Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Đề tài nghiên cứu: Tính đa dạng trong sinh hoạt kinh tế và văn hóa của các tộc người trong nhóm ngữ hệ Nam Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.37 KB, 41 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU


Các tộc người thiểu số cư trú ở Việt Nam dù cư trú hàng ngàn năm hay  
mới vài ba trăm năm, dù đông hay ít người mỗi tộc người đều gắn bó số 
phận mình với lịch sử  dân tộc trong nước. Các tộc người đều cùng nhau 
tham gia và bảo vệ Tổ quốc chung. Đặc biệt những thử cách sống còn của  
giặt ngoại xâm, thiên tai khắc nghiệt liên tiếp xảy ra làm cho các tộc người 
xích lại gần nhau hơn. Họ đã phải dựa vào nhau để chống chọi, để  tồn tại  
và phát triển. Trải qua quá trình đó, các tộc người đã chung đúc nên truyền 
thống đoàn kết bền vững, hình thành nên một đại gia đình Việt Nam của 
các tộc người anh em. Trong bức tranh đa dạng và phong phú  ấy, văn hoá 
các tộc người Việt Nam là những mảng màu đặc sắc và quý hiếm.
Góp phần vào kho tàng văn hoá phong phú và đa dạng của văn hoá Việt 
Nam phải kể đến nhóm các tộc người thuộc Ngữ hệ Nam Á.
Ngữ hệ Nam Á ở Việt Nam gồm 32 tộc người và cũng là 32 ngôn ngữ 
khác nhau. Chính vì như  vậy nên về  sinh hoạt kinh tế  và văn hoá của các 
tộc người cũng rất khác nhau và mang tính đa dạng phong phú.
Dải đất hình chữ S còn vô vàn những điều thú vị cần khám phá và tìm  
hiểu. Các tộc người thiểu số phân bố từ Bắc chí Nam, mỗi tộc người có nét 
sinh hoạt kinh tế cực kì khác biệt, họ sống bên cạnh hay xen kẽ với những  
tộc người chủ  thể; mặc dù vậy họ  vẫn giữ  được nét riêng của tộc người  
họ. 
Chúng ta sẽ  cùng nhau tìm hiểu về cách ăn, mặc, ở…hay nói tóm gọn  
là là tất cả những gì thuộc về thường ngày của họ và văn hoá của họ, chắc 
chắn sẽ có nhiều thứ mình chưa biết và rất thú vị. 




CHƯƠNG 1
VĂN HÓA CÁC TỘC NGƯỜI THUỘC NHÓM NGÔN NGỮ 
VIỆT­MƯỜNG


NGƯỜI CHỨT

I. Nguồn gốc lịch sử và địa bàn cư trú
 1. Nguồn gốc lịch sử
Quê hương xưa của người Chứt thuộc địa bàn cư trú của người Việt ở 
hai huyện Bố Trạch và Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
2. Địa bàn cư trú 
 Quê hương của người Chứt vẫn  ở Bố  Trạch, Quảng Trạch. Sau này 
họ di tán phần lớn lên vùng núi Minh Hóa, Bố Trạch.
II. Sinh hoạt kinh tế
Tộc người Chứt vốn là một cư dân nông nghiệp, nhưng do bị phân tán 
thành những nhóm nhỏ, sống trong điều kiện địa lý gần như tách biệt nhau, 
nên sinh hoạt kinh tế của các nhóm người Chứt có khác nhau.
1. Người Chứt ở các thung lũng
 Nhóm người Chứt này chủ yếu làm ruộng nước, bên cạnh đó còn làm  
ruộng vãi, rẫy, săn bắn, đánh cá, hái lượm, chăn nuôi.
 Số người Chứt này sống ở các thung lũng tương đối bằng phẳng , nơi 
có khả năng phát triển kinh tế ruộng nước, ruộng vãi, với những thửa ruộng 
bậc thang nằm trong hệ thống đất dốc tụ, hoặc đất bãi bồi cổ. Vì thế, họ 
có điều kiện phát triển một nền kinh tế đa dạng nhiều mặt. Đó là lý do căn 
bản dẫn đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của nhóm người này tương 
đối ổn định và theo chiều hướng phát triển.

4



2. Người Chứt ở các vùng cao
 Bộ phận người Chứt  ở Hóa Sơn, Thượng Hóa, Dân Hóa gần sát biên 
giới Việt­Lào làm rẫy, làm ruộng vãi , săn bắn, đánh cá, hái lượm, chăn  
nuôi.
 Người Chứt thường phát triển kinh tế nương rẫy, kết hợp với kinh tế 
ruộng vãi, chăn nuôi, nên đời sống của họ  tương đối  ổn định. Những năm 
khí hậu thuận hòa nguồn sản xuất lương thực lúa, ngô của họ  đảm bảo 8  
đến 9 tháng, những năm khí hậu khắc nghiệt, thì nguồn lương thực chỉ đủ 
ăn 6 đến 9 tháng. Thời gian còn lại đồng bào thường ăn sắn, khoai và các 
loại sản vật khác của kinh tế tước đoạt trong những khu rừng nhiệt đới.
 Người Chứt ở vùng cao nhưng họ thường định cư ở nhưng nơi thung 
lũng   hẹp,  đất   tương   đối   bằng   phẳng    để   làm   ruộng   khô,  chăn   nuôi  và  
nương rẫy còn nhóm Mày, Arem, Rục, Mã Liềng sống ở vùng cao, trên các  
sườn dốc không có điều kiện làm ruộng khô, nên thường du canh, du cư với  
nền kinh tế nương rẫy quá lạc hậu, chăn nuôi cũng không phát triển, và vì 
thế đời sống của họ cho đến nay còn rất đói nghèo, lạc hậu.
Như  vậy , cơ  cấu kinh tế  của các nhóm người Chứt bao gồm những 
hình thái ruộng nước, nương rẫy, chăn nuôi và các nghề phụ  gia đình, kinh 
tế khai thác ( săn bắn, đánh cá, hái lượm).
III. Văn hóa vật chất
1. Trạng thái cư trú
Làng bản: sống du canh du cư trong rừng núi. Họ phải đương đầu với  
mãnh thú để giành giật từng hang động rèm đá. Nhưng do đặc điểm kinh tế 
du canh, du cư, hang động không đảm bảo cho sự di chuyển thường xuyên  
của họ, nên những túp lều tạm bợ, lợp bằng lá cây rừng lại mọc lên phổ 
biến. Về  sau do sự  phát triển của sức sản xuất, họ có thể  định canh, định  
5



cư  trong một thời gian nhất định, nên mái nhà tương đối bền vững được  
mọc bên những triền núi cao, đầu nguồn nước.
Còn bản người Chứt thường ở những vùng thung lũng thấp, tương đối 
bằng phẳng, nơi có điều kiện phát triển ruộng nước, ruộng vãi và nương  
rẫy.
  Thường khi vùng đất xung quanh bản, nguồn lợi của tự  nhiên cạn  
kiệt, như  cây nhúc, cây nghèn đã hết, thú vật, chim muông nghèo nàn, đất 
đai khô cằn… hoặc trong bản có người chết bất đắc kỳ  tử, có dịch bệnh  
triền miên… là đồng bào lại dời bản đi nơi khác.
Nhà cửa: Nhà cửa của người Chứt mang dáng dấp của một tộc người 
sinh sống trong hoàn cảnh địa lý quá khắc nghiệt. các bước tiến hành làm 
nhà của họ  rất đơn giản. Lúc đầu gia đình tự  chuẩn bị  và tập trung những 
nguyên vật liệu như gỗ tre, nứa, tranh, mây, dây buộc… đem đến mảnh đất 
đã chọn. Sau đó chủ  nhà chọn ngày tốt để  tiến hành làm nhà. Những ngày 
tốt là những ngày chẵn trong tháng. Riêng tháng bảy là người Chứt không 
làm nhà, vì cho tháng bảy là tháng xấu. Sau khi định ngày chủ  nhà báo cho  
dân bản biết để mọi người cùng tham gia.
  Ở  người Chứt có hai loại nhà: nhà sàn và nhà đất. Mỗi loại nhà gắn  
liền với từng nhóm người nhất định: 
2.

Y phục và trang sức
    Trang phục của người Chứt còn rất thô sơ. Trước đây , trong hoàn  

cảnh sống quá khắc nghiệt, đa số các nhóm người Chứt đều để tóc dài, búi 
tóc sau gáy.  Ở  họ  trang sức hầu như  không có, còn trang phục hết sức  
nghèo nàn, đơn giản. Đàn ông, đàn bà đều lấy vỏ  cây làm áo khố. Cây  
thường chọn để lấy vỏ làm áo, váy là những sui, rang, si, dò…

6



 Trong thời gian gần đây, với sự  vận động định canh định cư, người  
Chứt chịu sự tác động mạnh mẽ về y phục của người Nguồn và y phục của  
nhóm Khùa thuộc tộc người Vân Kiều.
Nhóm người Sách chịu  ảnh hưởng y phục của người Việt. Phụ  nữ 
mang loại váy kín màu đen không có hoa văn, có dây rút  ở  đầu váy, giống  
như váy của người Việt.
 Về  trang sức, ở nhóm người Sách người phụ nữ thường đeo loại hoa  
tai bằng bạc hay đồng và chuỗi hạt cườm mua được  ở  người Việt hay  
người Lào, ít thấy trường hợp phụ nữ đeo vòng. 
Người đàn bà Rục, Arem, Mã Liềng trước đây thường đeo những vòng 
vỏ ốc núi ở cổ  như chuỗi hạt cườm của người Việt. Đồng bào quan niệm 
người phụ nữ đeo vòng ốc vào sẽ gặp may mắn trong công việc hái lượm. 
Và đàn ông thường đeo những vuốt hổ, răng nanh lợn rừng. Đồng bào quan  
niệm những vật đó là “ bùa hộ mệnh”, giúp cho họ tránh được thú dữ, gặp  
may mắn trong săn bắn.
3.

Các hình thức ăn, uống, hút

Người Chứt nấu cơm, ngô, sắn bằng phương pháp “ làm pồi”. Cho hạt 
ngô vào nước ngâm 3­4 tiếng, sau đó vớt hạt ngô ra khỏi nước, để  ráo cho 
vào nồi giã thành bột. Sắn tươi gọt vỏ, rửa sạch, chặt thành nhiều miếng 
nhỏ, cho vào cối giã nhỏ. Lúa cho vào cối giã nhỏ  cả  gạo và vỏ  trấu bên 
ngoài. Sau khi đã đâm nhỏ lúa, ngô, sắn, đồng bào bắt đầu nấu pồi.
 Người Chứt thường uống nước chè xanh ( pha thêm ít muối ), nước lã,  
hoặc nước lá ngái, lá cây rừng và uống rượu.
 Người Chứt rất thích hút thuốc và nghiện thuốc. Người Chứt tự trồng  
lấy cây thuốc  ở trong các nương rẫy. Thuốc được quấn theo kiểu loa kèn, 

7


một đầu to, một đầu nhỏ. Thường trẻ em từ 6 đến 7 tuổi đã bắt đầu hút và 
hút hầu như liên tục cả ngày.
4.

Các công cụ sinh hoạt gia đình

Những công cụ dùng trong săn bắn và hái lượm như nỏ, giáo, gùi nhỏ, 
giỏ…
Những công cụ liên quan đến kinh tế sản xuất:
Tiếp nhận  các dụng cụ  sản xuất do Nhà nước cung cấp và trao đổi 
với người Nguồn. Đó là những chiếc rìu, rựa, liềm, cuốc, lưỡi cày… phục 
vụ  cho sản xuất nương rẫy và ruộng nước. Chỉ  có  chiếc gậy chọc lỗ  là  
dụng cụ duy nhất liên quan đến kinh tế sản xuất do đồng bào tự làm lấy.
Những dụng cụ sinh hoạt hằng ngày trong gia đình như cối, chày, ống 
nấu pồi, thúng, mủng, mẹt.


Những giá trị  văn hóa vật chất của người Chứt hết sức nghèo  

nàn về  chủng loại và ít ỏi về số  lượng. Nó đang bị mai một dần cùng thời 
gian. Điều đó phản ánh một đời sống vật chất hết sức thấp kém của tộc  
người này.
IV. Văn hóa tinh thần
1.Tôn giáo tín ngưỡng
1.1  Cõi   sống   và   cõi   chết   trong  quan  niệm   cổ   truyền   của  người  
Chứt
  Hầu như  xung quanh họ, từ  núi rừng,, sông suối, trời đất đến nhà 

cửa… đâu đâu cũng có những lực lượng “cu muých” ( thần ma) trú ngụ: các 
loại “ thần ma” cai quản núi rừng, ðất ðai mà con ngýời ðang  ở. Những “ 

8


thần ma” thýờng “ ðòi ăn”, nên làm bất cứ việc gì, đồng bào cũng cúng bái, 
dâng lễ vật.
 Trong các loại ma, ma trời , ma nhà, ma rú, ma suối thì ma trời được 
coi là quan trọng nhất, cai quản toàn bộ các loại ma khác. Nhưng thực tế ma  
ảnh hưởng đến đồng bào nhất là ma nhà.
­Chính những lực lượng siêu nhiên đó là nguyên nhân của mọi may  
mắn, thành đạt trong lao động sản xuất, trong cuộc sống hằng ngày, và 
cũng là nguyên nhân của mọi rủi ro, tai họa như mất mùa, đói kém, ốm đau,
…Muốn tăng thêm may mắn, hạn chế rủi ro, theo đồng bào không có cách 
nào khác là phải cũng tế thường xuyên.
 Như vậy, thế giới quan của người Chứt bắt nguồn từ quan ni ệm v ạn  
vật hữu linh.
 Theo đồng bào không gian vũ trụ chia làm ba phần.
+ Tầng trên “Plời” là thế giới cao xa của vũ trụ.
+ Tầng giữa là thế giới mặt đất, nơi con người và vạn vật sinh sống.
+ Tầng dưới là thế giới dành riêng cho những người xấu.


Cõi sống và cõi chết theo quan niệm cổ truyền của người Chứt  

biểu hiện một sự  nhận thức sai lệch thế  giới tự  nhiên và con người. Coi  
mọi vật đều có linh hồn. Từ  nhận thức sai lệch đó dẫn đến những hoạt 
động tôn giáo tín ngưỡng như  cũng tế, dâng lễ  vật, ma thuật… rất phức  
tạp. Điều đó, gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến công việc xây dựng xã hội  

mới ở người Chứt.
1.2 Các nghi thức thờ cúng

9


Những hình thức thờ cúng có liên quan đến nghề săn bắn, đến chu kỳ 
lao động nương rẫy và trồng lúa nước như sau:
+ Những hình thức thờ cúng liên quan đến nghề săn bắn
Hàng năm cứ đến tháng 9 Pự Cavel chọn ngày tốt rồi cử những người 
tài giỏi đi săn thú rừng. Thú rừng săn được người ta vứt bỏ phần ruột, còn 
để  nguyên cả  con quay chín trên bép lửa. Mọi thành viên trong cavel cùng 
mang theo lễ vật như bột nhúng, củ mài, củ sắn, gạo nếp, rượu… đến một 
địa điểm đã định sẵn, trên mỗi bãi đất bằng gần cavel. Lễ  cúng thường tổ 
chức vào buổi sáng khi Chôblú và Pự Cavel cúng xong, người ta cắt đầu, tai, 
đuôi, bốn chân đưa vào rừng, chỗ những người đàn ông đã bắt được thú để 
cúng thần săn, mong thần phù hộ cho công việc được may mắn.
+ Những nghi thức liên quan đến chu kỳ lao động nương rẫy.
Lễ Kloống: là lễ tìm đất để làm nương rẫy.
Lễ lấp lỗ: là lễ  cúng được tiến hành sau công việc chọc lỗ  tra hạt đã  
hoàn tất.
Lễ  cơm mới: là lễ  cầu xin thần lúa và các vị  thần linh khác cho phép 
thu hoạch mùa màng.
1.3 Các nghi lễ, tín ngưỡng liên quan đến chu kỳ một đời người
 Sinh đẻ: Người đàn bà sau khi sinh xong có thể tự mình chăm nom lấy 
đứa trẻ  và tự  chuẩn bị  những đồ  ăn, thức uống. Người Chứt quan niệm 
rằng, nếu người đàn bà sinh đẻ  tại nhà hay làng bản , thì sẽ  gây nhiều tai 
họa cho những người thân và dân làng. Vì người đàn bà khi sinh mang nhiều 
vía xấu, khi đứa trẻ mới ra đời, nó được tắm rửa sạch sẽ để  làm sạch vía,  
đuổi vía xấu ra khỏi thân thể của nó. Sau 30 ngày hai vợ chồng nấu nước lá 

thơm  đổ  lên hòn đá xông rồi mới được về  nhà. Khi về  đến nhà người 
10


chồng chuẩn bị những lễ vật như rượu, thịt, cơm để  cúng báo cho ông bà,  
tổ tiên, thần linh biết về đứa trẻ, một thành viên mới trong nhà của mình.
 Cưới hỏi: Trai gái được tư do tìm hiểu yêu đương. Khi đôi trai gái đã 
tìm hiểu nhau đến độ  chín muồi thì báo với gia đình để  chuẩn bị  làm lễ 
cưới. Công việc đầu tiên là chọn ngày tốt. Nhà trai mang sang nhà gái những 
lễ vật như nồi, rìu, rựa, gạo và đặc biệt có một con lợn để  cúng mời thần 
linh về chứng kiến tình yêu của họ.
 Làm nhà: Chủ  nhà chọn ngày lành tháng tốt rồi tự mình dựng cột cái 
lên trước, sau đó mới nhờ bà con giúp đỡ và chỉ có chủ nhà mới được phép 
ngồi phía trên cột coloốc để  lợp, khi nhà đã hoàn tất, chủ  nhà tự  tay nhen 
lên một bếp lửa, bếp lửa đó phải được cháy liên tục ba ngày ba đêm. Sau đó 
chủ nhà tự mình hoặc mời thầy rang, thầy xây ( thầy cúng ) tổ chức lễ cúng 
để xin phép ông, bà thần linh phù hộ cho gia đình được may mắn trong cuộc  
sống.
Tang ma: Ở đa số nhóm người Chứt, khi ba mẹ, ông bà chết, con cháu 
báo cho bà con dân bản biết. Người chết được bó chiếu để  dọc giữa nhà 
trước cửa buồng chủ, đầu quay về hướng cuối nhà. Người chết được để ở 
nhà ba ngày. Trong thời gian đó con cháu làm lợn, gà cúng mời người đã 
chết và các thần linh, tổ tiên về dự lễ. 
1.4 Các hình thức ma thuật
  Ma   thuật   chữa   bệnh:  Khi  đau   ốm  họ   mời   thầy  cũng   đến   bói  tìm 
nguyên nhân gây bệnh và sau đó tiến hành lễ  dắc si. Thầy cúng đầu đội  
vòng hoa rừng, tay cầm hai  ống nước kéo đi kéo lại và đọc rầm rầm lời 
cúng gọi các ma về  nhận lễ. lễ  vật gồm 7 cái bánh, một con gà, một đĩa 
trầu cau. Sau khi cúng xong thầy cúng buộc dây chỉ  vào tay người  ốm để 
giữ  vái lại. Đối với trẻ  em, người ta vắt một nắm cơm nhỏ  và buộc chỉ 


11


( khi qua núi khe, mà sau đó bị đau, thì phải mang lễ vật đến nơi núi khe đó  
để gọi vái về ).
 Sau khi cúng gọi vái về, chủ nhà phải làm cơm, canh, rượu cúng nhờ 
ma nhà phù hộ  cho người đau. Việc cúng vái không quá cầu kỳ, nếu nhà 
nghèo quá thì chỉ đốt trầm hương với nước suối là đủ. Ông thầy cúng cũng  
không đòi hỏi lễ vật gì, chủ nhà có cái gì biếu cái đó.
Ma thuật làm hại:  Từ  chỗ  sợ  hãi ma thuật làm hại, người Chứt tin  
rằng có ma người sống ( Cha nanh hay cha vạ). Đó là việc đồng bào gán cho 
một số người hoặc một số gia đình nào đó có ma đáng sợ nói trên. Người bị 
gán là “cha nanh”, “cha vạ” là người “xấu mồm, xấu miệng”, hay quở 
mắng nói năng người khác, mà ngẫu nhiên sau đó người bị  quở  mắng đau 
ốm, hoặc chiêm bao thấy một người nào đó đến làm hại mình. Đặc biệt 
người Chứt có quan niệm kẻ lười nhác là “Cha nanh”. Đồng bào cho rằng,  
người “ Cha nanh” có một thời kì đi học phù phép, phù chú và có thuốc độc. 
Họ chính là kẻ gây tai họa cho dân làng là nguồn gốc đau ốm, bệnh tật, mất  
mùa… nên bị mọi người căm ghét xa lánh. Đồng bào cho rằng  “ cha nanh”  
trông thấy người  ốm sẽ làm cho người ốm nặng thêm, thấy quả đang chín 
sẽ làm cho nó thối, thấy trẻ em sẽ làm cho nó đau…Bản thân những người  
xấu số mang tiếng có ma đó rất khổ tâm. Họ bị coi là người rất nguy hiểm 
“ không trong sạch” con cái của họ khó lấy vợ, lấy chồng ( vì con ma đó sẽ 
theo sang gia đình khác ).
  Lợi dụng lòng tin đó, một số  kẻ  xấu tự  gán cho thành viên nào đó  
trong làng ( thường là những ngừoi quá nghèo đói hoặc là người có biệt tài  
nhất định ) là “cha nanh, cha vạ” chuyện có ma đi gây hại người khác. Đồng 
bào quan niệm rằng, sỡ dĩ có ma người sống, là vì những gia đình có người 
chết do không lo việc ma chay chu đáo nên hồn vía người chết không có nơi  


12


ăn , chốn  ở, sống bơ  vơ  trên trần gian, lâu ngày thành “cha nanh, cha vạ”  
nhập vào con cháu.
* Văn nghệ dân gian
­ Truyện cổ là một lọai hình chiếm ưu thế trong kho tàng văn học dân 
gian của người Chứt . Nó thể  hiện quan niệm con người về  vũ trụ. Về 
cuộc đấu tranh chống chọi với thiên nhiên, về  khát vọng của con người  
vươn đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
­ Trong kho tàng văn hóa dân gian của người Chứt, những làn điệu dân  
ca nổi lên như một loại hình đặc sắc đượm tính chất trữ tình. Với nội dung  
phong phú dân ca được sử  dụng trong nhiều khung cảnh. Bằng lời ca dịu  
ngọt, mang giai điệu trầm lắng, đi vào tâm thức của con người, phản ánh 
tình yêu lao động, yêu tự  do và tình yêu lứa đôi, tha thiết. Dân ca người  
Chứt gắn bó một cách tự nhiên với sinh hoạt hàng ngày của đồng bào.
­ Nhạc cụ  dân gian: Nhạc cụ  có trong sinh hoạt  tinh thần của người  
Chứt cũng khá phong phú. Tuy nhiên hiện nay, những loại hình nhạc cụ   ở 
đồng bào bị  mai một, rơi rụng dần, chúng ta chỉ  còn thấy được bóng dáng 
một nhạc cụ như: đàn ống, sáo, tù, chiêng,…

13


CHƯƠNG 2
VĂN HÓA CÁC TỘC NGƯỜI THUỘC NHÓM NGÔN NGỮ 
MÔN­KHMER
Người Khmer phần lớn sống tập trung  ở Campuchia. Còn ở Việt Nam  
thì người Khmer sống chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam  

thuộc các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, An 
Giang, Hậu Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang,  
Bến Tre và được gọi là Khmer Crộm (theo  phiên âm tiếng Việt của tiếng 
Khmer có nghĩa là dưới).
1. Sinh hoạt kinh tế
Người Khmer đã biết thâm canh lúa nước từ  lâu đời. Đồng bào biết  
chọn giống lúa, biết làm thủy lợi và lợi dụng thủy triều để  thau chua, xổ 
phèn cải tạo đất, có địa phương trồng nhiều dưa hấu. Đồng bào cũng phát 
triển kinh tế  toàn diện như  chăn nuôi trâu bò để  cày kéo, nuôi lợn, gà, vịt  
đàn, thả cá và phát triển các nghề thủ công như dệt, gốm, làm đường từ cây 
thốt nốt.
Đặc điểm kinh tế: Nông nghiệp dùng cày và thâm canh lúa nước Bộ 
nông cụ khá hoàn thiện và hiệu quả, thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái  
Nam bộ, đặc biệt nhất là việc cày bằng hai trâu. Đồng bào thành thạo nghề 
đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Chăn 
nuôi nuôi trâu bò, lợn, gà, vịt khá phổ biến.

14


2. Sinh hoạt văn hoá
2.1. Trang phục truyền thống
Trang phục cổ truyền  của tộc người Khmer khá đặc sắc, có cá tính ở 
lối mặc váy và phong cách trang phục gắn với tín giáo đạo Phật. Điều đó  
được thể hiện ở những đặc điểm sau:
­

Trang phục nam:
Bình thường nam giới trung niên và người già thường mặc bộ  bà ba 


đen, quấn khăn rằn trên đầu. Trong dịp lễ, tết họ mặc áo bà ba trắng, quần 
đen hoặc áo đen, quàng khăn quàng trắng chéo ngang hông vắt lên vai trái.  
Trong đám cưới thì chú rể thường mặt bộ xà rông và áo ngắn bỏ ngoài màu 
đỏ, đây là loại áo xẻ  ngực, cổ  đứng cài cúc, quàng khăn trắng vắt qua vai  
trái và đeo thêm con dao cưới với ý nghĩa nhằm bảo vệ cô dâu. 
­

Trang phục nữ:
Cách đây ba, bốn mươi năm phụ nữ Khmer Nam Bộ thường mặc váy  

(xăm pốt) là một loại váy bằng tơ tằm, hình ống và thường kín. Chiếc váy 
điển hình là loại xăm pốt chân khen, một loại váy hở, quấn quanh thân 
nhưng khác nhiều tộc người khác cũng có loại váy này với cách mang váy  
vào thân. Người phụ nữ Khmer mang luồn giữa hai chân từ sau ra trước, rồi  
kéo   lên   dắt   cạnh   hông   tạo   thành   như   chiếc   quần   ngắn   và   rộng.   Ngày 
thường người phụ nữ Khmer thường mặc trang phục bằng tơ lụa, màu sắc 
khá rực rỡ, bao gồm mặc váy, áo dệt bằng tơ tằm, hay chỉ kim tuyến thêu  
hoa văn khác nhau. Trong đó áo tầm vông (còn gọi là áo cổ  vòng) thường 
được dệt bằng tơ  tằm hay chỉ  kim tuyến với nhiều họa tiết hoa văn khác 
nhau sẽ  được kết hợp hài  hòa với xà rông là một mảnh thổ  cẩm rộng  
khoảng 1m, dài 3,5m khi mặc thì cuốn lại che nửa người phía dưới và để 
tôn thêm nét dịu dàng uyển chuyển đầy nữ tính, đặc biệt dù mặc trang phục  
nào đi nữa thì cũng không thể thiếu “Sbay” là một loại khăn lụa mềm mại  
15


được cuốn chéo từ vai trái xuống bên sườn phải. Bên cạnh đó, trên các loại 
trang phục người phụ  nữ  Khmer còn đính thêm hạt cườm, kim sa và các  
loại hoa văn khác để cho màu sắc thêm rực rỡ. Trong lễ  cưới, cô dâu mặc 
áo dài màu vàng thêu kim tuyến và đính hạt cườm  ở phía trước với các đồ 

trang sức chủ yếu làm bằng hạt cườm, đồng và thêm vào một số trang sức  
quí hiếm khác như hoa tai làm bằng đồng, vàng, bạc và các loại hoa tươi để 
tôn vinh vẻ đẹp trong ngày vui nhất đời của người phụ nữ Khmer. Vậy nên 
khi mặc bộ  trang phục truyền thống Khmer, ng ười phụ  n ữ  sẽ  c ảm th ấy  
thân hình trở nên dịu dàng, uyển chuyển, thùy mị hơn.
2.2 Tập tục
2.2.1. Tập tục đi tu để thành người
Người Khmer mang tín ngưỡng Phật giáo nên có nhiều lễ  hội và  
đời sống sinh hoạt cộng đồng gắn với tôn giáo này, theo đó ngôi chùa của  
người Khmer là một giá trị văn hóa vật thể  đặc biệt. Đó là nơi tập hợp cư 
dân trong vùng, là nơi diển ra hầu hết các lễ hội cộng đồng. Các lễ hội tôn  
giáo này vẩn còn được đồng bào Khmer gìn giữ  và thực hành như  lễ  ban  
hành giáo lý, lễ Phật đản, lễ  dân áo cà sa, lễ an vị tượng Phật, lễ kết giới,
… Tất cả  những lễ  hội đó tuy rằng chỉ  là lễ  hội của tôn giáo nhưng vào  
những ngày này hầu hết những bà con người Khmer điều tham gia như thực  
hiện trách nhiệm của mình với cộng đồng.
Giá trị  văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng của dân tộc Khmer còn biểu  
hiện rõ  ở  vị  trí nhà Sư. Đối với người Khmer, Sư cả của một ngôi chùa là  
trung tâm đoàn kết của cả phum, sóc. Trước kia, khi hệ thống pháp luật vẫn  
còn hạn chế thì Sư cả có vị trí như một “quan tòa” nên ngôi chùa và nhà Sư 
của người Khmer chính là người nắm giữ và lưu giữ hầu hết những giá trị 
văn hóa. Ngoài ra những lễ  hội lớn của cộng đồng người Khmer tuy rằng 
sẽ  không phải là các lễ  hội tôn giáo nhưng nhà Sư  vẫn có một vị  trí nhất  
định bởi trong một cuộc lễ hội nào đó như lễ hội đua ghe ngo thì nhà Sư là  
16


người quyết định mọi việc, từ việc tuyển chọn, phân công người tham gia 
lễ hội, đến việc hạ thủy ghe ngo, ngày giờ tập luyện…
Vị trí của nhà Sư luôn ở vị trí trang trọng nhất trong các lễ hội nên  

con trai trong các gia đình Khmer đến 12 tuổi thường được đưa vào chùa đi  
tu. Nhưng việc đi tu  ở  đây không phải là nhu cầu, mục đích cá nhân mà là 
một tập tục, một sắc thái của người dân Khmer. Việc đi tu này là hoàn toàn 
tự nguyện, có người tu 3 ngày, có người tu 3 năm hay lâu hơn, người Khmer 
coi việc đi tu là để  thành người, là để  được xã hội nhìn nhận như  một 
người có đầy đủ  tư  cách về  đạo đức và văn hóa như  việc trả   ơn cha mẹ, 
học tập văn chương, ngôn ngữ, phong tục,…  Ngày xưa, trong quan niệm 
của người Khmer nếu người con trai nào không qua giai đoạn tu trong chùa 
thì bị  xã hội và gia đình cho là bất hiếu và lớn lên rất khó lấy vợ, bởi vì  
người con gái Khmer đến tuổi lấy chồng, họ thường chọn những chàng trai 
đã qua tu luyện trong chùa, đã hoàn tục. Theo họ, đó là người đã hoàn thành 
nghĩa vụ  và học được cách làm người, nhất là biết chữ  nghĩa, được mọi 
người trọng vọng. 
Lễ  đi tu của người Khmer thường được tổ  chức vào ngày đầu Lễ 
Chôl Chnam Thmây. Vào ngày này, gia đình nào muốn đưa con vào chùa tu, 
bắt buộc vài tháng trước đó, người con trai này phải vào chùa học thuộc vài 
bài kinh cơ bản, họ sẽ tổ chức một lễ gọi là Bank­Bom­Buôn để  người đi 
tu từ giã họ hàng, bạn bè và được mọi người cầu chúc sức khoẻ. Trước khi 
vào lễ, anh ta cạo đầu, thay quần bằng chiếc xà rông, thay áo bằng một  
khăn vải trắng đắp lên vai từ trái sang phải để  chứng tỏ  rằng anh ta đã từ 
bỏ  thế  tục. Lúc đó người ta gọi anh là Nec (rồng). Để  vào lễ, buổi tối họ 
mời sư  sãi đến tụng kinh, cúng Tam bảo và thọ  giới theo Phật. Vào sáng 
hôm sau, khi cơm nước xong xuôi, họ đưa con trai lên chùa, có bạn bè thân  
quyến mang lễ vật cùng đi theo. Đến chùa, họ đi vòng quanh chánh điện ba 

17


vòng rồi mới vào trong làm lễ. Ở đây có một nhà sư  ngồi gọi là Uppachhe  
giảng dạy, hỏi và đọc các điều của luật tu hành cho các nec nghe để sau đó 

nec mới cầm áo cà sa đi vào hàng giữa sư  sãi và đọc lời xin tu. Khi vị 
thượng toạ chấp thuận thì nec mới đi thay xà rông và khăn trắng bằng áo cà  
sa, tiếp theo là lễ thọ giới 10 điều của Phật giáo gồm không sát sinh, không  
trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, không ăn ngoài 
bữa, không xem múa hát, không dùng đồ trang sức, không chiếm ghế cao và 
giường êm, không đụng đến vàng bạc. Cuối cùng, các nhà sư cùng Phật tử 
tụng kinh cầu phước cho người mới tu hành và chúng sinh để  chấm dứt  
buổi lễ.
2.2.3. Tập tục cưới hỏi
Trong phong tục hôn nhân, mùa cưới của người Khmer Nam bộ bắt 
đầu từ  tháng 1 đến tháng 3 âm lịch, vào khoảng thời gian thời tiết khô ráo  
và mùa màng đã thu hoạch xong. Với đồng bào Khmer Nam Bộ, nam nữ đến  
tuổi trưởng thành thì được tự do tìm hiểu nhau để tiến đến hôn nhân. Nhìn 
chung, phong tục hôn nhân cổ truyền được chia thành 4 giai đoạn: giai đoạn 
trước lễ nói, lễ nói, lễ hỏi và lễ cưới. Trong đó, lễ cưới là quan trọng nhất.
Giai đoạn trước lễ  nói: Hai họ  xem ngày tháng năm sinh của 

­

chú rể  và cô dâu có hợp tuổi hay không, nếu hợp thì lúc bấy giờ  sẽ  tiến 
hành các bước tiếp theo. Như  vậy, trên thực tế  việc cưới hỏi bắt đầu từ 
đám nói đến hỏi và cưới. 
­

Giai đoạn lễ nói: Bao giờ nhà trai cũng mời người mai mối đại 

diện thưa chuyện với nhà gái. Trước nay người làm mối đại diện phía nhà 
trai là một người phụ nữ đã có gia đình, đức hạnh, có cuộc sống hạnh phúc.
­


Giai đoạn lễ  hỏi: diễn ra sau khi nhà trai đã chọn được ngày 

lành tháng tốt dự định cho hôn lễ. 

18


­

Giai đoạn lễ  cưới: Gia đình và bà con thường tổ  chức ba ngày 

bên nhà gái.
Theo đó, ngày đầu tiên gọi là ngày nhập gia, bên nhà trai làm lễ đưa  
chú rể  sang nhà gái, đoàn đi mang theo lễ  vật gồm trầu cau, rượu, thịt, và 
một mâm buồng bông cau. Nhiều đám cưới còn mời thêm dàn nhạc cổ 
truyền dân tộc đi kèm. Ngày thứ  hai cử  hành lễ  cưới phải chọn giờ  tốt, 
trước tiên việc quan trọng là cúng ông bà, tổ  tiên và ăn trầu đính ước, buổi 
chiều sẽ làm lễ cắt tóc cho cô dâu, chú rể rồi đưa họ đến miếu để cúng, xin  
thần công nhận cho họ  là thành viên mới của phum, sóc. Đến buổi tối gia 
đình mời sư sãi, dâng cơm cho sư cúng, tụng kinh chúc phúc, dâng bánh trái  
cho cha mẹ cô dâu để nhớ công ơn dưỡng dục vợ và mở tiệc đãi khách hai 
họ. Ngày thứ ba, thực hiện phong tục lạy ông bà, họ  hàng. Đến giờ  tốt cô  
dâu và chú rể thắp đèn làm lễ. Lúc này thầy cúng và ông mai làm lễ cắt hoa  
cau lên đôi trẻ tức là gia đình hai bên dẫn dắt cô dâu và chú rể  ngồi làm lễ 
sánh duyên cho đôi vợ  chồng mới cưới, dưới sự  chủ  trì của ông Maha. 
Trước khi cắt buồng hoa cau non đang  ốp bẹ, ông Maha múa điệu “Rom­
bơk­bai­srây” có  ý nghĩa là họ  hàng đôi bên đã chính thức cho phép hai  
người kết duyên thành vợ thành chồng. Ông Maha cắt lấy hoa cau trắng rắc  
lên tân lang, tân nương và rắc từ chỗ ngồi cho đến đường đi vào buồng tân 
hôn để chúc phúc đôi uyên ương. Sau đó là múa mở nắp mâm trầu và làm lễ 

buộc chỉ  cổ  tay cho cô dâu, chú rể  có kèm theo tặng phẩm tiền hoặc vàng 
cùng lời chúc mừng lứa đôi hạnh phúc.  Ở  lễ  buộc chỉ  cổ  tay, họ  hàng hai  
bên chúc phúc cho đôi vợ  chồng trẻ  sống trăm năm bằng cách lấy sợi chỉ 
hồng cột tay chú rể trước rồi đến cô dâu. Họ  đàng trai cột tay phải cô dâu 
và chú rể, họ đàng gái cột tay trái chú rể và cô dâu, dưới sự chủ trì của ông  
Maha. Cuối cùng khi làm lễ xong đôi vợ chồng dắt nhau vào buồng tân hôn, 
người chồng nắm vạt áo “Sbai” của người vợ theo sau. 

19


Vào đám cưới, người Khmer Nam Bộ có một nghi thức rất đặc biệt là 
việc “cắt bông cau”. Tức cha mẹ chú rể nhờ hai người thanh niên chưa vợ 
đi cắt bông cau (theo quan niệm của bà con là bông vàng, bông bạc) mang 
về để  ở một nơi cùng chiếc đèn dầu nhỏ  thắp nhang khẩn cầu cho đôi vợ 
chồng trăm năm được hạnh phúc. Bông cau ở đây gồm 3 bó: bó thứ nhất là  
để  tạ   ơn cha (21 sợi cau được buộc bằng chỉ  trắng với 21 miếng cau và 
trầu), bó thứ hai là để tạ  ơn mẹ  (12 sợi cau được buộc bằng chỉ  trắng với  
12 miếng cau và trầu), bó thứ  ba là để  tạ   ơn anh chị (6 sợi cau được buộc  
bằng chỉ trắng với 6 miếng cau và trầu). Ngoài ra còn một đặc sắc nữa của  
hôn lễ đồng bào Khmer Nam Bộ là tục “quét chiếu”. Cụ thể là khi cô dâu và 
chú rể  vào phòng thì sẽ  có một người cao tuổi theo sau, đó là người khỏe 
mạnh, đông con, nhiều cháu. Người này đem chiếc chiếu ra và hỏi: “Có ai 
chuộc chiếu không?”, lúc đó chú rể  bước ra nhận chiếu trải ra và mời cô 
dâu cùng vị chủ lễ ngồi, rồi để lên chiếu một vật có giá trị để  tặng những 
người đã giúp đỡ trong việc tổ chức hôn nhân. 
2.2.4. Tín ngưỡng
Bên cạnh tín ngưỡng Phật giáo sinh ra nhiều lễ  hội mang nét đặc 
trưng và gắn với tôn giáo này. Đạo Phật Tiểu thừa là tôn giáo chính của  
người Khơme Nam Bộ đã thâm nhập khá lâu vào trong sinh hoạt đời sống 

của quần chúng nên những lễ  hội của họ  dù bắt nguồn từ  đâu vẫn mang 
màu sắc tôn giáo và không thoát khỏi cổng chùa. Trong quá trình phát triển  
lịch sử, các lễ hội còn chịu sự pha tạp của những yếu tố tôn giáo khác như 
đạo Bà La môn, song  ở  đây cũng tồn tại khá rõ nguồn gốc lễ  nghi nông  
nghiệp của cư  dân trồng lúa nước. Điều đó cũng dễ  nhận biết qua các lễ 
hội tiêu biểu như lễ  Đônta (lễ  cúng ông bà tổ  tiên), hay lễ  Ok Om Bok (lễ 
cúng trăng) lại diễn ra vào thời điểm giữa mùa mưa và mùa nắng, lễ  Chôl 
Chnam Thmây (tết năm mới) có ý nghĩa đón mừng năm mới đồng thời còn 

20


có ý nghĩa chấm dứt thời kỳ nắng hạn, bước sáng thời kỳ có nước trời dồi 
dào để chuẩn bị cho vụ làm mùa mới.
Người Khmer Nam bộ có tín ngưỡng tô tem có khắc rõ hình tượng,  
hoàn cảnh sống của một tộc người trên vùng đồng bằng trũng nước. Do đó  
không phải ngẫu nhiên hình tượng con rắn Naga được người Khmer chọn  
làm hình tượng chạm trổ  trên các xà nhà, đầu cột, trên các vật dụng thờ 
cúng, trang trí trong nhà. Đặc biệt rắn thần Naga còn được xem là tổ  tiên  
của dân tộc Khmer qua truyền thuyết về sự phối ngẫu giữa Preak Thôn là 
con trai thần mặt trời và nàng Neak là con gái vua rắn Naga. Nhận thức  
được giá trị  văn hóa của tín ngưỡng này nên hầu hết người dân Khmer  
không di cư, di canh mà luôn cố  bám trụ  với vùng sông nước Nam bộ, nơi  
đã sinh ra tổ tiên của mình. Với ý nghĩa dùng sức dẻo dai của loài rắn nước 
Naga mà sinh sống và phát triển trên vùng nê địa đầm lầy Nam bộ, cũng từ 
đó sản sinh ra nhiều lễ hội mang màu sắc của nền văn minh lúa nước như 
cúng trăng (Ok Om Bok), đua ghe ngo, đua bò,… Dù mang đặc trưng Phật 
giáo hay tín ngưỡng tô tem thì với người Khmer từ khi được sinh ra đời đến  
khi trở lại với tổ tiên, cũng như các tộc người khác luôn có nhiều lễ hội ghi 
dấu sự có mặt của mình trên thế gian này và sự hàm ơn đối với các thế lực  

siêu nhiên. Những lễ hội đó phần nào phản ánh được sắc màu văn hóa mang  
dấu ấn dân tộc tính của họ.
2.2.5. Lễ hội
Lễ Chol Chnam Thmây (Tết năm mới).
Lễ  Chol Chnam Thmay của đồng bào dân tộc Khmer không có thời 
gian nhất định, mỗi năm mỗi ngày giờ khác nhau nhưng thường rơi vào giữa  
tháng 4 dương lịch.
Theo lệ thường hằng năm, hễ gần đến lễ Chôl Chnam Thmây, bà 
con Khơme lo chuẩn bị rất chu đáo, mà trước hết tập trung ở việc ăn, mặc, 
21


ở. Để chuẩn bị cho việc ăn uống, đãi khách, dâng cho nhà chùa, gia đình nào 
cũng lo chà gạo để  sẵn, làm bánh, chuẩn bị  thịt heo, gà, vịt... Nước sinh  
hoạt cũng được gánh đổ  đầy ghè, đầy chum, mọi người sửa sang bàn thờ 
Phật, trang hoàng nhà cửa, quét dọn sân nhà, kết cổng chào... Trong đêm 
giao thừa, trên bàn thờ có bày sẵn 5 nhánh hoa, 5 đèn cầy, 5 cây nhang, 5 hạt  
cốm và nhiều loại trái cây. Cha mẹ, ông bà tập hợp con cháu lại, ngồi xếp  
chân về  một phía trước bàn thờ  tổ  tiên, đốt nhang đèn, vái ba cái để  tiễn 
đưa Têvêđa cũ và rước Têvêđa mới, mong được ban phúc lành. Họ tin rằng  
Têvêđa là ông tiên được trời sai xuống chăm sóc dân chúng trong thời gian  
một năm, hết nhiệm kỳ sẽ có vị khác xuống thay thế.
Trong ba ngày hội Chôl Chnam Thmây, bà con Khơme còn đi thăm 
hỏi, mừng tuổi năm mới cho nhau, chúc nhau sức khỏe, cuộc sống yên vui, 
phát đạt. Tối đến, người ta đốt pháo thăng thiên, thả  diều, đánh quay lửa...  
Các cụ già kể chuyện thần thoại, cổ tích cho con cháu. Gái, trai tham gia các  
cuộc hát đối đáp aday, hát dùkê, múa rômvông...
Lễ Chol Chnam Thmay được tổ chức 3 ngày 3 đêm có thể bắt đầu  
từ 13/4 hoặc 14/4. Vào năm nhuận sẽ kéo dài 4 ngày và tên gọi mỗi ngày lễ 
là khác nhau.

Ngày thứ nhất (ngày Chôl sangkran Chmây): làm lễ rước đại lịch. 
Mọi người tắm gội, mặc quần áo đẹp, đội cỗ lên chùa. Vào giờ tốt đã được 
chọn,   bất   kể   sáng   hay   chiều   (thường   là   vào   7   giờ   sáng   hoặc   5   giờ 
chiều).Mọi người mang theo lễ  vật: nhang đèn, hoa quả  đến chùa làm lễ 
rước Đại lịch, Môha Sang­Kran. Môha Sang­Kran đặt trong khay sơn son 
thếp vàng đưa lên kiệu khiêng đi vòng quanh chính điện 3 vòng trang trọng, 
vừa là lễ chào mừng năm mới vừa chờ điềm báo năm mới tốt hay xấu, tùy 
vào cuộc rước có hoàn thiện hay không, rồi mới vào chính điện làm lễ. Sau  
đó, tất cả vào lễ Phật, tụng kinh chúc mừng năm mới.
22


Ngày thứ hai (ngày Wonbơf): làm lễ dâng cơm và đắp núi cát. Mỗi 
gia đình làm cơm dâng cho các vị sư sãi ở chùa vào buổi sớm và trưa. Trước 
khi ăn, các nhà sư  tụng kinh làm lễ  tạ   ơn những người làm ra vật thực và 
những người mang vật thực đến cho nhà chùa. Buổi chiều thì họ tổ chức lễ 
đắp núi cát để tìm phúc duyên. Ở đây mọi người đắp cát thành nhiều ngọn 
núi nhỏ  theo tám hướng và một núi  ở  trung tâm, tượng trưng cho vũ trụ.  
Tục này có dẫn chứng theo tích lâu đời biểu lộ   ước vọng cầu mưa, cầu 
phúc của con người.
Ngày thứ ba (ngàyLơm săk): làm lễ tắm tượng Phật, tắm sư. Vào 
buổi sáng dâng cơm sáng cho các sư, họ  tiếp tục nghe thuyết pháp. Sang 
buổi chiều, họ  đốt đèn nhang, dâng lễ  vật, đưa nước có ướp hương thơm  
đến tắm tượng Phật. Biết ơn thương nhớ Đức Phật đồng thời gột rửa mọi 
điều không may của năm cũ, bước sang năm mới, mọi sự như ý. Sau đó họ 
cũng sẽ  tắm cho các vị  sư  sãi cao niên. Kết thúc lễ  tại chùa, mọi người  
rước các nhà sư  tới  nghĩa trang, để  thực hiện lễ  cầu siêu cho linh hồn 
những người quá cố. Sau đó ai về  nhà nấy, làm lễ tắm tượng Phật tại nhà  
mình, làm mâm cơm nước cúng cho ông bà tổ  tiên và làm những thức ăn  
ngon cho ông bà cha mẹ dùng. Đây là dịp để mọi người sum họp và gặp gỡ 

nhau sau một năm lao động mệt nhọc, ngoài sum họp họp gia đình còn được 
gặp gỡ bà con xóm giềng cùng chúc cho nhau những lời chúc tốt đẹp, cùng 
vui   chơi   và   thưởng   thức   các   món   ăn   vui   vẻ   với   nhau.   Lễ   Chol   Chnam  
Thmay có nghĩa là tết năm mới, mọi người cầu mong sang năm mới mọi  
thứ  sẽ  tốt đẹp hơn, những gì còn thiếu sót cũng như  những muộn phiền  
trong năm cũ sẽ tiêu tan hết, điều may mắn sẽ đến.

CHƯƠNG 3

23


VĂN HÓA CẤC TỘC NGƯỜI THUỘC NHÓM NGÔN NGỮ 
H’MÔNG­DAO
Sinh hoạt kinh tế

I.
1.

Nông nghiệp
Tộc người H’mông là những cư  dân nông nghiệp. Ngoài một số  ít có 

ruộng nước, họ chủ yếu làm nương rẫy. Căn cứ vào quá trình sử dụng đất 
có thể  phân chia nương làm hai loại :  nương địa canh và nương du canh, 
trong đó nương du canh là chính.
Trên nương, đồng bào trồng lúa, ngô, mạch ba góc, trồng rau, đậu, bầu 
bí, đỗ, dong giềng, cây thuốc, các loại cây ăn quả và cây công nghiệp.
Công cụ  sản xuất chủ  yếu cày, cuốc, các loại dao, rựa, rìu, thuổng, 
gậy chọc lỗ, nạo cỏ, nhíp. Cày của đồng bào vùng cao có thân ngắn, to, 
chắc khoẻ để phù hợp với các nương hốc đá. Cùng với canh tác nương rẫy, 

trong quá trình định cư, định canh cư dân vùng núi cao đã biết lợi dụng thế 
đất khai phá và đắp bờ tạo thành ruộng bậc thang để cấy lúa nước.
2.

Chăn Nuôi
Dân tộc H’mông có truyền thống chăn nuôi gia súc, gia cầm. Đồng bào  

nuôi trâu, bò, ngựa, dê với số lượng lớn hàng trăm con. Lợn là vật nuôi chủ 
yếu, mỗi gia đình đều có từ 5­7 con.
3.

Hái lượm, săn bắn
Hái lượm, săn bắn nhằm cải thiện đời sống và bảo vệ  mùa màng của  

cư  dân vùng núi cao. Ngày nay, họat động này vẫn được duy trì, tuy nhiên  
không nhiều như trước kia. Đồng bào H’mông rất giỏi săn bắn các loại thú 
nhỏ như lợn rừng, cầy hương, hươu nai, khỉ, cáo, chồn… Hầu hết đàn ông 
đều biết chế  tác các loại bẫy, nỏ. Một số  người giỏi rèn, khoan, làm súng 
24


kíp, súng hoả mai, sáng chế các loại bẫy thú có hiệu quả. Ngoài ra đồng bào  
còn giỏi đánh bắt cá bằng nhiều hình thức: Ruốc, đặt chặn, đặt đó, lặn bắt 
cá bằng tay, dùng chài lưới…
Hái lượm đóng vai trò đáng kể  trong sinh hoạt kinh tế của đồng bào. 
Vào những năm mất mùa đói kém, củ  nâu, củ  mài, các thứ  măng, rau rừng  
đã giúp đồng bào vượt qua những ngày thiếu thốn.
4.

Các nghề thủ công


Tộc người H’mông đã duy trì và phát triển nghề  dệt vải,    đáp  ứng 
phần nào vải mặc trong cuộc sống. Phụ nữ H’mông rất giỏi dệt vải bằng 
sợi cây lanh (ngoại trừ  nhóm H’mông Xanh, H’mông Súa trồng bông dệt 
vải).
Nghề  trồng bông dệt vải khá phổ  biến và quen thuộc của người phụ 
nữ. Để có một bộ quần áo đẹp, người phụ nữ phải đảm nhiệm tất cả công 
việc : trồng bông, kéo sợi, dệt vải, nhuộm chàm, in hoa văn… Đan lát là 
công việc của đàn ông.
 Họ rất thành thạo nghề làm giấy, làm đồ trang sức bằng bạc, rèn đúc 
công cụ, vũ khí. Sản phẩm của họ  để  phục vụ  sản xuất và sinh hoạt gia  
đình, ngoài ra còn đem ra trao đổi hàng hóa với các tộc người khác.
Văn hóa vật chất

II.
1.

Làng bản
Làng bản của cư  dân H’mông chủ  yếu  được dựng trên các triền núi 

cao hay lưng chừng núi, khí hậu thoáng mát, nhưng hiếm nước và giao 
thông đi lại khó khăn.

25


×