BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
ĐỖ KHẮC QUẢN
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN LUẬT THUẾ
GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
ĐỖ KHẮC QUẢN
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN LUẬT THUẾ
GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS PHÙNG VĂN NHƯ
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
Giá trị gia tăng
Kinh tế thị trường
Ngân sách Nhà nước
Thu nhâp ca nhân
̣
́
Xã hội chủ nghĩa
CHỮ VIẾT TẮT
GTGT
KTTT
NSNN
TNCN
XHCN
MỤC LỤC
Trang
3
MỞ ĐẦU
Chương CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ 10
1
THỰC HIỆN LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Những vấn đề chung về thuế giá trị gia tăng và hiệu 10
quả thực hiện Luật Thuế giá trị gia tăng
1.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia về thực hiện Luâṭ 26
thuế giá trị gia tăng một số vấn đề rút ra đối với Việt
Nam
Chương THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ THỰC HIỆN LUẬT 38
2
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY
2.1. Đánh giá hiệu quả thực hiện Luật Thuế giá trị gia tăng 38
ở Việt Nam những mặt tích cực và hạn chế
2.2. Nguyên nhân cuả thanh
̀ tựu, haṇ chế trong viêc̣ thực 68
hiên Luât thuê gia tri gia tăng
̣
̣
́ ́ ̣
ở nước ta hiên nay
̣
Chương QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU 74
3
QUẢ SỬ DỤNG THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở
NƯỚC TA TRONG THƠI GIAN T
̀
ƠÍ
3.1. Quan điểm về thực hiện Luật Thuế GTGT ở Việt 74
Nam
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả 77
thực hiện Luật Thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện
nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
92
93
97
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Hệ thống thuế, phí
có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Trong các sắc thuế
hiện hành, chi phối mạnh mẽ nhất đến toàn bộ đời sống kinh tế, xã hội là
thuế GTGT.
Luật Thuế giá trị gia tăng của nước ta được Quốc hội khoá IX thông
qua ngày 10 tháng 5 năm 1997, tại kỳ họp thứ 11, có hiệu lực thi hành từ
01/01/1999 và thay thế cho thuế thu doanh thu. Quá trình từ khi được triển
khai thực hiện đến nay, Luật Thuế GTGT đã được sửa đổi, bổ sung, ban
hành mới nhiều lần nhằm tháo gỡ kịp thời những vướng mắc phát sinh cho
phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang hội
nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa và
tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Luật Thuế
GTGT đi vào cuộc sống đã và đang tác động tích cực đến kinh tế, xã hội, an
ninh quốc phòng của đất nước. Việc thực hiện thuế giá trị gia tăng đã góp
phần làm tăng thu cho NSNN, giúp nhà nước quản lý và điều tiết nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN vận động và phát triển đạt được nhiều chỉ
tiêu kinh tế xã hội quan trọng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân và tính chất
đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nên hiệu quả thực
hiện Luật Thuế GTGT ở nước ta có mặt chưa cao, xét trên cả góc độ là
nguồn thu cho NSNN và công cụ để nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh
tế. Trên tinh thần đó, vấn đề thực tiễn đang đặt ra là phải nghiên cứu, đề
xuất các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc nhằm
từng bước nâng cao hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT ở Việt Nam.
4
Xuất phát từ các lý do trên, tác giải đã chọn: “Hiệu quả thực hiện
Luật Thuế giá trị gia tăng ở nước ta hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ
kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Thuế GTGT đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có
Việt Nam. Những vấn đề xung quanh thuế GTGT và thực hiện Luật Thuế
GTGT đã được nhiều tác giả bàn luận đến ở các góc độ khác nhau, từ đề
tài nghiên cứu các cấp, các luận văn, luận án cho đến các bài báo khoa học.
Dưới góc độ hệ thống chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng
và nhà nước. Từ năm 1997 đến nay, Quốc hội nước ta đã ban hành và
nhiều lần sửa đổi Luật Thuế GTGT. Sau mỗi lần ban hành và sửa đổi Luật
Thuế, Chính phủ, Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế đã có văn bản hướng dẫn
về thi hành Luật Thuế GTGT. Đến nay, đã có rất nhều văn bản quy phạm
pháp luật có liên quan đến nội dung, tổ chức, triển khai, áp dụng Luật
Thuế GTGT.
Dưới góc độ đề tài khoa học các cấp. Tiêu biểu có đề tài cấp Bộ
của tác giả Nguyễn Ngọc Hùng ở Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ
Chí Minh bàn về “Những tác động về kinh tế xã hội của thuế GTGT và
hướng hoàn thiện thuế GTGT ở Việt Nam”. Trong đề tài này, nhóm tác giả
đã đề cập một cách khá toàn diện những tác động về mặt kinh tế, xã hội
của Luật Thuế GTGT sau 5 năm thực hiện ở Việt Nam. Trên cơ sở sự đánh
giá này, nhóm tác giả cũng đã phân tích, chỉ ra những điểm còn bất cập
trong nội dung của Luật Thuế GTGT năm 1997, đã sửa đổi, bổ sung 2003
từ đó tiếp tục đề xuất các giải pháp hoàn thiện Luật Thuế GTGT cho phù
hợp với điều kiện Việt Nam. Cùng với đề tài cấp Bộ của tác giả Nguyễn
Ngọc Hùng còn một số đề tài khác cũng liên quan đến đề tài luận văn.
5
Dưới góc độ luận văn, luận án. Lý Thị Thùy Trang với đề tài “Đánh
giá hiệu quả quản lý thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp tại Chi cục
thuế huyện Tân Châu, tỉnh An Giang”, đăng trên />van/danhgiahieuquaquanlythuegiatrigiatangthuethunhapdoanh
nghieptaichicucthuehuyentanchautynhangiang311700. Trong luận
văn này, Lý Thị Thùy Trang đã bàn một khía cạnh khá sâu xung quanh việc
triển khai, tổ chức thực hiện Luật Thuế GTGT đó là hiệu quả quản lý
thuế. Nghiên cứu đề tài này có thể thấy, đối tượng nghiên cứu của đề tài
“Đánh giá hiệu quả quản lý thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp tại
Chi cục thuế huyện Tân Châu, tỉnh An Giang” vừa rộng, vừa hẹp hơn đối
tượng nghiên cứu của đề tài luận văn của tác giả. Vấn đề này được minh
chứng ở chỗ, đề tài của Lý Thị Thùy Trang không chỉ nghiên cứu về thuế
GTGT, mà còn nghiên cứu cả về thuế thu nhập doanh nghiệp. Thêm vào
đó, phạm vi nghiên cứu của đề tài của đề tài “Đánh giá hiệu quả quản lý
thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp tại Chi cục thuế huyện Tân Châu,
tỉnh An Giang” hẹp hơn nhiều so với đề tài luận văn bàn về “Hiệu quả
thực hiện Luật Thuế GTGT ở Việt Nam”.
Cùng với Lý Thị Thùy Trang còn có tác giả Mai Thị Mai Hoa nghiên
cứu về “Định hướng hoàn thiện chính sách thuế trong bối cảnh tài chính
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế tại Việt Nam” trong Luận văn Thạc sĩ kinh
tế của Trường Đại Học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả của luận
văn đã luận giải khá thuyết phục về những mặt tích cực và hạn chế trong
chính sách thuế của Việt Nam. Tác giả cũng đã nghiên cứu về những tác
động của bối cảnh tài chính hóa và hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam đến việc thực thi chính sách thuế, trong đó có thuế GTGT ở
nước ta. Từ những kết quả nghiên cứu trên, tác giả đã đề xuất định hướng
hoàn thiện chính sách thuế của Việt Nam.
6
Năm 2010, Tác giả Hoàng Vũ Diệu Thúy của Trường Đại học Xây
dựng đã bảo vệ thành công đề tài luận văn cao học "Nghiên cứu một số
giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước trong lĩnh
vực đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình".
Ở đề tài này, với đối tượng nghiên cứu là “hiệu quả sử dụng vốn NSNN
cho đầu tư xây dựng”, tác giả đã hệ thống hoá lý luận về hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư xây dựng thuộc NSNN; Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
thuộc NSNN trong lĩnh vực đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố Đồng
Hới, tỉnh Quảng Bình và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư xây dựng thuộc NSNN ở thành phố Đồng Hới. Cả về mặt lý luận
và thực tiễn cho thấy, nguồn thu từ thuế, trong đó có thuế GTGT và các
nguồn thu khác hình thành nên NSNN và NSNN được sử dụng chi tiêu vào
các nhiệm vụ khác nhau. Vì thế, cách tiếp cận về nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn Ngân sách Nhà nước có những nét tương đồng so với nâng cao
hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT nhưng không nhiều, chỉ dừng lại ở
cách tiếp cận về hiệu quả.
Bên cạnh luận văn của các tác giả Lý Thị Thùy Trang, Mai Thị Mai
Hoa còn nhiều luận văn khác cũng bàn đến những vấn đề xung quanh việc
thực hiện Luật Thuế GTGT, tiêu biểu như Đào Thị Ngọc Ánh với đề tài
luận văn thạc sỹ “Pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế GTGT tại Việt
Nam”, chuyên ngành luật Kinh tế, bảo vệ năm 2011 hay “Thực tiễn áp
dụng luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện
Luật
Thuế
giá
trị
gia
tăng”
trên
/00050000937.pdf; đề án “Thực
trạng, vai trò và giải pháp hoàn thiện thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam” trên
7
/>thuegiatrigiatangovietnam13249....
Dưới góc độ các bài báo khoa học. Trên địa chỉ website http://www.
dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?
co_id=30597&cn_id=215529. Tác giả Phạm Thế Duyệt bàn về “Chỉ thị Số
44CT/TW ngày 04 tháng 11 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện Luật Thuế giá trị gia tăng và các
Luật Thuế mới”. Trong bài viết này, tác giả đã nêu rõ, Luật Thuế GTGT là
một loại thuế mới áp dụng ở Việt Nam, để đảm bảo một cách chắc chắn
cho Luật Thuế GTGT thực sự phát huy tác dụng trong phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN, hướng tới hoàn thành các mục tiêu của thời kỳ
quá độ lên CNXH, Đảng phải tăng cường lãnh đạo quá trình triển khai, tổ
chức thực hiện Luật Thuế GTGT.
Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện Luật Thuế GTGT, trước
tình hình trốn thuế có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp ở các địa
phương và trên cả nước dưới chiêu bài “lỗ giả, lãi thật”, các cơ quan thuế
lúng túng trong xử lý nợ đọng thuế, hàng loạt các bài báo khoa học đã được
các nhà khoa học bàn về tình trạng thất thu thuế, thất thu ngân sách nhà
nước và đề xuất các giải pháp chống thất thu ngân sách nhà nước, nâng cao
hiệu quả của công tác quản lý ngân sách nhà nước, thuế và thuế GTGT …
tiêu biểu có Ka Ka với “Chú trọng chống thất thu, tăng cường xử lý nợ
đọng thuế”; Hiểu Trân nêu vấn đề cần “Tăng cường công tác thu hồi nợ
thuế” trên />congtacthuhoinothue2164217/hoặc Hoàng Hải Vân với “Một cách
chống thất thu thuế ở Trung Quốc”…
8
Bài biết của Ka Ka không chỉ phân tích và chỉ ra rằng quá trình thực
hiện Luật Thuế GTGT và các thuế khác, do nhiều nguyên nhân, chúng ta đã
để thất thu một lượng thuế khá lớn và còn nhiều doanh nghiệp đang nợ
thuế khó thu hồi, mà còn đặt ra yêu cầu phải chống thất thu thuế và xử lý
nợ đọng thuế một cách kiên quyết và triệt để. Từ thực trạng thất thu thuế
ở Trung Quốc với nhiều cách thức và biện pháp tinh vi của các doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế, Hoàng Hải Vân đã nêu những biện pháp tích cực
mà chính phủ Trung Quốc đã áp dụng để chống thất thu thuế, đảm bảo sự
công bằng và nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Kinh nghiệm của Trung
Quốc có thể nghiên cứu, ứng dụng ở Việt Nam để thực hiện có hiệu quả
Luật Thuế GTGT.
Khi phân tích những nguyên nhân của tình trạng thất thu, nợ đọng
khó thu hồi thuế, trong đó có thuế GTGT, Đặng Văn Thanh có nêu “Những
vấn đề đặt ra với kiểm toán thuế và giải pháp nâng cao chất lượng” trên
Tạp chí kiểm toán số 8/2011. Bài viết này đã chỉ ra các vấn đề mà công tác
kiểm toán thuế cần đặc biệt chú ý để đảm bảo kê khai, thu thuế, hoàn
thuế… diễn ra theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật, đảm bảo sự minh
bạch, công bằng cho các chủ doanh nghiệp và cải thiện nguồn thu cho ngân
sách nhà nước.
Có thể nói rằng, hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT phụ thuộc
nhiều yếu tố, trong đó có việc áp ngưỡng tính thuế GTGT. Các nước áp
dụng thuế GTGT căn cứ vào điều kiện cụ thể để thực hiện việc áp ngưỡng
tính thuế. Năm 2013, trước những băn khoăn về áp ngưỡng tính thuế GTGT,
Hội Tư vấn thuế Việt Nam đã có bài “Áp ngưỡng tính thuế GTGT tại Việt
Nam: một số vấn đề đặt ra” đăng trên />nguongtinhthueGTGTtaiVietNammotsovandedatra35.htm. Bài
9
viết này đã phân tích sâu vấn đề áp ngưỡng tính thuế dưới góc độ kinh tế
học, tài chính trên cơ sở chỉ rõ những thông lệ quốc tế về ngưỡng đăng ký
thuế GTGT ở các nước trên thế giới, trong khu vực, từ đó chỉ ra rằng, cần
làm rõ tại các văn bản dưới luật những vấn đề như trường hợp có doanh
thu biến động so với mức ngưỡng, cách xác định doanh thu ngưỡng … nâng
cao hiệu quả áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam . Phạm Hoàng cũng bàn về
“Một số biện pháp góp phần hoàn thiện Luật Thuế giá trị gia tăng đến
2020”, trên />bienphapgopphanhoanthienluatthuegiatrigiatangden2020/200/1 và
nhiều bài viết của các tác giả khác.
Mặc dù có nhiều công trình đã được công bố có liên quan đến đề tài
luận văn nhưng chưa có bài viết hay công trình nào bàn đến một cách trực
tiếp về hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn về hiệu quả thực hiện
Luật Thuế GTGT; đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
quả thực hiện Luật Thuế GTGT ở nước ta hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn về hiệu quả thực hiện Luật Thuế
GTGT.
Đánh giá hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT ở Việt Nam từ khi
thực hiện đến nay (chủ yếu 5 năm gần đây) và chỉ rõ các nguyên nhân cơ
bản.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện Luật Thuế GTGT ở Việt Nam trong những năm tới.
10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài : Hiệu quả thực hiện Luật Thuế
GTGT .
* Phạm vi nghiên cứu: Trong đề tài này, thuế GTGT được hiểu cùng
với các nguồn thu khác tạo thành ngân sách nhà nước để dùng cho nhiều
hoạt động kinh tế, xã hội; Việc đánh giá hiệu quả thực hiện Luật Thuế
GTGT được tiến hành chủ yếu trong thời gian từ năm 2008 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở ly luân
́ ̣
Đề tài dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chính
sách, luật pháp của Đảng, Nhà nước xung quanh việc thực hiện Luật Thuế
GTGT.
* Phương phap nghiên c
́
ưu
́
Luận văn sử dụng hệ thống các phương pháp nghiên cứu của khoa
học xã hội và nhân văn, đặc biệt là phương pháp nghiên cứu đặc thù của
Kinh tế Chính trị Mác Lênin là phương pháp trừu tượng hóa khoa học. Bên
cạnh đó, đề tài luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác
như phân tích, tổng hợp, khái quát, thống kê xã hội học, tổng kết thực tiễn
và phương pháp chuyên gia và tham khảo các công trình khoa học đã công
bố.
6. Ý nghĩa của đề tài
Làm phong phú thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh
việc nhà nước thực hiện các công cụ trong quản lý, điều tiết nền kinh tế.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy môn Kinh tế
Chính trị Mác Lênin.
11
7. Kết cấu của đề tài: Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, đề tài gồm 3 chương, 6 tiết.
12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Những vấn đề chung về thuế giá trị gia tăng và hiệu quả
thực hiện Luật thuế Giá trị gia tăng
1.1.1. Những vấn đề chung về Luật thuế Giá trị gia tăng
Từ khi xuất hiện nhà nước, các loại thuế, phí đã được đặt ra. Thuế
là một khoản đóng góp bắt buộc của các thể nhân và pháp nhân, được nhà
nước qui định thông qua hệ thống pháp luật nhằm đáp ứng các nhu cầu chi
tiêu của nhà nước. Đồng thời, thuế là công cụ điều tiết kinh tế linh hoạt
nhạy bén và hiệu quả đối với nền kinh tế. Tính hợp lý của các hình thức và
biện pháp thuế khiến cho thuế trở thành công cụ điều tiết sắc bén, đa diện
và thâm nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế xã hội. Trải qua lịch sử phát
triển của xã hội loài người, các loại thuế, phí không ngừng biến đổi cả về
tên gọi và số lượng.
Thuế GTGT là một trong những sắc thuế hiện đại, theo tiếng Anh
được viết là Value Added Tax (VAT) do một nhà kinh tế học người Pháp là
Maurice Lauré đề xuất vào năm 1954, khi là giám đốc cơ quan thuế của
Pháp (Direction générale des impôts), dưới tên gọi taxe sur la valeur ajoutée
(TVA). Ngày 10 tháng 4 năm 1954, thuế GTGT lần đầu tiên được áp dụng
đối với các doanh nghiệp lớn của Pháp. Sau quá trình thử nghiệm, trước
những ích lợi mà thuế GTGT mang lại, thuế GTGT đã được mở rộng theo
thời gian tới tất cả các bộ phận của nền kinh tế. Thuế GTGT thật sự trở
thành nguồn thu quan trọng nhất, chiếm tới khoảng 45% lượng thu của
ngân khố quốc gia. Sau khi xuất hiện ở Pháp, thuế GTGT đã nhanh chóng
13
được áp dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới. Tại một số quốc gia như
Canada, New Zealand, Singapore, thuế GTGT được gọi là "goods and
services tax" (viết tắt GST) nghĩa là thuế hàng hóa và dịch vụ. Tại Nhật
Bản, thuế GTGT được biết đến với tên gọi "thuế tiêu thụ" một loại thuế
gián thu, được đánh vào người tiêu dùng cuối cùng, mặc dù chủ thể đem
nộp nó cho cơ quan thu là các doanh nghiệp. Hiện tại, trên 130 nước ở
Châu Phi, Châu Mỹ Latinh, Châu Âu, Châu Á, trong đó có Việt Nam đã và
đang thực hiện thuế GTGT như một công cụ hữu hiệu nhất để quản lý và
điều tiết nền kinh tế.
Theo các nhà nghiên cứu, một loại thuế được coi là lý tưởng khi nó
thỏa mãn bốn tiêu chuẩn:
Môt là
̣ , đơn giản về mặt kỹ thuật, tức là không tạo ra cơ hội trốn
thuế;
Hai là hiệu quả về mặt tài chính, tức là có năng suất cao;
Ba là, công bằng về mặt xã hội, tức là đưa lại kết quả phân phối lại
của cải xã hội
Bôn la
́ ̀, có tác dụng khuyến khích về mặt kinh tế, tức là có tác động
thúc đẩy kinh tế phát triển
Xét theo bốn tiêu chuẩn này, Luât thu
̣
ế GTGT thể hiện tính hơn hẳn
của nó so với thuế doanh thu.
Thứ nhất, về kỹ thuật Luât thu
̣
ế GTGT đơn giản hơn thuế DT. Nếu
thuế doanh thu bao gồm 11 mức thay đổi từ 0% đến 40% thì thuế GTGT
chỉ bao gồm 3 mức (không kể thuế suất 0% đối với hàng hóa xuất khẩu)
thay đổi từ 5% đến 20%. Điều này giúp giảm đáng kể hiện tượng trốn
thuế.
Thứ hai, Luât thu
̣
ế GTGT hiệu quả hơn về tài chính thể hiện ở cơ sở
tính thuế của nó rộng hơn. Về nguyên tắc, Luât thu
̣
ế GTGT đánh trên tất
14
cả mọi hàng hóa, dịch vụ (HHDV) tiêu dùng cuối cùng (trừ những trường
hợp miễn thuế).
Thứ ba, về mặt xã hội Luât thu
̣
ế GTGT công bằng hơn nhờ vào cơ
chế đánh thuế của nó với mức thuế suất thấp đánh vào các mặt hàng tiêu
dùng thông thường và mức cao đánh vào các mặt hàng xa xỉ, nhờ đó nó góp
phần vào phân phối lại thu nhập.
Thứ tư, Luât thu
̣
ế GTGT có tác dụng khuyến khích hơn về mặt kinh
tế nhờ vào cơ chế khấu trừ thuế đầu vào và miễn thuế đối với hàng xuất
khẩu.
Đặc biệt ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh một ưu thế quan trọng
nổi bật của Luât thu
̣
ế GTGT, đó là Luât thu
̣
ế GTGT giải quyết được vấn
đề đánh thuế trùng lặp của thuế DT, bởi vì nó chỉ đánh một lần duy nhất
trên giá trị của hang hoa dich vu tiêu dùng cu
̀
́ ̣
̣
ối cùng không phụ thuộc vào
độ dài của chu kỳ sản xuất và tiêu thụ các hang hoa dich vu này
̀
́ ̣
̣
Quá trình áp dụng Luât thu
̣
ế GTGT, người ta đã đưa ra nhiều quan
niệm về Luât
̣ thuế GTGT. Theo cách hiểu chung nhất, Luâṭ thuế GTGT là
thuế đánh trên phần giá trị gia tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh
trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được thu ở khâu tiêu
thụ hàng hoá, dịch vụ.
Dưới góc độ kinh tế chính trị, sự tồn tại và phát triển của xã hội
không thể tách rời với quá trình tái sản xuất thực chất là sự lặp đi, lặp lại
của sản xuất. Quá trình tái sản xuất xã hội gồm 4 khâu quan hệ biện chứng,
tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu
dùng. Để 4 khâu trên vận hành liên tục, đạt được các mục tiêu, yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội trong mỗi giai đoạn, thời kỳ lịch sử, nhà nước cần phải
thực hiện vai trò điều tiết trên cơ sở sử dụng những công cụ, trong đó có
15
thuế. Điều đáng chú ý là qua mỗi khâu của quá trình tái sản xuất, giá trị của
hàng hóa, dịch vụ có thể tăng thêm, nhất là đối với những hàng hóa, dịch vụ
được tiêu dùng cho sản xuất. Trước đây, người ta không tính đến phần tăng
thêm về giá trị của hàng hóa, dịch vụ trong tay mỗi chủ thể của quá trình sản
xuất kinh doanh mà chỉ quan tâm đến doanh số, từ đó quy định mức thuế thu
nhập mà doanh nghiệp phải trực tiếp nộp cho nhà nước. Khi Luât thu
̣
ế
GTGT ra đời đã thay thế cho thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngoài việc tạo ra
nguồn thu lớn hơn cho ngân sách nhà nước, Luât thu
̣
ế GTGT thật sự trở
thành công cụ đắc lực cho nhà nước trong hoạt động quản lý, điều tiết một
cách hiệu quả nền kinh tế. Muốn thúc đẩy hay hạn chế sự phát triển của
ngành, lĩnh vực nào, bên cạnh các công cụ và chính sách kinh tế khác, nhà
nước có thể thay đổi mức thuế GTGT điều mà ở thuế doanh thu rất khó
thực hiện.
Từ cách hiểu chung nhất và từ sự phân tích quá trình tái sản xuất nêu
trên, dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị có thể thấy rằng, Luâṭ thuế GTGT
là một trong những công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, thay thế cho thuế
doanh thu, được áp dụng cho phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ qua
mỗi khâu của quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Ở Việt Nam, Luật Thuế GTGT số 57/1997/LCTN lần đầu tiên
được ban hành vào ngày 10/5/1997, chính thức đưa vào áp dụng từ 1/1/1999
thay thế cho thuế thu nhập doanh nghiệp (thuế doanh thu) ở những doanh
nghiệp lớn thuộc các thành phần kinh tế. Sau 4 năm thực hiện, trước những
thành tựu và hạn chế mà thuế GTGT đã mang lại cho nền kinh tế, năm
2003, Quốc hội đã thực hiện sửa đổi Luật Thuế GTGT năm 1997, hiệu lực
thi hành từ ngày 1/1/2004. Đến năm 2008, Luật Thuế GTGT được xây
dựng và ban hành mới trên cơ sở Luật Thuế GTGT năm 1997, sửa đổi năm
2003, có hiệu lực từ ngày 1/1/2009. Gần đây nhất, ngày 19/6/2013, Kỳ họp
16
thứ năm Quốc hội khoá XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Thuế GTGT và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014.
Kết cấu nội dung của Luật Thuế GTGT đang có hiệu lực pháp lý ở
Việt Nam (Luật Thuế GTGT năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2013, có hiệu
lực thi hành từ ngày 1/1/2014) gồm 4 chương, 16 điều.
Chương 1: Xác định những quy định chung gồm 5 điều quy định
phạm vi điều chỉnh của Luật Thuế GTGT( Đi ề u 1); khái ni ệ m v ề
thuế GTGT (Điều 2); Đối tượng chịu thuế GTGT (Điều 3); Người nộp
thuế GTGT (Điều 4) và Đối tượng không chịu thuế (Điều 5).
Chương 2: Xác định căn cứ và phương pháp tính thuế gồm 6 điều
(từ điều 6 đến điều 11). Điều 6 quy định căn cứ tính thuế; Điều 7 quy định
giá tính thuế; Điều 8 quy định về thuế suất; Điều 9 về phương pháp tính
thuế; Điều 10 quy định rõ phương pháp khấu trừ thuế và Điều 11 quy định
phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.
Chương 3: Khấu trừ, hoàn thuế, gồm 3 điều (từ điều 12 đến điều
14) quy định những vấn đề liên quan đến khấu trừ thuế GTGT đầu vào
(Điều 12); Các trường hợp hoàn thuế (Điều 13) và hóa đơn, chứng từ
(Điều 14).
Chương 4 quy định điều khoản thi hành gồm 2 điều (điều 15 và điều
16). Điều 15 xác định hiệu lực thi hành của Luật Thuế GTGT là từ ngày 01
tháng 01 năm 2009 và thay thế Luật Thuế giá trị gia tăng năm 1997; Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng số
07/2003/QH11; Bãi bỏ Điều 2 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thuế giá trị gia tăng số 57/2005/QH11.
Điều 16 quy định hướng dẫn thi hành Luật Thuế GTGT. Theo đó, Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các điều 5, 7, 8, 12, 13 và các nội dung
cần thiết khác của Luật này theo yêu cầu quản lý.
17
Nội dung, cơ bản của Luật Thuế GTGT ở Việt Nam thể hiện các vấn đề
sau:
Quan niệm về thuế GTGT, đối tượng chịu thuế và không chịu thuế.
Luật Thuế GTGT xác định, thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm
của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến
tiêu dùng“. Đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản
xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam (bao gồm cả hàng hoá, dịch vụ
mua của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài), trừ các đối tượng không chịu thuế
GTGT gồm 25 danh mục (điều 5, phụ lục 1 và điều 1, phục lục 2).
Căn cứ tính thuế GTGT thể hiện ở giá tính thuế, số lượng và mức
thuế suất. Giá tính thuế là một căn cứ quan trọng để xác định số thuế
GTGT phải nộp. Nguyên tắc chung xác định giá tính thuế GTGT là giá bán
chưa có thuế GTGT được ghi trên hoá đơn bán hàng của người bán hàng,
người cung cấp dịch vụ hoặc giá chưa có thuế GTGT được ghi trên chứng
từ của hàng hoá nhập khẩu. (Theo Điều 7, Luật Thuế GTGT).
Việc lựa chọn số l ượng và mức thuế suất thuế GTGT khác nhau
tuỳ thuộc vào quan điểm, đặc điểm kinh tếxã hội và mục tiêu đặ t ra
cho chính sách thuế của t ừng n ước. Ở Vi ệt Nam, Lu ật Thu ế GTGT quy
định 3 mức thu ế su ất là:
Một là, Mức thuế suất 0%: Là mức thuế suất áp dụng đối với các hàng
hoá, dịch vụ xuất khẩu, vận tải quốc tế và hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế
GTGT quy định tại điều 5 Luật Thuế GTGT số 13/QH/2008/QH12 khi xuất
khẩu, trừ các trường hợp chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng quyền sở
hữu trí tuệ ra nước ngoài; dịch vụ tái bảo hiểm ra nước ngoài; dịch vụ cấp tín
dụng, chuyển nhượng vốn, dịch vụ tài chính phái sinh; dịch vụ bưu chính viễn
18
thông; sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa qua chế
biến.
Hai là, Mức thuế suất 5%: Là mức thuế suất áp dụng đối với các
loại hàng hoá, dịch vụ thiết yếu phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng và các
hàng hoá dịch vụ cần ưu đãi, hàng hoá, dịch vụ phục vụ trực tiếp cho sản
xuất trong các lĩnh vực: nông nghiệp, y tế, giáo dục, khoa học kỹ thuật,
nhằm thực hiện chính sách xã hội, khuyến khích đầu tư sản xuất.
Ba là, Mức thuế suất 10%: Áp dụng cho các hàng hóa, dịch vụ thông
thường không nằm trong diện chịu các mức thuế suất nói trên và danh mục
không áp dụng thuế GTGT như: sản phẩm điện tử, dầu mỏ, khí đốt, sản
phẩm may mặc, xây dựng, lắp đặt, dịch vụ tư vấn…
Phương pháp tính thuế GTGT. Luật Thuế GTGT quy định việc tính
thuế GTGT phải nộp có thể thức hiện bằng phương pháp khấu trừ hoặc
phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.
Một là, Phương pháp khấu trừ thuế: Phương pháp này được áp dụng
cho tất cả các đơn vị, tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp thành lập theo luật
Doanh nghiệp Nhà nước (nay là luật Doanh nghiệp), luật doanh nghiệp, luật
hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các đơn vị tổ chức kinh
doanh khác được áp dụng phương pháp khấu trừ theo hướng dẫn của Bộ Tài
chính, trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên
GTGT theo quy định. Yêu cầu chung đối với các đối tượng nộp thuế theo
phuơng pháp khấu trừ là phải có đầy đủ các căn cứ, chứng từ hợp pháp để xác
định số thuế GTGT được khấu trừ đầu vào. Số thuế phải nộp được tính như
sau:
Số thuế phải nộp = A B
Trong đó:
19
A: Thuế GTGT đầu ra. Được tính bằng tích của giá tính thuế của
hàng hóa,dịch vụ chịu thuế bán ra và mức thuế suất thuế GTGT.
B: Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Xác định bằng cách căn cứ vào
tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ (bao gồm
cả tài sản cố định) dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế
GTGT, số thuế GTGT ghi trên chứng từ nộp thuế của hàng hoá nhập khẩu
hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay có phía nước ngoài theo hướng dẫn của
Bộ Tài chính áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài không có tư
cách pháp nhân tại Việt Nam và cá nhân nước ngoài kinh doanh hoặc có thu
nhập phát sinh tại Việt Nam. Điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào là
doanh nghiêp, cá nhân có hoá đơn GTGT hợp pháp của hàng hoá, dịch vụ mua
vào hoặc chứng từ nộp thuế GTGT khâu nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế
GTGT thay cho phía nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tài chính và có
chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào từ 20
triệu đồng trở lên. Ngoài ra Luật Thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn còn
quy định điều kiện khấu trừ trong trường hợp hàng hoá, dịch vụ mua vào từng
lần theo hoá đơn trên 20 triệu đồng theo giá đã có thuế GTGT nếu không có
chứng từ thanh toán qua ngân hàng; mua hàng hoá, dịch vụ trả chậm, trả góp,
phương thức thanh toán bù trừ, thanh toán uỷ quyền … Hàng hoá, dịch vụ
xuất khẩu, hoàn thuế GTGT phải đáp ứng đủ các điều kiện khấu trừ nêu trên
và các điều kiện sau:
Một là, Có hợp đồng theo quy định. Đó là các hợp đồng bán hàng hoá,
gia công hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, hợp
đồng uỷ thác xuất khẩu…
20
Hai là, Có tờ khai hải quan hợp lệ. Đó là tờ khai hải quan về hàng
xuất khẩu có xác nhận đã xuất khẩu của cơ quan Hải quan, trừ một số
trường hợp không cần tờ khai hải quan theo quy định.
Ba là, Phải thực hiện thanh toán theo yêu cầu của nhà nước. Cụ thể
là thanh toán qua hệ thống ngân hàng hay các hình thức thanh toán khác theo
quy định của Chính phủ.
Bốn là, Có hóa đơn GTGT. Hóa đơn này có thể là hóa đơn bán hàng
hoá, dịch vụ hoặc hóa đơn đối với tiền công gia hàng hoá.
Ngoài ra Luật Thuế GTGT còn quy định điều kiện, thủ tục và hồ sơ
để khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với một số trường hợp hàng hoá được
coi như xuất khẩu (gia công chuyển tiếp, xuất khẩu tại chỗ, hàng hoá do
doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu để thực hiện công trình xây dựng ở
nước ngoài).
Hai là, Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. Đối tượng áp dụng là
cá nhân, hộ kinh doanh, tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt
Nam không theo luật đầu tư và các tổ chức khác không thực hiện hoặc thực
hiện không đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ theo quy định của
pháp luật, các cơ sở kinh doanh mua bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ. Số
thuế GTGT phải nộp được tính như sau:
Số thuế GTGT phải nộp = C x D
Trong đó:
C là GTGT của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế
D là thuế suất thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ.
Quy định về hoá đơn, chứng từ. Hoá đơn là chứng từ kế toán, có vai
trò ghi nhận về mặt lượng và giá trị các giao dịch mua bán, trao đổi hàng
hoá, dịch vụ trong đời sống, trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoá đơn
21
không phải là chứng từ kế toán thông thường mà là chứng từ “gốc” có giá
trị hợp pháp cao, bắt buộc phải có để ghi sổ kế toán. Vì vậy nó có vai trò
rất quan trọng đối với doanh nghiệp, người dân, công tác kế toán và cơ
quan thuế. Theo đó, khi mua bán hàng hoá dịch vụ phải có hóa đơn. Việc
lập hoá đơn là trách nhiệm của người bán hàng hoá dịch vụ, hoá đơn là căn
cứ kê khai tính thuế GTGT đầu ra và hạch toán doanh số. Người mua có
trách nhiệm lưu giữ hoá đơn, đây là căn cứ để kê khai khấu trừ thuế GTGT
đầu vào và hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh. Ngoài ra hoá đơn còn
dùng để thanh quyết toán tài chính cho cơ quan, còn là bằng chứng về mua
bán hàng hoá dịch vụ. Đối với mối quan hệ giữa cơ quan thuế và doanh
nghiệp thì hoá đơn GTGT là chứng từ cơ sở ban đầu dùng để kê khai nộp
thuế, khấu trừ, hạch toán chi phí thực tế phát sinh, hoàn thuế và xác định chi
phí hợp lệ khi tính thuế. Trong điều kiện Việt Nam từ năm 2012 trở về
trước, cơ quan thuế thực hiện phát hành hóa đơn, cung ứng cho doanh
nghiệp thực hiện Luật; chỉ có một số doanh nghiệp thực hiện Luật hoá
đơn tự in theo quy định. Kể từ ngày 01/01/2011, cơ quan thuế không bán
hoá đơn cho các doanh nghiệp mà các doanh nghiệp phải thực hiện Luật
hoá đơn tự in hoặc hoá đơn đặt in (trừ các doanh nghiệp siêu nhỏ và doanh
nghiệp thành lập trên địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn thì được
cơ quan thuế bán hoá đơn để thực hiện Luật hết năm 2011).
Quy định về hoàn thuế GTGT. Hoàn thuế là nguyên lý tất yếu của
thuế GTGT khi số thuế đầu vào mà doanh nghiệp đã nôp l
̣ ớn hơn số thuế
đầu ra mà doanh nghiệp phai n
̉ ộp vào NSNN. Đối tượng được hoàn thuế
GTGT có trách nhiệm lập hồ sơ đề nghị hoàn thuế gửi cơ quan thuế và
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về số liệu kê khai, tính trung thực
của hồ sơ, phải bổ sung hoặc giải trình nếu hồ sơ không rõ ràng.
22
Luât t
̣ huế GTGT nói chung, ở Việt Nam nói riêng có các đặc điểm
sau:
Một là, Luât thu
̣
ế GTGT đánh vào các giai đoạn sản xuất kinh doanh
nhưng chỉ tính phần giá trị tăng thêm của mỗi giai đoạn. Vì thế, tổng số
thuế thu được ở các giai đoạn sẽ bằng số thuế tính theo giá bán cho người
tiêu dùng cuối cùng. Cho nên, thực chất, thuế giá trị gia tăng là loại thuế
duy nhất thu theo phân đoạn trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá từ
khâu đầu tiên đến người tiêu dùng, khi khép kín một chu kỳ kinh tế. Do đó,
sản phẩm, hàng hoá dù qua nhiều khâu hay ít khâu từ sản xuất đến tiêu
dùng, đều chịu thuế như nhau. Vì thế Luât thu
̣
ế GTGT tạo ra sự công bằng
trong nộp thuế cho các doanh nghiệp, tránh được tình trạng “thuế chồng
thuế”, thúc đẩy các doanh nghiệp tích cực sản xuất kinh doanh.
Hai là, Người tiêu dùng cuối cùng phải chịu thuế. Luât Thu
̣
ế GTGT
quy định rõ, chỉ có người bán hàng lần đầu phải nộp thuế GTGT trên toàn
bộ doanh thu bán hàng. Người bán hàng ở các khâu tiếp theo đối với hàng
hoá đó, chỉ phải nộp thuế trên phần giá trị tăng thêm. Đối tượng điều tiết
của Luât thu
̣
ế GTGT là phần thu nhập của người tiêu dùng thực hiện Luật
để mua hàng hoá và dịch vụ. Như vậy về nguyên tắc chỉ cần thu thuế ở
khâu bán hàng cuối cùng là đủ. Tuy nhiên trên thực tế rất khó phân biệt đâu
là tiêu dùng cuối cùng và đâu là tiêu dùng trung gian vì thế cứ có hành vi
mua hàng là phải tính thuế. Nếu là tiêu dùng trung gian thì số thuế đó sẽ tự
động chuyển vào giá bán hàng cho người mua giai đoạn sau.
Ba là, Luât Thu
̣
ế GTGT có tính trung lập kinh tế cao, không chịu ảnh
hưởng của kết quả kinh doanh. Thuế GTGT không chịu ảnh hưởng bởi kết
quả kinh doanh của người nộp thuế, không phải là yếu tố của chi phí mà
chỉ đơn thuần là một khoản cộng thêm vào giá bán cho người cung cấp
23
hàng hoá dịch vụ. Vấn đề này khác với thuế doanh thu. Thực tế cho thấy,
tổ chức kinh tế có doanh số càng cao thì càng phải nộp nhiều thuế. Các
doanh nghiệp có cùng quy mô, sản xuất kinh doanh cùng một mặt hàng, nếu
ở cùng một thời điểm có doanh số khác nhau thì số thuế phải nộp cũng khác
nhau. Trong một doanh nghiệp, số thuế phải nộp trong các giai đoạn, thời kỳ
cũng không giống nhau do phụ thuộc vào doanh số.
Bốn là, Luât Thu
̣
ế GTGT là thuế gián thu. Thuế GTGT do người tiêu
dùng cuối cùng phải thanh toán nhưng không phải do người tiêu dùng trực
tiếp nộp mà là do người bán sản phẩm nộp thay vào kho bạc. Theo quy
định, người mua hàng hoá, dịch vụ hoặc thực hiện Luật hàng hóa, dịch vụ
cuối cùng phải thanh toán thuế GTGT được ghi trong hóa đơn giá bán hàng
hoá. Người bán hàng giúp nhà nước thu mức thuế này để nộp vào kho bạc.
Do thuế GTGT có mục đích là một khoản thuế đối với việc tiêu thụ, cho
nên hàng xuất khẩu thường không phải chịu thuế hay thuế này đối với
người xuất khẩu sẽ được hoàn lại.
Năm là, Luât Thu
̣
ế GTGT không bị ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức
và phân chia các chu trình kinh tế. Như ta đã biết GTGT là phần giá trị mới,
được tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nó được xác định bằng
chênh lệch giữa tổng giá trị sản xuất và tiêu thụ với tổng giá trị hàng hoá,
dịch vụ mua vào tương ứng tổng GTGT ở tất cả các giai đoạn luân chuyển
có giá trị bằng giá bán của sản phẩm ở giai đoạn cuối cùng, nên việc thu
thuế trên GTGT ở từng giai đoạn đảm bảo cho tổng số thuế thu được
tương đương với số thuế tính trên giá bán trong giai đoạn cuối cùng. Chính
vì thế quá trình tổ chức kinh tế và phân chia các chu trình kinh tế có diễn ra
dài hay ngắn hay như thế nào đi nữa thì thuế GTGT cũng không bị ảnh