Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Hiệu quả thực hiện luật thuế giá trị gia tăng ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 141 trang )

                                             
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

ĐỖ KHẮC QUẢN

HIỆU QUẢ THỰC HIỆN LUẬT THUẾ 
GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 

 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ 

 


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

ĐỖ KHẮC QUẢN

HIỆU QUẢ THỰC HIỆN LUẬT THUẾ 
GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ 
MàSỐ: 60 31 01 02 

  
                                                               
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS PHÙNG VĂN NHƯ


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
Giá trị gia tăng 
Kinh tế thị trường
Ngân sách Nhà nước
Thu nhâp ca nhân                  
̣
́
 
Xã hội chủ nghĩa

CHỮ VIẾT TẮT
GTGT
KTTT
NSNN
TNCN
XHCN


MỤC LỤC
Trang 
3
MỞ ĐẦU
Chương  CƠ   SỞ   LÝ   LUẬN,   THỰC   TIỄN   VỀ   HIỆU   QUẢ  10
1

THỰC HIỆN LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ  GIA TĂNG Ở 
NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Những vấn đề  chung về  thuế  giá trị  gia tăng và hiệu  10
quả thực hiện Luật Thuế giá trị gia tăng  
1.2. Kinh nghiệm của một số  quốc gia về  thực hiện Luâṭ   26

thuế giá trị gia tăng ­ một số vấn đề rút ra đối với Việt 

Nam  
Chương  THỰC   TRẠNG   HIỆU   QUẢ   THỰC   HIỆN   LUẬT  38
2

THUẾ   GIÁ   TRỊ   GIA   TĂNG   Ở   NƯỚC   TA   HIỆN 
NAY 
2.1. Đánh giá hiệu quả thực hiện Luật Thuế giá trị gia tăng  38
ở Việt Nam ­ những mặt tích cực và hạn chế
2.2. Nguyên   nhân   cuả   thanh
̀   tựu,   haṇ   chế  trong   viêc̣   thực  68

hiên Luât thuê gia tri gia tăng 
̣
̣
́ ́ ̣
ở nước ta hiên nay
̣
Chương  QUAN  ĐIỂM VÀ GIẢI  PHÁP NÂNG CAO HIỆU  74
3

QUẢ  SỬ   DỤNG   THUẾ   GIÁ   TRỊ   GIA   TĂNG   Ở 
NƯỚC TA TRONG THƠI GIAN T
̀
ƠÍ
3.1. Quan   điểm   về   thực   hiện   Luật   Thuế   GTGT   ở   Việt  74
Nam
3.2. Một số  giải pháp chủ  yếu nhằm nâng cao hiệu quả  77
thực hiện Luật Thuế  giá trị  gia tăng  ở  Việt Nam hiện 


nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

92
93
97


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Hệ thống thuế, phí 
có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển  
kinh tế xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Trong các sắc thuế 
hiện hành, chi phối mạnh mẽ nhất đến toàn bộ  đời sống kinh tế, xã hội là 
thuế GTGT.  
 

Luật Thuế giá trị gia tăng của nước ta được Quốc hội khoá IX thông 

qua ngày 10 tháng 5 năm 1997, tại kỳ  họp thứ  11, có hiệu lực thi hành từ 
01/01/1999 và thay thế cho thuế thu doanh thu. Quá trình từ khi được triển  
khai thực hiện đến nay, Luật Thuế  GTGT đã được sửa đổi, bổ  sung, ban  
hành mới nhiều lần nhằm tháo gỡ kịp thời những vướng mắc phát sinh cho 
phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang hội 
nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa và 
tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Luật Thuế 

GTGT đi vào cuộc sống đã và đang tác động tích cực đến kinh tế, xã hội, an  
ninh quốc phòng của đất nước. Việc thực hiện thuế giá trị gia tăng đã góp  
phần làm tăng thu cho NSNN, giúp nhà nước quản lý và điều tiết nền kinh  
tế thị trường định hướng XHCN vận động và phát triển đạt được nhiều chỉ 
tiêu kinh tế xã hội quan trọng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân và tính chất 
đặc thù của nền kinh tế  thị trường định hướng XHCN nên hiệu quả  thực 
hiện Luật Thuế  GTGT  ở  nước ta có mặt chưa cao, xét trên cả  góc độ  là 
nguồn thu cho NSNN và công cụ để  nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh  
tế. Trên tinh thần đó, vấn đề  thực tiễn đang đặt ra là phải nghiên cứu, đề 
xuất các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc nhằm  
từng bước nâng cao hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT ở Việt Nam. 


4
Xuất phát từ  các lý do trên, tác giải đã chọn: “Hiệu quả  thực hiện  
Luật Thuế giá trị gia tăng ở nước ta hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ 
kinh tế. 
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Thuế GTGT đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có  
Việt Nam. Những vấn đề xung quanh thuế GTGT và thực hiện Luật Thuế 
GTGT đã được nhiều tác giả bàn luận đến  ở  các góc độ  khác nhau, từ  đề 
tài nghiên cứu các cấp, các luận văn, luận án cho đến các bài báo khoa học.
Dưới góc độ  hệ  thống chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng  
và nhà nước.  Từ  năm 1997 đến nay, Quốc hội nước ta đã ban hành và  
nhiều lần sửa đổi Luật Thuế GTGT. Sau mỗi lần ban hành và sửa đổi Luật  
Thuế, Chính phủ, Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế đã có văn bản hướng dẫn 
về thi hành Luật Thuế GTGT. Đến nay, đã có rất nhều văn bản quy phạm  
pháp luật có liên quan đến nội dung, tổ  chức, triển khai,  áp dụng Luật 
Thuế GTGT. 
Dưới góc độ  đề  tài khoa học các cấp. Tiêu biểu có đề  tài cấp Bộ 

của tác giả Nguyễn Ngọc Hùng ở Trường Đại học Kinh tế Thành phố  Hồ 
Chí Minh bàn về  “Những tác động về  kinh tế  ­ xã hội của thuế  GTGT và 
hướng hoàn thiện thuế GTGT ở Việt Nam”. Trong đề tài này, nhóm tác giả 
đã đề  cập một cách khá toàn diện những tác động về  mặt kinh tế, xã hội 
của Luật Thuế GTGT sau 5 năm thực hiện ở Việt Nam. Trên cơ sở sự đánh  
giá này, nhóm tác giả  cũng đã phân tích, chỉ  ra những điểm còn bất cập 
trong nội dung của Luật Thuế GTGT năm 1997, đã sửa đổi, bổ  sung 2003  
từ đó tiếp tục đề  xuất các giải pháp hoàn thiện Luật Thuế GTGT cho phù  
hợp với điều kiện Việt Nam. Cùng với đề  tài cấp Bộ  của tác giả  Nguyễn 
Ngọc Hùng còn một số đề tài khác cũng liên quan đến đề tài luận văn.


5
Dưới góc độ luận văn, luận án. Lý Thị Thùy Trang với đề tài “Đánh  
giá hiệu quả quản lý thuế GTGT, thuế  thu nhập doanh nghiệp tại Chi cục  
thuế   huyện   Tân   Châu,   tỉnh   An   Giang”,  đăng   trên   />van/danh­gia­hieu­qua­quan­ly­thue­gia­tri­gia­tang­thue­thu­nhap­doanh­
nghiep­tai­chi­cuc­thue­huyen­tan­chau­tynh­an­giang­311700.   Trong   luận 
văn này, Lý Thị Thùy Trang đã bàn một khía cạnh khá sâu xung quanh việc 
triển khai, tổ  chức thực hiện Luật Thuế  GTGT  đó là hiệu quả  quản lý 
thuế. Nghiên cứu đề  tài này có thể  thấy, đối tượng nghiên cứu của đề  tài 
“Đánh giá hiệu quả  quản lý thuế  GTGT, thuế  thu nhập doanh nghiệp tại 
Chi cục thuế huyện Tân Châu, tỉnh An Giang” vừa rộng, vừa hẹp hơn đối 
tượng nghiên cứu của đề tài luận văn của tác giả. Vấn đề  này được minh 
chứng  ở  chỗ, đề  tài của Lý Thị  Thùy Trang không chỉ  nghiên cứu về  thuế 
GTGT, mà còn nghiên cứu cả  về  thuế  thu nhập doanh nghiệp. Thêm vào  
đó, phạm vi nghiên cứu của đề  tài của đề  tài “Đánh giá hiệu quả  quản lý 
thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp tại Chi cục thuế huyện Tân Châu, 
tỉnh An Giang”  hẹp hơn nhiều so với đề  tài luận văn bàn về  “Hiệu quả 
thực hiện Luật Thuế GTGT ở Việt Nam”. 
Cùng với Lý Thị Thùy Trang còn có tác giả Mai Thị Mai Hoa nghiên 

cứu về  “Định hướng hoàn thiện chính sách thuế  trong bối cảnh tài chính 
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế tại Việt Nam” trong Luận văn Thạc sĩ kinh 
tế của Trường Đại Học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả của luận 
văn đã luận giải khá thuyết phục về những mặt tích cực và hạn chế  trong 
chính sách thuế  của Việt Nam. Tác giả  cũng đã nghiên cứu về  những tác  
động của bối cảnh tài chính hóa và hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế của  
Việt Nam đến việc thực thi chính sách thuế, trong đó có thuế  GTGT  ở 
nước ta. Từ những kết quả nghiên cứu trên, tác giả đã đề xuất định hướng  
hoàn thiện chính sách thuế của Việt Nam.  


6
Năm 2010, Tác giả Hoàng Vũ Diệu Thúy của Trường Đại học Xây 
dựng  đã bảo vệ  thành công đề  tài luận văn cao học "Nghiên cứu một số 
giải pháp nâng cao hiệu quả  sử  dụng vốn Ngân sách Nhà nước trong lĩnh 
vực đầu tư  xây dựng trên địa bàn thành phố  Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình". 
Ở  đề  tài này, với đối tượng nghiên cứu là “hiệu quả  sử  dụng vốn NSNN 
cho đầu tư  xây dựng”, tác giả  đã hệ  thống hoá lý luận về  hiệu quả  sử 
dụng vốn đầu tư  xây dựng thuộc NSNN; Đánh giá hiệu quả  sử  dụng vốn  
thuộc NSNN trong lĩnh vực đầu tư  xây dựng trên địa bàn thành phố  Đồng  
Hới, tỉnh Quảng Bình và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 
đầu tư  xây dựng thuộc NSNN  ở  thành phố  Đồng Hới. Cả  về  mặt lý luận 
và thực tiễn cho thấy, nguồn thu từ  thuế, trong đó có thuế  GTGT và các 
nguồn thu khác hình thành nên NSNN và NSNN được sử  dụng chi tiêu vào 
các nhiệm vụ  khác nhau. Vì thế, cách tiếp cận về  nâng cao hiệu quả  sử 
dụng vốn Ngân sách Nhà nước có những nét tương đồng so với nâng cao  
hiệu quả  thực hiện Luật Thuế  GTGT nhưng không nhiều, chỉ  dừng lại  ở 
cách tiếp cận về hiệu quả. 
Bên cạnh luận văn của các tác giả  Lý Thị  Thùy Trang, Mai Thị  Mai 
Hoa còn nhiều luận văn khác cũng bàn đến những vấn đề xung quanh việc 

thực hiện Luật Thuế  GTGT, tiêu biểu như  Đào Thị  Ngọc Ánh với đề  tài 
luận văn thạc sỹ  “Pháp luật về  khấu trừ  và hoàn thuế  GTGT tại Việt  
Nam”, chuyên ngành luật Kinh tế, bảo vệ  năm 2011 hay   “Thực tiễn áp  
dụng luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn  
thiện

 

Luật

 

Thuế 

giá 

trị 

gia

 

tăng” 

trên 

  /00050000937.pdf;   đề   án  “Thực  
trạng, vai trò và giải pháp hoàn thiện thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam” trên 



7
/>thue­gia­tri­gia­tang­o­viet­nam­13249....
Dưới góc độ  các bài báo khoa học. Trên địa chỉ  website http://www. 
dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?
co_id=30597&cn_id=215529. Tác giả Phạm Thế Duyệt bàn về “Chỉ thị Số 
44­CT/TW ngày 04 tháng 11 năm 1998 của Bộ Chính trị về  tăng cường sự 
lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện Luật Thuế  giá trị  gia tăng và các 
Luật Thuế mới”. Trong bài viết này, tác giả đã nêu rõ, Luật Thuế GTGT là  
một loại thuế mới áp dụng ở  Việt Nam, để  đảm bảo một cách chắc chắn  
cho Luật Thuế GTGT thực sự phát huy tác dụng trong phát triển kinh tế thị 
trường định hướng XHCN, hướng tới hoàn thành các mục tiêu của thời kỳ 
quá độ  lên CNXH, Đảng phải tăng cường lãnh đạo quá trình triển khai, tổ 
chức thực hiện Luật Thuế GTGT. 
Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện Luật Thuế GTGT, trước  
tình hình trốn thuế  có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp  ở các địa 
phương và trên cả nước dưới chiêu bài “lỗ giả, lãi thật”, các cơ quan thuế 
lúng túng trong xử lý nợ đọng thuế, hàng loạt các bài báo khoa học đã được 
các nhà khoa học bàn về  tình trạng thất thu thuế, thất thu ngân sách nhà  
nước và đề xuất các giải pháp chống thất thu ngân sách nhà nước, nâng cao 
hiệu quả của công tác quản lý ngân sách nhà nước, thuế và thuế GTGT … 
tiêu biểu có  Ka Ka với “Chú trọng chống thất thu, tăng cường xử  lý nợ  
đọng thuế”; Hiểu Trân nêu vấn đề  cần “Tăng cường công tác thu hồi nợ  
thuế”  trên   />cong­tac­thu­hoi­no­thue­2164217/hoặc  Hoàng   Hải   Vân  với   “Một   cách  
chống thất thu thuế ở Trung Quốc”… 


8
Bài biết của Ka Ka không chỉ phân tích và chỉ  ra rằng quá trình thực  
hiện Luật Thuế GTGT và các thuế khác, do nhiều nguyên nhân, chúng ta đã 
để  thất thu một lượng thuế  khá lớn và còn nhiều doanh nghiệp đang nợ 

thuế khó thu hồi, mà còn đặt ra yêu cầu phải chống thất thu thuế và xử lý  
nợ đọng thuế một cách kiên quyết và triệt để. Từ thực trạng thất thu thuế 
ở  Trung Quốc với  nhiều cách thức và biện pháp tinh vi của các doanh 
nghiệp, tổ  chức kinh tế, Hoàng Hải Vân đã nêu những biện pháp tích cực  
mà chính phủ Trung Quốc đã áp dụng để chống thất thu thuế, đảm bảo sự 
công bằng và nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Kinh nghiệm của Trung  
Quốc có thể nghiên cứu, ứng dụng  ở Việt Nam để  thực hiện có hiệu quả 
Luật Thuế GTGT.
Khi phân tích những nguyên nhân của tình trạng thất thu, nợ  đọng  
khó thu hồi thuế, trong đó có thuế GTGT, Đặng Văn Thanh có nêu “Những  
vấn đề  đặt ra với kiểm toán thuế  và giải pháp nâng cao chất lượng” trên 
Tạp chí kiểm toán số 8/2011. Bài viết này đã chỉ ra các vấn đề mà công tác 
kiểm toán thuế  cần đặc biệt chú ý để  đảm bảo kê khai, thu thuế, hoàn 
thuế… diễn ra theo đúng trình tự, thủ  tục pháp luật, đảm bảo sự  minh  
bạch, công bằng cho các chủ doanh nghiệp và cải thiện nguồn thu cho ngân 
sách nhà nước. 
Có thể  nói rằng, hiệu quả  thực hiện Luật Thuế  GTGT phụ  thuộc  
nhiều yếu tố, trong đó có việc áp ngưỡng tính thuế  GTGT. Các nước áp 
dụng thuế GTGT căn cứ vào điều kiện cụ thể để thực hiện việc áp ngưỡng 
tính thuế. Năm 2013, trước những băn khoăn về áp ngưỡng tính thuế GTGT, 
Hội Tư vấn thuế Việt Nam đã có bài “Áp ngưỡng tính thuế GTGT tại Việt  
Nam: một số  vấn đề  đặt ra”  đăng trên  />nguong­tinh­thue­GTGT­tai­Viet­Nam­mot­so­van­de­dat­ra­35.htm.   Bài 


9
viết này đã phân tích sâu vấn đề  áp ngưỡng tính thuế dưới góc độ  kinh tế 
học, tài chính trên cơ sở chỉ rõ những thông lệ quốc tế về ngưỡng đăng ký 
thuế GTGT ở các nước trên thế giới, trong khu vực, từ đó chỉ ra rằng, cần  
làm rõ tại các văn bản dưới luật những vấn đề  như  trường hợp có doanh 
thu biến động so với mức ngưỡng, cách xác định doanh thu ngưỡng … nâng 

cao hiệu quả  áp dụng thuế  GTGT  ở  Việt Nam . Phạm Hoàng cũng bàn về 
“Một số  biện pháp góp phần hoàn thiện Luật Thuế  giá trị  gia tăng đến  
2020”,  trên   />bien­phap­gop­phan­hoan­thien­luat­thue­gia­tri­gia­tang­den­2020/200/1  và 
nhiều bài viết của các tác giả khác.
Mặc dù có nhiều công trình đã được công bố có liên quan đến đề tài  
luận văn nhưng chưa có bài viết hay công trình nào bàn đến một cách trực  
tiếp về hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu 
Nghiên cứu, luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn về hiệu quả thực hiện 
Luật Thuế GTGT; đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu 
quả thực hiện Luật Thuế GTGT ở nước ta hiện nay.  
* Nhiệm vụ nghiên cứu
­ Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn về hiệu quả thực hiện Luật Thuế 
GTGT. 
­ Đánh giá hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT  ở Việt Nam từ khi 
thực hiện đến nay (chủ  yếu 5 năm gần đây) và chỉ  rõ các nguyên nhân cơ 
bản.
­ Đề  xuất một số  giải pháp chủ  yếu nhằm nâng cao hiệu quả  thực  
hiện Luật Thuế GTGT ở Việt Nam trong những năm tới.


10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
   

* Đối tượng nghiên cứu của đề tài :  Hiệu quả thực hiện Luật Thuế 

GTGT .
* Phạm vi nghiên cứu: Trong đề tài này, thuế GTGT được hiểu cùng 

với các nguồn thu khác tạo thành ngân sách nhà nước để  dùng cho nhiều 
hoạt động kinh tế, xã hội; Việc đánh giá hiệu quả  thực hiện Luật Thuế 
GTGT được tiến hành chủ yếu trong thời gian từ năm 2008 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở ly luân
́ ̣
Đề  tài dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của  
chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chính 
sách, luật pháp của Đảng, Nhà nước xung quanh việc thực hiện Luật Thuế 
GTGT.
* Phương phap nghiên c
́
ưu
́
Luận văn sử  dụng hệ  thống các phương pháp nghiên cứu của khoa  
học xã hội và nhân văn, đặc biệt là phương pháp nghiên cứu đặc thù của 
Kinh tế Chính trị Mác Lênin là phương pháp trừu tượng hóa khoa học. Bên 
cạnh đó, đề  tài luận văn cũng sử  dụng các phương pháp nghiên cứu khác 
như phân tích, tổng hợp, khái quát, thống kê xã hội học, tổng kết thực tiễn  
và phương pháp chuyên gia và tham khảo các công trình khoa học đã công 
bố.
6. Ý nghĩa của đề tài 
­ Làm phong phú thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh 
việc nhà nước thực hiện các công cụ trong quản lý, điều tiết nền kinh tế.
­ Đề  tài có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy môn Kinh tế 
Chính trị Mác Lênin.  


11
7. Kết cấu của đề  tài: Ngoài mở  đầu, kết luận, danh mục tài liệu 

tham khảo, đề tài gồm 3 chương, 6 tiết. 


12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Những vấn đề  chung về  thuế  giá trị  gia tăng và hiệu quả 
thực hiện Luật thuế Giá trị gia tăng  
1.1.1. Những vấn đề chung về Luật thuế Giá trị gia tăng 
Từ  khi xuất hiện nhà nước, các loại thuế, phí đã được đặt ra. Thuế 
là một khoản đóng góp bắt buộc của các thể nhân và pháp nhân, được nhà 
nước qui định thông qua hệ thống pháp luật nhằm đáp ứng các nhu cầu chi  
tiêu của nhà nước. Đồng thời, thuế  là công cụ  điều tiết kinh tế  linh hoạt  
nhạy bén và hiệu quả đối với nền kinh tế. Tính hợp lý của các hình thức và  
biện pháp thuế khiến cho thuế trở thành  công cụ điều tiết sắc bén, đa diện 
và thâm nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế  xã hội. Trải qua lịch sử  phát 
triển của xã hội loài người, các loại thuế, phí không ngừng biến đổi cả về 
tên gọi và số lượng. 
 

Thuế  GTGT là một trong những sắc thuế  hiện đại, theo tiếng Anh 

được viết là Value Added Tax (VAT) do một nhà kinh tế học người Pháp là 
Maurice Lauré  đề  xuất vào năm  1954, khi là giám đốc cơ  quan thuế  của 
Pháp (Direction générale des impôts), dưới tên gọi taxe sur la valeur ajoutée 
(TVA). Ngày 10 tháng 4 năm 1954, thuế GTGT lần đầu tiên được áp dụng 
đối với các doanh nghiệp lớn của Pháp. Sau quá trình thử  nghiệm, trước  
những ích lợi mà thuế GTGT mang lại, thuế GTGT đã được mở rộng theo  
thời gian tới tất cả các bộ  phận của nền kinh tế. Thuế GTGT thật sự  trở 

thành nguồn thu quan trọng nhất, chiếm tới khoảng 45% lượng thu của  
ngân khố  quốc gia. Sau khi xuất hiện  ở Pháp, thuế  GTGT đã nhanh chóng 


13
được áp dụng rộng rãi ở  các nước trên thế  giới. Tại một số  quốc gia như 
Canada,  New   Zealand,  Singapore,  thuế  GTGT   được   gọi   là   "goods   and 
services tax" (viết tắt GST) nghĩa là thuế  hàng hóa và dịch vụ. Tại  Nhật 
Bản, thuế GTGT được biết đến với tên gọi "thuế tiêu thụ" ­ một loại thuế 
gián thu, được đánh vào người tiêu dùng cuối cùng, mặc dù chủ  thể  đem 
nộp nó cho cơ  quan thu là các  doanh nghiệp. Hiện tại, trên 130 nước  ở 
Châu Phi, Châu Mỹ  Latinh, Châu Âu, Châu Á, trong đó có Việt Nam đã và 
đang thực hiện thuế GTGT như một công cụ hữu hiệu nhất để quản lý và  
điều tiết nền kinh tế. 
Theo các nhà nghiên cứu, một loại thuế được coi là lý tưởng khi nó 
thỏa mãn bốn tiêu chuẩn: 
Môt là
̣ , đơn giản về  mặt kỹ  thuật, tức là không tạo ra cơ  hội trốn  
thuế;     
Hai là hiệu quả về mặt tài chính, tức là có năng suất cao;    
Ba là, công bằng về mặt xã hội, tức là đưa lại kết quả phân phối lại 
của cải xã hội 
Bôn la
́ ̀, có tác dụng khuyến khích về  mặt kinh tế, tức là có tác động 
thúc đẩy kinh tế phát triển  
Xét theo bốn tiêu chuẩn này, Luât thu
̣
ế GTGT thể hiện tính hơn hẳn 
của nó so với thuế doanh thu. 
Thứ nhất, về kỹ thuật Luât thu

̣
ế GTGT đơn giản hơn thuế DT. Nếu  
thuế  doanh thu bao gồm 11 mức thay đổi từ  0% đến 40% thì thuế  GTGT 
chỉ  bao gồm 3 mức (không kể  thuế  suất 0% đối với hàng hóa xuất khẩu)  
thay đổi từ  5% đến 20%. Điều này giúp giảm đáng kể  hiện tượng trốn  
thuế. 
Thứ hai, Luât thu
̣
ế GTGT hiệu quả hơn về tài chính thể hiện ở cơ sở 
tính thuế  của nó rộng hơn. Về  nguyên tắc, Luât thu
̣
ế  GTGT đánh trên tất  


14
cả  mọi hàng hóa, dịch vụ  (HHDV) tiêu dùng cuối cùng (trừ  những trường  
hợp miễn thuế). 
Thứ  ba, về  mặt xã hội Luât thu
̣
ế  GTGT công bằng hơn nhờ  vào cơ 
chế  đánh thuế  của nó với mức thuế  suất thấp đánh vào các mặt hàng tiêu 
dùng thông thường và mức cao đánh vào các mặt hàng xa xỉ, nhờ đó nó góp 
phần vào phân phối lại thu nhập. 
Thứ tư, Luât thu
̣
ế GTGT có tác dụng khuyến khích hơn về mặt kinh 
tế nhờ  vào cơ  chế khấu trừ thuế đầu vào và miễn thuế  đối với hàng xuất  
khẩu. 
Đặc biệt  ở  đây chúng tôi muốn nhấn mạnh một  ưu thế  quan trọng  
nổi bật của Luât thu

̣
ế  GTGT, đó là Luât thu
̣
ế  GTGT giải quyết được vấn 
đề  đánh thuế  trùng lặp của thuế  DT, bởi vì nó chỉ  đánh một lần duy nhất 
trên giá trị  của hang hoa dich vu tiêu dùng cu
̀
́ ̣
̣
ối cùng không phụ  thuộc vào 
độ dài của chu kỳ sản xuất và tiêu thụ các hang hoa dich vu này
̀
́ ̣
̣
Quá trình áp dụng Luât thu
̣
ế  GTGT, người ta đã đưa ra nhiều quan 
niệm về  Luât 
̣ thuế GTGT. Theo cách hiểu chung nhất, Luâṭ   thuế GTGT là  
thuế  đánh trên phần giá trị  gia tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ  phát sinh  
trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được thu  ở  khâu tiêu  
thụ hàng hoá, dịch vụ. 
Dưới góc độ  kinh tế  chính trị, sự  tồn tại và phát triển của xã hội 
không thể tách rời với quá trình tái sản xuất ­ thực chất là sự lặp đi, lặp lại 
của sản xuất. Quá trình tái sản xuất xã hội gồm 4 khâu quan hệ biện chứng, 
tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu 
dùng. Để 4 khâu trên vận hành liên tục, đạt được các mục tiêu, yêu cầu phát 
triển kinh tế xã hội trong mỗi giai đoạn, thời kỳ lịch sử, nhà nước cần phải  
thực hiện vai trò điều tiết trên cơ  sở  sử  dụng những công cụ, trong đó có 



15
thuế. Điều đáng chú ý là qua mỗi khâu của quá trình tái sản xuất, giá trị của 
hàng hóa, dịch vụ có thể tăng thêm, nhất là đối với những hàng hóa, dịch vụ 
được tiêu dùng cho sản xuất. Trước đây, người ta không tính đến phần tăng  
thêm về giá trị của hàng hóa, dịch vụ trong tay mỗi chủ thể của quá trình sản  
xuất kinh doanh mà chỉ quan tâm đến doanh số, từ đó quy định mức thuế thu  
nhập mà doanh nghiệp phải trực tiếp nộp cho nhà nước. Khi Luât thu
̣
ế 
GTGT ra đời đã thay thế cho thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngoài việc tạo ra 
nguồn thu lớn hơn cho ngân sách nhà nước, Luât thu
̣
ế  GTGT thật sự  trở 
thành công cụ đắc lực cho nhà nước trong hoạt động quản lý, điều tiết một 
cách hiệu quả  nền kinh tế. Muốn thúc đẩy hay hạn chế  sự  phát triển của 
ngành, lĩnh vực nào, bên cạnh các công cụ  và chính sách kinh tế  khác, nhà 
nước có thể  thay đổi mức thuế  GTGT ­ điều mà  ở  thuế  doanh thu rất khó  
thực hiện. 
Từ  cách hiểu chung nhất và từ  sự  phân tích quá trình tái sản xuất nêu 
trên, dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị có thể thấy rằng,  Luâṭ  thuế GTGT  
là một trong những công cụ  quản lý vĩ mô của nhà nước, thay thế  cho thuế  
doanh thu, được áp dụng cho phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ qua  
mỗi khâu của quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. 
Ở   Việt   Nam,   Luật   Thuế   GTGT   số   57/1997/L­CTN   lần   đầu   tiên 
được ban hành vào ngày 10/5/1997, chính thức đưa vào áp dụng từ 1/1/1999  
thay thế  cho thuế  thu nhập doanh nghiệp (thuế doanh thu)  ở những doanh  
nghiệp lớn thuộc các thành phần kinh tế. Sau 4 năm thực hiện, trước những  
thành tựu và hạn chế  mà thuế  GTGT đã mang lại cho nền kinh tế, năm 
2003, Quốc hội đã thực hiện sửa đổi Luật Thuế GTGT năm 1997, hiệu lực 

thi hành từ  ngày 1/1/2004.  Đến năm 2008, Luật Thuế  GTGT  được  xây 
dựng và ban hành mới trên cơ sở  Luật Thuế GTGT năm 1997, sửa đổi năm 
2003, có hiệu lực từ ngày 1/1/2009. Gần đây nhất, ngày 19/6/2013, Kỳ họp 


16
thứ  năm Quốc hội khoá XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ  sung một số 
điều của Luật Thuế GTGT và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014.
Kết cấu nội dung của Luật Thuế GTGT đang có hiệu lực pháp lý ở 
Việt Nam (Luật Thuế GTGT năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2013, có hiệu  
lực thi hành từ ngày 1/1/2014) gồm 4 chương, 16 điều.
Chương 1:  Xác định những quy định chung gồm 5  điều quy định 
phạm  vi   điều chỉnh của  Luật Thuế  GTGT(  Đi ề u   1);   khái   ni ệ m   v ề 
thuế  GTGT (Điều 2);   Đối tượng chịu thuế  GTGT (Điều 3); Người nộp 
thuế GTGT (Điều 4) và  Đối tượng không chịu thuế (Điều 5).
Chương 2: Xác định căn cứ  và phương pháp tính thuế   gồm 6 điều 
(từ điều 6 đến điều 11). Điều 6 quy định căn cứ tính thuế; Điều 7 quy định 
giá tính thuế; Điều 8 quy định về  thuế  suất; Điều 9 về  phương pháp tính 
thuế; Điều 10 quy định rõ phương pháp khấu trừ thuế và Điều 11 quy định  
phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.
Chương 3:  Khấu trừ, hoàn thuế, gồm 3 điều (từ  điều 12 đến điều 
14) quy định những vấn đề  liên quan đến khấu trừ  thuế  GTGT đầu vào 
(Điều  12);  Các   trường   hợp  hoàn   thuế   (Điều  13)   và  hóa   đơn,   chứng   từ 
(Điều 14). 
Chương 4 quy định điều khoản thi hành gồm 2 điều (điều 15 và điều 
16). Điều 15 xác định hiệu lực thi hành của Luật Thuế GTGT là từ ngày 01  
tháng 01 năm 2009 và thay thế  Luật Thuế  giá trị  gia tăng năm 1997; Luật 
sửa   đổi,   bổ   sung   một   số   điều   của   Luật   Thuế  giá   trị   gia   tăng  số 
07/2003/QH11; Bãi bỏ  Điều 2 của Luật sửa đổi, bổ  sung một số  điều của 
Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thuế  giá trị gia tăng số 57/2005/QH11. 

Điều 16 quy định hướng dẫn thi hành Luật Thuế GTGT. Theo đó, Chính phủ 
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các điều 5, 7, 8, 12, 13 và các nội dung  
cần thiết khác của Luật này theo yêu cầu quản lý.


17
Nội dung, cơ bản của Luật Thuế GTGT ở Việt Nam thể hiện các vấn đề 
sau:
­ Quan niệm về thuế GTGT, đối tượng chịu thuế và không chịu thuế. 
Luật Thuế  GTGT xác định, thuế  GTGT là thuế  tính trên giá trị  tăng thêm 
của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến 
tiêu dùng“. Đối tượng chịu thuế  GTGT là hàng hoá, dịch vụ  dùng cho sản 
xuất, kinh doanh và tiêu dùng  ở  Việt Nam (bao gồm cả hàng hoá, dịch vụ 
mua của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài), trừ các đối tượng không chịu thuế 
GTGT gồm 25 danh mục (điều 5, phụ lục 1 và điều 1, phục lục 2).
­ Căn cứ tính thuế GTGT thể hiện  ở giá tính thuế, số lượng và mức  
thuế  suất.  Giá tính thuế  là một căn cứ  quan trọng để  xác định số  thuế 
GTGT phải nộp. Nguyên tắc chung xác định giá tính thuế GTGT là giá bán 
chưa có thuế  GTGT được ghi trên hoá đơn bán hàng của người bán hàng, 
người cung cấp dịch vụ hoặc giá chưa có thuế GTGT được ghi trên chứng 
từ của hàng hoá nhập khẩu. (Theo Điều 7,  Luật Thuế GTGT).
Việc lựa chọn số  l ượng và mức thuế  suất thuế  GTGT khác nhau 
tuỳ  thuộc vào quan điểm, đặc điểm kinh tế­xã hội và mục tiêu đặ t ra  
cho chính sách thuế của t ừng n ước.  Ở Vi ệt Nam, Lu ật Thu ế GTGT quy  
định 3 mức thu ế su ất là:
Một là, Mức thuế suất 0%: Là mức thuế suất áp dụng đối với các hàng 
hoá, dịch vụ xuất khẩu, vận tải quốc tế và hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế 
GTGT quy định tại điều 5 Luật Thuế GTGT số 13/QH/2008/QH12 khi xuất 
khẩu, trừ các trường hợp chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng quyền sở 
hữu trí tuệ ra nước ngoài; dịch vụ tái bảo hiểm ra nước ngoài; dịch vụ cấp tín 

dụng, chuyển nhượng vốn, dịch vụ tài chính phái sinh; dịch vụ bưu chính viễn 


18
thông; sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa qua chế 
biến.
Hai là, Mức thuế  suất 5%:  Là mức thuế  suất áp dụng đối với các 
loại hàng hoá, dịch vụ  thiết yếu phục vụ  cho sản xuất, tiêu dùng và các 
hàng hoá dịch vụ cần  ưu đãi, hàng hoá, dịch vụ  phục vụ trực tiếp cho sản  
xuất trong các lĩnh vực: nông nghiệp, y tế, giáo dục, khoa học ­ kỹ  thuật,  
nhằm thực hiện chính sách xã hội, khuyến khích đầu tư sản xuất.
Ba là, Mức thuế suất 10%: Áp dụng cho các hàng hóa, dịch vụ thông 
thường không nằm trong diện chịu các mức thuế suất nói trên và danh mục 
không áp dụng thuế  GTGT như: sản phẩm điện tử, dầu mỏ, khí đốt, sản 
phẩm may mặc, xây dựng, lắp đặt, dịch vụ tư vấn…
­ Phương pháp tính thuế GTGT. Luật Thuế GTGT quy định việc tính 
thuế  GTGT phải nộp có thể  thức hiện bằng phương pháp khấu trừ  hoặc 
phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. 
Một là, Phương pháp khấu trừ  thuế:  Phương pháp này được áp dụng 
cho tất cả  các đơn vị, tổ  chức kinh doanh, doanh nghiệp thành lập theo luật  
Doanh nghiệp Nhà nước (nay là luật Doanh nghiệp), luật doanh nghiệp, luật  
hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các đơn vị tổ chức kinh  
doanh khác được áp dụng phương pháp khấu trừ theo hướng dẫn của Bộ Tài 
chính, trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên 
GTGT theo quy định. Yêu cầu chung đối với các đối tượng nộp thuế  theo 
phuơng pháp khấu trừ là phải có đầy đủ các căn cứ, chứng từ hợp pháp để xác  
định số thuế GTGT được khấu trừ đầu vào. Số thuế phải nộp được tính như 
sau: 
Số thuế phải nộp = A  ­  B
Trong đó:



19
A: Thuế  GTGT đầu ra. Được tính bằng tích của giá tính thuế  của 
hàng hóa,dịch vụ chịu thuế bán ra và mức thuế suất thuế GTGT.
B: Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Xác định bằng cách căn cứ vào  
tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ (bao gồm  
cả tài sản cố định) dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế 
GTGT, số  thuế  GTGT ghi trên chứng từ  nộp thuế  của hàng hoá nhập khẩu 
hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay có phía nước ngoài theo hướng dẫn của 
Bộ  Tài chính áp dụng đối với các tổ  chức, cá nhân nước ngoài không có tư 
cách pháp nhân tại Việt Nam và cá nhân nước ngoài kinh doanh hoặc có thu 
nhập phát sinh tại Việt Nam. Điều kiện khấu trừ  thuế  GTGT đầu vào là 
doanh nghiêp, cá nhân có hoá đơn GTGT hợp pháp của hàng hoá, dịch vụ mua 
vào hoặc chứng từ nộp thuế GTGT khâu nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế 
GTGT thay cho phía nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ  Tài chính và có  
chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hoá, dịch vụ  mua vào từ 20  
triệu đồng trở lên. Ngoài ra Luật Thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn còn 
quy định điều kiện khấu trừ trong trường hợp hàng hoá, dịch vụ mua vào từng 
lần theo hoá đơn trên 20 triệu đồng theo giá đã có thuế GTGT nếu không có  
chứng từ thanh toán qua ngân hàng; mua hàng hoá, dịch vụ trả chậm, trả góp, 
phương thức thanh toán bù trừ, thanh toán uỷ  quyền … Hàng hoá, dịch vụ 
xuất khẩu, hoàn thuế GTGT phải đáp ứng đủ các điều kiện khấu trừ nêu trên 
và các điều kiện sau: 
Một là, Có hợp đồng theo quy định. Đó là các hợp đồng bán hàng hoá, 
gia công hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, hợp  
đồng uỷ thác xuất khẩu…


20

Hai là, Có tờ  khai hải quan hợp lệ.  Đó là tờ  khai hải quan về  hàng 
xuất khẩu có xác nhận đã xuất khẩu của cơ  quan Hải quan, trừ  một số 
trường hợp không cần tờ khai hải quan theo quy định.
Ba là, Phải thực hiện thanh toán theo yêu cầu của nhà nước.  Cụ thể 
là thanh toán qua hệ thống ngân hàng hay các hình thức thanh toán khác theo 
quy định của Chính phủ.
Bốn là, Có hóa đơn GTGT. Hóa đơn này có thể  là hóa đơn bán hàng 
hoá, dịch vụ hoặc hóa đơn đối với tiền công gia hàng hoá.
Ngoài ra Luật Thuế GTGT còn quy định điều kiện, thủ tục và hồ sơ 
để khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với một số trường hợp hàng hoá được  
coi như  xuất khẩu (gia công chuyển tiếp, xuất khẩu tại chỗ, hàng hoá do 
doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu để  thực hiện công trình xây dựng  ở 
nước ngoài).
Hai là, Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. Đối tượng áp dụng là 
cá nhân, hộ  kinh doanh, tổ  chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt  
Nam không theo luật đầu tư và các tổ chức khác không thực hiện hoặc thực  
hiện không đầy đủ  chế  độ  kế  toán, hoá đơn chứng từ  theo quy định của 
pháp luật, các cơ  sở  kinh doanh mua bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ. Số 
thuế GTGT phải nộp được tính như sau: 
Số thuế GTGT phải nộp = C x D
 

Trong đó: 
      C là GTGT của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế 
      D là thuế suất thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ.
­ Quy định về hoá đơn, chứng từ. Hoá đơn là chứng từ kế toán, có vai 

trò ghi nhận về  mặt lượng và giá trị  các giao dịch mua bán, trao đổi hàng 
hoá, dịch vụ trong đời sống, trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoá đơn 



21
không phải là chứng từ kế toán thông thường mà là chứng từ “gốc” có giá  
trị hợp pháp cao, bắt buộc phải có để  ghi sổ  kế  toán. Vì vậy nó có vai trò  
rất quan trọng đối với doanh nghiệp, người dân, công tác kế  toán và cơ 
quan thuế. Theo đó, khi mua bán hàng hoá dịch vụ  phải có hóa đơn. Việc 
lập hoá đơn là trách nhiệm của người bán hàng hoá dịch vụ, hoá đơn là căn  
cứ  kê khai tính thuế  GTGT đầu ra và hạch toán doanh số. Người mua có 
trách nhiệm lưu giữ hoá đơn, đây là căn cứ để kê khai khấu trừ thuế GTGT  
đầu vào và hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh. Ngoài ra hoá đơn còn 
dùng để thanh quyết toán tài chính cho cơ quan, còn là bằng chứng về mua  
bán hàng hoá dịch vụ. Đối với mối quan hệ  giữa cơ  quan thuế  và doanh 
nghiệp thì hoá đơn  GTGT là chứng từ  cơ sở  ban đầu dùng để  kê khai nộp 
thuế, khấu trừ, hạch toán chi phí thực tế phát sinh, hoàn thuế và xác định chi  
phí hợp lệ  khi tính thuế.  Trong điều kiện Việt Nam từ  năm 2012 trở  về 
trước,  cơ  quan thuế  thực hiện phát hành hóa  đơn, cung  ứng cho doanh  
nghiệp thực hiện Luật; chỉ  có một số  doanh nghiệp thực hiện Luật hoá 
đơn tự  in theo quy định. Kể  từ  ngày 01/01/2011, cơ  quan thuế  không bán  
hoá đơn cho các doanh nghiệp mà các doanh nghiệp phải thực hiện Luật  
hoá đơn tự in hoặc hoá đơn đặt in (trừ các doanh nghiệp siêu nhỏ và doanh  
nghiệp thành lập trên địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn thì được 
cơ quan thuế bán hoá đơn để thực hiện Luật hết năm 2011).
­ Quy định về  hoàn thuế  GTGT. Hoàn thuế  là nguyên lý tất yếu của 
thuế  GTGT khi số  thuế đầu vào mà doanh nghiệp đã nôp l
̣ ớn hơn số  thuế 
đầu ra mà doanh nghiệp phai n
̉ ộp vào NSNN. Đối tượng được hoàn thuế 
GTGT có trách nhiệm lập hồ  sơ  đề  nghị  hoàn thuế  gửi cơ  quan thuế  và  
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về  số  liệu kê khai, tính trung thực 
của hồ sơ, phải bổ sung hoặc giải trình nếu hồ sơ không rõ ràng.



22
Luât t
̣ huế  GTGT nói chung,  ở  Việt Nam nói riêng có các đặc điểm 
sau: 
Một là, Luât thu
̣
ế GTGT đánh vào các giai đoạn sản xuất kinh doanh  
nhưng chỉ  tính phần giá trị  tăng thêm của mỗi giai đoạn. Vì thế, tổng số 
thuế thu được ở các giai đoạn sẽ bằng số thuế tính theo giá bán cho người  
tiêu dùng cuối cùng. Cho nên, thực chất, thuế  giá trị  gia tăng là loại thuế 
duy nhất thu theo phân đoạn trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá từ 
khâu đầu tiên đến người tiêu dùng, khi khép kín một chu kỳ kinh tế. Do đó, 
sản phẩm, hàng hoá dù qua nhiều khâu hay ít khâu từ  sản xuất đến tiêu 
dùng, đều chịu thuế như nhau. Vì thế Luât thu
̣
ế GTGT  tạo ra sự công bằng 
trong nộp thuế  cho các doanh nghiệp, tránh được tình trạng “thuế  chồng 
thuế”, thúc đẩy các doanh nghiệp tích cực sản xuất kinh doanh.   
Hai là, Người tiêu dùng cuối cùng phải chịu thuế. Luât Thu
̣
ế  GTGT 
quy định rõ, chỉ có người bán hàng lần đầu phải nộp thuế  GTGT trên toàn  
bộ  doanh thu bán hàng. Người bán hàng  ở  các khâu tiếp theo đối với hàng 
hoá đó, chỉ  phải nộp thuế trên phần giá trị  tăng thêm. Đối tượng điều tiết 
của Luât thu
̣
ế GTGT là phần thu nhập của người tiêu dùng thực hiện Luật 
để  mua hàng hoá và dịch vụ. Như  vậy về  nguyên tắc chỉ  cần thu thuế   ở 

khâu bán hàng cuối cùng là đủ. Tuy nhiên trên thực tế rất khó phân biệt đâu 
là tiêu dùng cuối cùng và đâu là tiêu dùng trung gian vì thế  cứ  có hành vi 
mua hàng là phải tính thuế. Nếu là tiêu dùng trung gian thì số thuế đó sẽ tự 
động chuyển vào giá bán hàng cho người mua giai đoạn sau.
Ba là, Luât Thu
̣
ế GTGT có tính trung lập kinh tế cao, không chịu ảnh  
hưởng của kết quả kinh doanh. Thuế GTGT không chịu ảnh hưởng bởi kết  
quả  kinh doanh của người nộp thuế, không phải là yếu tố  của chi phí mà 
chỉ  đơn thuần là một khoản cộng thêm vào giá bán cho người cung cấp 


23
hàng hoá dịch vụ. Vấn đề  này khác với thuế  doanh thu. Thực tế cho thấy,  
tổ  chức kinh tế  có doanh số  càng cao thì càng phải nộp nhiều thuế. Các  
doanh nghiệp có cùng quy mô, sản xuất kinh doanh cùng một mặt hàng, nếu  
ở cùng một thời điểm có doanh số khác nhau thì số thuế phải nộp cũng khác  
nhau. Trong một doanh nghiệp, số thuế phải nộp trong các giai đoạn, thời kỳ 
cũng không giống nhau do phụ thuộc vào doanh số.  
Bốn là, Luât Thu
̣
ế GTGT là thuế gián thu. Thuế GTGT do người tiêu 
dùng cuối cùng phải thanh toán nhưng không phải do người tiêu dùng trực  
tiếp nộp mà là do người bán sản phẩm nộp thay vào kho bạc. Theo quy  
định, người mua hàng hoá, dịch vụ hoặc thực hiện Luật hàng hóa, dịch vụ 
cuối cùng phải thanh toán thuế GTGT được ghi trong hóa đơn giá bán hàng 
hoá. Người bán hàng giúp nhà nước thu mức thuế này để nộp vào kho bạc. 
Do thuế  GTGT có mục đích là một khoản thuế  đối với việc tiêu thụ, cho  
nên hàng  xuất khẩu  thường không phải chịu thuế  hay thuế  này đối với 
người xuất khẩu sẽ được hoàn lại.

Năm là, Luât Thu
̣
ế GTGT không bị ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức  
và phân chia các chu trình kinh tế. Như ta đã biết GTGT là phần giá trị mới,  
được tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nó được xác định bằng 
chênh lệch giữa tổng giá trị  sản xuất và tiêu thụ  với tổng giá trị  hàng hoá,  
dịch vụ mua vào tương ứng tổng GTGT ở tất cả các giai đoạn luân chuyển 
có giá trị  bằng giá bán của sản phẩm  ở  giai đoạn cuối cùng, nên việc thu 
thuế  trên GTGT  ở  từng giai đoạn đảm bảo cho tổng số  thuế  thu được  
tương đương với số thuế tính trên giá bán trong giai đoạn cuối cùng. Chính 
vì thế quá trình tổ chức kinh tế và phân chia các chu trình kinh tế có diễn ra  
dài hay ngắn hay như  thế  nào đi nữa thì thuế  GTGT cũng không bị   ảnh  


×