Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Kết quả điều trị của kiểu thở A/C VC+ ở trẻ sơ sinh non tháng bệnh màng trong tại khoa hồi sức sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.08 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018

Nghiên cứu Y học

KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ CỦA KIỂU THỞ A/C VC+ Ở TRẺ SƠ SINH
NON THÁNG BỆNH MÀNG TRONG TẠI KHOA HỒI SỨC
SƠ SINH BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
Nguyễn Thanh Thiện*, Huỳnh Thị Duy Hương**

TÓMTẮT
Mở đầu: Kiểu thở giới hạn thể tích ở trẻ sơ sinh với nhiều ưu điểm như hạn chế tổn thương phổi, ổn
định PaCO2 để tránh tổn thương não và đã được ứng dụng tại nhiều nơi trên thế giới nhưng chưa được áp
dụng tại Việt Nam.
Mục tiêu: Mô tả kết quả điều trị của kiểu thở kiểm soát/ hỗ trợ áp lực giới hạn thể tích (A/C VC+ mode)
trên trẻ sơ sinh non tháng bệnh màng trong, tại Khoa Hồi sức sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng 2.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca với cáctrẻ sinh non cóbệnh màng trong, đã được đặt nội
khí quản, thở máy kiểu A/C VC+.
Kết quả: Tỉ lệ thở máy thành công là 76,9%, 6 trường hợp thất bại là do độ giãn nở của phổi không cải
thiện sau bơm Surfactant hoặc do xuất huyết phổi, không có trường hợp nào tử vong, có các biến chứng
viêm phổi (40%), loạn sản phế quản phổi (20%), ống động mạch ảnh hưởng huyết động (20%), không có
trường hợp nào bị xuất huyết trong não thất nặng, nhuyễn não chất trắng quanh não thất nặng hay bệnh lý
võng mạc trẻ non tháng.
Kết luận: Nên ứng dụng kiểu thở giới hạn thể tích cho trẻ sơ sinh non tháng sau bơm Surfactant với
máy thở phù hợp.
Từ khoá: Thở máy giới hạn thể tích, non tháng, bệnh màng trong.

ABSTRACT
CHARACTERISTICS OF CHILDREN WITH ALAGILLE SYNDROME AT CHILDREN’S HOSPITAL 2
Nguyen Viet Truong, Ta Van Tram, Nguyen Anh Tuan
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine *Vol. 22 - No 4- 2018: 173 – 179
Objectives: To determine ALGS children’s clinical, subclinical and genetic mutations characteristics.


Method: A cross-sectional study was carried on all ALGS children who are being treated at
Gastroenterology department in Chirdren’s Hospital 1 from September 2014 to September 2017.
Result: Researching 30 ALGS’s cases, most patients came from other provinces, admitted to hospital
mainly due to jaundice, no significant difference of age group and sex. The results of clinical features
showed 96.67% liver abnormalities, 80% skeletal abnormalities and 86.67% characteristic facial features.
About subclinical features, direct bilirubin, GGT increase significantly. 73.33% cases are JAG1 mutations,
included missence (32%), nonsense (36%), and frameshift (23%) and splice site (9%). The most of mutation
position is in Exon 4 (23.33%), the remainder is located almost in whole gene JAG1.
Conclusion: Liver abnormalities, skeletal abnormalities and characteristic facial features are the most
common in ALGS children. Direct bilirubin, GGT index highly increase in all cases. JAG1 mutation is
* Bệnh viện Nhi Đồng 2, ** Đại học Y Dược TP.HCM.
Tác giả liên lạc: ThS. BS Nguyễn Thanh Thiện ĐT: 0938668334

Email:

173


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018

main cause in ALGS. ALGS is novel in Vietnam, so more research should be done.
Keywords: Alagille syndrome.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh màng trong là vấn đề y khoa thường
gặp ở trẻ non tháng, liên quan tỉ lệ tử vong
cao(19). Phần lớn các trẻ này cần được hỗ trợ hô
hấp và nhờ thở máy đã cứu sống nhiều trẻ

sinh non(6,16). Tuy nhiên, thở máy lại gây ra
những tổn thương tại phổi, đưa đến bệnh phổi
mạn cho trẻ(18). Trước đây, người ta nghĩ rằng
chấn thương phổi là do thở máy với áp lực
cao, nhưng nghiên cứu thực nghiệm trên động
vật chứng minh rằng thở máy với thể tích cao
mới là nguyên nhân thật sự gây ra tổn thương
cho phổi(7). Vì vậy, vấn đề đặt ra là áp dụng
thở máy kiểm soát thể tích có tốt hơn thở máy
kiểm soát áp lực hay không? Bên cạnh đó,
kiểm soát PaCO2 cũng ảnh hưởng không nhỏ
đến phát triển não trẻ sơ sinh. Collins (2001)
chỉ ra rằng trẻ có PaCO2 < 35 mmHg có nguy
cơ bại não cao 2,9 lần so với PaCO2 ≥ 35
mmHg(4). Ericsson (2002) cũng ghi nhận PaCO2
< 30 mmHg làm tăng 2,38 lần nguy cơ xuất
huyết trong não thấtnặng hoặc nhuyễn não
chất trắng quanh não thất(9). Ngược lại, Thome
(2006) nhận thấy rằng PaCO2 khoảng 55 - 65
mmHg trong 7 ngày đầu sau sinh có ảnh
hưởng xấu đến phát triển thần kinh lúc 18 - 22
tháng tuổi(25). Nghiên cứu của Fabres (2011)
cũng cho thấy PaCO2 quá cao, quá thấp, hay
dao động đều gây ra xuất huyết trong não thất
nặng(10). Theo Keszler (2004), trong kiểu thở
kiểm soát thể tích mục tiêu, Vt ổn định hơn,
kiểm soát được CO2 tốt hơn(12) và như vậy sẽ
an toàn cho não trẻ sơ sinh. Hơn nữa, Wheeler
(2011) đã thực hiện một báo cáo tổng quan hệ
thống và phân tích gộp 9 nghiên cứu cho thấy

so với kiểu thở kiểm soát áp lực thì kiểu thở
giới hạn thể tích mục tiêu giúp cải thiện tử
vong hoặc loạn sản phế quản phổi, giảm tràn
khí màng phổi, rút ngắn thời gian thở máy,
giảm những cơn hạ CO2 máu, giảm biến chứng
xuất huyết trong não thất hoặc nhuyễn não

174

chất trắng quanh não thất nặng(27). Hiện nay,
kiểu thở giới hạn thể tích được ứng dụng rộng
rãi cho trẻ non tháng bệnh màng trong ở Úc,
New Zealand và Bắc Âu(14).
Trên thế giới, đã có hơn 30 nghiên cứu về
kiểu thở giới hạn thể tích ở trẻ sơ sinh. Nhưng
tại Việt Nam, gần như chưa có trung tâm nào
ứng dụng kiểu thở này cho trẻ sơ sinh, cũng
như có rất ít nghiên cứu về thở máy nói
chung. Chúng tôi chỉ ghi nhận nghiên cứu của
Cam Ngọc Phượng về thông khí nhẹ nhàng
trong thoát vị hoành bẩm sinh(1), nghiên cứu
của Võ Đức Trí, của Diệp Loan về thở máy cao
tần trong suy hô hấp sơ sinh(20,26). Vì vậy,
chúng tôi thực hiện nghiên cứu đầu tiên mô tả
kết quả điều trị của kiểu thở kiểm soát hỗ trợ
áp lực theo thể tích mục tiêu (A/C VC+) trên
trẻ sơ sinh non tháng bệnh màng trong, tại
Khoa Hồi sức sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng 2,
để có cái nhìn ban đầu về ứng dụng của kiểu
thở này tại Việt Nam, từ đó mong muốn có thể

ứng dụng rộng rãi trên lâm sàng, góp phần
vào công tác điều trị bệnh sơ sinh tốt hơn.

Mục tiêu nghiên cứu
Xác định các đặc điểm lâm sàng và điều trị
thở máy của dân số trước nghiên cứu
Xác định tỉ lệ thở máy thành công và mô tả
các kết quả điều trị của những trường hợp này
Xác định tỉ lệ tử vong và các biến chứng của
những trường hợp thở máy thành công.

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu mô tả hàng
loạt ca với dân số nghiên cứu là những trẻ sơ
sinh non tháng bệnh màng trong, được nhập
điều trị thở máy tại Khoa Hồi sức sơ sinh Bệnh
viện Nhi Đồng 2, từ 5/2016 đến 4/2017, lấy trọn
các trẻ thoả tiêu chí chọn mẫu là trẻ sinh non có
bệnh màng trong, đã được đặt nội khí quản, thở
máy kiểu A/C VC+ và gia đình đồng ý tham gia
nghiên cứu. Chúng tôi loại ra những trẻ đã được


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018
thở máy bằng kiểu thở khác trước khi vào khoa
quá 6 giờ, những trẻ không được bơm surfactant,
bị dị tật bẩm sinh nặng, sanh ngạt (chỉ số
APGAR < 6 ở thời điểm 10 phút). Chúng tôi
kiểm soát sai lệch chọn lựa bằng cách chọn mẫu
theo đúng tiêu chí đưa vào và loại trừ, kiểm soát

sai lệch thông tin bằng cách định nghĩa cụ thể và
rõ ràng các biến số, thu thập dữ kiện theo bệnh
án nghiên cứu. Cuối cùng, các dữ kiện thu thập
từ bệnh án nghiên cứu được xử lý và phân tích
bằng phần mềm thống kê SPSS 20.0, chủ yếu là
thống kê mô tả tỉ lệ, trung bình hoặc trung vị.
Trong điều kiện hiện có, chúng tôi sử dụng
máy Bennett 840 đã được cải tiến dành cho trẻ sơ
sinh (cài đặt phần mềm Neomode), có kiểm soát
rò khí và bù trừ phần thể tích bị thất thoát (cài
đặt phần mềm leak compensation), áp dụng kiểu
thở A/C VC+. Tuy rằng độ chính xác không bằng
máy thở chuyên dụng cho sơ sinh, khó sử dụng
cho những trẻ có cân nặng lúc sinh quá nhỏ,
nhưng cũng tạm chấp nhận được vì đa phần
bệnh nhân của chúng tôi có cân nặng từ 900
gram trở lên.
Quá trình thực hiện nghiên cứu của chúng
tôi theo trình tự như sau: bệnh nhân thỏa tiêu chí
chọn mẫu sẽ được đưa vào nghiên cứu, ghi nhận
các dữ kiện lâm sàng trước nghiên cứu, ghi nhận
thông tin theo dõi vào bảng theo dõi. Sau khi cài
đặt các thông số, trẻ được xét nghiệm khí máu
động mạch sau đó 1 giờ và mỗi 6 giờ trong vòng
48 giờ, nếu AaDO2 < 100 mmHg thì ngừng xét
nghiệm khí máu; ngoài ra, xét nghiệm khí máu
còn tùy vào tình trạng bệnh nhân và được lấy
qua catheter động mạch. Kết quả khí máu được
đánh giá và sử dụng để điều chỉnh thông số
máy, những trường hợp thất bại (chỉ số OI ≥ 25

hoặc PaCO2> 60 mmHg và pH < 7,2 với Vt > 7
ml/kg) thì chuyển sang kiểu thở kiểm soát hỗ trợ
áp lực hoặc kiểu thở cao tần. Trong quá trình
theo dõi, nếu quan sát thấy MAP < 8 cmH2O,
giảm dần PEEP đạt mức 4 – 5 cmH2O, Vt đạt
mức 4 – 5 ml/kg, bệnh nhân vẫn tự thở tốt, đảm
bảo khí máu ổn định, trẻ sẽ được xem xét rút nội
khí quản. Ngoài ra, còn có các theo dõi khác cho

Nghiên cứu Y học
trẻ như chụp X quang phổi nếu nghi ngờ có tràn
khí màng phổi, siêu âm tim tầm soátcòn ống
động mạch, siêu âm não khi nhập viện hoặc ít
nhất trong tuần đầu tiên, kiểm tra sau 1 – 2 tuần
hoặckhi nghi ngờ xuất huyết não và trước xuất
viện, trẻ cũng được khám mắt để phát hiện bệnh
lý võng mạc ở trẻ non tháng theo quy trình.

KẾT QUẢ
Đặc điểm dân số nghiên cứu
Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi có 26
ca được đưa vào lô nghiên cứu với các đặc điểm
như sau:

Đặc điểm nhân trắc
Giới tính: nam = nữ.
Tuổi thai có trung vị (25 - 75%) là 29 (28 30,6) tuần, nhỏ nhất là 26 tuần, có một trường
hợp non muộn 36 tuần.
Cân nặng lúc sinh có trung vị (25 - 75%) là
1275 (1175 - 1500) gram, thấp nhất là 900 gram,

có một trường hợp trẻ nặng 2900 gram.
Các yếu tố nguy cơ
Các yếu tố có khả năng ảnh hưởng lên độ
nặng bệnh màng trong ở trẻ, ảnh hưởng đến kết
quả của thở máy được liệt kê trong bảng 1.
Thời điểm trẻ được bơm surfactant sau sinh
dao động từ 3 đến 38,5 giờ tuổi với trung vị (25 75%) là 12 (8,25 - 16,5) giờ, có 4 trường hợp được
bơm Surfactant sau 24 giờ tuổi. Chỉ có 19,2%
trường hợp mẹ được tiêm Corticosteroid tiền sản
và cũng không rõ số liều sử dụng đã đủ hay
chưa. Có 3 trường hợp (11,5%) sinh rớt tại nhà.
Ngoài 6 trường hợp được đặt nội khí quản lúc
sinh, các ca còn lại đặt nội khí quản sau sanh từ 1
đến 35 giờ tuổi. Các trường hợp bóp bóng qua
nội khí quản trước khi thở máy có thời gian dao
động từ 1 đến 14 giờ, trung vị là 2,75 giờ; có 2
trường hợp bóp bóng kéo dài > 10 giờ là những
ca được chuyển đến bệnh viện với khoảng cách
địa lý xa, có 1 trường hợp tụt nội khí quản trên
đường chuyển viện. Có 6 trường hợp (23,1%)
được thở máy kiểu giới hạn áp lực trước nghiên
cứu nhưng không quá 6 giờ. Giờ tuổi tham gia

175


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018

Nghiên cứu Y học
nghiên cứu có trung vị (25 - 75%) là 10 (7,5 - 15,5)

giờ, có 4 ca tham gia sau 24 giờ tuổi.

được ghi nhận trên máy thay đổi từ 3,8 đến 6 7 ml/kg.

Bảng 1. Các yếu tố nguy cơ

Tỉ lệ thở máy thành công và các kết quả điều trị

Yếu tố nguy cơ
Bơm Surfactant muộn
Không dùng corticoid trước sinh
Bóp bóng qua NKQ
Nhiễm khuẩn ối
Sinh mổ
Đặt NKQ lúc sinh

Số ca
26
21
19
16
7
6

Tỉ lệ (%)
100
80,8
73,1
57,7
26,9

23,1

Chẩn đoán - khí máu - thông số máy thở
Phân độ tổn thương phổi dựa theo X Quang
phổi, trong đó bệnh màng trong độ 2 chiếm 31%,
độ 3 chiếm 35% và độ 4 chiếm 35%.
Trước nghiên cứu có 16 trường hợp được
làm xét nghiệm khí máu động mạch, ghi nhận
AaDO2 trung vị (25 - 75%) là 253,5 (167,9 - 401,2)
mmHg; PaCO2 rất dao động từ 13,8 đến 67,3
mmHg, trung vị (25 - 75%) là 53,5 (44,2 - 58,3)
mmHg.
Các giá trị thông số cài đặt lúc bắt đầu thở
máy được liệt kê trong bảng 2. Các thông số này
thay đổi theo mức độ nặng của bệnh màng
trong. Cụ thể, bệnh màng trong độ 2 có MAP
trung vị (25 - 75%) là 10,5 (9,9 - 12,3) cmH2O, FiO2
trung vị (25 - 75%) là 33 (27 - 53) %; bệnh màng
trong độ 3 có MAP trung vị (25 - 75%) là 11 (9,9 12,1) cmH2O, FiO2 trung vị (25 - 75%) là 57(29 69) %; bệnh màng trong độ 4 có MAP trung vị
(25- 75%) là 12,8 (12 - 13,5) cmH2O, FiO2 trung vị
(25 - 75%) là 65 (48 - 83)%.
Bảng 2. Giá trị các thông số lúc bắt đầu thở máy A/C
VC+
Các thông số
MAP (cmH2O)
PEEP (cmH2O)
Vte (ml/kg)
FiO2 (%)

Trung vị (25 - 75%)

11,7 (10 - 12,8)
6 (6 - 6,25)
5 (4,6 - 5,9)
53 (30 - 67)

Ngoài ra, giá trị PEEP được cài đặt ban
đầu đa phần là 6 cmH2O. Trong đó, các ca
bệnh màng trong độ 2, 3 đều được cài đặt
PEEP khoảng 6 cmH2O, các ca bệnh màng
trong độ 4 được cài đặt PEEP trung vị (25 75%) là 7,1(6,3 - 7,9) cmH2O. Giá trị Vt cài đặt
ban đầu là 5 - 6 ml/kg, giá trị Vt thì thở ra

176

Tỉ lệ thở máy thành công
Chúng tôi có 20 trường hợp thở kiểu A/C
+
VC được cai máy thành công, chiếm tỉ lệ
76,9%. Có 6 trường hợp thất bại phải chuyển
kiểu thở khác, trong đó 3 ca có chỉ định bơm
Surfactant lần 2 nhưng không được thực hiện,
1 ca xuất huyết phổi, 1 ca tràn khí màng phổi,
1 ca cai máy thất bại do bệnh tim bẩm sinh
(thông liên thất, còn ống động mạch) và được
đặt nội khí quản lại.
Thay đổi khí máu động mạch ở các ca thở A/C
VC+ thành công
Các giá trị của PaCO2 và AaDO2 trước và sau
thở máy A/C VC+ ở những ca cai máy thành
công được biểu diễn trong bảng 3.

Trong các ca thở A/C VC+ thành công, PaCO2
khá ổn định, không có ca nào có PaCO2 tăng > 60
mmHg, có 3 trường hợp trẻ bị giảm PaCO2 < 35
mmHg sau thở máy (tỉ lệ 15%). Trong vòng 48
giờ đầu, có 38 mẫu khí máu động mạch được
thực hiện, trong đó có 4 trường hợp có PaCO2 <
35 mmHg, chiếm tỉ lệ 10,5%.
Tất cả 20 ca thở kiểu A/C VC+ thành công
đều có kết quả AaDO2 đạt < 100 mmHg trong
vòng 12 giờ, trong đó 11 ca đạt mục tiêu sau 1
giờ, 7 ca đạt mục tiêu sau 6 giờ và 2 ca còn lại đạt
mục tiêu sau 12 giờ.
Bảng 3. PaCO2 và AaDO2 trước và sau thở máy A/C
VC+ thành công (trung vị và khoảng 25 - 75%)

Trước NC (n=12)
Sau 1 giờ (n=20)
Sau 6 giờ (n=15)
Sau 12 giờ (n=4)

PaCO2 (mmHg)

AaDO2 (mmHg)

53,5 (40,9 57,8)
47,1
(40,1 - 54,2)
42,1
(40,7 - 50,9)
39,7

(37,3 - 42,8)

243,1 (165,6 299)
98,6
(35,6 - 178,2)
56,9
(24,8 - 114,9)
29,8
(11,4 - 64,8)


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018
Thời gian đạt các mục tiêu ở những ca thở A/C
VC+ thành công
Thời gian đạt MAP < 8 cmH2O, thời gian thở
máy và thời gian nằm viện được trình bày trong
bảng 4.
Bảng 4. Thời gian đạt các mục tiêu
Các mục tiêu
Thời gian đạt MAP < 8 cmH2O
Thời gian thở máy
Thời gian nằm viện

Trung vị (25 - 75%)
19 (10 - 43,3) giờ
75 (41,5 - 153,5) giờ
52 (24 - 59) ngày

Thời gian đạt MAP < 8 cmH2O ở trẻ thở A/C
VC+ thành công thay đổi từ 6 giờ đến 108 giờ,

trung vị là 19 giờ.
Thời gian thở máy A/C VC+ở những ca cai
máy thành công dao động từ 7 giờ đến 235,5 giờ;
có 2 trường hợp bệnh màng trong độ 4 được cai
máy rất sớm trong ngày đầu và có 1 trường hợp
bệnh màng trong độ 2 lại cai máy rất muộn, gần
10 ngày.

Tỉ lệ tử vong và biến chứng ở những ca thở A/C
VC+ thành công
Trong 20 ca thở máy A/C VC+ thành công,
chúng tôi ghi nhận không có trường hợp nào tử
vong. Các biến chứng được ghi nhận trong bảng 5.
Trong các ca viêm phổi, có 1 trường hợp cấy
đàm ra vi khuẩn Klebsiella pneumonia. Các ca
viêm phổi có thời gian thở máy từ 42 giờ đến
235,5 giờ, trung bình 157,3 ± 60,7 giờ. Các ca
không viêm phổi có thời gian thở máy từ 7 đến
90 giờ, trung bình 50,8 ± 28,7 giờ. Có 4 trường
hợp còn ống động mạch phải can thiệp bằng
thuốc Ibuprofen.
Bảng 5. Tỉ lệ các biến chứng
Các biến chứng
Số ca Tỉ lệ (%)
Viêm phổi liên quan thở máy
8
40
Còn ống ĐM cần can thiệp
4
20

Loạn sản phế quản phổi
4
20
Xuất huyết não thất nặng
0
0
Nhuyễn não chất trắng quanh não thất
0
0
Bệnh lý võng mạc trẻ sinh non

0

0

BÀN LUẬN
Về đặc điểm của dân số nghiên cứu trong
nghiên cứu của chúng tôi, đa số là những trẻ

Nghiên cứu Y học
có tuổi thai 28 - 32 tuần, có cân nặng lúc sinh
đa số là 1000 - 1500g, cũng là dân số trẻ non
tháng thường gặp tại khoa Hồi sức sơ sinh của
chúng tôi. Mặt khác, dân số của các nghiên
cứu khác trên thế giới có tuổi thai trung bình
dao động trong khoảng 26,8-31,2 tuần và cân
nặng lúc sinh trung bình dao động trong
khoảng 884-1793 gram(2,3,5,8,11,12,15,17,21,23,24). Như
vậy, việc áp dụng kiểu thở giới hạn thể tích
cho dân số trong nghiên cứu của chúng tôi

không quá khác biệt với các nghiên cứu khác.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhiều trẻ có
các yếu tố nguy cơ làm gia tăng độ nặng của
tình trạng suy hô hấp như là mẹ không được
tiêm corticosteroid trước sinh, tình trạng
nhiễm khuẩn ối, trẻ được bơm surfactant
muộn, giúp thở bằng bóng kéo dài với tỉ lệ cao
hơn so với các nghiên cứu trên thế giới, phản
ánh thực trạng chăm sóc tiền sản và chăm sóc
sau sinh chưa được chuẩn của chúng ta. Điều
đó cũng phần nào giải thích mức độ nặng của
tình trạng suy hô hấp ở các trẻ trong nghiên
cứu của chúng tôi. Vì đa phần các trẻ có tình
trang suy hô hấp nặng nên thông số máy thở
cài đặt ban đầu của chúng tôi đều cao hơn so
với các nghiên cứu khác trên thế
giới(2,3,8,12,17,21,23,24). Ngoài ra, trong nghiên cứu
của chúng tôi, mức PEEP cài đặt trong bệnh
màng trong độ 4 cao hơn độ 2 và 3, điều này
phù hợp với nguyên tắc kiểu thở về thể tích
chỉ đạt hiệu quả tối đa khi phổi đã được mở(13).
Về tỉ lệ thở máy thành công, chúng tôi đạt
được 76,9%. So với một số nghiên cứu của
Chowdhury (2013), D’Angio (2005), Nafday
(2005), Sinha (1997), tỉ lệ này thay đổi từ 75
đến 88%(3,5,17,24). Các truờng hợp thở máy thất
bại là do độ giãn nở của phổi kém đáp ứng sau
bơm surfactant hoặc do phổi bị giảm thể tích
(tình trạng xuất huyết phổi, tăng lưu lượng
máu lên phổi, phù phổi). Ngoài ra, sự cải thiện

AaDO2 hay MAP nhanh chóng sau thở máy
trong nghiên cứu có thể là nhờ tác dụng của
surfactant hơn là nhờ vào thở máy. Vấn đề
kiểm soát PaCO2 trong nghiên cứu khá tốt, với

177


Nghiên cứu Y học
tỉ lệ các trường hợp bị giảm PaCO2< 35 mmHg
đạt 15%, tỉ lệ số mẫu khí máu có PaCO2< 35%
đạt 10,5%. Một số nghiên cứu báo cáo những
kết quả tương tự như nghiên cứu gần đây của
Shah (2013) có tỉ lệ số mẫukhí máu có giảm
PaCO2 là 9%(22), còn nghiên cứu hơn 10 năm
trước của Keszler (2004) ghi nhận đến
20,1%(12); Cheema (2007) cũng ghi nhận tần
suất trẻ có giảm PaCO2< 37,5 mmHg là 32%(2).
Điều này có thể do sự tiến bộ trong chăm sóc
sơ sinh theo thời gian. Ngoài ra, thời gian thở
máy trong nghiên cứu của chúng tôi cũng như
các nghiên cứu trong vòng 5 năm gần đây đã
rút ngắn so với hơn 10 năm về trước, cũng
phản ánh sự tiến bộ trong chăm sóc sơ sinh.
Các trường hợp phải thở máy kéo dài thường
do bệnh nhân có viêm phổi hoặc có tình trạng
còn ống động mạch nên cai máy khó khăn
hơn. Thời gian nằm viện trong nghiên cứu của
chúng tôi trung bình khoảng 45 ngày, trong
khi thời gian nằm viện của các trẻ trong

nghiên cứu của tác giả Duman(8) là 47,5 ngày
(trẻ có cân nặng lúc sinh trung bình 1055g),
nghiên cứu của tác giả Guven(11) có thời gian
nằm viện khoảng 36 ngày đối với nhóm trẻ có
cân nặng lúc sinh > 1000g và khoảng 81 ngày
đối với nhóm trẻ có cân nặng lúc sinh ≤ 1000g.
Như vậy, thời gian nằm viện có lẽ liên quan
nhiều đến cân nặng lúc sinh hơn là yếu tố thở máy.
Trong nghiên cứu của chúng tôi không ghi
nhận trường hợp nào tử vong, các biến chứng
cũng ít và tỉ lệ thấp, ngoại trừ viêm phổi liên
quan thở máy. Thật sự tử vong sơ sinh liên
quan đến rất nhiều yếu tố, nhất là tuổi thai và
cân nặng lúc sinh, cùng các chăm sóc sơ sinh,
chứ không riêng gì yếu tố thở máy. Tuy nhiên,
do cỡ mẫu nghiên cứu của chúng tôi khá ít
nên các kết quả có thể chưa phản ánh đúng
với thực tế lâm sàng, đây cũng là một điểm
hạn chế của đề tài. Hơn nữa, nghiên cứu của
chúng tôi chỉ là nghiên cứu mô tả nên cũng có
giá trị hạn chế.

178

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018
KẾT LUẬN
Qua thời gian nghiên cứu ngắn, tuy rằng có
nhiều hạn chế, nhưng bước đầu chúng tôi nhận
thấy kiểu thở giới hạn thể tích có thể ổn định
PaCO2 và nên ứng dụng cho các trường hợp độ

giãn nở phổi cải thiện sau bơm Surfactant với
điều kiện là có máy thở kiểm soát được thể tích
nhỏ phù hợp cho đối tượng sơ sinh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Cam Ngọc Phượng (2004), Hiệu quả thông khí nhẹ nhàng trong
hồi sức hô hấp thoát vị hoành bẩm sinh tại Bệnh viện Nhi Đồng
1, Đại học Y Dược TP.HCM, tr.21
2. Cheema IU, Sinha AK, Kempley ST (2007), “Impact of volume
guarantee ventilation on arterial carbon dioxide tension in
newborn infants: a randomised controlled trial”, Early Hum Dev,
83 (3), pp.183-9.
3. Chowdhury O, Patel DS, Hannam S, (2013), “Randomised trial
of volume-targeted ventilation versus pressure-limited
ventilation in acute respiratory failure in prematurely born
infants”, Neonatology, 104 (4), pp.290-4.
4. Collins MP, Lorenz JM, Jetton JR (2001), “Hypocapnia and other
ventilation-related risk factors for cerebral palsy in low birth
weight infants”, Pediatr Res, 50 (6), pp.712-9.
5. D'Angio CT, Chess PR, Kovacs SJ (2005), “Pressure-regulated
volume control ventilation vs synchronized intermittent
mandatory ventilation for very low-birth-weight infants: a
randomized controlled trial”, Arch Pediatr Adolesc Med, 159 (9),
pp.868-75.
6. Delivoria-Papadopoulos M, Levison H, Swyer PR (1965),
“Intermittent positive pressure respiration as a treatment in
severe respiratory distress syndrome”, Arch Dis Child, 40 (213),
pp.474-9.

7. Dreyfuss D, Soler P, Basset G (1988), “High inflation pressure
pulmonary edema. Respective effects of high airway pressure,
high tidal volume, and positive end-expiratory pressure”, The
American review of respiratory disease, 137 (5), pp.1159-64.
8. Duman N, Tuzun F, Sutcuoglu S (2012), “Impact of volume
guarantee on synchronized ventilation in preterm infants: a
randomized controlled trial”, Intensive care medicine, 38 (8),
pp.1358-64.
9. Erickson SJ, Grauaug A, Gurrin L (2002), “Hypocarbia in the
ventilated preterm infant and its effect on intraventricular
haemorrhage and bronchopulmonary dysplasia”, Journal of
paediatrics and child health, 38 (6), pp.560-2.
10. Fabres J, Carlo WA, Phillips V (2007), “Both extremes of arterial
carbon dioxide pressure and the magnitude of fluctuations in
arterial carbon dioxide pressure are associated with severe
intraventricular hemorrhage in preterm infants”, Pediatrics, 119
(2), pp.299-305.
11. Guven S, Bozdag S, Saner H (2013), “Early neonatal outcomes of
volume guaranteed ventilation in preterm infants with
respiratory distress syndrome”, The journal of maternal-fetal &
neonatal medicine: the official journal of the European
Association of Perinatal Medicine, the Federation of Asia and
Oceania Perinatal Societies, the International Society of Perinatal
Obstet, 26 (4), pp.396-401.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 4 * 2018
12. Keszler M, Abubakar K (2004), “Volume guarantee: stability of
tidal volume and incidence of hypocarbia”, Pediatric
pulmonology, 38 (3), pp.240-5.

13. Keszler M, Morley CJ (2017), “Tidal Volume-Targeted
Ventilation”. Assisted Ventilation of the Neonate, 6th ed,
Elsevier, pp.195-204.e1.
14. Klingenberg C, Wheeler KI, Owen LS (2011), “An international
survey of volume-targeted neonatal ventilation”, Archives of
disease in childhood Fetal and neonatal edition, 96 (2), pp.F146-8.
15. Lista G, Colnaghi M, Castoldi F (2004), “Impact of targetedvolume ventilation on lung inflammatory response in preterm
infants with respiratory distress syndrome (RDS)”, Pediatric
pulmonology, 37 (6), pp.510-4.
16. Murdock AI, Linsao L, Reid MM (1970), “Mechanical ventilation
in the respiratory distress syndrome: a controlled trial”, Arch Dis
Child, 45 (243), pp.624-33.
17. Nafday SM, Green RS, Lin J (2005), “Is there an advantage of
using pressure support ventilation with volume guarantee in the
initial management of premature infants with respiratory
distress syndrome? A pilot study”, Journal of perinatology: official
journal of the California Perinatal Association, 25 (3), pp.193-7.
18. Northway WH, Rosan RC, Porter DY (1967), “Pulmonary
disease following respirator therapy of hyaline-membrane
disease. Bronchopulmonary dysplasia”, The New England journal
of medicine, 276 (7), pp.357-68.
19. Patel RM, Kandefer S, Walsh MC (2015), “Causes and Timing of
Death in Extremely Premature Infants from 2000 through 2011”,
New England Journal of Medicine, 372 (4), pp.331-40.
20. Phan Hữu Nguyệt Diễm (2009), “Chỉ định, hiệu quả và biến
chứng của thở máy rung tần số cao trong điều trị suy hô hấp ở
trẻ sơ sinh tại bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 04/2006 đến tháng
2008”, Tạp chí Y Học TPHCM, 13 (1), pp.45-50.
21. Piotrowski A, Sobala W, Kawczynski P (1997), “Patient-initiated,
pressure-regulated, volume-controlled ventilation compared

with intermittent mandatory ventilation in neonates: a

Nghiên cứu Y học

22.

23.

24.

25.

26.

27.

prospective, randomised study”, Intensive care medicine, 23 (9),
pp.975-81.
Shah S, Kaul A (2013), “Volume targeted ventilation and arterial
carbon dioxide in extremely preterm infants”, J Neonatal Perinatal
Med, 6 (4), pp.339-44.
Singh J, Sinha SK, Clarke P (2006), “Mechanical ventilation of
very low birth weight infants: is volume or pressure a better
target variable?”, The Journal of pediatrics, 149 (3), pp.308-13.
Sinha SK, Donn SM, Gavey J (1997), “Randomised trial of
volume controlled versus time cycled, pressure limited
ventilation in preterm infants with respiratory distress
syndrome”, Archives of disease in childhood Fetal and neonatal
edition, 77 (3), pp.F202-5.
Thome UH, Carroll W, Wu TJ (2006), “Outcome of extremely

preterm infants randomized at birth to different PaCO2 targets
during the first seven days of life”, Biology of the neonate, 90 (4),
pp.218-25.
Võ Đức Trí, Cam Ngọc Phượng (2007), “Hiệu quả và chiến lược
thở máy rung tần số cao trong điều trị suy hô hấp nặng ở trẻ sơ
sinh”, Tạp chí Y Học TPHCM, 11 (4), pp.22-8.
Wheeler KI, Klingenberg C, Morley CJ (2011), “Volume-targeted
versus pressure-limited ventilation for preterm infants: a
systematic review and meta-analysis”, Neonatology, 100 (3),
pp.219-27.

Ngày nhận bài báo:

09/03/2018

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

11/05/2018

Ngày bài báo được đăng:

30/06/2018

179



×