MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Các tộc người thiểu số cư trú ở Việt Nam dù cư trú hàng ngàn năm hay
mới vài ba trăm năm, dù đông hay ít người mỗi tộc người đều gắn bó số
phận mình với lịch sử dân tộc trong nước. Các tộc người đều cùng nhau
tham gia và bảo vệ Tổ quốc chung. Đặc biệt những thử cách sống còn của
giặt ngoại xâm, thiên tai khắc nghiệt liên tiếp xảy ra làm cho các tộc người
xích lại gần nhau hơn. Họ đã phải dựa vào nhau để chống chọi, để tồn tại
và phát triển. Trải qua quá trình đó, các tộc người đã chung đúc nên truyền
thống đoàn kết bền vững, hình thành nên một đại gia đình Việt Nam của
các tộc người anh em. Trong bức tranh đa dạng và phong phú ấy, văn hoá
các tộc người Việt Nam là những mảng màu đặc sắc và quý hiếm.
Góp phần vào kho tàng văn hoá phong phú và đa dạng của văn hoá Việt
Nam phải kể đến nhóm các tộc người thuộc Ngữ hệ Nam Á.
Ngữ hệ Nam Á ở Việt Nam gồm 32 tộc người và cũng là 32 ngôn ngữ
khác nhau. Chính vì như vậy nên về sinh hoạt kinh tế và văn hoá của các
tộc người cũng rất khác nhau và mang tính đa dạng phong phú.
Dải đất hình chữ S còn vô vàn những điều thú vị cần khám phá và tìm
hiểu. Các tộc người thiểu số phân bố từ Bắc chí Nam, mỗi tộc người có nét
sinh hoạt kinh tế cực kì khác biệt, họ sống bên cạnh hay xen kẽ với những
tộc người chủ thể; mặc dù vậy họ vẫn giữ được nét riêng của tộc người
họ.
Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về cách ăn, mặc, ở…hay nói tóm gọn
là là tất cả những gì thuộc về thường ngày của họ và văn hoá của họ, chắc
chắn sẽ có nhiều thứ mình chưa biết và rất thú vị.
CHƯƠNG 1
VĂN HÓA CÁC TỘC NGƯỜI THUỘC NHÓM NGÔN NGỮ
VIỆTMƯỜNG
NGƯỜI CHỨT
I. Nguồn gốc lịch sử và địa bàn cư trú
1. Nguồn gốc lịch sử
Quê hương xưa của người Chứt thuộc địa bàn cư trú của người Việt ở
hai huyện Bố Trạch và Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
2. Địa bàn cư trú
Quê hương của người Chứt vẫn ở Bố Trạch, Quảng Trạch. Sau này
họ di tán phần lớn lên vùng núi Minh Hóa, Bố Trạch.
II. Sinh hoạt kinh tế
Tộc người Chứt vốn là một cư dân nông nghiệp, nhưng do bị phân tán
thành những nhóm nhỏ, sống trong điều kiện địa lý gần như tách biệt nhau,
nên sinh hoạt kinh tế của các nhóm người Chứt có khác nhau.
1. Người Chứt ở các thung lũng
Nhóm người Chứt này chủ yếu làm ruộng nước, bên cạnh đó còn làm
ruộng vãi, rẫy, săn bắn, đánh cá, hái lượm, chăn nuôi.
Số người Chứt này sống ở các thung lũng tương đối bằng phẳng , nơi
có khả năng phát triển kinh tế ruộng nước, ruộng vãi, với những thửa ruộng
bậc thang nằm trong hệ thống đất dốc tụ, hoặc đất bãi bồi cổ. Vì thế, họ
có điều kiện phát triển một nền kinh tế đa dạng nhiều mặt. Đó là lý do căn
bản dẫn đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của nhóm người này tương
đối ổn định và theo chiều hướng phát triển.
4
2. Người Chứt ở các vùng cao
Bộ phận người Chứt ở Hóa Sơn, Thượng Hóa, Dân Hóa gần sát biên
giới ViệtLào làm rẫy, làm ruộng vãi , săn bắn, đánh cá, hái lượm, chăn
nuôi.
Người Chứt thường phát triển kinh tế nương rẫy, kết hợp với kinh tế
ruộng vãi, chăn nuôi, nên đời sống của họ tương đối ổn định. Những năm
khí hậu thuận hòa nguồn sản xuất lương thực lúa, ngô của họ đảm bảo 8
đến 9 tháng, những năm khí hậu khắc nghiệt, thì nguồn lương thực chỉ đủ
ăn 6 đến 9 tháng. Thời gian còn lại đồng bào thường ăn sắn, khoai và các
loại sản vật khác của kinh tế tước đoạt trong những khu rừng nhiệt đới.
Người Chứt ở vùng cao nhưng họ thường định cư ở nhưng nơi thung
lũng hẹp, đất tương đối bằng phẳng để làm ruộng khô, chăn nuôi và
nương rẫy còn nhóm Mày, Arem, Rục, Mã Liềng sống ở vùng cao, trên các
sườn dốc không có điều kiện làm ruộng khô, nên thường du canh, du cư với
nền kinh tế nương rẫy quá lạc hậu, chăn nuôi cũng không phát triển, và vì
thế đời sống của họ cho đến nay còn rất đói nghèo, lạc hậu.
Như vậy , cơ cấu kinh tế của các nhóm người Chứt bao gồm những
hình thái ruộng nước, nương rẫy, chăn nuôi và các nghề phụ gia đình, kinh
tế khai thác ( săn bắn, đánh cá, hái lượm).
III. Văn hóa vật chất
1. Trạng thái cư trú
Làng bản: sống du canh du cư trong rừng núi. Họ phải đương đầu với
mãnh thú để giành giật từng hang động rèm đá. Nhưng do đặc điểm kinh tế
du canh, du cư, hang động không đảm bảo cho sự di chuyển thường xuyên
của họ, nên những túp lều tạm bợ, lợp bằng lá cây rừng lại mọc lên phổ
biến. Về sau do sự phát triển của sức sản xuất, họ có thể định canh, định
5
cư trong một thời gian nhất định, nên mái nhà tương đối bền vững được
mọc bên những triền núi cao, đầu nguồn nước.
Còn bản người Chứt thường ở những vùng thung lũng thấp, tương đối
bằng phẳng, nơi có điều kiện phát triển ruộng nước, ruộng vãi và nương
rẫy.
Thường khi vùng đất xung quanh bản, nguồn lợi của tự nhiên cạn
kiệt, như cây nhúc, cây nghèn đã hết, thú vật, chim muông nghèo nàn, đất
đai khô cằn… hoặc trong bản có người chết bất đắc kỳ tử, có dịch bệnh
triền miên… là đồng bào lại dời bản đi nơi khác.
Nhà cửa: Nhà cửa của người Chứt mang dáng dấp của một tộc người
sinh sống trong hoàn cảnh địa lý quá khắc nghiệt. các bước tiến hành làm
nhà của họ rất đơn giản. Lúc đầu gia đình tự chuẩn bị và tập trung những
nguyên vật liệu như gỗ tre, nứa, tranh, mây, dây buộc… đem đến mảnh đất
đã chọn. Sau đó chủ nhà chọn ngày tốt để tiến hành làm nhà. Những ngày
tốt là những ngày chẵn trong tháng. Riêng tháng bảy là người Chứt không
làm nhà, vì cho tháng bảy là tháng xấu. Sau khi định ngày chủ nhà báo cho
dân bản biết để mọi người cùng tham gia.
Ở người Chứt có hai loại nhà: nhà sàn và nhà đất. Mỗi loại nhà gắn
liền với từng nhóm người nhất định:
2.
Y phục và trang sức
Trang phục của người Chứt còn rất thô sơ. Trước đây , trong hoàn
cảnh sống quá khắc nghiệt, đa số các nhóm người Chứt đều để tóc dài, búi
tóc sau gáy. Ở họ trang sức hầu như không có, còn trang phục hết sức
nghèo nàn, đơn giản. Đàn ông, đàn bà đều lấy vỏ cây làm áo khố. Cây
thường chọn để lấy vỏ làm áo, váy là những sui, rang, si, dò…
6
Trong thời gian gần đây, với sự vận động định canh định cư, người
Chứt chịu sự tác động mạnh mẽ về y phục của người Nguồn và y phục của
nhóm Khùa thuộc tộc người Vân Kiều.
Nhóm người Sách chịu ảnh hưởng y phục của người Việt. Phụ nữ
mang loại váy kín màu đen không có hoa văn, có dây rút ở đầu váy, giống
như váy của người Việt.
Về trang sức, ở nhóm người Sách người phụ nữ thường đeo loại hoa
tai bằng bạc hay đồng và chuỗi hạt cườm mua được ở người Việt hay
người Lào, ít thấy trường hợp phụ nữ đeo vòng.
Người đàn bà Rục, Arem, Mã Liềng trước đây thường đeo những vòng
vỏ ốc núi ở cổ như chuỗi hạt cườm của người Việt. Đồng bào quan niệm
người phụ nữ đeo vòng ốc vào sẽ gặp may mắn trong công việc hái lượm.
Và đàn ông thường đeo những vuốt hổ, răng nanh lợn rừng. Đồng bào quan
niệm những vật đó là “ bùa hộ mệnh”, giúp cho họ tránh được thú dữ, gặp
may mắn trong săn bắn.
3.
Các hình thức ăn, uống, hút
Người Chứt nấu cơm, ngô, sắn bằng phương pháp “ làm pồi”. Cho hạt
ngô vào nước ngâm 34 tiếng, sau đó vớt hạt ngô ra khỏi nước, để ráo cho
vào nồi giã thành bột. Sắn tươi gọt vỏ, rửa sạch, chặt thành nhiều miếng
nhỏ, cho vào cối giã nhỏ. Lúa cho vào cối giã nhỏ cả gạo và vỏ trấu bên
ngoài. Sau khi đã đâm nhỏ lúa, ngô, sắn, đồng bào bắt đầu nấu pồi.
Người Chứt thường uống nước chè xanh ( pha thêm ít muối ), nước lã,
hoặc nước lá ngái, lá cây rừng và uống rượu.
Người Chứt rất thích hút thuốc và nghiện thuốc. Người Chứt tự trồng
lấy cây thuốc ở trong các nương rẫy. Thuốc được quấn theo kiểu loa kèn,
7
một đầu to, một đầu nhỏ. Thường trẻ em từ 6 đến 7 tuổi đã bắt đầu hút và
hút hầu như liên tục cả ngày.
4.
Các công cụ sinh hoạt gia đình
Những công cụ dùng trong săn bắn và hái lượm như nỏ, giáo, gùi nhỏ,
giỏ…
Những công cụ liên quan đến kinh tế sản xuất:
Tiếp nhận các dụng cụ sản xuất do Nhà nước cung cấp và trao đổi
với người Nguồn. Đó là những chiếc rìu, rựa, liềm, cuốc, lưỡi cày… phục
vụ cho sản xuất nương rẫy và ruộng nước. Chỉ có chiếc gậy chọc lỗ là
dụng cụ duy nhất liên quan đến kinh tế sản xuất do đồng bào tự làm lấy.
Những dụng cụ sinh hoạt hằng ngày trong gia đình như cối, chày, ống
nấu pồi, thúng, mủng, mẹt.
Những giá trị văn hóa vật chất của người Chứt hết sức nghèo
nàn về chủng loại và ít ỏi về số lượng. Nó đang bị mai một dần cùng thời
gian. Điều đó phản ánh một đời sống vật chất hết sức thấp kém của tộc
người này.
IV. Văn hóa tinh thần
1.Tôn giáo tín ngưỡng
1.1 Cõi sống và cõi chết trong quan niệm cổ truyền của người
Chứt
Hầu như xung quanh họ, từ núi rừng,, sông suối, trời đất đến nhà
cửa… đâu đâu cũng có những lực lượng “cu muých” ( thần ma) trú ngụ: các
loại “ thần ma” cai quản núi rừng, ðất ðai mà con ngýời ðang ở. Những “
8
thần ma” thýờng “ ðòi ăn”, nên làm bất cứ việc gì, đồng bào cũng cúng bái,
dâng lễ vật.
Trong các loại ma, ma trời , ma nhà, ma rú, ma suối thì ma trời được
coi là quan trọng nhất, cai quản toàn bộ các loại ma khác. Nhưng thực tế ma
ảnh hưởng đến đồng bào nhất là ma nhà.
Chính những lực lượng siêu nhiên đó là nguyên nhân của mọi may
mắn, thành đạt trong lao động sản xuất, trong cuộc sống hằng ngày, và
cũng là nguyên nhân của mọi rủi ro, tai họa như mất mùa, đói kém, ốm đau,
…Muốn tăng thêm may mắn, hạn chế rủi ro, theo đồng bào không có cách
nào khác là phải cũng tế thường xuyên.
Như vậy, thế giới quan của người Chứt bắt nguồn từ quan ni ệm v ạn
vật hữu linh.
Theo đồng bào không gian vũ trụ chia làm ba phần.
+ Tầng trên “Plời” là thế giới cao xa của vũ trụ.
+ Tầng giữa là thế giới mặt đất, nơi con người và vạn vật sinh sống.
+ Tầng dưới là thế giới dành riêng cho những người xấu.
Cõi sống và cõi chết theo quan niệm cổ truyền của người Chứt
biểu hiện một sự nhận thức sai lệch thế giới tự nhiên và con người. Coi
mọi vật đều có linh hồn. Từ nhận thức sai lệch đó dẫn đến những hoạt
động tôn giáo tín ngưỡng như cũng tế, dâng lễ vật, ma thuật… rất phức
tạp. Điều đó, gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến công việc xây dựng xã hội
mới ở người Chứt.
1.2 Các nghi thức thờ cúng
9
Những hình thức thờ cúng có liên quan đến nghề săn bắn, đến chu kỳ
lao động nương rẫy và trồng lúa nước như sau:
+ Những hình thức thờ cúng liên quan đến nghề săn bắn
Hàng năm cứ đến tháng 9 Pự Cavel chọn ngày tốt rồi cử những người
tài giỏi đi săn thú rừng. Thú rừng săn được người ta vứt bỏ phần ruột, còn
để nguyên cả con quay chín trên bép lửa. Mọi thành viên trong cavel cùng
mang theo lễ vật như bột nhúng, củ mài, củ sắn, gạo nếp, rượu… đến một
địa điểm đã định sẵn, trên mỗi bãi đất bằng gần cavel. Lễ cúng thường tổ
chức vào buổi sáng khi Chôblú và Pự Cavel cúng xong, người ta cắt đầu, tai,
đuôi, bốn chân đưa vào rừng, chỗ những người đàn ông đã bắt được thú để
cúng thần săn, mong thần phù hộ cho công việc được may mắn.
+ Những nghi thức liên quan đến chu kỳ lao động nương rẫy.
Lễ Kloống: là lễ tìm đất để làm nương rẫy.
Lễ lấp lỗ: là lễ cúng được tiến hành sau công việc chọc lỗ tra hạt đã
hoàn tất.
Lễ cơm mới: là lễ cầu xin thần lúa và các vị thần linh khác cho phép
thu hoạch mùa màng.
1.3 Các nghi lễ, tín ngưỡng liên quan đến chu kỳ một đời người
Sinh đẻ: Người đàn bà sau khi sinh xong có thể tự mình chăm nom lấy
đứa trẻ và tự chuẩn bị những đồ ăn, thức uống. Người Chứt quan niệm
rằng, nếu người đàn bà sinh đẻ tại nhà hay làng bản , thì sẽ gây nhiều tai
họa cho những người thân và dân làng. Vì người đàn bà khi sinh mang nhiều
vía xấu, khi đứa trẻ mới ra đời, nó được tắm rửa sạch sẽ để làm sạch vía,
đuổi vía xấu ra khỏi thân thể của nó. Sau 30 ngày hai vợ chồng nấu nước lá
thơm đổ lên hòn đá xông rồi mới được về nhà. Khi về đến nhà người
10
chồng chuẩn bị những lễ vật như rượu, thịt, cơm để cúng báo cho ông bà,
tổ tiên, thần linh biết về đứa trẻ, một thành viên mới trong nhà của mình.
Cưới hỏi: Trai gái được tư do tìm hiểu yêu đương. Khi đôi trai gái đã
tìm hiểu nhau đến độ chín muồi thì báo với gia đình để chuẩn bị làm lễ
cưới. Công việc đầu tiên là chọn ngày tốt. Nhà trai mang sang nhà gái những
lễ vật như nồi, rìu, rựa, gạo và đặc biệt có một con lợn để cúng mời thần
linh về chứng kiến tình yêu của họ.
Làm nhà: Chủ nhà chọn ngày lành tháng tốt rồi tự mình dựng cột cái
lên trước, sau đó mới nhờ bà con giúp đỡ và chỉ có chủ nhà mới được phép
ngồi phía trên cột coloốc để lợp, khi nhà đã hoàn tất, chủ nhà tự tay nhen
lên một bếp lửa, bếp lửa đó phải được cháy liên tục ba ngày ba đêm. Sau đó
chủ nhà tự mình hoặc mời thầy rang, thầy xây ( thầy cúng ) tổ chức lễ cúng
để xin phép ông, bà thần linh phù hộ cho gia đình được may mắn trong cuộc
sống.
Tang ma: Ở đa số nhóm người Chứt, khi ba mẹ, ông bà chết, con cháu
báo cho bà con dân bản biết. Người chết được bó chiếu để dọc giữa nhà
trước cửa buồng chủ, đầu quay về hướng cuối nhà. Người chết được để ở
nhà ba ngày. Trong thời gian đó con cháu làm lợn, gà cúng mời người đã
chết và các thần linh, tổ tiên về dự lễ.
1.4 Các hình thức ma thuật
Ma thuật chữa bệnh: Khi đau ốm họ mời thầy cũng đến bói tìm
nguyên nhân gây bệnh và sau đó tiến hành lễ dắc si. Thầy cúng đầu đội
vòng hoa rừng, tay cầm hai ống nước kéo đi kéo lại và đọc rầm rầm lời
cúng gọi các ma về nhận lễ. lễ vật gồm 7 cái bánh, một con gà, một đĩa
trầu cau. Sau khi cúng xong thầy cúng buộc dây chỉ vào tay người ốm để
giữ vái lại. Đối với trẻ em, người ta vắt một nắm cơm nhỏ và buộc chỉ
11
( khi qua núi khe, mà sau đó bị đau, thì phải mang lễ vật đến nơi núi khe đó
để gọi vái về ).
Sau khi cúng gọi vái về, chủ nhà phải làm cơm, canh, rượu cúng nhờ
ma nhà phù hộ cho người đau. Việc cúng vái không quá cầu kỳ, nếu nhà
nghèo quá thì chỉ đốt trầm hương với nước suối là đủ. Ông thầy cúng cũng
không đòi hỏi lễ vật gì, chủ nhà có cái gì biếu cái đó.
Ma thuật làm hại: Từ chỗ sợ hãi ma thuật làm hại, người Chứt tin
rằng có ma người sống ( Cha nanh hay cha vạ). Đó là việc đồng bào gán cho
một số người hoặc một số gia đình nào đó có ma đáng sợ nói trên. Người bị
gán là “cha nanh”, “cha vạ” là người “xấu mồm, xấu miệng”, hay quở
mắng nói năng người khác, mà ngẫu nhiên sau đó người bị quở mắng đau
ốm, hoặc chiêm bao thấy một người nào đó đến làm hại mình. Đặc biệt
người Chứt có quan niệm kẻ lười nhác là “Cha nanh”. Đồng bào cho rằng,
người “ Cha nanh” có một thời kì đi học phù phép, phù chú và có thuốc độc.
Họ chính là kẻ gây tai họa cho dân làng là nguồn gốc đau ốm, bệnh tật, mất
mùa… nên bị mọi người căm ghét xa lánh. Đồng bào cho rằng “ cha nanh”
trông thấy người ốm sẽ làm cho người ốm nặng thêm, thấy quả đang chín
sẽ làm cho nó thối, thấy trẻ em sẽ làm cho nó đau…Bản thân những người
xấu số mang tiếng có ma đó rất khổ tâm. Họ bị coi là người rất nguy hiểm
“ không trong sạch” con cái của họ khó lấy vợ, lấy chồng ( vì con ma đó sẽ
theo sang gia đình khác ).
Lợi dụng lòng tin đó, một số kẻ xấu tự gán cho thành viên nào đó
trong làng ( thường là những ngừoi quá nghèo đói hoặc là người có biệt tài
nhất định ) là “cha nanh, cha vạ” chuyện có ma đi gây hại người khác. Đồng
bào quan niệm rằng, sỡ dĩ có ma người sống, là vì những gia đình có người
chết do không lo việc ma chay chu đáo nên hồn vía người chết không có nơi
12
ăn , chốn ở, sống bơ vơ trên trần gian, lâu ngày thành “cha nanh, cha vạ”
nhập vào con cháu.
* Văn nghệ dân gian
Truyện cổ là một lọai hình chiếm ưu thế trong kho tàng văn học dân
gian của người Chứt . Nó thể hiện quan niệm con người về vũ trụ. Về
cuộc đấu tranh chống chọi với thiên nhiên, về khát vọng của con người
vươn đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Trong kho tàng văn hóa dân gian của người Chứt, những làn điệu dân
ca nổi lên như một loại hình đặc sắc đượm tính chất trữ tình. Với nội dung
phong phú dân ca được sử dụng trong nhiều khung cảnh. Bằng lời ca dịu
ngọt, mang giai điệu trầm lắng, đi vào tâm thức của con người, phản ánh
tình yêu lao động, yêu tự do và tình yêu lứa đôi, tha thiết. Dân ca người
Chứt gắn bó một cách tự nhiên với sinh hoạt hàng ngày của đồng bào.
Nhạc cụ dân gian: Nhạc cụ có trong sinh hoạt tinh thần của người
Chứt cũng khá phong phú. Tuy nhiên hiện nay, những loại hình nhạc cụ ở
đồng bào bị mai một, rơi rụng dần, chúng ta chỉ còn thấy được bóng dáng
một nhạc cụ như: đàn ống, sáo, tù, chiêng,…
13
CHƯƠNG 2
VĂN HÓA CÁC TỘC NGƯỜI THUỘC NHÓM NGÔN NGỮ
MÔNKHMER
Người Khmer phần lớn sống tập trung ở Campuchia. Còn ở Việt Nam
thì người Khmer sống chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam
thuộc các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, An
Giang, Hậu Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang,
Bến Tre và được gọi là Khmer Crộm (theo phiên âm tiếng Việt của tiếng
Khmer có nghĩa là dưới).
1. Sinh hoạt kinh tế
Người Khmer đã biết thâm canh lúa nước từ lâu đời. Đồng bào biết
chọn giống lúa, biết làm thủy lợi và lợi dụng thủy triều để thau chua, xổ
phèn cải tạo đất, có địa phương trồng nhiều dưa hấu. Đồng bào cũng phát
triển kinh tế toàn diện như chăn nuôi trâu bò để cày kéo, nuôi lợn, gà, vịt
đàn, thả cá và phát triển các nghề thủ công như dệt, gốm, làm đường từ cây
thốt nốt.
Đặc điểm kinh tế: Nông nghiệp dùng cày và thâm canh lúa nước Bộ
nông cụ khá hoàn thiện và hiệu quả, thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái
Nam bộ, đặc biệt nhất là việc cày bằng hai trâu. Đồng bào thành thạo nghề
đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Chăn
nuôi nuôi trâu bò, lợn, gà, vịt khá phổ biến.
14
2. Sinh hoạt văn hoá
2.1. Trang phục truyền thống
Trang phục cổ truyền của tộc người Khmer khá đặc sắc, có cá tính ở
lối mặc váy và phong cách trang phục gắn với tín giáo đạo Phật. Điều đó
được thể hiện ở những đặc điểm sau:
Trang phục nam:
Bình thường nam giới trung niên và người già thường mặc bộ bà ba
đen, quấn khăn rằn trên đầu. Trong dịp lễ, tết họ mặc áo bà ba trắng, quần
đen hoặc áo đen, quàng khăn quàng trắng chéo ngang hông vắt lên vai trái.
Trong đám cưới thì chú rể thường mặt bộ xà rông và áo ngắn bỏ ngoài màu
đỏ, đây là loại áo xẻ ngực, cổ đứng cài cúc, quàng khăn trắng vắt qua vai
trái và đeo thêm con dao cưới với ý nghĩa nhằm bảo vệ cô dâu.
Trang phục nữ:
Cách đây ba, bốn mươi năm phụ nữ Khmer Nam Bộ thường mặc váy
(xăm pốt) là một loại váy bằng tơ tằm, hình ống và thường kín. Chiếc váy
điển hình là loại xăm pốt chân khen, một loại váy hở, quấn quanh thân
nhưng khác nhiều tộc người khác cũng có loại váy này với cách mang váy
vào thân. Người phụ nữ Khmer mang luồn giữa hai chân từ sau ra trước, rồi
kéo lên dắt cạnh hông tạo thành như chiếc quần ngắn và rộng. Ngày
thường người phụ nữ Khmer thường mặc trang phục bằng tơ lụa, màu sắc
khá rực rỡ, bao gồm mặc váy, áo dệt bằng tơ tằm, hay chỉ kim tuyến thêu
hoa văn khác nhau. Trong đó áo tầm vông (còn gọi là áo cổ vòng) thường
được dệt bằng tơ tằm hay chỉ kim tuyến với nhiều họa tiết hoa văn khác
nhau sẽ được kết hợp hài hòa với xà rông là một mảnh thổ cẩm rộng
khoảng 1m, dài 3,5m khi mặc thì cuốn lại che nửa người phía dưới và để
tôn thêm nét dịu dàng uyển chuyển đầy nữ tính, đặc biệt dù mặc trang phục
nào đi nữa thì cũng không thể thiếu “Sbay” là một loại khăn lụa mềm mại
15
được cuốn chéo từ vai trái xuống bên sườn phải. Bên cạnh đó, trên các loại
trang phục người phụ nữ Khmer còn đính thêm hạt cườm, kim sa và các
loại hoa văn khác để cho màu sắc thêm rực rỡ. Trong lễ cưới, cô dâu mặc
áo dài màu vàng thêu kim tuyến và đính hạt cườm ở phía trước với các đồ
trang sức chủ yếu làm bằng hạt cườm, đồng và thêm vào một số trang sức
quí hiếm khác như hoa tai làm bằng đồng, vàng, bạc và các loại hoa tươi để
tôn vinh vẻ đẹp trong ngày vui nhất đời của người phụ nữ Khmer. Vậy nên
khi mặc bộ trang phục truyền thống Khmer, ng ười phụ n ữ sẽ c ảm th ấy
thân hình trở nên dịu dàng, uyển chuyển, thùy mị hơn.
2.2 Tập tục
2.2.1. Tập tục đi tu để thành người
Người Khmer mang tín ngưỡng Phật giáo nên có nhiều lễ hội và
đời sống sinh hoạt cộng đồng gắn với tôn giáo này, theo đó ngôi chùa của
người Khmer là một giá trị văn hóa vật thể đặc biệt. Đó là nơi tập hợp cư
dân trong vùng, là nơi diển ra hầu hết các lễ hội cộng đồng. Các lễ hội tôn
giáo này vẩn còn được đồng bào Khmer gìn giữ và thực hành như lễ ban
hành giáo lý, lễ Phật đản, lễ dân áo cà sa, lễ an vị tượng Phật, lễ kết giới,
… Tất cả những lễ hội đó tuy rằng chỉ là lễ hội của tôn giáo nhưng vào
những ngày này hầu hết những bà con người Khmer điều tham gia như thực
hiện trách nhiệm của mình với cộng đồng.
Giá trị văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng của dân tộc Khmer còn biểu
hiện rõ ở vị trí nhà Sư. Đối với người Khmer, Sư cả của một ngôi chùa là
trung tâm đoàn kết của cả phum, sóc. Trước kia, khi hệ thống pháp luật vẫn
còn hạn chế thì Sư cả có vị trí như một “quan tòa” nên ngôi chùa và nhà Sư
của người Khmer chính là người nắm giữ và lưu giữ hầu hết những giá trị
văn hóa. Ngoài ra những lễ hội lớn của cộng đồng người Khmer tuy rằng
sẽ không phải là các lễ hội tôn giáo nhưng nhà Sư vẫn có một vị trí nhất
định bởi trong một cuộc lễ hội nào đó như lễ hội đua ghe ngo thì nhà Sư là
16
người quyết định mọi việc, từ việc tuyển chọn, phân công người tham gia
lễ hội, đến việc hạ thủy ghe ngo, ngày giờ tập luyện…
Vị trí của nhà Sư luôn ở vị trí trang trọng nhất trong các lễ hội nên
con trai trong các gia đình Khmer đến 12 tuổi thường được đưa vào chùa đi
tu. Nhưng việc đi tu ở đây không phải là nhu cầu, mục đích cá nhân mà là
một tập tục, một sắc thái của người dân Khmer. Việc đi tu này là hoàn toàn
tự nguyện, có người tu 3 ngày, có người tu 3 năm hay lâu hơn, người Khmer
coi việc đi tu là để thành người, là để được xã hội nhìn nhận như một
người có đầy đủ tư cách về đạo đức và văn hóa như việc trả ơn cha mẹ,
học tập văn chương, ngôn ngữ, phong tục,… Ngày xưa, trong quan niệm
của người Khmer nếu người con trai nào không qua giai đoạn tu trong chùa
thì bị xã hội và gia đình cho là bất hiếu và lớn lên rất khó lấy vợ, bởi vì
người con gái Khmer đến tuổi lấy chồng, họ thường chọn những chàng trai
đã qua tu luyện trong chùa, đã hoàn tục. Theo họ, đó là người đã hoàn thành
nghĩa vụ và học được cách làm người, nhất là biết chữ nghĩa, được mọi
người trọng vọng.
Lễ đi tu của người Khmer thường được tổ chức vào ngày đầu Lễ
Chôl Chnam Thmây. Vào ngày này, gia đình nào muốn đưa con vào chùa tu,
bắt buộc vài tháng trước đó, người con trai này phải vào chùa học thuộc vài
bài kinh cơ bản, họ sẽ tổ chức một lễ gọi là BankBomBuôn để người đi
tu từ giã họ hàng, bạn bè và được mọi người cầu chúc sức khoẻ. Trước khi
vào lễ, anh ta cạo đầu, thay quần bằng chiếc xà rông, thay áo bằng một
khăn vải trắng đắp lên vai từ trái sang phải để chứng tỏ rằng anh ta đã từ
bỏ thế tục. Lúc đó người ta gọi anh là Nec (rồng). Để vào lễ, buổi tối họ
mời sư sãi đến tụng kinh, cúng Tam bảo và thọ giới theo Phật. Vào sáng
hôm sau, khi cơm nước xong xuôi, họ đưa con trai lên chùa, có bạn bè thân
quyến mang lễ vật cùng đi theo. Đến chùa, họ đi vòng quanh chánh điện ba
17
vòng rồi mới vào trong làm lễ. Ở đây có một nhà sư ngồi gọi là Uppachhe
giảng dạy, hỏi và đọc các điều của luật tu hành cho các nec nghe để sau đó
nec mới cầm áo cà sa đi vào hàng giữa sư sãi và đọc lời xin tu. Khi vị
thượng toạ chấp thuận thì nec mới đi thay xà rông và khăn trắng bằng áo cà
sa, tiếp theo là lễ thọ giới 10 điều của Phật giáo gồm không sát sinh, không
trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, không ăn ngoài
bữa, không xem múa hát, không dùng đồ trang sức, không chiếm ghế cao và
giường êm, không đụng đến vàng bạc. Cuối cùng, các nhà sư cùng Phật tử
tụng kinh cầu phước cho người mới tu hành và chúng sinh để chấm dứt
buổi lễ.
2.2.3. Tập tục cưới hỏi
Trong phong tục hôn nhân, mùa cưới của người Khmer Nam bộ bắt
đầu từ tháng 1 đến tháng 3 âm lịch, vào khoảng thời gian thời tiết khô ráo
và mùa màng đã thu hoạch xong. Với đồng bào Khmer Nam Bộ, nam nữ đến
tuổi trưởng thành thì được tự do tìm hiểu nhau để tiến đến hôn nhân. Nhìn
chung, phong tục hôn nhân cổ truyền được chia thành 4 giai đoạn: giai đoạn
trước lễ nói, lễ nói, lễ hỏi và lễ cưới. Trong đó, lễ cưới là quan trọng nhất.
Giai đoạn trước lễ nói: Hai họ xem ngày tháng năm sinh của
chú rể và cô dâu có hợp tuổi hay không, nếu hợp thì lúc bấy giờ sẽ tiến
hành các bước tiếp theo. Như vậy, trên thực tế việc cưới hỏi bắt đầu từ
đám nói đến hỏi và cưới.
Giai đoạn lễ nói: Bao giờ nhà trai cũng mời người mai mối đại
diện thưa chuyện với nhà gái. Trước nay người làm mối đại diện phía nhà
trai là một người phụ nữ đã có gia đình, đức hạnh, có cuộc sống hạnh phúc.
Giai đoạn lễ hỏi: diễn ra sau khi nhà trai đã chọn được ngày
lành tháng tốt dự định cho hôn lễ.
18
Giai đoạn lễ cưới: Gia đình và bà con thường tổ chức ba ngày
bên nhà gái.
Theo đó, ngày đầu tiên gọi là ngày nhập gia, bên nhà trai làm lễ đưa
chú rể sang nhà gái, đoàn đi mang theo lễ vật gồm trầu cau, rượu, thịt, và
một mâm buồng bông cau. Nhiều đám cưới còn mời thêm dàn nhạc cổ
truyền dân tộc đi kèm. Ngày thứ hai cử hành lễ cưới phải chọn giờ tốt,
trước tiên việc quan trọng là cúng ông bà, tổ tiên và ăn trầu đính ước, buổi
chiều sẽ làm lễ cắt tóc cho cô dâu, chú rể rồi đưa họ đến miếu để cúng, xin
thần công nhận cho họ là thành viên mới của phum, sóc. Đến buổi tối gia
đình mời sư sãi, dâng cơm cho sư cúng, tụng kinh chúc phúc, dâng bánh trái
cho cha mẹ cô dâu để nhớ công ơn dưỡng dục vợ và mở tiệc đãi khách hai
họ. Ngày thứ ba, thực hiện phong tục lạy ông bà, họ hàng. Đến giờ tốt cô
dâu và chú rể thắp đèn làm lễ. Lúc này thầy cúng và ông mai làm lễ cắt hoa
cau lên đôi trẻ tức là gia đình hai bên dẫn dắt cô dâu và chú rể ngồi làm lễ
sánh duyên cho đôi vợ chồng mới cưới, dưới sự chủ trì của ông Maha.
Trước khi cắt buồng hoa cau non đang ốp bẹ, ông Maha múa điệu “Rom
bơkbaisrây” có ý nghĩa là họ hàng đôi bên đã chính thức cho phép hai
người kết duyên thành vợ thành chồng. Ông Maha cắt lấy hoa cau trắng rắc
lên tân lang, tân nương và rắc từ chỗ ngồi cho đến đường đi vào buồng tân
hôn để chúc phúc đôi uyên ương. Sau đó là múa mở nắp mâm trầu và làm lễ
buộc chỉ cổ tay cho cô dâu, chú rể có kèm theo tặng phẩm tiền hoặc vàng
cùng lời chúc mừng lứa đôi hạnh phúc. Ở lễ buộc chỉ cổ tay, họ hàng hai
bên chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ sống trăm năm bằng cách lấy sợi chỉ
hồng cột tay chú rể trước rồi đến cô dâu. Họ đàng trai cột tay phải cô dâu
và chú rể, họ đàng gái cột tay trái chú rể và cô dâu, dưới sự chủ trì của ông
Maha. Cuối cùng khi làm lễ xong đôi vợ chồng dắt nhau vào buồng tân hôn,
người chồng nắm vạt áo “Sbai” của người vợ theo sau.
19
Vào đám cưới, người Khmer Nam Bộ có một nghi thức rất đặc biệt là
việc “cắt bông cau”. Tức cha mẹ chú rể nhờ hai người thanh niên chưa vợ
đi cắt bông cau (theo quan niệm của bà con là bông vàng, bông bạc) mang
về để ở một nơi cùng chiếc đèn dầu nhỏ thắp nhang khẩn cầu cho đôi vợ
chồng trăm năm được hạnh phúc. Bông cau ở đây gồm 3 bó: bó thứ nhất là
để tạ ơn cha (21 sợi cau được buộc bằng chỉ trắng với 21 miếng cau và
trầu), bó thứ hai là để tạ ơn mẹ (12 sợi cau được buộc bằng chỉ trắng với
12 miếng cau và trầu), bó thứ ba là để tạ ơn anh chị (6 sợi cau được buộc
bằng chỉ trắng với 6 miếng cau và trầu). Ngoài ra còn một đặc sắc nữa của
hôn lễ đồng bào Khmer Nam Bộ là tục “quét chiếu”. Cụ thể là khi cô dâu và
chú rể vào phòng thì sẽ có một người cao tuổi theo sau, đó là người khỏe
mạnh, đông con, nhiều cháu. Người này đem chiếc chiếu ra và hỏi: “Có ai
chuộc chiếu không?”, lúc đó chú rể bước ra nhận chiếu trải ra và mời cô
dâu cùng vị chủ lễ ngồi, rồi để lên chiếu một vật có giá trị để tặng những
người đã giúp đỡ trong việc tổ chức hôn nhân.
2.2.4. Tín ngưỡng
Bên cạnh tín ngưỡng Phật giáo sinh ra nhiều lễ hội mang nét đặc
trưng và gắn với tôn giáo này. Đạo Phật Tiểu thừa là tôn giáo chính của
người Khơme Nam Bộ đã thâm nhập khá lâu vào trong sinh hoạt đời sống
của quần chúng nên những lễ hội của họ dù bắt nguồn từ đâu vẫn mang
màu sắc tôn giáo và không thoát khỏi cổng chùa. Trong quá trình phát triển
lịch sử, các lễ hội còn chịu sự pha tạp của những yếu tố tôn giáo khác như
đạo Bà La môn, song ở đây cũng tồn tại khá rõ nguồn gốc lễ nghi nông
nghiệp của cư dân trồng lúa nước. Điều đó cũng dễ nhận biết qua các lễ
hội tiêu biểu như lễ Đônta (lễ cúng ông bà tổ tiên), hay lễ Ok Om Bok (lễ
cúng trăng) lại diễn ra vào thời điểm giữa mùa mưa và mùa nắng, lễ Chôl
Chnam Thmây (tết năm mới) có ý nghĩa đón mừng năm mới đồng thời còn
20
có ý nghĩa chấm dứt thời kỳ nắng hạn, bước sáng thời kỳ có nước trời dồi
dào để chuẩn bị cho vụ làm mùa mới.
Người Khmer Nam bộ có tín ngưỡng tô tem có khắc rõ hình tượng,
hoàn cảnh sống của một tộc người trên vùng đồng bằng trũng nước. Do đó
không phải ngẫu nhiên hình tượng con rắn Naga được người Khmer chọn
làm hình tượng chạm trổ trên các xà nhà, đầu cột, trên các vật dụng thờ
cúng, trang trí trong nhà. Đặc biệt rắn thần Naga còn được xem là tổ tiên
của dân tộc Khmer qua truyền thuyết về sự phối ngẫu giữa Preak Thôn là
con trai thần mặt trời và nàng Neak là con gái vua rắn Naga. Nhận thức
được giá trị văn hóa của tín ngưỡng này nên hầu hết người dân Khmer
không di cư, di canh mà luôn cố bám trụ với vùng sông nước Nam bộ, nơi
đã sinh ra tổ tiên của mình. Với ý nghĩa dùng sức dẻo dai của loài rắn nước
Naga mà sinh sống và phát triển trên vùng nê địa đầm lầy Nam bộ, cũng từ
đó sản sinh ra nhiều lễ hội mang màu sắc của nền văn minh lúa nước như
cúng trăng (Ok Om Bok), đua ghe ngo, đua bò,… Dù mang đặc trưng Phật
giáo hay tín ngưỡng tô tem thì với người Khmer từ khi được sinh ra đời đến
khi trở lại với tổ tiên, cũng như các tộc người khác luôn có nhiều lễ hội ghi
dấu sự có mặt của mình trên thế gian này và sự hàm ơn đối với các thế lực
siêu nhiên. Những lễ hội đó phần nào phản ánh được sắc màu văn hóa mang
dấu ấn dân tộc tính của họ.
2.2.5. Lễ hội
Lễ Chol Chnam Thmây (Tết năm mới).
Lễ Chol Chnam Thmay của đồng bào dân tộc Khmer không có thời
gian nhất định, mỗi năm mỗi ngày giờ khác nhau nhưng thường rơi vào giữa
tháng 4 dương lịch.
Theo lệ thường hằng năm, hễ gần đến lễ Chôl Chnam Thmây, bà
con Khơme lo chuẩn bị rất chu đáo, mà trước hết tập trung ở việc ăn, mặc,
21
ở. Để chuẩn bị cho việc ăn uống, đãi khách, dâng cho nhà chùa, gia đình nào
cũng lo chà gạo để sẵn, làm bánh, chuẩn bị thịt heo, gà, vịt... Nước sinh
hoạt cũng được gánh đổ đầy ghè, đầy chum, mọi người sửa sang bàn thờ
Phật, trang hoàng nhà cửa, quét dọn sân nhà, kết cổng chào... Trong đêm
giao thừa, trên bàn thờ có bày sẵn 5 nhánh hoa, 5 đèn cầy, 5 cây nhang, 5 hạt
cốm và nhiều loại trái cây. Cha mẹ, ông bà tập hợp con cháu lại, ngồi xếp
chân về một phía trước bàn thờ tổ tiên, đốt nhang đèn, vái ba cái để tiễn
đưa Têvêđa cũ và rước Têvêđa mới, mong được ban phúc lành. Họ tin rằng
Têvêđa là ông tiên được trời sai xuống chăm sóc dân chúng trong thời gian
một năm, hết nhiệm kỳ sẽ có vị khác xuống thay thế.
Trong ba ngày hội Chôl Chnam Thmây, bà con Khơme còn đi thăm
hỏi, mừng tuổi năm mới cho nhau, chúc nhau sức khỏe, cuộc sống yên vui,
phát đạt. Tối đến, người ta đốt pháo thăng thiên, thả diều, đánh quay lửa...
Các cụ già kể chuyện thần thoại, cổ tích cho con cháu. Gái, trai tham gia các
cuộc hát đối đáp aday, hát dùkê, múa rômvông...
Lễ Chol Chnam Thmay được tổ chức 3 ngày 3 đêm có thể bắt đầu
từ 13/4 hoặc 14/4. Vào năm nhuận sẽ kéo dài 4 ngày và tên gọi mỗi ngày lễ
là khác nhau.
Ngày thứ nhất (ngày Chôl sangkran Chmây): làm lễ rước đại lịch.
Mọi người tắm gội, mặc quần áo đẹp, đội cỗ lên chùa. Vào giờ tốt đã được
chọn, bất kể sáng hay chiều (thường là vào 7 giờ sáng hoặc 5 giờ
chiều).Mọi người mang theo lễ vật: nhang đèn, hoa quả đến chùa làm lễ
rước Đại lịch, Môha SangKran. Môha SangKran đặt trong khay sơn son
thếp vàng đưa lên kiệu khiêng đi vòng quanh chính điện 3 vòng trang trọng,
vừa là lễ chào mừng năm mới vừa chờ điềm báo năm mới tốt hay xấu, tùy
vào cuộc rước có hoàn thiện hay không, rồi mới vào chính điện làm lễ. Sau
đó, tất cả vào lễ Phật, tụng kinh chúc mừng năm mới.
22
Ngày thứ hai (ngày Wonbơf): làm lễ dâng cơm và đắp núi cát. Mỗi
gia đình làm cơm dâng cho các vị sư sãi ở chùa vào buổi sớm và trưa. Trước
khi ăn, các nhà sư tụng kinh làm lễ tạ ơn những người làm ra vật thực và
những người mang vật thực đến cho nhà chùa. Buổi chiều thì họ tổ chức lễ
đắp núi cát để tìm phúc duyên. Ở đây mọi người đắp cát thành nhiều ngọn
núi nhỏ theo tám hướng và một núi ở trung tâm, tượng trưng cho vũ trụ.
Tục này có dẫn chứng theo tích lâu đời biểu lộ ước vọng cầu mưa, cầu
phúc của con người.
Ngày thứ ba (ngàyLơm săk): làm lễ tắm tượng Phật, tắm sư. Vào
buổi sáng dâng cơm sáng cho các sư, họ tiếp tục nghe thuyết pháp. Sang
buổi chiều, họ đốt đèn nhang, dâng lễ vật, đưa nước có ướp hương thơm
đến tắm tượng Phật. Biết ơn thương nhớ Đức Phật đồng thời gột rửa mọi
điều không may của năm cũ, bước sang năm mới, mọi sự như ý. Sau đó họ
cũng sẽ tắm cho các vị sư sãi cao niên. Kết thúc lễ tại chùa, mọi người
rước các nhà sư tới nghĩa trang, để thực hiện lễ cầu siêu cho linh hồn
những người quá cố. Sau đó ai về nhà nấy, làm lễ tắm tượng Phật tại nhà
mình, làm mâm cơm nước cúng cho ông bà tổ tiên và làm những thức ăn
ngon cho ông bà cha mẹ dùng. Đây là dịp để mọi người sum họp và gặp gỡ
nhau sau một năm lao động mệt nhọc, ngoài sum họp họp gia đình còn được
gặp gỡ bà con xóm giềng cùng chúc cho nhau những lời chúc tốt đẹp, cùng
vui chơi và thưởng thức các món ăn vui vẻ với nhau. Lễ Chol Chnam
Thmay có nghĩa là tết năm mới, mọi người cầu mong sang năm mới mọi
thứ sẽ tốt đẹp hơn, những gì còn thiếu sót cũng như những muộn phiền
trong năm cũ sẽ tiêu tan hết, điều may mắn sẽ đến.
CHƯƠNG 3
23
VĂN HÓA CẤC TỘC NGƯỜI THUỘC NHÓM NGÔN NGỮ
H’MÔNGDAO
Sinh hoạt kinh tế
I.
1.
Nông nghiệp
Tộc người H’mông là những cư dân nông nghiệp. Ngoài một số ít có
ruộng nước, họ chủ yếu làm nương rẫy. Căn cứ vào quá trình sử dụng đất
có thể phân chia nương làm hai loại : nương địa canh và nương du canh,
trong đó nương du canh là chính.
Trên nương, đồng bào trồng lúa, ngô, mạch ba góc, trồng rau, đậu, bầu
bí, đỗ, dong giềng, cây thuốc, các loại cây ăn quả và cây công nghiệp.
Công cụ sản xuất chủ yếu cày, cuốc, các loại dao, rựa, rìu, thuổng,
gậy chọc lỗ, nạo cỏ, nhíp. Cày của đồng bào vùng cao có thân ngắn, to,
chắc khoẻ để phù hợp với các nương hốc đá. Cùng với canh tác nương rẫy,
trong quá trình định cư, định canh cư dân vùng núi cao đã biết lợi dụng thế
đất khai phá và đắp bờ tạo thành ruộng bậc thang để cấy lúa nước.
2.
Chăn Nuôi
Dân tộc H’mông có truyền thống chăn nuôi gia súc, gia cầm. Đồng bào
nuôi trâu, bò, ngựa, dê với số lượng lớn hàng trăm con. Lợn là vật nuôi chủ
yếu, mỗi gia đình đều có từ 57 con.
3.
Hái lượm, săn bắn
Hái lượm, săn bắn nhằm cải thiện đời sống và bảo vệ mùa màng của
cư dân vùng núi cao. Ngày nay, họat động này vẫn được duy trì, tuy nhiên
không nhiều như trước kia. Đồng bào H’mông rất giỏi săn bắn các loại thú
nhỏ như lợn rừng, cầy hương, hươu nai, khỉ, cáo, chồn… Hầu hết đàn ông
đều biết chế tác các loại bẫy, nỏ. Một số người giỏi rèn, khoan, làm súng
24
kíp, súng hoả mai, sáng chế các loại bẫy thú có hiệu quả. Ngoài ra đồng bào
còn giỏi đánh bắt cá bằng nhiều hình thức: Ruốc, đặt chặn, đặt đó, lặn bắt
cá bằng tay, dùng chài lưới…
Hái lượm đóng vai trò đáng kể trong sinh hoạt kinh tế của đồng bào.
Vào những năm mất mùa đói kém, củ nâu, củ mài, các thứ măng, rau rừng
đã giúp đồng bào vượt qua những ngày thiếu thốn.
4.
Các nghề thủ công
Tộc người H’mông đã duy trì và phát triển nghề dệt vải, đáp ứng
phần nào vải mặc trong cuộc sống. Phụ nữ H’mông rất giỏi dệt vải bằng
sợi cây lanh (ngoại trừ nhóm H’mông Xanh, H’mông Súa trồng bông dệt
vải).
Nghề trồng bông dệt vải khá phổ biến và quen thuộc của người phụ
nữ. Để có một bộ quần áo đẹp, người phụ nữ phải đảm nhiệm tất cả công
việc : trồng bông, kéo sợi, dệt vải, nhuộm chàm, in hoa văn… Đan lát là
công việc của đàn ông.
Họ rất thành thạo nghề làm giấy, làm đồ trang sức bằng bạc, rèn đúc
công cụ, vũ khí. Sản phẩm của họ để phục vụ sản xuất và sinh hoạt gia
đình, ngoài ra còn đem ra trao đổi hàng hóa với các tộc người khác.
Văn hóa vật chất
II.
1.
Làng bản
Làng bản của cư dân H’mông chủ yếu được dựng trên các triền núi
cao hay lưng chừng núi, khí hậu thoáng mát, nhưng hiếm nước và giao
thông đi lại khó khăn.
25