Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ GIẢM NGHÈO ở TỈNH hòa BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.97 KB, 87 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Bảo hiểm y tế

BHYT

Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc

UNDP

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH, HĐH

Dân tộc thiểu số

DTTS

Kinh tế - xã hội

KT-XH

Khoa học kỹ thuật

KHKT

Nông thôn mới


NTM

Tổ chức thương mại thế giới

WTO

Uỷ ban Kinh tế xã hội Châu Á

ESCAP

Ủy ban nhân dân

UBND

Xuất khẩu lao động

XKLĐ


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢM NGHÈO Ở TỈNH
HOÀ BÌNH
1.1. Quan niệm về nghèo và giảm nghèo
1.2. Quan niệm, nội dung và các nhân tố tác động đến

giảm nghèo ở tỉnh Hoà Bình
Chương 2. THỰC TRẠNG GIẢM NGHÈO Ở TỈNH HOÀ
BÌNH THỜI GIAN QUA
2.1. Thành tựu, hạn chế về giảm nghèo ở tỉnh Hoà Bình
2.2. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra với giảm
nghèo ở tỉnh Hòa Bình
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH GIẢM
NGHÈO Ở TỈNH HOÀ BÌNH THỜI GIAN TỚI

3.1. Quan điểm đẩy mạnh giảm nghèo ở tỉnh Hoà Bình
3.2. Giải pháp đẩy mạnh giảm nghèo ở tỉnh Hoà Bình
thời gian tới

13
13
21
31
31
61
69
69
72

KẾT LUẬN

83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

84



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đói, nghèo là vấn đề toàn cầu, đã và đang diễn ra trên khắp các châu
lục với những mức độ khác nhau và trở thành một thách thức lớn đối với sự
phát triển của từng khu vực, từng quốc gia, dân tộc, từng địa phương. Mặc dù
thế giới đã đưa ra một mức nghèo chung tương đối chuẩn (nghèo dưới 2
USD/người/ngày) và chuẩn đó cũng sẽ thay đổi theo tiến trình phát triển kinh
tế toàn cầu. Song mức độ và tiêu chí đánh giá về đói nghèo ở mỗi quốc gia,
khu vực, vùng miền vẫn có sự khác biệt. Bởi lẽ, nghèo nếu hiểu theo nghĩa
đầy đủ bao hàm nghèo vật chất, văn hóa, tinh thần.
Thực tế nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần, mà còn là vấn đề
chính trị, xã hội và là một trong những nội dung cơ bản trong phát triển kinh
tế bền vững ở mỗi địa phương, mỗi quốc gia và trên thế giới. Giải quyết tình
trạng nghèo là một trong những vấn đề xã hội vừa cơ bản lâu dài, vừa là
nhiệm vụ cấp bách, nhằm bảo đảm phát triển kinh tế và tiến bộ, công bằng xã
hội. Xoá đói, giảm nghèo, hạn chế phân hoá giàu nghèo là nội dung được đề
cập nhiều trong các văn kiện của Đảng. Chủ trương “khuyến khích làm giàu
hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá
đáng về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư”
[8, tr.92] được cụ thể hoá thành các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, thực
hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội. Thành công của Việt Nam sau hơn
20 năm tấn công vào đói nghèo là đã đưa nước ta từ một nước nghèo trở
thành quốc gia có thu nhập trung bình.
Ở nước ta hiện nay, việc xoá đói, giảm nghèo đang hướng mạnh tới thu
hẹp khoảng cách giàu nghèo. Đây là vấn đề có liên quan tới công bằng, bình
đẳng xã hội, ảnh hưởng tới sự ổn định chính trị. Vấn đề này được nhấn mạnh
trong nhiều văn kiện của Đảng, trở thành hệ thống quan điểm lãnh đạo, chỉ
3



đạo trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta đã
xác định, thực hiện kinh tế thị trường phải “thừa nhận trên thực tế... sự phân
hoá giàu nghèo nhất định trong xã hội” [8, tr.72], coi đó là một hiện tượng xã
hội đang hiện hữu, chi phối đời sống xã hội. Đại hội chỉ rõ, khuyến khích các
tầng lớp nhân dân vươn lên làm giàu, đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, hạn chế
phân hoá giàu nghèo gắn với mục tiêu “phải luôn luôn quan tâm bảo vệ lợi
ích người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi
pháp, coi trọng xoá đói giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã hội,
tiến tới làm cho mọi người, mọi nhà đều khá giả” [8, tr.73]. Đại hội lần thứ
IX, đã có bước phát triển mới: “Khuyến khích làm giàu hợp pháp, đồng thời
ra sức xoá đói giảm nghèo, tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng và năng lực sản
xuất để các vùng, các cộng đồng đều có thể tự phát triển, tiến tới thu hẹp
khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội” [9, tr.163]. Đại
hội lần thứ X của Đảng tiếp tục chỉ rõ và đề ra mục tiêu cụ thể: “Khuyến
khích mọi người làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả các chính
sách xoá đói, giảm nghèo”, “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã
hội trong phạm vi cả nước ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển” [10, tr.101]; phấn đấu đến
năm 2010, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới còn 10 - 11% (năm 2005, tỉ lệ hộ
nghèo cả nước còn khoảng 22%). Đặc biệt, trong Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội 2011 - 2020, Đại hội lần thứ XI của Đảng đã đề ra định hướng cơ
bản: “Nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tạo cơ hội
bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản,
các phúc lợi xã hội. Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù
hợp với từng thời kỳ; đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức để bảo đảm
giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt
khó khăn. Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu
nhập trung bình khá trở lên. Có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm

4


hạn chế phân hoá giàu nghèo, giảm chênh lệch về mức sống giữa nông thôn
với đô thị” [11, tr.124, 125]. Chỉ tiêu phấn đấu cụ thể: “Tỉ lệ hộ nghèo giảm
2%/năm” [11, tr.33]; dựa trên cơ sở sự định hướng chiến lược “Tạo môi
trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn.
Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều
tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với
xoá nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu nghèo giữa các
vùng, miền, các tầng lớp dân cư”[11, tr.79]. Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tiếp tục
khẳng định "Đổi mới chính sách giảm nghèo theo hướng tập trung, hiệu quả
và tiếp cận phương pháp đo lường nghèo đa chiều nhằm bảo đảm an sinh xã
hội cơ bản và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Tổ chức tốt hơn việc cung
cấp các dịch vụ xã hội cơ bản thiết yếu. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ
nhà ở cho các đối tượng chính sách, người nghèo, nhân dân sống ở vùng sâu,
vùng xa, vùng khó khăn" [12, tr.137].
Như vậy, Đảng ta đã có cách nhìn ngày càng toàn diện và đưa ra những
chủ trương, biện pháp thiết thực để xoá đói, giảm nghèo, hạn chế phân hoá
giàu nghèo trên cơ sở tiến hành đồng bộ các giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng
gắn liền với phát triển văn hoá - xã hội; chú trọng đẩy mạnh việc thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường trợ giúp với đối
tượng yếu thế; tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình kinh tế - xã
hội, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Qua đó cho thấy,
giảm nghèo là chủ trương lớn và nhất quán của Đảng, Nhà nước ta nhằm từng
bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp
khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, miền và giữa các tầng lớp
dân cư.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác giảm nghèo

vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định như các chính sách trong thực hiện
5


còn chồng chéo, thiếu thống nhất và đồng bộ; việc giảm nghèo vẫn chủ yếu
thiên về lượng, chưa chú ý đến chất lượng giảm nghèo, còn mang tính ngắn
hạn, thành tích và phong trào; tình hình phân cấp, phân quyền còn thiếu thống
nhất trong xây dựng và thực thi chính sách; công tác đánh giá và giám sát còn
yếu. Hệ thống chính sách giảm nghèo chưa thực sự tạo ra động lực mạnh mẽ
để người nghèo thoát nghèo.
Tỉnh Hoà Bình với đặc điểm kinh tế - xã hội đặc thù, là một tỉnh miền
núi thuộc vùng tây bắc Việt Nam, hiện có 1 thành phố và 10 huyện, trong đó
có với 210 đơn vị hành chính cấp xã (gồm có 11 thị trấn, 8 phường và 191
xã); có 6 dân tộc sinh sống với dân số trên 83 vạn người; thu nhập bình quân
đầu người: 1.500 USD. Mặc dù, tỉnh Hoà Bình đã có những hoạt động cụ thể
để giảm nghèo, nhưng đến năm 2015 tổng số hộ nghèo còn trên 2,7 vạn hộ
nghèo (chiếm 13,7%) và hiện vẫn là một trong những tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo
cao so với cả nước. [7, tr.5]. Nguyên nhân đói nghèo của tỉnh ngoài những
nguyên nhân chung giống như các địa phương trong nước, còn có những
nguyên nhân gắn với đặc thù kinh tế, xã hội của địa phương:
Thiếu vốn sản xuất: Đây là nguyên nhân số 1. Khoảng trên 90 % số hộ
nghèo là thiếu vốn. Nông dân nghèo vốn thấp, làm không đủ ăn, thường
xuyên phải đi làm thuê hoặc đi vay tư nhân để đảm bảo cuộc sống tối thiểu
hàng ngày nên không có vốn để sản xuất, không được vay ngân hàng vì
không có tài sản thế chấp.
Không có kinh nghiệm làm ăn: Kinh nghiệm làm ăn và kỹ thuật sản
xuất rất hạn chế. Khoảng 45% hộ thiếu kinh nghiệm làm ăn. Nguyên nhân là
do họ thiếu kiến thức, kỹ thuật canh tác, áp dụng kỹ thuật không phù hợp với
đất đai, cây trồng, vật nuôi; không có cơ hội học hỏi thêm kinh nghiệm,
không được hổ trợ cần thiết và một phần là do hậu quả của một thời gian dài

họ sống trong cơ chế bao cấp.

6


Thiếu việc làm: Lực lượng lao động ở tỉnh tuy đông nhưng tỷ lệ qua
đào tạo, tập huấn, huấn luyện còn thấp, chưa biết cách làm ăn. Người nghèo
ngoài trồng trọt, họ không có vốn để phát triển chăn nuôi, làm ngành nghề.
Trồng trọt thì không thâm canh, lao động dư thừa, chỉ chờ vào làm thuê.
Trong ngành nghề thì thiếu tay nghề và trình độ học vấn thấp, rất ít có cơ hội
tìm việc làm phi nông nghiệp, số ngày làm không nhiều, thu nhập thấp, công
việc mang tính thời vụ cao, cạnh tranh quyết liệt.
Đất canh tác ít: Khoảng 61% hộ nghèo thiếu đất, ở khu vực có hợp tác
xã thì có nhiều hộ không có khả năng thanh toán nợ cho hợp tác xã nên địa
phương rút bớt ruộng đất đã giao cho họ, càng thiếu ruộng. Ngược lại, một số
gia đình không có đủ khả năng thâm canh nên không dám nhận đủ ruộng
được giao.
Đông nhân khẩu, ít người làm: Bình quân hộ nghèo có 5,8 nhân khẩu,
chỉ có 2,4 lao động. Ít người làm, đông người ăn, dẫn đến thu nhập thấp và
đời sống gặp nhiều khó khăn.
Trình độ học vấn thấp: Dân số tỉnh Hòa Bình trên 80 vạn người, trong
đó người dân tộc thiểu số chiếm trên 72%. Người nghèo không có cơ hội học
hỏi thêm kiến thức và khó tiếp cận thông tin, tỷ lệ đến trường thấp vì gặp khó
khăn về tài chính và chi phí cơ hội con em đến trường cao.
Hạ tầng nông thôn còn hạn chế: Người nghèo chịu thiệt thòi do sống ở
những vùng xa xôi hẻo lánh, giao thông không thuận tiện, vận chuyển sản
phẩm đến chợ chi phí cao, nông sản bán thì rẻ, giá nhu yếu phẩm lại cao, điện,
đường, trường, trạm thưa và thiếu, thủy lợi, tưới tiêu thấp kém.
Ngoài ra còn còn các nguyên nhân: Do tác động của cơ chế thị trường;
Do ảnh hưởng của thiên tai… dẫn đến tình trạng nghèo ở tỉnh Hòa Bình.

Xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của
nhân dân nhằm giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Hoà Bình, tác giả đã chọn vấn đề

7


"Giảm nghèo ở tỉnh Hoà Bình" làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành
kinh tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề nghèo đói, xóa đói giảm nghèo là chủ đề của rất nhiều công
trình nghiên cứu dưới các khía cạnh khác nhau ở cả trong nước và ngoài
nước:
- Nghiên cứu của UNDP (1995) đã được tiến hành đồng thời đó là
"Giảm nghèo ở Việt Nam"; điểm nổi bật trong nghiên cứu này là đã làm rõ
được nguyên nhân gây ra đói nghèo ở Việt Nam và phân tích tác động của các
nhóm giải pháp được thực hiện tương ứng với các nguyên nhân. Trong đó,
một số chính sách giảm nghèo như chính sách đất đai, chính sách tín dụng ưu
đãi, chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng cũng được đánh giá chi tiết.
- PGS.TSKH Lê Du Phong - PTS. Hoàng Văn Hoa (1999), “Kinh tế thị
trường và sự phân hóa giàu - nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc
nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Các tác giả đã đánh giá
những thành tựu về kinh tế - xã hội qua hơn 10 năm đổi mới và tiềm năng ở
vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta.
- TS. Lê Xuân Bá (2001), “Nghèo đói và xóa đói, giảm nghèo ở Việt
Nam”, Nxb Nông nghiệp. Tác giả đã phản ánh tổng quan về nghèo đói trên
thế giới; đưa ra các phương pháp đánh giá về nghèo đói hiện nay, nghèo đói ở
Việt Nam và nghiên cứu thực tiễn về nghèo đói ở tỉnh Quảng Bình; qua đó
đưa ra một số quan điểm, giải pháp chung về xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam.
- Trung tâm Phát triển Nông thôn và Ngân hàng thế giới (2002); UNDP
(2002); Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và chương trình hợp tác Việt Đức (2002) "Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Ninh

Thuận", "Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang"
"Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Quảng Trị".

8


- Nguyễn Văn Cảnh (2008), “Xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang”, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn đã nghiên cứu, đánh giá hoạt động xóa đói,
giảm nghèo gắn với những thành tựu, hạn chế và những nguyên nhân của hạn
chế. Đồng thời, luận văn đã đề xuất quan điểm và đưa ra những giải pháp có ý
nghĩa thực tiễn với hoạt động xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
- Luận văn Thạc sĩ kinh tế, (2009)“Giảm nghèo tại các huyện ngoại
thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa” của Nguyễn Công Bằng, Đại học
kinh tế quốc dân. Tác giả cũng đã tiếp cận vấn đề giảm nghèo ở các huyện
ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa, đề cập thực trạng và một số
giải pháp cần thiết trong công tác xóa đói, giảm nghèo ở các huyện ngoại
thành Hà Nội.
- Nghiên cứu khác về lĩnh vực y tế của Ngân hàng Phát triển châu Á và
Tổ chức Y tế Thế giới (2009) "Cải thiện tình trạng sức khoẻ và giảm bớt bất
bình đẳng" tập trung vào đánh giá thực trạng tiếp cận dịch vụ y tế của người
dân, trong đó chú trọng người nghèo. Với những kết quả được phát hiện như
người nghèo còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt bất bình đẳng trong tiếp cận và
sử dụng dịch vụ y tế, nghiên cứu cũng đã đề xuất được một số kiến nghị quan
trọng cho chính phủ Việt Nam như cần tăng cường giám sát chặt chẽ và có
hiệu quả hỗ trợ từ phía chính phủ để cải thiện khả năng tiếp cận và sử dụng
dịch vụ y tế cho người nghèo.
- Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2012), Giải pháp giảm nghèo trên địa bàn
quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Học viện
Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài nghiên cứu thực tiễn

giảm nghèo trong thời gian qua tại quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
Luận văn đã chỉ ra những chính sách và giải pháp đã được thực hiện trong
thời gian qua và những hạn chế của hoạt động giảm nghèo gắn với các
chương trình mục tiêu quốc gia và thành phố Đà Nẵng. Luận văn cũng đề
9


xuất một số giải pháp phù hợp với thực tiễn hoạt động giảm nghèo của địa
phương trong thời gian tiếp theo.
Nhìn chung, các nghiên cứu này được tiến hành đồng thời và độc lập ở
các địa bàn khác nhau hay trên phạm vi cả nước nhưng đều tập trung vào
cùng một số vấn đề liên quan đến các chính sách giảm nghèo chủ yếu. Kết
quả các nghiên cứu có kết luận về tác động của chính sách đến thành tựu giảm
nghèo là khá tương đồng.
Những công trình trên đã đề cập nghèo đói dưới nhiều góc độ khác
nhau, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề
giảm nghèo ở tỉnh Hoà Bình dưới góc độ kinh tế chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Từ nghiên cứu giảm nghèo tìm ra những giải pháp phù hợp thúc đẩy
giảm nghèo nhanh ở tỉnh Hoà Bình- là tỉnh miền núi có nhiều khó khăn về
điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội với phát triển kinh tế.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về giảm nghèo.
- Phân tích, đánh giá những thành tựu và hạn chế giảm nghèo ở tỉnh
Hoà Bình trong thời gian qua. Đồng thời, chỉ ra những mâu thuẫn cần giải
quyết với hoạt động giảm nghèo hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh giảm nghèo ở tỉnh Hoà Bình
trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu: Về giảm nghèo ở tỉnh Hoà Bình.
* Phạm vi nghiên cứu
+ Địa bàn nghiên cứu: Tỉnh Hoà Bình
+ Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2011 đến năm 2015 và định hướng
đến năm 2020.
10


+ Nội dung nghiên cứu: Về cơ chế chính sách, biện pháp giảm nghèo;
những thành tựu và hạn chế, những vấn đề đặt ra với hoạt động giảm nghèo
hiện nay cùng những giải pháp thực hiện.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Cơ sở lý luận: Luận văn thực hiện trên cơ sở vận dụng lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các lý thuyết của
kinh tế học phát triển và kinh tế học hiện đại để nghiên cứu về vấn đề giảm
nghèo.
- Cơ sở thực tiễn:
+ Nghiên cứu giảm nghèo ở tỉnh Hòa Bình, luận văn dựa vào các tiêu
chí xác định nghèo và chuẩn nghèo của Việt Nam là cơ sở để xem xét và đánh
giá kết quả của hoạt động giảm nghèo tại địa phương. Đồng thời, trong thực
tiễn nghiên cứu, luận văn đã nắm bắt những điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh
Hòa Bình - một tỉnh miền núi có nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế là
những bất lợi với hoạt động giảm nghèo. Từ đó, luận văn có căn cứ khoa học
để đánh giá khách quan, toàn diện hơn những kết quả và hạn chế trong hoạt
động giảm nghèo. Đó là cơ sở thực tiễn để tìm ra những mâu thuẫn với hoạt
động giảm nghèo ở địa phương hiện nay nhằm tìm ra những giải pháp phù
hợp để thúc đẩy hoạt động giảm nghèo theo hướng tích cực hơn, hiệu quả hơn
gắn với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

+ Nghiên cứu hoạt động giảm nghèo ở tỉnh Hòa Bình luôn chú trọng
đến sự gắn kết với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, với
việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; việc thực
hiện các chương trình, dự án giảm nghèo; việc phối hợp giữa chính quyền địa
phương, các sở, ban, ngành và cộng đồng xã hội, trong đó, đặc biệt là những
người nghèo.
11


* Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp luận trong nghiên cứu là phương pháp duy vật biện chứng.
+ Phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm: phương pháp trừu tượng
hóa khoa học mang tính đặc thù chuyên ngành kinh tế chính trị, đồng thời có
sự kết hợp phương pháp lôgíc, phương pháp phân tích, đối chứng, so
sánh..v..v.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng tỉnh Hoà
Bình trong việc cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà
nước về vấn đề giảm nghèo và góp phần thực hiện các chương trình giảm
nghèo có hiệu quả. Đây cũng là tài liệu có ý nghĩa tham khảo với một số địa
phương có đặc điểm tương đồng đang thực hiện chương trình này.
- Là tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập cho giáo viên và sinh viên.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương (6 tiết).

12


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢM NGHÈO Ở TỈNH HOÀ BÌNH

1.1. Quan niệm về nghèo và giảm nghèo
1.1.1. Quan niệm về nghèo
* Quan niệm của thế giới
- Theo quan niệm của Liên hợp quốc, nghèo có hai dạng: Nghèo tuyệt
đối và nghèo tương đối. Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư
không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống về
ăn (thiếu ăn nhưng không đứt bữa), mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục. Nghèo
tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới trung bình của
cộng đồng địa phương hay một nước.
- Hội nghị bàn về giảm đói nghèo ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương
do Ủy ban Kinh tế - Xã hội châu Á - Thái Bình Dương tổ chức tại Băng Cốc,
Thái Lan tháng 9 năm 1993 đã định nghĩa về nghèo như sau: “Nghèo đói là
tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ
bản của con người, mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển
kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy
được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong
tục tập quán của địa phương". Như vậy, nghèo tuyệt đối là không được thỏa
mãn những nhu cầu cơ bản (cả nhu cầu lương thực cũng như nhu cầu phi
lương thực) nhưng những nhu cầu cơ bản này lại tùy thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế và phong tục, tập quán của từng địa phương chứ không cố định.
* Quan niệm của Việt Nam
Trên cơ sở các khái niệm của các tổ chức quốc tế, Việt Nam đã đưa ra
khái niệm về nghèo cụ thể hơn:

13


Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thỏa mãn một

phần những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức
sống trung bình của cộng đồng, xét trên mọi phương diện. Trong hoàn cảnh
nghèo và thì người nghèo và hộ nghèo cũng chỉ vẫn vật lộn với những mưu
sinh hàng ngày và kinh tế vật chất, biểu hiện trực tiếp nhất ở bữa ăn. Họ
không thể vươn tới các nhu cầu về văn hóa - tinh thần hoặc những nhu cầu
này phải cắt giảm tới mức tối thiểu nhất, gần như không có. Điều này đặc biệt
rõ ở nông thôn với hiện tượng trẻ em bỏ học, thất học, các hộ nông dân nghèo
không có khả năng để hưởng thụ văn hóa, chữa bệnh khi ốm đau, không đủ
hoặc không thể mua sắm thêm quần áo cho nhu cầu mặc, sửa chữa nhà cửa
cho nhu cầu ở…
Nghèo là khái niệm chỉ tình trạng mà thu nhập thực tế của người dân
chỉ dành hầu như toàn bộ cho nhu cầu ăn, thậm chí không đủ chi cho ăn, phần
tích lũy hầu như không có.
Từ quan niệm của thế giới và Việt Nam về nghèo và giảm nghèo, học
viên thấy rằng khái niệm nghèo, khái niệm giảm nghèo chỉ là tương đối. Bởi
nghèo có thể tái sinh mỗi khi quan niệm nghèo và chuẩn nghèo thay đổi, hoặc
do những biến động khác như khủng hoảng, lạm phát, thiên tai… Đặc biệt ở
Việt Nam hiện nay không còn chế độ bóc lột như trước đây mà do nền kinh tế
nước ta đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển
sang nền kinh tế hiện đại. Trong nền kinh tế này tồn tại và đan xen nhiều trình
độ sản xuất khác nhau. Trình độ sản xuất cũ, lạc hậu vẫn còn, trong khi đó
trình độ sản xuất mới, tiên tiến lại chưa đóng vai trò chủ đạo, thay thế trình độ
sản xuất cũ. Do đó, dẫn đến có sự giàu - nghèo khác nhau trong các tầng lớp
dân cư.
Như vậy, ở góc độ quốc gia giảm nghèo ở nước ta chính là từng bước
thực hiện quá trình chuyển đổi các trình độ sản xuất cũ, lạc hậu còn tồn đọng
trong xã hội sang trình độ sản xuất mới cao hơn.
14



Ở góc độ giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ người nghèo,
hộ nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách
nhanh nhất, trên cơ sở đó họ có nhiều khả năng lựa chọn hơn để từng bước
thoát ra khỏi tình trạng nghèo.
1.1.2. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo
* Tiêu chí xác định chuẩn nghèo thế giới
Ngân hàng thế giới đưa ra các tiêu chí đánh giá mức độ giàu nghèo của
các quốc gia căn cứ vào bình quân thu nhập đầu người theo một số cách tính:
- Phương pháp ATLAS: Theo phương pháp này, ở cấp quốc gia, căn cứ
mức thu nhập bình quân đầu người năm 1990, Ngân hàng thế giới phân loại
giàu nghèo trên thế giới thành 6 mức như sau:
+ Nước cực giàu: trên 25.000 USD/người/năm
+ Nước giàu: từ trên 20.000 USD đến 25.000 USD/người/năm
+ Nước khá giàu: từ trên 10.000 USD đến 20.000 USD/người/năm
+ Nước trung bình: từ trên 2.500 USD đến 10.000 USD/người/năm
+ Nước nghèo: từ trên 500 USD đến 2.500 USD/người/năm
+ Nước cực nghèo: dưới 500 USD/người/năm.
- Phương pháp PPP (Purchasing Power Parity) là phương pháp sức mua
tương đương tính theo USD.
Ngân hàng thế giới đã đưa ra chuẩn nghèo đói tính theo số Calo tối
thiểu cần thiết cho một người để sống là 2100 Calo/người/ngày, những hộ gia
đình không đảm bảo được mức này là những hộ nghèo khổ. Tiêu chuẩn này
được tính chung cho các nước trên thế giới, do đó nghèo khổ theo tiêu chuẩn
này chính là nghèo tuyệt đối. Theo mức đánh giá chung của thế giới, để đảm
bảo mức 2100 Calo/người/ngày thì cần ít nhất là 01USD/người/ngày. Theo
15


tiêu chuẩn này, thế giới có khoảng 1,3 tỷ người đói nghèo, các khu vực có
người nghèo nhất thế giới hiện nay là châu Phi và châu Á. Đến năm 1995,

Ngân hàng thế giới đã đưa ra chuẩn nghèo chung cho toàn cầu là thu nhập
bình quân đầu người dưới 370USD/người/năm.
- Ngoài ra, Ngân hàng thế giới còn đưa ra khuyến nghị thang đói nghèo
như sau:
Các cá nhân bị coi là nghèo đói khi mà có thu nhập dưới:
+ Đối với nước nghèo là 0,5 USD/ ngày;
+ Đối với nước đang phát triển là 1 USD/ngày;
+ Đối với các nước thuộc khu vực Mỹ La tinh và Caribe là 2
USD/ngày;
+ Các nước Đông Âu là 4 USD/ngày;
+ Các nước công nghiệp phát triển là 14,4 USD/ngày.
* Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của Việt Nam
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có các công bố chuẩn nghèo
tính theo thu nhập bình quân đầu người cho các hộ gia đình qua các giai đoạn
cụ thể như sau:
- Giai đoạn 1993 – 1995 (Báo cáo số 21/2005/BC-LĐTBXH-BTXH):
Hộ có thu nhập bình quân đầu người quy gạo/tháng dưới 20 kg đối với
khu vực thành thị và dưới 15 kg đối với khu vực nông thôn.
- Giai đoạn 1995 – 1997 (Báo cáo số 21/2005/BC-LĐTBXH-BTXH):
Hộ có thu nhập bình quân đầu người:
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15kg/người/tháng.
+ Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20kg/người/tháng.
16


+ Vùng thành thị: dưới 25kg/người tháng.
- Giai đoạn 1997 - 2000 (Công văn số 175/LĐTBXH):
Hộ có thu nhập tùy theo từng vùng ở các mức tương ứng như sau:
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15kg/người/tháng (tương
đương 55.000 đồng).

+ Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20kg/người/tháng (tương
đương 70.000 đồng).
+ Vùng thành thị: dưới 25kg/người /tháng (tương đương 90.000 đồng).
- Giai đoạn 2001 - 2005 (Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH):
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 80.000 đồng/người/tháng.
+ Vùng nông thôn đồng bằng: dưới 100.000 đồng/người/tháng.
+ Vùng thành thị: dưới 150.000 đồng/người /tháng.
- Giai đoạn 2006 - 2010 (Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg):
+ Vùng nông thôn (cả miền núi và đồng bằng): từ 200.000
đồng/người/tháng trở xuống.
+ Vùng thành thị: từ 260.000 đồng/người/ tháng trở xuống.
- Giai đoạn 2011 – 2015 (Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg).
+ Khu vực nông thôn: từ 400.000đồng/người/tháng trở xuống.
+ Khu vực thành thị: từ 500.000đ/người/tháng trở xuống.
Giai đoạn 2011-2015, Chính phủ còn quy định chuẩn nhóm cận nghèo,
cụ thể:
+ Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ
401.000đ đến 520.000đ/người/tháng.

17


+ Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ
501.000đ đến 650.000đ/người/tháng.
- Giai đoạn 2016– 2020 (Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg), Thủ tướng
Chính phủ ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn
2016 - 2020
+ Các tiêu chí tiếp cận đo lường nghèo đa chiều áp dụng cho giai đoạn
2016-2020.
Các tiêu chí về thu nhập:

Chuẩn nghèo: 700.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và
900.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị;
Chuẩn cận nghèo: 1.000.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và
1.300.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.
Tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản:
Các dịch vụ xã hội cơ bản (05 dịch vụ): y tế; giáo dục; nhà ở; nước
sạch và vệ sinh; thông tin.
Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản (10 chỉ
số): tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lớn;
tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu
người; nguồn nước sinh hoạt; hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn
thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin.
+ Chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống trung bình áp dụng
cho giai đoạn 2016-2020.
Hộ nghèo:
Khu vực nông thôn, là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: Có thu
nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống; Có thu nhập
18


bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu
hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản
trở lên.
Khu vực thành thị, là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: Có thu
nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống; Có thu nhập
bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu
hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản
trở lên.
Hộ cận nghèo
Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên

700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức
độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên
900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức
độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. [19, tr.1].
1.1.3. Quan niệm về giảm nghèo
Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng
bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ % và số lượng người
nghèo giảm. Nói một cách khác, giảm nghèo là quá trình chuyển bộ phận dân
cư nghèo lên một mức sống cao hơn. Ở khía cạnh khác, giảm nghèo là chuyển
từ tình trạng có ít điều kiện lựa chọn sang tình trạng có đầy đủ điều kiện lựa
chọn hơn để cải thiện đời sống mọi mặt của mỗi người.
Giảm nghèo là một phạm trù mang tính lịch sử. Bởi nghèo vẫn còn tồn
tại khi nền kinh tế thị trường vẫn còn chi phối và tồn tại sự khác biệt về năng
lực, thể chất, địa vị xã hội… giữa các cá nhân. Do đó, chỉ có thể từng bước
giảm nghèo, chưa thể tiến tới xóa được nghèo.
19


Do việc đánh giá và cách nhìn nguồn gốc dẫn đến nghèo khác nhau,
nên cũng có nhiều quan niệm khác nhau về giảm nghèo:
- Nếu hiểu nghèo là tình trạng đình đốn của phương thức sản xuất đã bị
lạc hậu song vẫn còn tồn tại thì giảm nghèo chính là quá trình chuyển đổi
sang phương thức sản xuất mới, tiến bộ hơn (nghèo ở các nước đang phát
triển).
- Nếu hiểu nghèo là do tình trạng phân phối thặng dư trong xã hội một
cách bất công đối với người lao động, do chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất thì giảm nghèo chính là quá trình xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất.
- Nếu hiểu nghèo là hậu quả của tình trạng chủ nghĩa thực dân đế quốc

kìm hãm sự phát triển ở các nước thuộc địa, phụ thuộc thì giảm nghèo là quá
trình các nước thuộc địa, phụ thuộc giành lấy độc lập dân tộc để trên cơ sở đó
phát triển kinh tế - xã hội.
- Nếu hiểu nghèo là do sự bùng nổ gia tăng về dân số vượt quá tốc độ
phát triển kinh tế thì cũng có thể dẫn đến kết luận khác nhau về giảm nghèo.
- Nếu hiểu nghèo là do tình trạng thất nghiệp gia tăng hoặc xã hội rơi
vào khủng hoảng kinh tế thì giảm nghèo chính là tạo ra nhiều việc làm, xã hội
ổn định và phát triển.
Ở góc độ nước nghèo: Giảm nghèo ở nước ta chính là từng bước thực
hiện quá trình chuyển đổi các trình độ sản xuất cũ, lạc hậu còn tồn đọng trong
xã hội sang trình độ sản xuất mới, cao hơn. Mục tiêu hướng tới là trình độ sản
xuất tiên tiến của thời đại.
Ở góc độ người nghèo: Giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ
người nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách

20


nhanh nhất, trên cơ sở đó họ có nhiều lựa chọn hơn giúp họ từng bước thoát
ra khỏi tình trạng nghèo.
Tóm lại, trong thực tế có những quan niệm khác nhau về nguồn gốc
nghèo đói và cách thức giảm nghèo là do con người nhìn nhận nó ở góc độ
kinh tế, chính trị, xã hội có khác nhau. Tuy nhiên, để giảm nghèo thì mỗi quốc
gia, mỗi địa phương phải có những chính sách, biện pháp tích cực nhằm đạt
mục tiêu giảm nghèo, gắn ổn định đời sống kinh tế với ổn định chính trị, xã
hội để hướng đến xóa nghèo bền vững. Điều này phù hợp với mục tiêu phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
1.2. Quan niệm, nội dung và các nhân tố tác động đến giảm nghèo ở
tỉnh Hoà Bình
1.2.1. Quan niệm về giảm nghèo ở tỉnh Hoà Bình

Giảm nghèo tại tỉnh Hòa Bình là hoạt động có mục đích, có tổ chức
của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trên địa bàn tỉnh, kết hợp chặt chẽ
đồng bộ việc thực hiện các mục tiêu giảm nghèo với quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn dân cư của từng xã - thị trấn,
thành phố - huyện và toàn tỉnh nhằm tạo ra môi trường, cơ hội phát triển
thuận lợi, trợ giúp hữu hiệu người nghèo về vật chất, tinh thần, được tiếp cận
các nguồn lực phát triển (vốn, kỹ thuật, thông tin, thị trường…; đồng thời
động viên người nghèo, hộ nghèo tăng cường phát huy nội lực, chủ động, có
niềm tin, có ý thức tiết kiệm và ý chí tự vươn lên thoát nghèo.
Theo quan niệm này, các chủ thể tham gia các hoạt động giảm nghèo
bao gồm: Tổ chức đảng và chính quyền, ban, ngành là người lãnh đạo, chỉ
đạo, tổ chức thực hiện các chương trình giảm nghèo; các tổ chức đoàn thể, các
hội đóng vai trò hỗ trợ; người trực tiếp trong lao động sản xuất kinh doanh để

21


thoát nghèo là chính bản thân những hộ nghèo, người nghèo có sự tham gia
hỗ trợ của cộng đồng xã hội.
- Ở nước ta, chương trình giảm nghèo là chương trình quốc gia nên cơ
quan nhà nước các cấp thường tham gia với tư cách tổ chức điều hành chính.
Hình thức của tổ chức này là một ban chỉ đạo gồm các thành viên kiêm nhiệm
lấy từ các cơ quan chức năng của Nhà nước và ban, ngành có liên quan như
cơ quan phụ trách về lao động, thương binh, xã hội, cơ quan tài chính, cơ
quan kế hoạch đầu tư, hội phụ nữ, đoàn thanh niên... Ở một số nước, cơ quan
chỉ đạo chính sách xóa đói, giảm nghèo có thể là một tổ chức độc lập chuyên
trách hoạt động theo một văn bản pháp lý nhất định với các quy định rõ ràng
về tài chính, quyền hạn và các mục tiêu phải hoàn thành. Mỗi hình thức tổ
chức cơ quan nhà nước chỉ đạo chính sách xóa đói, giảm nghèo có ưu thế và
nhược điểm riêng. Chẳng hạn, hình thức kiêm nhiệm có ưu điểm tiết kiệm chi

phí nuôi bộ máy chỉ đạo và buộc các cơ quan chức năng liên quan của Nhà
nước phải vào cuộc. Nhưng nó có nhược điểm rất lớn là thiếu động lực tích
cực thực hiện mục tiêu do cán bộ phụ trách đảm đương quá nhiều công việc
và có xu hướng coi nhẹ chức trách của mình. Hơn nữa, cơ chế kiêm nhiệm và
lãnh đạo tập thể không dễ dàng xác định trách nhiệm cá nhân trong thực thi
chính sách nên khó khuyến khích các thành viên tích cực. Mô hình cơ quan
chuyên trách có ưu điểm xác định rõ mục tiêu và trách nhiệm của cơ quan chỉ
đạo chính sách đối vối việc hoàn thành mục tiêu nên có tác dụng kích thích
tính năng động, tích cực của những người đảm đương công việc. Tuy nhiên
nó gặp khó khăn khi cần phối hợp với các cơ quan nhà nước để thực thi chính
sách cũng như đòi hỏi chi phí hoạt động tốn kém hơn mô hình ban chỉ đạo
kiêm nhiệm. Dù theo mô hình tổ chức nào thì cơ quan nhà nước chỉ đạo chính
sách giảm nghèo cũng phải được chế định bằng các văn bản pháp luật có đủ
hiệu lực và đáp ứng yêu cầu chế định đầy đủ nội dung, quyền hạn, nghĩa vụ,

22


mục tiêu và giới hạn hoạt động để xã hội có thể giám sát một cách công khai,
minh bạch.
- Các tổ chức đoàn thể, các hội, tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội có thể
tham gia chính sách giảm nghèo với tư cách nhà tài trợ hoặc tư cách phối hợp
hành động. Đa phần các doanh nghiệp thích hình thức tài trợ hơn vì họ không
có thời gian và khả năng tham gia trực tiếp vào các hoạt động giúp đỡ người
nghèo giảm nghèo. Hình thức tài trợ có ưu điểm là cung cấp nguồn tài chính
trực tiếp và đôi khi khá lớn hỗ trợ thu nhập cho người nghèo. Nhưng tác động
của tài trợ thường không bền, đôi khi không được người nghèo sử dụng hiệu
quả. Một số doanh nghiệp tích cực hơn có thể hỗ trợ người nghèo trong các
khâu chuyển giao công nghệ, thu mua sản phẩm... Nhưng do các hoạt động
kinh tế này phụ thuộc khá lớn vào thị trưòng nên khi doanh nghiệp và người

nghèo cùng gặp khó khăn trên thị trường, các hoạt động hỗ trợ này dễ bị đứt
đoạn. Các tổ chức thanh niên, phụ nữ, hội nông dân... do bản chất xã hội,
chính trị của họ, có thiện chí tham gia tích cực vào hoạt động giảm nghèo. Có
những tổ chức phát huy vai trò của mình rất tốt như: Đoàn thanh niên, Hội
Nông dân, Hội Phụ nữ... Các hội này có thế mạnh ở bộ máy tổ chức hoàn
chỉnh, lãnh đạo thống nhất, đồng bộ, hệ thống chân rết ăn sâu tận cơ sở nên dễ
dàng tiếp cận và hỗ trợ người nghèo. Tuy nhiên, họ gặp khó khăn về tài chính,
thường phải xin tài trợ của các tổ chức khác hoặc phối hợp thụ động theo
chương trình của cơ quan khác. Ngày nay, một số tổ chức quốc tế cũng tham
gia vào chương trình hỗ trợ nhóm dân cư thua thiệt ở các nước nghèo. Rất
nhiều tổ chức đã có hành động hỗ trợ người nghèo ở nước ta như: Ngân hàng
thế giới, các tổ chức phi chính phủ của một số nước, UNICEF... Một số
trường hợp nguồn tài trợ khá lớn. Tuy nhiên, các hoạt động hỗ trợ này không
có tính thường xuyên, không đặt ra các mục tiêu có tính hệ thống, chủ yếu
mang tính cứu trợ, hỗ trợ các trường hợp đơn chiếc. Mục tiêu giảm nghèo của

23


một nước có thể thuận lợi hơn nếu được các tổ chức quốc tế tài trợ, nhưng sự
nỗ lực của chủ thể trong nước, trong đó bản thân người nghèo và Nhà nước có
vai trò quyết định.
- Nếu cơ quan chỉ đạo chính sách xóa đói, giảm nghèo của Nhà nước có
vai trò khởi xướng, điều hành, tài trợ, khuyến khích, kiểm tra, đánh giá, điều
chỉnh, bổ sung chính sách thì sự tham gia của bản thân người nghèo tạo nên
động lực thực hiện chính sách. Người nghèo có nhiều phương thức và nhiều
tư cách khi tham gia chính sách giảm nghèo. Trước hết, họ tham gia với tư
cách đối tượng thụ hưởng chính sách. Người nghèo có thể tham gia chính
sách ở tư thế cung cấp thông tin xác định mức đói nghèo, đối tượng đói
nghèo, thông tin về kết quả chính sách, thông tin về tác động của công cụ

chính sách... Thông tin do người nghèo cung cấp có ý nghĩa quan trọng trong
hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách giảm nghèo bởi đây là các thông
tin gốc, phản ánh trung thực tình hình thực tế. Để khuyến khích người nghèo
cung cấp thông tin, cần cung cấp cho họ các phương tiện cần thiết như điểm
nhận thông tin, biểu mẫu cung cấp thông tin, phương tiện liên lạc, thông báo
về mức độ hữu ích của thông tin cung cấp, các hình thức khuyên khích hợp lý
khác. Cần nhận thức rằng, khi cung cấp thông tin và hiểu rằng thông tin đó
hữu ích như thế nào, người nghèo sẽ có cảm nhận rằng giảm nghèo là công
việc của chính họ và họ có thể làm được nhiều điều hữu ích. Người nghèo
cũng có thể tự tổ chức thành các nhóm, tập thể hỗ trợ nhau thoát nghèo. Hình
thức sơ khai nhất có thể là các câu lạc bộ giảm nghèo, trong đó người thành
công chuyển giao kinh nghiệm cho người chưa thành công. Hình thức cao
hơn là hiệp hội ngành nghề, hiệp hội tương thân, tương ái đa dạng theo hình
thức tương trợ lẫn nhau. Nếu người nghèo có ý thức và đủ năng lực tổ chức ra
các mô hình hoạt động như vậy thì sự tương tác giữa Nhà nước và người
nghèo trong lĩnh vực cùng nhau hành động để xóa đói, giảm nghèo sẽ dễ dàng
và có hiệu quả hơn.

24


1.2.2. Nội dung giảm nghèo
* Tổ chức thực thi và phối kết hợp các chính sách, giải pháp và các dự
án, chương trình, giảm nghèo
- Chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp và khuyến khích phát triển
kinh tế hàng hóa với người nghèo.
- Chính sách tín dụng cho hộ nghèo.
- Chính sách hộ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội.
- Chính sách giáo dục đào tạo với người nghèo.
- Chính sách dạy nghề và giải quyết việc làm cho người nghèo.

- Các dự án giảm nghèo.
* Thực hiện xã hội hoá hoạt động giảm nghèo với các hình thức đa
dạng nhằm phát huy sức mạnh của cộng đồng
- Tăng tính liên kết cộng đồng trong chương trình giảm nghèo thông qua
mô hình do các đoàn thể tổ chức như nhóm tương trợ tiết kiệm, tự nguyện góp
vốn, tích luỹ nguồn quỹ để dành hỗ trợ giúp đỡ những hội viên khó khăn,
những tổ nhóm giúp vốn, kỹ thuật, tự hướng dẫn nhau kinh nghiệm sản xuất.
- Nhà nước phải thường xuyên tạo thêm nguồn thu để từng bước tăng tỷ
lệ chi ngân sách cho các hoạt động giảm nghèo, đồng thời tăng cường quản lý
để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí được cấp.
- Đa dạng hóa việc huy động nguồn lực, trước hết là chủ động phát huy
nguồn lực tại chỗ, huy động nguồn lực của cộng đồng, kết hợp với sự hỗ trợ
đầu tư của nhà nước; mở rộng hợp tác, trao đổi kinh nghiệm, kỹ thuật, tài
chính môi trường pháp lý, tâm lý xã hội người giảm nghèo.
* Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo bền vững, khuyến khích
người nghèo chủ động tự vươn lên thoát nghèo.
25


×