nhất một lỗ lưỡi giữa,
trong đó mỗi cá thể có từ 1 đến 4 lỗ.

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

Nghiên cứu Y học

- Vị trí lỗ lưỡi giữa: 51% ở vị trí trên gai cằm,
48% ở vị trí dưới gai cằm và chỉ có 1% lỗ lưỡi
nằm ở vị trí ngay gai cằm
- Tỉ lệ lỗ lưỡi phụ rất thấp (8%)
- Tỉ lệ lỗ lưỡi bên vùng răng cửa - răng nanh
là 27,7%
- Tỉ lệ lỗ lưỡi bên vùng răng cối nhỏ - răng
cối lớn là 72,3%
2. Đặc điểm của lỗ lưỡi
- Lỗ lưỡi giữa: Đường kính dọc và ngang
trung bình là 1,12 ± 0,63 mm và 0,89 ± 0,3 mm.
Khoảng cách trung bình đến bờ dưới XHD là
8,61 ± 2,09 mm. Lỗ trên gai cằm có đường kính
dọc và ngang trung bình là 1,07 ± 0,35 mm và
1,15 ± 0,48 mm, khoảng cách trung bình đến bờ
dưới XHD là 9,03 ± 2,29 mm. Lỗ ngay gai cằm có
đường kính dọc và ngang trung bình là 1,4 ± 0,07
mm và 0,74 ± 0,07 mm, khoảng cách trung bình
đến bờ dưới XHD là 9,52 ± 1,76 mm. Lỗ dưới gai

cằm có đường kính dọc và ngang trung bình là
0,88 ± 0,31mm và 0,79 ± 0,34 mm, khoảng cách
trung bình đến bờ dưới XHD là 7,28 ± 2,21 mm.
- Lỗ lưỡi bên: Đường kính dọc và ngang
trung bình của vùng II là 0,79 ± 0,21 mm và 0,83 ±
0,23 mm và của vùng III là 0,92 ± 0,34 mm và 0,98
±1,58 mm. Lỗ lưỡi bên cách bờ dưới XHD với
khoảng cách an toàn là 8,93 ± 1,5 mm (vùng II) và
8,48 ± 1,58 mm (vùng III)
3. Đặc điểm thông nối của ống lưỡi bên Tỉ lệ
ống lưỡi bên thông nối với ống cửa là 19,6% và
với ORD là 30,4%. Tỉ lệ thông nối ở vị trí giao
của ORD và ống cửa với lỗ lưỡi bên là 8,8%. Mặc
dù tỉ lệ này tương đối thấp nhưng đây là vị trí
quan trọng cần lưu ý trên lâm sàng khi can thiệp
phẫu thuật trong vùng này.
Cùng với việc xác định ống cửa XHD, việc
xác định sự hiện diện, khoảng cách đến bờ trước
và bờ dưới XHD của lỗ lưỡi giúp xác định được
giới hạn vùng an toàn để lấy xương vùng cằm.
Sự hiện diện của ống lưỡi bên, đặc biệt là các ống
có đường kính >1mm sẽ giúp các nhà lâm sàng
tránh được nguy cơ chảy máu và tổn thương
thần kinh do can thiệp trong xương ở vùng này.

59


Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

10.

11.

12.

13.

14.


60

Babiuc I., et al. (2011). "Cone beam computed tomography
observations of the lingual foramina and their bony canals in
the median region of the mandible." Romanian Journal of
Morphology and Embryology 52(3): pp827-829;
Bavitz J. B., et al. (1994). "Arterial supply to the floor of the
mouth and lingual gingiva." Oral surgery, oral medicine, oral
pathology 77(3): pp232-235;
Gahleitner A., et al. (2001). "Lingual Vascular Canals of the
Mandible: Evaluation with Dental CT 1." Radiology 220(1):
pp186-189;
Kalpidis, Christos D. R. and Reza M. Setayesh (2004).
"Hemorrhaging associated with endosseous implant
placement in the anterior mandible: a review of the literature."
Journal of periodontology 75(5): pp631-645;
Katakami K., et al. (2009). "Anatomical characteristics of the
mandibular lingual foramina observed on limited cone-beam
CT images." Clinical oral implants research 20(4): pp386-390;
Kawai, Taisuke, et al. (2006). "Anastomosis between the
inferior alveolar artery branches and submental artery in
human mandible." Surgical and Radiologic Anatomy 28(3):
pp308-310;
Kawai T., et al. (2007). "Classification of the lingual foramina
and their bony canals in the median region of the mandible:
cone beam computed tomography observations of dry
Japanese mandibles." Oral Radiology 23(2): pp42-48;
Kilic E., et al. (2014). "Determination of lingual vascular canals
in the interforaminal region before implant surgery to prevent

life threatening bleeding complications." Clinical oral implants
research 25(2): pp90-93;
Liang X., et al. (2007). "Lingual foramina on the mandibular
midline revisited: a macroanatomical study." Clinical Anatomy
20(3): pp246-251;
Liang X., et al. (2009). "Chronologic and geographic variability
of neurovascular structures in the human mandible." Forensic
Science International 190(1): pp24-32;
Lustig J. P., et al. (2003). "Ultrasound identification and
quantitative measurement of blood supply to the anterior part
of the mandible." Oral Surgery, Oral Medicine, Oral Pathology,
Oral Radiology and Endodontics 96(5): pp625-629;
Makris N., et al. (2010). "Evaluation of the visibility and the
course of the mandibular incisive canal and the lingual
foramen using cone beam computed tomography." Clinical
Oral Implants Research 21(7): pp766-771;
Nagar M., et al. (2001). "Accessory lingual foramen in adult
Indian mandibles." Journal of the Anatomical Society of India
50(1): pp13-14
Natekar P. E., et al. (2011). "Variations in position of lingual
foramen of the mandible in reconstructive surgery." Indian
Journal of Otology 17(1): pp12;

15.

16.

17.

18.


19.

20.

21.
22.

23.

24.

25.

Patil S., et al. (2013). "Accessory mandibular foramina: a CT
study of 300 cases." Surgical and Radiologic Anatomy 35(4):
pp323-330;
Parnia F., et al. (2013). "Characteristics of anatomical
landmarks in the mandibular interforaminal region: a conebeam computed tomography study." Medicina Oral Patologia
Oral y Cirugia Bucal 17(3): pp420;
Romanos G. E., et al. (2011). "Distribution of endosseous bony
canals in the mandibular symphysis as detected with cone
beam computed tomography." The International Journal of Oral
& Maxillofacial Implants 27(2): pp273-277;
Sahman H., et al. (2013). "Lateral lingual vascular canals of the
mandible: a CBCT study of 500 cases." Surgical and Radiologic
Anatomy: pp1-6;
Sekerci A., et al. (2014). "Evaluation of location and
dimensions of mandibular lingual foramina using cone-beam
computed tomography." Surgical and Radiologic Anatomy: pp18;

Sheikhi M., et al. (2012). "Assessing the anatomical variations
of lingual foramen and its bony canals with CBCT taken from
102 patients in Isfahan." Dental research journal 9(Suppl 1):
pp45;
Schiller W. R. and Wiswell O. B. (1954). "Lingual foramina of
the mandible." The Anatomical Record 119(3): pp387-390;
Tagaya A., et al. (2009). "Assessment of the blood supply to the
lingual surface of the mandible for reduction of bleeding
during implant surgery." Clinical oral implants research 20(4):
pp351-355;
Tepper G., et al. (2000). "Computed tomographic diagnosis
and localization of bone canals in the mandibular
interforaminal region for prevention of bleeding complications
during implant surgery." 16(1): pp68-72;
Trikeriotis D., et al. (2008). "Anterior mandible canal
communications: a potential portal of entry for tumour
spread." Dento-Maxillo-Facial Radiology 37: pp125-129;
von Arx T., et al. (2011). "Evaluation of location and
dimensions of lingual foramina using limited cone-beam
computed tomography." Journal of Oral and Maxillofacial
Surgery 69(11): pp2777-2785.

Ngày nhận bài báo:

26/01/2016

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

20/02/2016


Ngày bài báo được đăng:

25/03/2016

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt



×