Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Khảo sát các yếu tố nguy cơ nhiễm trùng chân mức độ nặng ở bệnh nhân đái tháo đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.84 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

KHẢO SÁT CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ NHIỄM TRÙNG CHÂN
MỨC ĐỘ NẶNG Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG.
Phạm Như Hảo*, Lại Thị Phương Quỳnh*, Huỳnh Tấn Đạt*

TÓM TẮT
Mở đầu: Nhiễm trùng chân là một trong những biến chứng thường gặp của đái tháo đường (ĐTĐ). Ở Việt
Nam, gần như tất cả các vết loét chân nhập viện đều bị nhiễm trùng từ mức độ nhẹ đến nặng, trong đó nhiễm
trùng mức độ nặng có tiên lượng xấu hơn, thời gian nằm điều trị lâu, chi phí điều trị tăng cao, nguy cơ đoạn chi
cao hơn.
Mục tiêu: Khảo sát các yếu tố nguy cơ nhiễm trùng chân mức độ nặng.
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 50 bệnh nhân ĐTĐ nhập viện vì
nhiễm trùng chân có đủ tiêu chuẩn mức độ nhiễm trùng nặng theo Đồng thuận giữa Nhóm làm việc quốc tế về
bàn chân ĐTĐ và Hiệp hội nhiễm trùng Hoa Kỳ năm 2012.
Kết quả: Nghiên cứu của chúng tôi có 23 bệnh nhân nam (46%) và 27 bệnh nhân nữ (54%), với tuổi trung
bình là 64,4 tuổi. Thời gian mắc bệnh ĐTĐ trung bình là 9,2 năm. HbA1c trung bình là 10,2 ± 2,3 %. Thời gian
từ lúc BN phát hiện loét chân đến khi nhập viện trung bình là 22,3 ngày, với 30% bệnh nhân có đi chân trần.
68% vết loét khởi đầu từ ngón chân, 14% ở lòng bàn chân, 12% ở gót chân và 10% ở mu chân. Dựa trên hình
ảnh X quang, chúng tôi nhận thấy có 38% hình ảnh giảm đậm độ xương, 22% có hình ảnh hủy xương và 28% có
hình ảnh tụ khí mô mềm. 82% BN của chúng tôi cấy có vi trùng trong vết thương, với 8% đa vi trùng gây bệnh.
Trong đó chiếm tỉ lệ cao nhất là Staphylococcus (26%), kế đến là E.Coli (16%) và Klebsiella (16%).
Kết luận: Nhiễm trùng chân mức độ nặng ở BN ĐTĐ thường xảy ra ở những BN có kiểm soát đường
huyết kém, hay đi chân trần, thường khởi đầu từ ngón chân và có thời gian nhập viện muộn. Tỉ lệ vi trùng gây
bệnh cao nhất là Staphylococcus.
Từ khóa: yếu tố nguy cơ, nhiễm trùng chân mức độ nặng, đái tháo đường.

ABSTRACT
RISK FACTORS OF SEVERE FOOT INFECTION IN DIABETIC PATIENTS


Pham Nhu Hao, Lai Thi Phuong Quynh, Huynh Tan Dat
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 2 - 2017: 24 - 29
Background: Foot infections are among the most frequent and serious consequences of diabetes mellitus.
Almost diabetic patients requiring hospitalization with foot ulcers in Vietnam have mild to severe foot infections.
Among them, severe infections have bad prognosis, long stay hospitalization, high cost of treatment and high risk
of lower extremity amputation.
Objectives: finding the risk factors of severe diabetic foot infection.
Method: Cross-sectional research on 50 diabetic patients hospitalized due to foot infection. Severe infection
was classified by the Infectious Diseases Society of America (IDSA) and the International Working Group on the
Diabetic Foot (IWGDF) in 2012.
Results: Our research had 23 male patients (46%) and 27 female patients (54%). Mean of age was 64.4
years old. Mean of HbA1c was 10.2 ± 2.3%. Duration of diabetes was 9.2 years. The period from detecting foot
* Bộ môn Nội tiết, khoa Y, Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Như Hảo
ĐT: 0908538285

24

Email:

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

ulcers to admission was 22.3 days. 30% of patients walked on bare foot. 68% of infections proceeded from digits,
14% from the palm, 12% from the heel and 10% from the dorsum. On plain radiography, we found out 38% of
patients having focal loss of trabecular pattern or marrow radiolucency, 22% of them having loss of cortex with

bony erosion and 28% of them having air in the soft tissues. 82% of wound cultures were positive with 8% of
them having multiple organisms. The highest prevalence of micro bacteria was Staphylococcus (26%). The next
one was E. coli (16%) and Klebsiella (16%).
Conclusion: Severe diabetic foot infections were common in patients with poor glycemic control, walking on
bare-foot and late hospitalization. They usually proceeded from the toes. The highest prevalence of casual pathogen
was Staphylococcus.
Keywords: risk factors, severe foot infection, diabetes

TỔNG QUAN
Nhiễm trùng chân là một trong những biến
chứng thường gặp của đái tháo đường (ĐTĐ).
Bệnh đòi hỏi thời gian nằm viện lâu dài, gây tàn
phế cho bệnh nhân và là gánh nặng cho nền y tế.
Ngoài ra, bệnh còn là nguyên nhân chính gây
đoạn chi. Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu
Eurodiale trên 1232 bệnh nhân ở 14 trung tâm tại
Châu Âu cho thấy 57,2% các vết loét có dấu hiệu
nhiễm trùng trên lâm sàng ở thời điểm nhập
viện(14). Ở Việt Nam, gần như tất cả các vết loét
chân nhập viện đều bị nhiễm trùng từ mức độ
nhẹ đến nặng, trong đó nhiễm trùng mức độ
nặng có tiên lượng xấu hơn, thời gian nằm điều
trị lâu, chi phí điều trị tăng cao, nguy cơ đoạn chi
cao hơn. Vì vậy, việc tìm ra các yếu tố nguy cơ
thúc đẩy nhiễm trùng chân nặng giúp cho công
tác dự phòng và điều trị bệnh nhân tốt hơn.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu cắt ngang
mô tả trên 50 bệnh nhân ĐTĐ nhập viện ở khoa

Nội tiết BV Trưng Vương và BV Nguyễn Tri
Phương vì nhiễm trùng chân có đủ tiêu chuẩn
mức độ nhiễm trùng nặng theo Đồng thuận giữa
Nhóm làm việc quốc tế về bàn chân ĐTĐ và
Hiệp hội nhiễm trùng Hoa Kỳ năm 2012(11).
Nhiễm trùng chân mức độ nặng được định
nghĩa là bất cứ nhiễm trùng chân nào có kèm
theo các dấu hiệu của hội chứng đáp ứng viêm
toàn thân, biểu hiện là có ít nhất 2 trong 4 tiêu
chuẩn sau: (1): Nhiệt độ > 38oC hay < 36oC, (2):
nhịp tim > 90 lần/phút, (3): nhịp thở > 20 lần/phút

Nội Tiết

hay PaCO2 < 32 mmHg, (4): bạch cầu >12.000 hay
< 4.000 hay có 10% bạch cầu chưa trưởng
thành(2). Chúng tôi loại trừ các trường hợp có tắc
hẹp mạch máu nặng qua các dấu hiệu lâm sàng
và siêu âm mạch máu chi dưới (hẹp > 70% lòng
mạch máu đánh giá qua siêu âm). Qua hỏi bệnh
sử, thăm khám lâm sàng và cận lâm sàng chúng
tôi tìm các yếu tố nguy cơ chính gây nhiễm
trùng chân nặng.

KẾT QUẢ
Trong 50 bệnh nhân của chúng tôi, có 23
bệnh nhân nam (46%) và 27 bệnh nhân nữ (54%),
với tuổi trung bình là 64,4 tuổi. Thời gian mắc
bệnh ĐTĐ trung bình là 9,2 năm. Đường huyết
lúc nhập viện trung bình là 278 mg/dl với HbA1c

là 10,2%. Chúng tôi ghi nhận có 68% BN có sốt
lúc nhập viện với nhiệt độ trung bình là 380C.
Protein C phản ứng (CRP) trung bình là 152,7
mg/dl và lượng bạch cầu trung bình là
19.300/mm3. Dựa theo Công cụ tầm soát bệnh
thần kinh ngoại biên của đại học Michigan
(Michigan neuropathy screening instrument
MNSI), tất cả bệnh nhân ĐTĐ đều có biến chứng
thần kinh ngoại biên(18).
Bảng 1: Đặc điểm dân số nghiên cứu
Đặc điểm
Nam
Giới (%)
Nữ
Tuổi (năm)
Thời gian ĐTĐ (năm)
Mạch (lần/phút)
o
Nhiệt độ ( C)
Đường huyết (mg/dl)
HbA1c (%)

Trung bình ± ĐLC
46
54
64,4 ± 13,5
9,2 ± 6,4
97,1 ± 9,5
38,0 ± 0,8
278 ± 140

10,2 ± 2,3

25


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Đặc điểm
Trung bình ± ĐLC
CRP (Protein C phản ứng) (mg/dl)
153 ± 90
Bạch cầu
19.300 ± 1.100
Hb (g/dl)
10,1 ± 1,8

Thời gian từ lúc BN phát hiện loét chân đến
khi nhập viện trung bình là 22,3 ngày, với 30%
bệnh nhân có đi chân trần. Diện tích vết loét
trung bình từ 29,3 cm2 lúc nhập viện giảm còn
11,7 cm2 lúc xuất viện. 68% vết loét khởi đầu từ
ngón chân, 14% ở lòng bàn chân, 12% ở gót chân
và 10% ở mu chân. Khi thăm khám trên lâm
sàng, có 64% vết loét bị chạm xương. Trong khi
đó, theo phân độ Wagner, có 58% vết loét phân
độ 3, 38% phân độ 4 và 4% phân độ 5. Dựa trên
hình ảnh X quang, chúng tôi nhận thấy có 38%
hình ảnh giảm đậm độ xương, 22% có hình ảnh

hủy xương và 28% có hình ảnh tụ khí mô mềm.
82% BN của chúng tôi cấy có vi trùng trong vết
thương, với 8% đa vi trùng gây bệnh. Trong đó
chiếm tỉ lệ cao nhất là Staphylococcus (26%), kế
đến là E.Coli (16%) và Klebsiella (16%).
Bảng 2: Các yếu tố nguy cơ nhiễm trùng chân mức
độ nặng
Yếu tố nguy cơ
Thời gian phát hiện vết loét đến lúc
nhập viện (ngày)
Đi chân trần
Đau khi loét chân
Ngón chân
Vị trí khởi
phát loét
Lòng bàn chân

Tỉ lệ (%)
22,3 ± 18,3
30
60
64
14

Yếu tố nguy cơ
Mu chân
Gót chân
Sinh hoạt bình thường
Mức độ
vận động

Giảm vận động
lúc bị loét
Không vận động
Tự chăm sóc
Chăm sóc Chăm sóc tại bệnh viện hay
vết loét
nhân viên y tế
Không chăm sóc
Sử dụng kháng sinh trước nhập viện
Xử lý vết loét trước nhập viện
2
Diện tích vết loét lúc nhập viện (cm )
Chạm xương
Độ 3
Phân độ
Độ 4
Wagner
Độ 5
Giảm đậm độ xương trên X quang
Hủy xương
Tụ khí mô mềm

Tỉ lệ (%)
10
12
64
34
2
66
20

14
50
10
29,3 ± 8,3
64
58
38
4
38
22
28

Chúng tôi ghi nhận có 16 BN (chiếm tỉ lệ
32%) đoạn chi, trong đó có 6 BN (12%) đoạn chi
cao và 10 BN (20%) đoạn chi thấp. Có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm có và
không có đoạn chi về thời gian phát hiện vết loét
đến lúc nhập viện (p = 0,003), diện tích của vết
loét khi nhập viện (p= 0,042) và tình trạng đi
chân trần (p = 0,018). Tỉ lệ bệnh nhân bị đoạn chi
cao hơn khi thăm khám có chạm xương (p =
0,001) và khi vết loét có phân độ Wagner càng
cao (p = 0,004).

Bảng 3: So sánh các đặc điểm giữa 2 nhóm có đoạn chi và không có đoạn chi
Đặc điểm
Thời gian phát hiện vết loét đến lúc nhập
viện (ngày)
2
Diện tích của vết loét khi nhập viện (cm )


Đi chân trần
Không

Chạm xương
Không
Độ 3
Phân độ Wagner
Độ 4
Độ 5

Nhóm có đoạn chi (n=16) Nhóm không đoạn chi (n=34)
28,3 ± 16,4

19,7 ± 18,7

0,003

30,1 ± 5,3
9
7
16
0
5
9
2

27,6 ± 5,4
6
28

16
18
24
10
0

0,042

BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu, chúng tôi loại trừ các ca
nhiễm trùng chân có dấu hiệu hẹp mạch nặng
hoặc tắc mạch chi dưới được chẩn đoán bằng các

26

Giá trị p

0,018
0,001

0,004

dấu hiệu lâm sàng và siêu âm mạch máu chi
dưới do những trường hợp này làm lu mờ các
dấu hiệu nhiễm trùng chân và làm tăng tỉ lệ cắt
cụt chi dưới có thể lên đến 90 lần(1,5).

Chuyên Đề Nội Khoa



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Kết quả cho thấy đa số bệnh nhân lớn tuổi,
ĐTĐ lâu năm (trung bình 9,2 năm), kiểm soát
đường huyết rất kém với đường huyết nhập
viện trung bình 278 mg/dl và HbA1c trung bình
10,2%. Kiểm soát ĐH kém làm tăng các biến
chứng mạn của ĐTĐ, trong đó nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy tất cả bệnh nhân đều có biến
chứng thần kinh ngoại biên. Kiểm soát ĐH kém
cũng là yếu tố nguy cơ cho nhiễm trùng, trong
đó có nhiễm trùng chân. Tăng ĐH kéo dài làm
giảm cơ chế đề kháng tế bào, có thể làm giảm
chức năng của bạch cầu đa nhân trung tính trong
hoá hướng động, kết dính, thực bào và diệt vi
trùng. Khả năng bắt giữ và tiêu diệt
Staphylococcus Aureus bởi bạch cầu đa nhân
trng tính giảm đáng kể ở bệnh nhân ĐTĐ kiểm
soát ĐH kém(16). Ngoài ra HbA1c > 9% cũng làm
tăng nguy cơ loét chân gấp 3 lần so với những
BN có HbA1c dưới ngưỡng này(7). Trong nghiên
cứu của Eneroth trên 233 bệnh nhân ĐTĐ bị
nhiễm trùng mô mềm sâu ở chân cũng có HbA1c
cao là 8,6%(5).
Thời gian từ lúc phát hiện vết loét cho đến
lúc nhập viện cũng là yếu tố tiên lượng cho vết
loét nhiễm trùng nặng. Trong nghiên cứu thời
gian này trung bình 22 ngày. Bệnh nhân giảm
cảm giác do biến chứng thần kinh ngoại biên
(100%) là yếu tố chính gây nên vết loét, là ngõ
vào của vi trùng, đồng thời làm chậm ghi nhận

vết loét, chăm sóc vết loét không đúng mức dẫn
đến nhiễm trùng chân nặng. Ngoài ra ghi nhận
một số bệnh nhân nhập viện ở tuyến dưới không
được điều trị đúng mức cũng là yếu tố gây
nhiễm trùng nặng. Nhiễm trùng chân không
được điều trị kịp thời sẽ có nguy cơ bị nhiễm
trùng nặng hơn, tổn thương mô nặng hơn, khả
năng đoạn chi cao và có nguy cơ bị nhiễm trùng
huyết và tử vong. Nghiên cứu của Lavery và
cộng sự(8) cho thấy các yếu tố nguy cơ nhiễm
trùng chân nhập viện trong mô hình đa biến là
vết thương sâu chạm xương (OR 6,7), thời gian
bị vết loét kéo dài trên 30 ngày (OR 4,7), vết loét
tái phát (OR 2,4), vết loét do nguyên nhân chấn
thương (OR 2,4). Trong nghiên cứu của chúng

Nội Tiết

Nghiên cứu Y học

tôi có hội tụ đủ các yếu tố nguy cơ nhiễm trùng
chân nặng cần nhập viện: vết thương sâu chạm
xương chiếm 64%, đi chân trần chiếm 30%, khi
có vết loét bệnh nhân không giảm vận động vẫn
sinh hoạt bình thường làm vết loét nặng hơn,
nhiễm trùng lan nhanh hơn (chiếm 64%) (bảng
2). Tuy thời gian trung bình bị vết loét trong
nghiên cứu chúng tôi chưa đến 30 ngày như
nghiên cứu trên nhưng với tình trạng chăm sóc
kém (66% tự chăm sóc), đi chân trần (30%), sử

dụng kháng sinh không hợp lí hoặc không dùng
kháng sinh (50%) làm vết loét bị nhiễm trùng
nặng, tổn thương mô lan rộng với kích thước vết
loét trung bình 29 cm2, tất cả đều có phân độ
Wagner 3 trở lên và tỉ lệ cắt cụt lên đến 32%.
Hơn nữa Lavery và cộng sự(9) nghiên cứu vết
loét chân do chấn thương bị nhiễm trùng cho
thấy người bị ĐTĐ nhận được sự chăm sóc của
nhân viên y tế chậm hơn một cách có ý nghĩa so
với người không bị ĐTĐ (trung bình 8,7 ngày so
với khoảng 5,3 ngày); sự chậm trễ này liên quan
chủ yếu đến giảm cảm giác do biến chứng thần
kinh ngoại biên (84,4% trong nhóm ĐTĐ so với
8,7% trong nhóm không bị ĐTĐ). Trong nghiên
cứu của chúng tôi, thời gian nhận được chăm sóc
đúng mức còn chậm trễ hơn (trung bình 22,3
ngày) liên quan đến biến chứng thần kinh ngoại
biên (100% bệnh nhân), một phần do ý thức của
bệnh nhân và thời gian điều trị kéo dài ở tuyến
dưới. Một trong những yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến tỉ lệ đoạn chi là yếu tố bệnh nhân:
thái độ, nhận thức, điều kiện tiếp cận y tế, sự
tuân thủ đối với chăm sóc và điều trị bàn chân(6).
Do đó cần nâng cao nhận thức, phát hiện sớm
loét chân và tuân thủ chăm sóc bàn chân đúng
mức để giảm tỉ lệ nhiễm trùng nặng và đoạn chi.
Vết loét đa số khởi đầu từ các ngón chân,
chiếm 64% trong nghiên cứu. Biến chứng thần
kinh ngoại biên và biến dạng bàn chân thường là
yếu tố nguy cơ cho loét ở những vị trí này. Hai

nghiên cứu lớn tiền cứu cho thấy vị trí loét
thường gặp nhất là ở các đầu ngón (mặt mu và
mặt lòng) chiếm 52%, đặc biệt ngón cái (28%), kế
đến là đầu các xương bàn lòng bàn chân và mu

27


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

chân(3,15). Tuy nhiên độ nặng của vết loét quan
trọng hơn vị trí loét trong kết cục điều trị và
đoạn chi. Nghiên cứu của Apelqvist(3) cho thấy
vết loét có abces và/ hoặc viêm xương tỉ lệ lành
sẹo 57%; hoại thư khu trú lành sẹo chỉ 5% và
hoại thư rộng không có ca nào lành sẹo, phải
đoạn chi. Trong nghiên cứu của chúng tôi tất cả
vết loét đều độ 3 Wagner trở lên và có hình ảnh
viêm xương (giảm đậm độ trên X quang) chiếm
38% nên tỉ lệ cắt cụt 32% là hợp lí. Tác giả Anaya
và cộng sự(2) nghiên cứu 166 bệnh nhân bị nhiễm
trùng mô mềm chi dưới cũng cho thấy tỉ lệ đoạn
chi là 26%, trong nghiên cứu của
Edelson(4) là 22%.
So sánh nhóm đoạn chi và không đọan chi
ghi nhận có sự khác biệt có ý nghĩa về thời gian
nhập viện và kích thước của vết loét. Vết loét có
thời gian nhập viện muộn hơn (28,3 so với 19,7

ngày) có tỉ lệ cắt cụt cao hơn. Vết loét bị nhiễm
trùng không điều trị thích hợp để lâu sẽ tổn
thương mô nhiều hơn, khả năng đoạn chi cao
hơn. Kích thước vết thương có ảnh hưởng đến
tiên lượng đoạn chi và thời gian lành sẹo. Vết
loét có kích thước > 3 cm2 có tỉ lệ đoạn chi cao
hơn và thời gian lành sẹo lâu hơn(13,17). Ngoài ra
kích thước vết loét > 2 cm2 có khả năng tiên đoán
viêm xương với LR dương là 7,2(12). Trong nghiên
cứu của chúng tôi, kích thước trung bình vết loét
lớn hơn rất nhiều 29,3 cm2 và nhóm đoạn chi có
kích thước lớn hơn 1 cách có ý nghĩa so với
nhóm không đoạn chi và tỉ lệ viêm xương (trên
hình ảnh X quang) cao lên đến 60%.
Ngoài ra độc lực vi trùng cũng góp phần làm
cho nhiễm trùng chân nặng hơn, tổn thương mô
nhiều hơn. Trong nghiên cứu chúng tôi, kết quả
cấy mủ cho thấy 74% đơn vi trùng, 8% đa vi
trùng và 18% không mọc. Bệnh nhân bị nhiễm
trùng chân nặng có tỉ lệ cấy âm tính như vậy có
thể liên quan đến bệnh nhân sử dụng kháng
sinh trước nhập viện (50%). Staphylococcus
aureus chiếm tỉ lệ cao nhất (26%) và đa số là
kháng với nhiều loại kháng sinh. Phù hợp với
ghi nhận y văn cho thấy tụ cầu là nguyên nhân
thường gặp nhất, có độ lực mạnh nhất trong

28

nhiễm trùng chân; đặc biệt những nhiễm trùng

chân nặng thường kết hợp vi trùng gram dương,
gram âm và kị khí(10,11). Trong mẫu cấy nghiên
cứu chúng tôi các vi trùng gram âm chiếm
khoảng 50%. Do đó việc điều trị kháng sinh
trong nhiễm trùng nặng cần phối hợp kháng
sinh điều trị tụ cầu, vi trùng gram âm và có thể
thêm vi trùng kị khí(11).

KẾT LUẬN
Nhiễm trùng chân mức độ nặng ở BN ĐTĐ
thường xảy ra ở những BN có kiểm soát đường
huyết kém, hay đi chân trần và không hạn chế
vận động, thường khởi đầu từ ngón chân và có
thời gian nhập viện muộn. Tỉ lệ vi trùng gây
bệnh cao nhất là Staphylococcus. Tỉ lệ bệnh nhân
đoạn chi càng cao khi thăm khám có chạm
xương, khi thời gian phát hiện vết loét đến lúc
nhập viện càng lâu, diện tích vết loét càng rộng
và phân độ Wagner càng cao. Từ kết quả nghiên
cứu chúng tôi thấy rằng để giảm tỉ lệ nhiễm
trùng chân mức độ nặng và giảm tỉ lệ đoạn chi ở
bệnh nhân ĐTĐ, điều quan trọng nhất là kiểm
soát đường huyết tốt, phát hiện sớm các vết loét,
đặc biệt là có biến chứng thần kính ngoại biên,
hạn chế vận động trên bàn chân bị loét và đến
khám và điều trị sớm từ lúc có vết loét chưa bị
nhiễm trùng hoặc chỉ bị nhiễm trùmg mức độ
nhẹ. Ngoài ra chọn lựa kháng sinh theo kinh
nghiệm và điều chỉnh kháng sinh phù hợp theo
vi trùng học cũng là yếu tố quan trọng giúp điều

trị nhiễm trùng chân đạt kết quả tốt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

Amstrong DG, Lavery LA, Harkless LB (1998). Validation of a
diabetic wound classification system. The contribution of
depth, infection and ischemia to risk of amputation. Diabetes
Care;21: 855-859.
Anaya DA, McMahon K, Nathens AB, Sullivan SR, Foy H,
Bulger E (2005). Predictors of mortality and limb loss in
necrotizing soft tissue infections. Arch Surg 2005;140:151-157.
Apelqvist J, Castenfors J, Larsson J (1989). Wound classification
is more important than site of ulceration in the outcome of
diabetic foot ulcers. Diabet Med;6:526–530.
Edelson GW, Armstrong DG, Lavery LA, Caicco G (1996). The
acutely infected diabetic foot is not adequately evaluated in an
inpatient setting. Arch Intern Med;156:2373-2378.

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
5.


6.

7.

8.

9.

10.

11.

12.

13.

Eneroth M, Apelqvist J, Stenstrom A (1997). Clinical
characteristics and outcome in 223 diabetic patients with deep
foot infections. Foot Ankle Int 18:716-722.
Jeffcoate WJ, Margolis DJ (2012). Incidence of major amputation
for diabetes in Scotland sets a target for us all. Diabetes Care;
35:2419–2420.
Lavery LA, Amstrong DG, Vela SA, Quebedeaux TL, Fleischli
JG (1998). Practical criteria for screening patients at high risk for
diabetic foot ulceration. Arch Intern Med; 158:157-162.
Lavery LA, Amstrong DG, Wunderlich RP, et al (2006). Risk
factors for foot infections in individuals with diabetes. Diabetes
care; 29:1288-1293.
Lavery LA, Walker SC, Harkless LB, Felder-Johnson K (1995).

Infected puncture wounds in diabetic and nondiabetic adults.
Diabetes care; 18:1588-1591.
Lipsky BA, Berendt AR, Deery HG, Embil JM, et al (2004).
Diagnosis and treatment of diabetic foot infections. Clinical
Infectious Disease; 39: 885-910.
Lipsky BA, Peters EJG, Senneville E, et al (2012). Expert opinion
on the management of infections in the diabetic foot. Diabetes
Metab Res Rev, 28(Suppl 1): 163–178.
Newman LG, Waller J, Palestro CJ, et al (1991). Unsuspected
osteomyelitis in diabetic foot ulcers. Diagnosis and monitoring
by leukocyte scanning with indium in 111 oxyquinoline.
JAMA, 266(9):1246–51.
Oyibo SO, Jude EB, Tarawneh I, Nguyen HC, Armstrong DG,
Harkless LB, Boulton AJM. (2001). The effects of ulcer size and

Nội Tiết

14.

15.
16.

17.

18.

Nghiên cứu Y học

site, patient's age, sex and type and duration of diabetes on the
outcome of diabetic foot ulcers. Diabet Med, 18:133-138.

Prompers L, Huijberts M, Apelqvist J, Jude E, et al (2007). High
prevalence of ischaemia, infection and serious comorbidity in
patients with diabetic foot disease in Europe. Baseline results
from the Eurodiale study. Diabetologia 50:18–25.
Reiber GE, Lipsky BA, Gibbons GW (1998). The burden of
diabetic foot ulcers. Am J Surg;176(2A):5S–10S.
Richard JL, Lavigne JP, Sotto A (2012). Diabetes and foot
infection: more than double trouble. Diabetes Metab Res Rev,
28(Suppl 1): 46–53.
Treece KA, Macfarlane RM, Pound N, Game FL, Jeffcoate WJ
(2004). Validation of a system of foot ulcer classification in
diabetes mellitus. Diabet Med, 21:987-991.
Validation of Michigan neuropathy screening instrument for
diabetic peripheral neuropathy. (2006) Clinical neurology and
neurosurgery, Volume 108, Issue 5, Pages 477–481

Ngày nhận bài báo:

18/11/2016

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

16/12/2016

Ngày bài báo được đăng:

01/03/2017

29




×