Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ QUẢN lý NHÀ nước về bảo vệ môi TRƯỜNG TRONG các KHU CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ hải PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.69 KB, 100 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Chương 1
1.1.
1.2.
1.3.
Chương 2

2.1.
2.2.
2.3.

Chương 3

2.1.

2.2.

3
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Những vấn đề chung của quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường trong các khu công nghiệp ở thành phố Hải Phòng
Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường
trong các khu công nghiệp ở Hải Phòng hiện nay
Kinh nghiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong
các khu công nghiêp ở một số tỉnh, thành phố trong nước
và bài học rút ra đối với thành phố Hải Phòng


THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở
HẢI PHÒNG THỜI GIAN QUA

Tổng quan về các khu công nghiệp ở Hải Phòng hiện nay
Thành tựu và hạn chế quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường
trong các khu công nghiệp ở Hải Phòng thời gian qua
Nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế và những
vấn đề đặt ra cần giải quyết để nâng cao hiệu quả bảo vệ
nhà nước về môi trường trong các khu công nghiệp ở
thành phố Hải phòng thời gian tới
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ HẢI
PHÒNG THỜI GIAN TỚI

Quan điểm chỉ đạo nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp ở Hải Phòng
thời gian tới
Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp ở Hải
Phòng thời gian tới

9
9
15
19

24

24
25

41

51

51

56

KẾT LUẬN

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

76

PHỤ LỤC

83


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người,
sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của từng quốc gia và nhân
loại. Hiện nay, ở khắp các quốc gia trên thế giới, nhân loại đang phải đối mặt

với những vấn đề ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng, ảnh hưởng tới
chất lượng sống và sự phát triển lâu dài của con người.
Thực hiện đường lối đổi mới, nước ta đang đẩy mạnh thực hiện CNHHĐH, mục tiêu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Cùng với quá trình CNH-HĐH đất nước, trên
phạm vi toàn quốc các KCN được xây dựng với tốc độ nhanh, ồ ạt. Vì vậy,
vấn đề quản lý nhà nước về BVMT trong các KCN ở nước ta còn nhiều hạn
chế, yếu kém, đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi
trường trong các KCN, KCX ngày càng nghiêm trọng.
Cùng với sự phát triển của đất nước, Hải Phòng, đang đẩy nhanh tốc độ
xây dựng để sớm trở thành thành phố công nghiệp hiện đại, với mục tiêu về
trước cả nước từ 3 đến 5 năm. Cùng với xây dựng, thành phố đã quan tâm đến
vấn đề BVMT trong các KCN và bước đầu thu được nhiều kết quả quan
trọng. Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra thì vấn đề BVMT trong các KCN ở
Hải Phòng còn nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân rất quan trọng là
công tác quản lý Nhà nước về BVMT trong các KCN của thành phố còn
nhiều bất cập, hạn chế.
Làm thế nào để nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý Nhà nước về bảo vệ
môi trường ở các KCN thành phố Hải Phòng, góp phần hạn chế ô nhiễm môi
trường trong các khu công nghiệp của thành phố ? Với mong muốn góp phần
trả lời câu hỏi trên, học viên lựa chọn nội dung: “Quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường trong các khu công nghiệp ở thành phố Hải Phòng” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị của mình.
3


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hiện đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, cụ thể là:
2.1. Những đề tài liên quan đến khu công nghiệp.
Công tác quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp ở Bắc Ninh.
Thực trạng và giải pháp. Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế của Ngô Quang

Đông, Trường đại học Nông Nghiệp Hà Nội, 2011. Luận văn nghiên cứu
công tác quản lý của chính quyền cấp tỉnh nhưng đặt trong khuôn khổ các
chính sách, chế độ quản lý các KCN của Nhà nước ta. Về mặt thực tiễn, luận
văn phân tích thực trạng quá trình hoạt động xây dựng và phát triển các KCN
và vấn đề quản lý nhà nước đối với các KCN ở Bắc Ninh dựa trên số liệu của
giai đoạn 2006 - 2010 và chiến lược của tỉnh đến năm 2020.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất- Bảo vệ
môi trường
Luận văn thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Hoàng Hà 2009. Đại học Luật
Hà Nội. Tác giả đã đề cập nhiều vấn đề liên quan đến quy hoạch các KCN;
KCX; các kinh nghiệm ở nhiều nơi trên thế giới và khu vực như Thái Lan,
Hàn Quốc, Singapo... các chế tài, quy định thu hút vốn đầu tư nước ngoài
trong khi xây dựng các KCN, KCX, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến môi
trường, quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường...
Đánh giá Môi trường các khu công nghiệp thực trạng và giải pháp; Luận văn
thạc sĩ khoa học kinh tế của Lê Thị Thu Hà, Trường Cao đẳng tài chính- quản
trị kinh doanh thành phố Hồ Chí Minh.
Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu, phân tích thực trạng phát triển
phát triển KCN ở Việt Nam và đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường do sự
phát triển của các KCN gây ra trên cơ sở vận dụng lý thuyết trò chơi. Từ đó
đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế và khắc phục thực trạng ô nhiễm, góp
phần bảo vệ môi trường sống, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế lâu dài
trong tương lai.
4


Khảo sát hiện trạng quản lý môi trường tại KCN Amata, thành phố
Biên Hòa, Đồng Nai- Xây dựng các giải pháp quản lý môi trường theo hướng
KCN sinh thái. Luận Văn Thạc sỹ Trần Tuấn Anh-2011, Đại học Cần Thơ.
Luận văn, đánh giá tình trạng thực hiện CNH-HĐH đất nước. Hàng loạt

KCN tập trung đã được xây dựng và đi vào hoạt động. Sự hình thành và phát
triển các KCN, KCX, CNC ở Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục mang lại hiệu
quả thiết thực cho nền kinh tế nước nhà. Song hành với sự phát triển công
nghiệp và KCN, vấn đề ô nhiễm, suy thoái môi trường và cạn kiệt nguồn tài
nguyên thiên nhiên đang ngày càng gia tăng. Đây là sự cộng sinh công nghiệp
hay nói cách khác KCN sinh thái được xem là giải pháp hứa hẹn cho sự phát
triển công nghiệp bền vững của đất nước trong tương lai. Đề tài được áp dụng
thành công sẽ góp phần vào việc giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc
hiện nay.
Bảo vệ môi trường tại KCN - Pháp luật và thực tiễn, 2011- Luận văn
Thạc sỹ của Lê Hoàng Vẹn, khoa Luật, Đại Học Cần Thơ.
Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình, thực trạng và những ảnh hưởng đến
môi trường từ các KCN. Đặc biệt là những quy định về BVMT nước, không
khí, vấn đề về rác thải, trách nhiệm của chủ đầu tư từ giai đoạn chuẩn bị đầu
tư xây dựng đến giai đoạn hoạt động của KCN nhằm tìm ra những tồn tại, từ
đó đưa ra những phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường tại
các KCN.
2.2. Những đề tài về môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam nói chung.
Môi trường và phát triển bền vững của Lê Văn Khoa, Đoàn Văn Tiến,
Nguyễn Song Tùng, Nguyễn Quốc Việt (2010, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội).
Những nội dung chính của công trình là: hiện trạng những vấn đề về tài
nguyên và môi trường nước ta; các nội dung của phát triển bền vững và nhiệm vụ
phát triển bền vững ở các địa phương để thực hiện Định hướng chiến lược phát

5


triển bền vững ở Việt Nam (hay còn gọi là Chương trình Nghị sự 21 của Việt
Nam- Agenda 21). Trong những nội dung chính đó, phần nổi bật, sâu sắc hơn
gắn với phát triển bền vững gồm: cách tiếp cận phát triển bền vững qua kinh

nghiệm quốc tế; kinh nghiệm xác lập tiêu chí phát triển bền vững của quốc tế;
các bộ tiêu chí phát triển bền vững ở Việt Nam và việc triển khai xây dựng và
thực hiện chương trình phát triển bền vững ở địa phương.
Quản lý nhà nước với Tài nguyên môi trường vì sự phát triển bền
vưnngx dưới góc nhìn xã hội nhân văn. PGS-TS Phạm Thị Ngọc Trầm, 2006,
nxb Khoa học, Hà Nội.
2.3. Những đề tài về môi trường và phát triển bền vững
ở một số khu vực và của Hải Phòng.
Những vấn đề cơ bản về môi trường và phát triển bền vững vùng Trung
bộ giai đoạn 2011-2020 của Nguyễn Ngọc Kháng, Nhà xuất bản điện tử Bách
khoa xuất bản năm 2012. Tác giả đã đề cập đến đặc điểm kinh tế, xã hội vùng
Trung bộ; đề cập đến khái niệm và những nội dung cơ bản về môi trường và
phát triển bền vững môi trường vùng Trung bộ.
Tăng trưởng xanh- hướng lựa chọn trong bối cảnh điều chỉnh mô hình
tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh, chủ nhập hội nhập quốc tế ; Xây dựng
mô hình thành phố Cảng xanh, thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, hướng
lựa chọn cho Hải Phòng, của Tiến sỹ Nguyễn Văn Thành (2014) Ủy viên
Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố
Hải Phòng, đây là một đề tài đề cập đến phát triển bền vững, những nội dung
cụ thể của phát triển bền vững (kinh tế, xã hội, sinh thái); chuyển dịch cơ cấu
kinh tế sang nền kinh tế xanh toàn cầu (chuyển dịch từ nhận thức, các hoạt
động, các cam kết của cộng đồng, vai trò của doanh nghiệp); kinh nghiệm của
một số quốc gia; thực tiễn của Việt Nam, Hải Phòng trong xây dựng thành
phố Cảng xanh, văn minh, hiện đại.
2.4. Một số đề tài khác có liên quan đến luận văn.
Một số bài báo trên các tạp chí uy tín đề cập trực tiếp đến phát triển bền
vững hoặc đề cập đến những nội dung, khía cạnh liên quan đến phát triển bền
6



vững, tiêu biểu như: Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức và
bảo vệ tài nguyên, môi trường của PGS.TS Bùi Ngọc Quỵnh, Tạp chí giáo dục lý
luận chính trị quân sự, số 6, 2011; Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng của PGS.TS Trương Tuấn Biểu, Tạp chí
Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 3, 2012;
Các công trình nghiên cứu, các bài viết trên đã đề cập đến nhiều vấn
đề khác nhau của phát triển bền vững nói chung, về BVMT nói riêng,
cung cấp cho tác giả những luận cứ khoa học quan trọng, góp phần giải
quyết mục đích, nhiệm vụ luận văn. Tuy nhiên, hiện chưa có công trình,
bài viết nào nghiên cứu vấn đề “Quản lý nhà nước về môi trường trong
các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng.”. Vì vậy luận
văn không trùng lặp với những công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích:
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường trong các khu công nghiệp ở Hải Phòng, trên cơ sở đó đề xuất quan
điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường
trong các khu công nghiệp ở Hải Phòng thời gian tới.
* Nhiệm vụ:
- Phân tích cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường
trong các khu công nghiệp ở Hải Phòng hiện nay.
- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong các
khu công nghiệp ở Hải Phòng thời gian qua
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp ở Hải Phòng thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong
các khu công nghiệp.

7



* Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu quản lý nhà nước về
bảo vệ môi trường tự nhiên trong các khu công nghiệp, không nghiên cứu môi
trường xã hội, tập trung vào nội dung: Xây dựng hệ thống văn bản pháp luật,
cơ chế chính sách về bảo vệ môi trường nói chung và trong các khu công
nghiệp nói riêng; tổ chức thực hiện bảo vệ môi trường trong các KCN; công
tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện bảo vệ môi trường trong các
khu công nghiệp.
- Về không gian: Nghiên cứu trong các khu công nghiệp ở Hải Phòng
- Về thời gian: Các số liệu khảo sát, điều tra lấy từ năm 2010 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chững và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về phát triển
kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái.
* Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng phương pháp trừu tượng
hoá khoa học, phương pháp phân tích và tổng hợp, thống kê so sánh; và
phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài nghiên cứu thành công sẽ góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho
các nhà quản lý đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
BVMT trong các KCN ở Hải Phòng hiện nay, góp phần xây dựng Hải Phòng
trở thành thành phố Cảng xanh, văn minh, hiện đại.
Đồng thời đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học
tập môn kinh tế chính trị, kinh tế phát triển trong các trường đại học, cao đẳng.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm phần mở đầu, 3 chương (8tiết), kết luận, phụ lục và danh

mục tài liệu tham khảo.

8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM CỦA QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC KHU
CÔNG NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
1.1. Những vấn đề chung của quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường
khu công nghiệp nói chung và thành phố Hải Phòng nói riêng.
1.1.1. Khái niệm về môi trường, bảo vệ môi trường và quản lý nhà
nước về bảo vệ môi trường.
* Môi trường:
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì: Môi trường là một tập hợp
các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người, tác động đến hoạt động của
con người như không khí nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người.
Khoản 1 Điều 3 Luật BVMT ngày 29 tháng 11 năm 2005 của nước ta
khẳng định: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo
bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát
triển của con người và sinh vật”.
Môi trường sống của con người bao gồm 3 loại: Môi trường tự nhiên,
môi trường xã hội và môi trường nhân tạo. Tuy nhiên trên thực tế ba loại môi
trường thường cùng tồn tại, đan,xen, tương tác nhau rất chặt chẽ. Môi trường
mà tác giả đề cập đến trong luận văn là môi trường tự nhiên:
Môi trường tự nhiên là một phần của tự nhiên, về cấu trúc của môi
trường tự nhiên gồm có 2 thành phần cơ bản: Môi trường vật lý và môi trường
sinh vật.
Môi trường có các chức năng cơ bản sau:
Là không gian sống của con người và các loài sinh vật; Là nơi cung cấp

tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người như:
như tài nguyên khoáng sản, đất đai, nước, tài nguyên rừng... song nguồn tài
nguyên thiên nhiên của môi trường không phải là vô tận, trữ lượng giảm dần,

9


thậm chí còn cạn kiệt....Là nơi chứa đựng, làm sạch, đồng hóa các chất thải ra
từ hoạt động của con người và các loài sinh vật nhưng khả năng cung cấp và
hấp thụ của môi trường không phải là vô hạn. Là nơi giảm nhẹ các tác động
có hại của thiên nhiên tới con người và sinh vật trên trái đất; lưu trữ và cung
cấp thông tin cho con người.
* Ô nhiễm môi trường:
Theo Tổ chức Y tế thế giới: “Ô nhiễm môi trường được hiểu là việc
chuyển các chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây
hại đến sức khoẻ con người, đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất
lượng môi trường”.
Khoản 6 Điều 3 Luật BVMT năm 2005 của Việt Nam khẳng định: “Ô
nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù
hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật”.
Để quản lý môi trường, xác định môi trường có ô nhiễm hay không
người ta đưa ra hàng loạt các khái niệm và tiêu chuẩn, cụ thể: tiêu chuẩn
môi trường; suy thoái môi trường; sự cố môi trường; chất gây ô nhiễm;
chất thải; chất thải nguy hại; phế liệu; đánh giá môi trường; đánh giá tác
động môi trường.
* Hoạt động bảo vệ môi trường:
Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong
lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng
phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện
môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo

vệ đa dạng sinh học.
* Quản lý nhà nước: Là sự quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước
đối với tất cả các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, môi
trường... ( Quản lý vĩ mô)

10


* Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường:
Quản lý là sự tác động có mục đích, có ý thức của chủ thể quản lý đến
đối tượng quản lý, thông qua các công cụ, biện pháp nhất định nhằm thực
hiện mục tiêu quản lý.
Theo đó, quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường: là sự quản lý của các
cơ quan chức năng nhà nước thông qua tổng hợp các biện pháp luật pháp,
chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi
trường sống góp phần phát triển bền vững kinh tế - xã hội quốc gia.
Chủ thể quản lý nhà nước về BVMT, theo nghĩa rộng bao gồm cả ba cơ
quan: Lập pháp, hành pháp và tư pháp của nhà nước. Theo nghĩa hẹp, đó là sự
quản lý của cơ quan hành pháp (chính phủ).
Mục tiêu chủ yếu của công tác quản lý nhà nước về môi trường là:
Khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường phát sinh trong
hoạt động sống của con người.
1.1.2. Khu công nghiệp và khái niệm, nội dung quản lý nhà nước về bảo
vệ môi trường trong các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng
* Khu công nghiệp:
Khu công nghiệp là khu vực dành cho phát triển công nghiệp theo một quy
hoạch cụ thể, có ranh giới xác định, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Đây là một mô hình phát triển kinh tế
phổ biến đã được hình thành và phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam, trong quá trình hình thành, phát triển hệ thống các KCN

cho thấy quan niệm về KCN có sự thay đổi qua các thời kỳ.
Khái niệm KCN lần đầu tiên được xuất hiện tại Luật đầu tư nước ngoài
năm 1986 và được định nghĩa “Là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và
thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp do Chính phủ thành lập hoặc cho
phép thành lập”.
Cùng với chủ trương phát triển KCN, khái niệm KCN lại được thay đổi, tại
Quy chế KCN, khu chế xuất, khu kinh tế - ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP
11


ngày 24/4/1997, KCN được định nghĩa là: “Khu tập trung các doanh nghiệp
chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công
nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ
hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập”[10, tr.883-884].
Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ Quy định
về KCN, KCX, KKT thì định nghĩa “KCN là khu chuyên sản xuất hàng
công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh
giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục
quy định tại Nghị định này”[19, tr.3].
* Khái niệm quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường trong các khu
công nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng:
Quản lý nhà nước về BVMT trong các KCN ở thành phố Hải Phòng là
sự quản lý của các cơ quan chức năng của thành phố Hải Phòng thông qua
tổng hợp các biện pháp luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích
hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường trong 18 KCN đã và đang hoạt động
của thành phố, nhằm đáp ứng tiêu chí đặt ra, góp phần nâng cao chất lượng
cuộc sống của nhân dân thành phố, các địa bàn lân cận và phát triển bền vững
kinh tế - xã hội của thành phố.
Mục đích quản lý: Phòng chống và khắc phục suy thoái, ô nhiễm môi
trường do hoạt động của con người trong 18 KCN gây ra, tăng hiệu quả về

kinh tế cho các doanh nghiệp nói riêng, đồng thời góp phần vào việc xây
dựng thành phố Hải Phòng ngày càng giàu mạnh, thành phố Cảng xanh, văn
minh, hiện đại.
Chủ thể quản lý: Là hệ thống tổ chức quản lý môi trường ở Việt Nam
và trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Cụ thể:
Tại điều 1, Nghị định số 91/2002/NĐ-CP về “Quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường” qui
định: “Bộ tài nguyên và Môi trường là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức
12


năng quản lý nhà nước về tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng
sản, môi trường, khí tượng thuỷ văn, đo đạc và bản đồ trong phạm vi cả nước;
quản lý nhà nước các dịch vụ công và thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn
của nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước trong lĩnh vực tài nguyên đất,
tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thuỷ văn, đo
đạc và bản đồ theo quy định của pháp luật”.
Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước về bảo vệ môi trường trên địa bàn, trong đó có BVMT trong các
KCN (8 KCN đang hoạt động). Sở Khoa học-Công nghệ, Sở Tài nguyên- Môi
trường, Cảnh sát môi trường chịu trách nhiệm trước Uỷ ban nhân dân thành
phố trong việc BVMT ở địa phương nói chung, trong các KCN nói riêng. Ban
quản lý các KCN chịu trách nhiệm trước Sở Tài Nguyên môi trường về
BVMT trong các KCN trên địa bàn thành phố. Ủy ban nhân dân các quận,
huyện, phường, xã làm công tác quản lý nhà nước về BVMT trong các KCN
trên địa bàn, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong giám sát việc thực
hiện bảo vệ môi trường ở các KCN.
Đối tượng quản lý: hoạt động của các tổ chức, cá nhân doanh nghiệp trong
18 KCN đã, đang và sẽ hoạt động trên địa bàn thành phố Hải Phòng, tác động vào
các yếu tố tạo thành môi trường trong 18 KCN như: không khí, nước, đất, âm

thanh, ánh sáng, sông, hồ, biển, sinh vật, các hệ sinh thái, các khu dân cư, khu sản
xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, di tích
lịch sử và các hình thái vật chất khác.
Công cụ quản lý: Để quản lý nhà nước về BVMT trong 18 KCN ở
thành phố Hải Phòng, các cơ quan quản lý sử dụng tổng hợp các công cụ:
hành chính, kinh tế, giáo dục.
Biện pháp quản lý hành chính: Thông qua ban hành các văn bản luật,
các quy định về BVMT và bằng quyền lực của mình, các cấp cơ quan quản lý

13


nhà nước của Thành phố Hải Phòng về BVMT, bắt buộc các tổ chức, cá nhân
hoạt động trong 18 KCN phải thực hiện. Tổ chức, cá nhân nào vi phạm luật
pháp, quy định sẽ bị xử phạt theo quy định của pháp luật.
Biện pháp kinh tế: Thông qua các công cụ như: Thuế, phí, lệ phí, khen
thưởng, xử phạt bằng tiền để cơ quan quản lý nhà nước về BVMT thành phố
Hải Phòng thực hiện chức năng quản lý của mình.
Thông qua việc tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, cơ
quan quản lý nhà nước tác động vào đối tượng quản lý là cá nhân, tổ chức
trong 18 KCN để họ nhận thức đúng về vai trò vị trí của môi trường, BVMT,
trách nhiệm của công dân, doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường…
* Nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong các khu
công nghiệp ở Hải Phòng:
Nội dung quản lý nhà nước về BVMT trong các BVMT ở thành phố
Hải Phòng được thực hiện trên cơ sở vận dụng, cụ thể hóa của Điều 37, Luật
Bảo vệ Môi trường của nước ta như sau:
Một là, xây dựng hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế chính sách về bảo
vệ môi trường nói chung và trong các khu công nghiệp nói riêng.
Là việc cơ quan quản lý nhà nước về môi trường của thành phố Hải

Phòng tham mưu cho UBND thành phố ban hành các văn bản pháp luật về
BVMT như: Xây dựng chiến lược, chính sách BVMT; kế hoạch phòng,
chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi
trường; xây dựng hệ thống tiêu chuẩn môi trường.
Hai là, tổ chức thực hiện công tác bảo vệ môi trường trong
các khu công nghiệp như:
Xây dựng, quản lý các công trình BVMT, công trình có liên quan đến
BVMT; tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc, định kỳ đánh giá hiện
trạng, dự báo diễn biến môi trường; thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi

14


trường của các dự án và các cơ sở sản xuất, kinh doanh; cấp, thu hồi giấy chứng
nhận đạt tiêu chuẩn môi trường; đào tạo cán bộ về khoa học và quản lý môi
trường; giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật; tổ chức nghiên cứu,
áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ; quan hệ quốc tế trong lĩnh vực BVMT.
Ba là, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện BVMT
trong các KCN như:
Cơ quan quản lý nhà nước về BVMT giám sát, thanh tra, kiểm tra việc
chấp hành pháp luật về BVMT; giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về
BVMT; xử lý vi phạm pháp luật về BVMT.
1.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong
các khu công nghiệp ở Hải Phòng hiện nay
Quản lý nhà nước về BVMT nói chung, trong các KCN nói riêng là
một tất yếu hiện nay. Tính tất yếu này được xuất phát từ những lý do sau:
Một là, xuất phát từ bản chất, chức năng của nhà nước và quyền của
con người được sống trong môi trường trong sạch, đảm bảo cho sự tồn tại,
phát triển bền vững.
Trong bất cứ xã hội nào, bên cạnh việc chăm lo bảo vệ lợi ích của giai

cấp thống trị cầm quyền, nhà nước cũng buộc phải chú ý đến lợi ích chung của
xã hội, giải quyết tất cả những vấn đề mà đời sống cộng đồng xã hội đặt ra như:
việc làm, giáo dục, văn hóa, đi lại, thông tin, an toàn, môi trường... Đối với nhà
nước XHCN với bản chất là nhà nước của dân, vì lợi ích chung của toàn dân thì
nhiệm vụ phục vụ lợi ích chung của xã hội không phải là bắt buộc nữa mà đã
trở thành nhiệm vụ tối thượng nhằm thực hiện chức năng xây dựng của nhà
nước kiểu mới. Đó cũng chính là mục tiêu con đường phát triển mà Đảng và
Nhà nước ta đã lưạ chọn. Vì vậy, tầm quan trọng của nhiệm vụ BVMT, đảm
bảo phát triển bền vững phải được đặt cao hơn các thể chế chính trị khác và
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay lại càng trở lên trở lên bức thiết
hơn bao giờ hết.

15


Để thực hiện quyền lực của mình, Nhà nước ban hành pháp luật về
BVMT, đồng thời tổ chức việc áp dụng pháp luật để quản lý BVMT. Pháp luật
môi trường do nhà nước ban hành nên nó có tính bắt buộc chung, mọi thành viên
trong xã hội đều phải tôn trọng và chấp hành pháp luật. Vai trò của nhà nước về
quản lý môi trường là vô cùng to lớn, có tính chất quyết định đối với việc
BVMT và đảm bảo phát triển bền vững của đất nước.
Hai là, xuất phát từ thực trạng môi trường trong các KCN ở
Hải Phòng:
Cùng với cả nước, những năm qua Hải Phòng đã đẩy nhanh quá trình
thực hiện CNH, HĐH, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tập trung xây dựng Hải
Phòng trở thành trung tâm của duyên hải Bắc bộ về công nghiệp. Với tốc độ
phát triển CNH, HĐH nhanh, việc phát triển nhanh, ồ ạt các KCN, đã làm thay đổi
diện mạo của thành phố song không tránh khỏi những bấp cập, hạn chế, đặc biệt
trong lĩnh vực BVMT.
Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong

các KCN ở Hải Phòng đã và đang thải vào môi trường nhiều phế thải các loại,
góp phần làm cho chất lượng môi trường của thành phố xuống cấp. Tình trạng
ô nhiễm nguồn nước, đất, không khí, ánh sáng, tiếng ồn... ngày càng có xu
hướng gia tăng. Trong khi đó, công tác quản lý nhà nước về BVMT của thành
phố còn nhiều hạn chế, bất cập; quy hoạch và phát triển các KCN chưa đồng
bộ… gây khó khăn cho quá trình triển khai công tác BVMT của thành phố.
Kết quả thống kê cho thấy, trong 90 % doanh nghiệp trong 18 KCN
được xử lý nước thải, thì số lượng nước thải được xử lý đạt tiêu chuẩn môi
trường là (60%/90%). Tương tự như vậy, tỷ lệ các cơ sở sản xuất vừa và lớn
trong các KCN được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường hoặc
chứng chỉ ISO-14000 đạt rất thấp (10%/75%); vi phạm pháp luật về BVMT
(trong các KCN là 70% số vụ vi phạm)….

16


Trong vòng khoảng 5 năm gần đây, số lượng người tử vong do ung thư
trên 87 người trong đó có nguyên nhân do ô nhiễm môi trường. Theo số liệu
thống kê của Sở Y tế Hải Phòng, số người mắc bệnh về hô hấp, bệnh tiêu hóa,
bệnh về da liễu trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 2006 – 2010 gia
tăng ( Phụ lục 4). Theo báo cáo môi trường quốc gia năm 2010, Hải phòng là
một trong những thành phố được đánh giá có tỷ lệ người bị bệnh lao được
phát hiện đến năm 2008 là khá cao, cao hơn các địa phương có hoạt động
công nghiệp kém phát triển tới 4-5 lần).
Với tất cả thực trạng môi trường thành phố bị ô nhiễm và hậu quả của
ÔNMT KCN gây ra đã tạo nhiều lo lắng, bức xúc trong các tầng lớp nhân dân
thành phố cũng như các vùng lân cận. Thậm chí đã có thời điểm, có lúc giảm
lòng tin của nhân dân thành phố về hiệu quả công tác quản lý của nhà nước
với nhiệm vụ Bảo vệ môi trường thành phố nói chung, môi trường trong 18
KCN của thành phố nói riêng.

Với mục tiêu chiến lược đã được xác định trong Nghị quyết 32-NQ/TW
của Bộ Chính trị về xây dựng thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH-HĐH, xây dựng Hải Phòng trở thành thành phố “Cảng xanh, hiện đại,
văn minh”. Đây là một thương hiệu mà Đảng bộ, chính quyền, nhân dân thành
phố Hải Phòng lựa chọn phấn đấu trong hiện tại và tương lai. Để góp phần
hoàn thành mục tiêu trên, thành phố Hải phòng phải thực hiện nhiều nội dung
trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trong đó có quản lý nhà nước
về BVMT, đặc biệt BVMT trong các KCN.
Ba là, xuất phát từ lợi ích của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp:
Quản lý nhà nước về BVMT trong các KCN được thực hiện tốt sẽ đem lại lợi
ích cho các doanh nghiệp trong các KCN. Điều này được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, nhận thức của xã hội nói chung và của người tiêu dùng nói
riêng về môi trường hiện nay đang dần thay đổi.
Thực tế cho thấy một doanh nghiệp ở trong tình trạng môi trường kém
thì khó có thể sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao. Xu thế hiện nay
17


người tiêu dùng có sự lựa chọn các sản phẩm được sản xuất trong các điều
kiện tốt về môi trường. Bạn hàng, những người luôn cẩn trọng khi lựa chọn,
ký kết các hợp đồng càng quan tâm hơn về vấn đề này. Các bên quan tâm
hoặc các bên có quyền lợi liên quan khác như các cổ đông, các tổ chức tài
chính, các công ty bảo hiểm... luôn xem trong yếu tố đảm bảo môi trường
trong quá trình đánh giá tổng thể, đánh giá về các khách hàng hiện có. Khách
hàng tương lai trước lúc thực hiện các dịch vụ đầu tư, cho vay, dịch vụ bảo
hiểm hay chấp nhận các điều kiện đàm phán thích hợp. Các doanh nghiệp
thiếu cẩn trọng về vấn đề ô nhiễm còn có thể gặp nhiều rắc rối trong quan hệ
đối với dân cư địa phương.
Thứ hai là áp lực về cạnh tranh. Ô nhiễm môi trường thường gắn liền
với việc doanh nghiệp phải tiêu hao lãng phí nhiên liệu và năng lượng, chất

lượng sản phẩm kém, giá thành cao nên mất khả năng cạnh tranh ở thị trường
nội địa, thị trường nước ngoài. Hiện nay, ở nhiều nước, cơ chế hay hệ thống
“Tiêu dùng xanh - Green Consumer” đang là áp lực rất lớn trên thị trường.
Người tiêu dùng ngày càng đòi hỏi có các sản phẩm mới hơn, bền hơn theo các
chuẩn mực môi trường. Các nhu cầu đó có thể bao gồm cả việc phải đảm bảo
để các sản phẩm được cung cấp thoả mãn mọi yêu cầu của nước nhập khẩu
đồng thời cơ sở sản xuất phải đáp ứng các yêu cầu tối thiểu về môi trường
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Trong nhiều trường hợp, việc tuân
thủ các điều luật về môi trường có thể làm tăng giá thành nhưng xu thế là các
sản phẩm đạt các yêu cầu môi trường cao hơn vẫn được ưa chuộng hơn.
Thứ ba, là sức ép về tài chính. Để giảm giá thành, tăng khả năng cạnh
tranh doanh nghiệp phải tìm các giải pháp giảm thiểu hoặc loại bỏ ô nhiễm,
tiết kiệm năng lượng, nguyên nhiên liệu, giảm nguồn thải, tái chế hoặc tái sử
dụng các phế liệu. Hiện nay Quản lý môi trường đối với các doanh nghiệp
trong các KCN được hình thành trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường và
thực hiện điều tiết xã hội thông qua các công cụ kinh tế. Trên cơ sở những
nguyên lý cạnh tranh của kinh tế thị trường, người ta đã đưa ra các chính sách
18


hợp lý, các công cụ kinh tế để điều chỉnh và định hướng hoạt động phát triển
sản xuất có lợi cho công tác BVMT.
1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong các
khu công nghiệp ở một số tỉnh, thành phố trong nước và bài học rút ra
đối với thành phố Hải Phòng
1.3.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong các
khu công nghiệp ở một số tỉnh, thành phố.
* Kinh nghiệm của tỉnh Hưng Yên: Đến nay trên địa bàn tỉnh có 13
KCN với tổng diện tích 3.684,6ha, trong đó có 03 KCN đã đi vào hoạt động.
Ban Quản lý các KCN của tỉnh đã tập trung triển khai tham mưu một số

công việc cụ thể để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về BVMT trong các
KCN của tỉnh, như sau:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến các
doanh nghiệp.
Đầu tư và vận hành thường xuyên các công trình BVMT của KCN; củng
cố, kiện toàn bộ phận chuyên môn làm công tác BVMT tại các KCN; đầu tư
trang thiết bị cần thiết phục vụ cho hoạt động. Đẩy mạnh hoạt động giám sát việc
xây dựng các công trình BVMT của các doanh nghiệp theo đúng cam kết, nhất là
đối với các công trình ngầm. Xử lý nghiêm, triệt để đối với những trường hợp gây
ô nhiễm môi trường, không chấp hành các quy định của pháp luật về BVMT. Tập
trung xây dựng cơ sở dữ liệu về môi trường của các KCN, đưa việc theo dõi, đánh
giá tình hình biến động môi trường của các KCN qua các năm đi vào nề nếp và có
hiệu quả hơn, phục vụ tốt cho công tác quản lý nhà nước.
* Kinh nghiệm của thành phố Đà Nẵng: Đà Nẵng đã xây dựng khung
kế hoạch chiến lược quản lý ô nhiễm công nghiệp thành phố nói chung, trong
các KCN nói riêng giai đoạn 2011-2020. Với lợi thế của thành phố, đến nay,
Đà Nẵng đã xây dựng hoàn thiện 6 KCN.

19


Trong những năm qua, Đà Nẵng đã quan tâm lồng ghép công tác
BVMT vào kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội nói chung, phát triển các
KCN nói riêng. Thành phố đã tập trung quán triệt nhiệm vụ BVMT đến
tất cả các chủ thể sản xuất kinh doanh trong các KCN; rà soát, đóng cửa
các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường, buộc các doanh nghiệp phải
đầu tư hệ thống xử lý ô nhiễm môi trường. Đặc biệt năm 2009- 2010,
UBND thành phố Đà Nẵng không cho phép đầu tư mới ngành sản xuất
sắt, thép. Các dự án nhạy cảm về môi trường xin đầu tư vào thành phố
cũng được quan tâm xem xét, đánh giá để lựa chọn. Đặc biệt các dự án

công nghiệp đầu tư ngoài KCN thì vấn đề môi trường được ràng buộc
ngay từ giai đoạn xin cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Để khắc phục hậu quả ô nhiễm môi trường trong các KCN, trong quy
hoạch tổng thể phát triển các KCN của thành phố vấn đề BVMT được đặc biệt
quan tâm: đặt ra mục tiêu 2011- 2015, 90% chất lượng nước thải của các KCN,
khu chế xuất đảm bảo tiêu chuẩn Việt Nam; hình thành và phát triển công
nghiệp tái chế chất thải để tái sử dụng, phấn đấu 50% chất thải thu gom được
tái chế.
* Kinh nghiệm của tỉnh Bắc Ninh: Tỉnh Bắc Ninh chủ trương xây
dựng KCN tập trung hướng tới phát triển bền vững. Theo đó, xác định tăng
cường công tác quản lý nhà nước về BVMT là nhiệm vụ trọng tâm trong kế
hoạch phát triển các KCN Bắc Ninh giai đoạn 2010-2015- 2020. Để tăng
cường quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong các KCN, tỉnh Bắc Ninh
đã thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất: Kiện toàn tổ chức bộ máy của Phòng Quản lý môi trường
trực thuộc Ban quản lý, bổ sung thêm nhân sự mới nhằm đáp ứng yêu cầu của
công tác chuyên môn được giao.
20


Thứ hai: Hoàn thiện quy chế phối hợp quản lý và BVMT trong các KCN,
tăng cường phối hợp liên ngành (nhất là với PC36 Công An tỉnh) nhằm nâng cao
công tác kiểm soát ô nhiễm và vi phạm pháp luật về môi trường.
Thứ ba: Đổi mới và nâng cao chất lượng thẩm định báo cáo ĐTM và
hoạt động sau thẩm định, tăng cường giám sát quá trình triển khai thực hiện
của các doanh nghiệp ngay từ khi xây dựng. Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư,
chủ đầu tư hạ tầng các KCN phải lập báo cáo ĐTM cho dự án đầu tư kinh
doanh kết cấu hạ tầng KCN; báo cáo phải được thông qua hội đồng thẩm định
cấp TW được Bộ Tài nguyên và Môi trường chấp thuận, phê duyệt.
Thứ tư: Tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra việc chấp hành

pháp luật về BVMT, có biện pháp xử lý nghiêm các doanh nghiệp không thực
hiện theo đúng các cam kết về BVMT trong báo cáo ĐTM hoặc bản cam kết
BVMT đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; cương quyết tạm đình chỉ hoạt
động nếu doanh nghiệp để tình trạng ô nhiễm kéo dài.
Thứ năm: khắc phục những tồn tại của KCN và các doanh nghiệp
như: Yêu cầu tất cả các chủ đầu tư các KCN phải xây dựng hệ thống xử lý
nước thải tập trung, xây dựng khu vực lưu giữ tạm thời chất thải nguy hại
theo đúng quy định của Thông tư số 08/2009/TT-BTNMT ngày 15/7/2009 của
Bộ Tài nguyên và Môi trường. Kiên quyết không tiếp nhận những dự án có
nguy cơ ô nhiễm cao dưới mọi hình thức.
Thứ sáu: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận
thức, ý thức trách nhiệm và ý thức chấp hành pháp luật về BVMT; có chính
sách khuyến khích, khen thưởng những tổ chức, cá nhân làm tốt công tác bảo
vệ môi trường; xử phạt kịp thời, nghiêm minh, đủ mức răn đe mọi hành vi vi
phạm pháp luật về BVMT.
1.3.2. Bài học rút ra đối với Thành phố Hải Phòng
Bài học về quy hoạch các khu công nghiệp: KCN cần được xây dựng
đồng bộ về kết cấu cơ cở hạ tầng trong nội bộ (Hệ thống điện, nước, hệ thống
21


quan trắc môi trường, hệ thống xử lý nước chung, chất thải nguy hại, khí thải,
vành đai cây xanh…) đồng bộ với quy hoạch khu dân cư, môi trường sinh
thái, các công trình an sinh xã hội...
Bài học về xây dựng khung khổ pháp lý, xây dựng cơ chế chính sách:
Bám sát các văn bản chỉ đạo của Trung ương như: Nghị định
29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 Quy định về KCN, KCX, KKT; Thông tư
08/2009/TT-BTNMT ngày 15/7/2009 Bộ Tài nguyên và Môi trường Quy định
quản lý và BVMT KKT, KCN cao. Kịp thời, chủ động xây dựng hệ thống các
văn bản quy phạm pháp luật, các chế tài phù hợp, quy định rõ trách nhiệm của

các cơ quan có liên quan, đặc biệt là vai trò trách nhiệm của người đứng đầu
về quản lý môi trường nói chung và BVMT trong các KCN trên địa bàn thành
phố nói riêng.
Bài học về: Xây dựng và thực thi kế hoạch kiểm tra, giám sát và xử lý ô
nhiễm tại các khu công nghiệp:
Chú trọng kiểm soát việc thực hiện các thủ tục lập, phê duyệt báo cáo
ĐTM, cam kết BVMT cũng như quan trắc, theo dõi, kiểm tra thực hiện khi dự án
đã đi vào hoạt động; sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước; xử lý vi
phạm kịp thời, dứt điểm, đủ sức răn đe; xây dựng cơ sở dữ liệu, đánh giá tình
hình biến động môi trường của các KCN...
Bài học về tổ chức bộ máy, thực thi nhiệm vụ:
Tổ chức bộ máy quản lý BVMT của thành phố, đặc biệt trong các KCN,
chủ doanh nghiệp phải được quan tâm đặc biệt; đủ về số lượng, có chất lượng tốt.
Đầu tư mua sắm phương tiện đảm bảo cho lực lượng này hoạt động có hiệu qủa.
Cấp ủy đảng phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng bộ máy
quản lý nhà nước về BVMT, đặc biệt trong các KCN vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức, có nghiệp vụ tốt, đạo đức trong sáng.
Bài học về huy động các nguồn lực :

22


Đổi mới nhận thức trong việc xây dựng chính sách khuyến khích mọi thành
phần tham gia công tác BVMT thành phố, đặc biệt trong các KCN trong việc thu
gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải và các dịch vụ khác về BVMT.
Khuyến khích các tổ chức, cá nhân đóng góp nguồn tài chính cho đầu
tư thực hiện các quy chế về BVMT, phòng ngừa và khắc phục ô nhiễm, tạo
lập môi trường sống xanh, sạch, đẹp tại các KCN.
*
*


*

Môi trường là một tập hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con
người, tác động đến hoạt động của con người như không khí nước, độ ẩm, sinh
vật, xã hội loài người. Hiện nay ô nhiễm môi trường đang là vấn đề bức xúc của
nhiều nước, nhiều thành phố trên thế giới, trong đó có Hải Phòng. Trên cơ sở
nhận thức lý luận về môi trường, BVMT, luận văn đã đưa ra khái niệm quản lý
nhà nước về BVMT trong các KCN. Luận văn đã phân tích ba nội dung cơ bản
về quản lý nhà nước về BVMT trong các KCN của thành phố Hải Phòng; phân
tích tính tất yếu phải quản lý nhà nước về BVMT trong các KCN ở thành phố
Hải Phòng; khảo sát kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố về quản lý nhà
nước về BVMT trong các KCN, từ đó rút ra những bài học bổ ích cho thành phố
Hải Phòng.

23


Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở HẢI PHÒNG THỜI GIAN QUA

2.1. Tổng quan về các khu công nghiệp ở Hải Phòng hiện nay
2.1.1. Một số nét khái quát về thành phố Hải Phòng.
Hải Phòng là thành phố công nghiệp, đô thị loại I, đô thị trung tâm cấp
quốc gia, nằm ở vị trí trung tâm vùng duyên hải Bắc Bộ, thuộc vùng Đồng
bằng sông Hồng. Thành phố có 15 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 7 quận, 6
huyện đất liền và 2 huyện đảo; có 223 xã, phường, thị trấn (143 xã, 10 thị trấn,
70 phường). Tổng diện tích đất tự nhiên 151.921 ha. Dân số có 1.857,8 nghìn
người. Với hệ thống hạ tầng giao thông thuận lợi về đường biển, đường bộ,

đường sắt, đường hàng không và đường thủy. Hải Phòng được xác định là cửa
chính ra biển, là nơi tập trung nhiều ngành kinh tế mũi nhọn, thành phố công
nghiệp, dịch vụ cảng.
Hải Phòng là một trong 5 địa phương có quy mô công nghiệp lớn nhất
cả nước. Nhiều KCN cơ bản lấp đầy như KCN Nomura. Các KCN Đình Vũ,
Đồ Sơn thu hút được nhiều nhà đầu tư; đang tích cực xây dựng thêm các
KCN mới như Sài Gòn - Hải Phòng, VSIP tại Thủy Nguyên… tạo mặt bằng
sạch cho các dự án đầu tư. Việc phát triển các KCN tập trung đã mang lại
hiệu quả tích cực.
Đến nay Hải Phòng có 18 KCN được Chính phủ phê duyệt quy hoạch
thành lập đến năm 2015, định hướng đến năm 2020, trong đó có 4 KCN hình
thành theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 519/TTg là Đồ Sơn, Nomura,
Đình Vũ, Minh Đức và 14 KCN nằm ở 6 quận, huyện, bao gồm: KCN Nam
Tràng Cát, quận Hải An, diện tích 1.000ha; KCN Thủy Nguyên (Thủy Nguyên),
diện tích 1000ha; KCN An Hưng (An Dương) diện tích 450ha; KCN Tiên
Thanh (Tiên Lãng), diện tích 450ha; KCN Giang Biên II (Vĩnh Bảo), diện tích
400ha; KCN Vinh Quang (Vĩnh Bảo), diện tích 350ha; KCN An Hòa (Vĩnh

24


Bảo), diện tích 200ha; KCN Ngũ Phúc(Kiến Thụy), diện tích 450ha; KCN đóng
tàu Vinh Quang(Tiên Lãng), diện tích 1.000ha; KCN Cầu Cựu (An Lão) diện
tích 106ha. Trong đó, có 4 KCN nằm trong KKT Đình Vũ- Cát Hải; 6 KCN có
nhà đầu tư thứ cấp đang hoạt động, 1 KCN đang xúc tiến thu hút đầu tư, một số
KCN khác đang san lấp mặt bằng (lấn biển) để xây dựng hạ tầng. Một số KCN
do các nhà đầu tư trong nước làm chủ đầu tư như Tràng Duệ, Nam Cầu Kiền,
Nam Đình Vũ 1 và Khu phi thuế quan.
Những năm qua, Hải Phòng đã quan tâm đến công tác BVMT thành
phố, đặc biệt BVMT trong các KCN. Một số chủ đầu tư hạ tầng KCN đã có ý

thức chấp hành pháp luật về BVMT như đầu tư xây dựng hệ thống xử lý giảm
thiểu ô nhiễm môi trường; thu gom, xử lý chất thải rắn, khí thải… Tuy nhiên,
nhiều KCN chưa thật nghiêm túc thực hiện các quy định của pháp luật về
BVMT, gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường KCN nói riêng và môi trường
thành phố nói chung.
2.2. Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
cần giải quyết trong quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong các
khu công nghiệp ở Hải Phòng thời gian qua
2.2.1.Thành tựu
Một là, hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế chính sách về BVMT nói
chung, trong các KCN nói riêng của thành phố Hải Phòng đảm bảo tính kịp
thời, chủ động, khoa học, cơ bản đáp ứng được cơ sở pháp lý cho hoạt động
quản lý nhà nước về BVMT KCN thành phố được bài bản, dần đi vào nề nếp,
có hiệu quả
Nhận thức được vai trò tầm quan trọng của công tác BVMT, những năm
qua Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, luật pháp, chính sách tạo
khung khổ pháp lý cho công tác BVMT. Trên cơ sở đó các địa phương, bộ,
ban ngành (trong đó có thành phố Hải Phòng) cụ thể hóa tổ chức thực hiện ở
địa phương, cơ quan đơn vị mình.

25


Thành phố Hải Phòng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác
BVMT nói chung, các KCN nói riêng, kịp thời ban hành Nghị quyết số
22/NQ-TU của Ban Thường vụ Thành uỷ về công tác BVMT thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH. Theo đó, UBND thành phố đã ra Quyết định số
571/2006/QĐ-UBND ngày 22/3/2006 ban hành Chương trình hành động thực
hiện Nghị quyết số 22/NQ-TU với 46 chương trình hành động. Thành lập Ban
Chỉ đạo thành phố về BVMT và phát triển bền vững tại Quyết định số

701/2006/QĐ-UBND ngày 5/4/2006; Nghị quyết số 20-NQ/TU ngày
28/5/2008 của Ban Thường vụ Thành ủy (khóa XIII) về nhiệm vụ và giải
pháp chủ yếu đẩy mạnh công tác quản lý, phát triển các KCN, CCN trên địa
bàn thành phố đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
UBND thành phố cũng đã ban hành nhiều Nghị quyết, Quyết định, Chỉ
thị trong lĩnh vực BVMT như: Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐND ngày
21/7/2005 về đổi mới công tác quản lý, xử lý chất thải rắn đô thị; Nghị quyết
số 09/2010/NQ-HDND về nhiệm vụ, giải pháp thu gom, xử lý chất thải rắn ở
nông thôn trên địa bàn thành phố giai đoạn 2010-2020; Quyết định số
514/QĐ-UBND ngày 02/4/2010 với 15 chương trình, đề án, dự án trong năm
chủ đề “Tăng cường BVMT và an sinh xã hội”, trong đó có 4 đề án về
BVMT; Chỉ thị số 32/CT-TU ngày 07/11/2012 UBND về tiếp tục nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về BVMT trên địa bàn thành phố trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế; Xây dựng kế
hoạch BVMT của thành phố giai đoạn 2011- 2015 và định hướng đến 2020;
Đề án xã hội hóa hoạt động BVMT giai đoạn 2010-2015 và định hướng đến
2020. Tổ chức chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 27-NQBCSĐTNMT ngày 02/12/2009 của Ban cán sự đảng Bộ Tài nguyên và Môi
trường về đẩy mạnh kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trường; Ban hành kế
hoạch kiểm soát môi trường các năm...
Các quận, huyện, ban ngành cũng đã ban hành nhiều cơ chế chính sách
về BVMT trên địa bàn quận, huyện. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành

26


×