Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Viêm gan siêu vi B và thai kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.67 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015

Tổng Quan

VIÊM GAN SIÊU VI B VÀ THAI KỲ
Trần Thị Bích Huyền*

GIỚI THIỆU
Nhiễm virus viêm gan B mạn tính (HBV)
là một quá trình bệnh tương đối đã được hiểu
rõ và kiểm soát được. Với thuốc có sẵn hiện
nay, ức chế virus có thể đạt được ở hầu hết các
bệnh nhân. Hướng dẫn thực hành có sẵn để
bắt đầu điều trị nội khoa trong nhiễm HBV
mạn tính. Tuy nhiên, trong những trường hợp
cụ thể nào đó, điều trị nhiễm HBV chưa được
biết rõ. Một trong những trường hợp đó là nhiễm
HBV mạn tính trong thai kỳ.
Trong thực tế, trong số 50 triệu người
nhiễm viêm gan B mới mỗi năm trên toàn thế
giới, phần lớn các đường truyền này xảy ra từ
mẹ sang con (LTMC) (18).
Trong bài tổng quan này, chúng tôi thảo
luận về bốn câu hỏi quan trọng cần xem xét
khi phải đối mặt với những bệnh nhân này:
- Ai cần điều trị?
- Điều trị khi nào?
- Thuốc để điều trị?
- Khi nào ngưng điều trị?

AI CẦNĐIỀU TRỊ?(WHO)


Lưu ý sự khác biệt giữa nhiễm HBV mạn
tính và cấp tính trong thai kỳ.
- Bệnh nhân bị nhiễm HBV cấp tính trong
khi mang thai: nên được theo dõi chặt chẽ và
điều trị bảo tồn. Thuốc chống siêu vi thường
không chỉ định trừ khi người mẹ mang thai có
biểu hiện của suy gan cấp tính(8).
- LTMC là con đường lây truyền phổ biến
của nhiễm HBV, rủi ro rất cao nếu người mẹ
và đứa trẻ không được quản lý đúng
cách. Nếu không có bất kỳ dự phòng hoặc
điều trị kháng virus, kháng nguyên bề mặt
viêm gan B (HBsAg) và kháng nguyên E

(HBeAg) dương của mẹ có thể lây truyền đến
90% cho con (9).Chăm sóc đúng tiêu chuẩn ở Mỹ
để phòng ngừa lây truyền chu sinh gồm tiêm các
globulin miễn dịch viêm gan B (HBIG) và tiêm
phòng viêm gan B cho trẻ sơ sinh (15,19), tuy vậy dù
đã được tiêm phòng đầy đủ, vẫn có khoảng 10% 15% trẻ bị nhiễm HBV mạn tính thông qua
LTMC.
- Có hai dấu hiệu để điều trị bệnh viêm gan
B mạn tính ở người mẹ mang thai đó là: bệnh
gan mạn tính ở người mẹ và phòng ngừa
LTMC. (Chúng tôi sẽ không thảo luận về bệnh
gan mãn tính ở người mẹ trong chi tiết trong
tổng quan này).
- Các yếu tố nguy cơ làm tăng nguy cơ lây
truyền chu sinh của HBV cho trẻ sơ sinh đã
được xác định. Hai yếu tố nguy cơ lớn nhất là

mẹ HBV có số lượng virus cao và hoạt động
nhân rộng của virus(7,21). Các yếu tố nguy cơ
khác bao gồm chọc ối, sinh non, ối vỡ sớm và
cho con bú nguy cơ LTMC của HBV thấp hơn
nhiều (20).
Không phải tất cả phụ nữ có thai bị nhiễm
HBV mạn tính cần điều trị thuốc kháng virus
vì các bất lợi đối với thai nhi(25). Quyết định bắt
đầu các thuốc kháng virus phải được thảo
luận chi tiết giữa bệnh nhân và bác sĩ. Tuy
nhiên, ở bệnh nhân mang thai HBsAg dương
tính với tải lượng virus cao và (hoặc) bệnh do
virus hoạt động phải được xem xét kỹ.
Tải lượng virus cao được định nghĩa là >
10 6 hoặc > 10⁸ bản trên mỗi ml (20 triệu
IU/mL) trong các nghiên cứu trước đây(22,26).
Hoạt động nhân rộng của virus có thể được
xác định với HBeAg dương (trước khi chuyển
đổi huyết thanh) hoặc nâng cao mức độ
alanine aminotransferase và tải lượng virus
của > 20000 IU/mL(25).

* Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả liên lạc: Ths.BS Trần Thị Bích Huyền - ĐT: 0913122840 - Email:

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Trưng Vương năm 2015

1



Tổng Quan

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015

ĐIỀU TRỊ KHI NÀO?

THUỐCĐIỀU TRỊ

- Tiêm phòng được dành cho tất cả các trẻ
sinh ra từ các bà mẹ có HBsAg dương tính

LTMC chiếm hơn một phần ba của tất cả
các truyền HBV trên toàn thế giới. Với việc sử
dụng của tiêm chủng HBV và HBIG, tỷ lệ
LTMC có thể giảm từ 90% đến 10% (5).

+ Chủng ngừa thụ động (HBIG) cho các
trẻ sơ sinh trong vòng 12 giờ sau sinh.
+ Miễn dịch chủ động - liều vacxin đầu
tiên HBV: được chích cho bé trong vài giờ đầu
tiên của cuộc đời. Các liều vaccin HBV sau đó
tiêm theo chương trình tiêm chủng quốc
gia, WHO khuyến cáo liều thứ hai tiêm ở tháng
thứ 1 và liều cuối cùng vào lúc 6 tháng tuổi và
không quá 9 tháng tuổi (15).
HBsAg của bà mẹ: nên được xét nghiệm
trong tam cá nguyệt đầu của thai kỳ và kiểm
tra lại trong tam cá nguyệt thứ ba của thai
kỳ. Nếu tình trạng HBsAg của mẹ chưa được
xác định tại thời điểm ra đời, trẻ sẽ nhận được

liều vacxin đầu tiên HBV. Nếu xét nghiệm
khẳng định là dương tính với HBsAg ở người
mẹ, sau đó HBIG nên dùng cho trẻ sơ sinh và
thuốc chủng ngừa HBV (1).
Điều trị với thuốc chống siêu vi: nếu
quyết định điều trị với thuốc chống siêu vi, do
bà mẹ có một trong hai yếu tố nguy cơ cao (tải
lượng virus và/hoặc bằng chứng của bệnh
hoạt động) phải chú ý thời gian sử dụng của
các loại thuốc này. Mục đích là để ngăn ngừa
lây truyền HBV khi sinh, bằng cách giảm tải
lượng virus và/hoặc hoạt động của virus
giảm. Mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi, nhất là
các nghiên cứu cho thấy rằng bắt đầu các
thuốc kháng virus trong tam cá nguyệt thứ ba
là hiệu quả trong việc giảm lây truyền mẹ mà
không ảnh hưởng sự phát triển của thai nhi.
Bắt đầu dùng thuốc sớm trong thời kỳ mang thai là
không cần thiết để giảm LTMC và làm cho thai nhi
có nguy cơ cao hơn do tiếp xúc lâu hơn với một loại
thuốc không được chấp thuận. Trong thực tế, nhiều
nghiên cứu đã cho thấy hiệu quả của thuốc chống
siêu vi cũng bắt đầu vào tam cá nguyệt thứ ba,
chẳng hạn như ở tuần 29, tuần 32 hoặc thậm chí
tuần 34(16,27).

2

Nguy cơ lớn nhất tồn tại ở trẻ sinh ra từ
các bà mẹ có tải lượng virus cao. Trong dân số

cụ thể này, có một số nghiên cứu kiểm tra việc
sử dụng các thuốc kháng virus để tránh các
nguy cơ LTMC. Hiện nay, có sáu phương
pháp điều trị đã được đưa ra để điều trị nhiễm
HBV mạn tính. Không được chấp thuận cho
sử dụng trong thai kỳ (Bảng 1). Hiện tại không
cho thấy bất kỳ nguy cơ dị tật bẩm sinh ở phụ
nữ lớn tiếp xúc với tenofovir (TDF) hoặc
lamivudine (LAM) trong thai kỳ trong các
nghiên cứu trên quần thể lớn dân số (3).
Bảng 1: Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm loại
mang thai cho nucleos (t) ide tương tự đối với bệnh
viêm gan B
Thuốc
Telbivudine (LDT)
Tenofovir (TDF)
Lamivudine (LAM)
Entecavir
Adefovir
(Pegylated) interferon

Thuốc thai kỳ loại
B
B
C
C
C
C

- Lamivudine (LAM): trong các nghiên

cứu ban đầu của LAM trong thai kỳ, 8 phụ nữ
có mức HBV DNA > 1,2 x 10 9 copies / mL
được điều trị với 150 mg/ngày tại 34 tuần của
thai kỳ. Xét nghiệm kiểm tra HBsAg và
HBsAb cho bé được đo lúc sinh và ở tháng 3,
6, và 12. So sánh với hai mươi lăm trẻ em sinh
ra từ mẹ không được điều trị. Tất cả trẻ em
nhận được miễn dịch chủ động và thụ động
khi sinh. Lúc 12 tháng tuổi, chỉ có 1 trong 8 trẻ
(12,5%) trong nhóm điều trị vẫn HBsAg
dương tính với nồng độ HBV DNA có thể đo
được. Trong nhóm đối chứng, LTMC xảy ra
7/25 trẻ (28%)(27). Không có tác dụng phụ được
ghi nhận. Một mù đôi, thử nghiệm kiểm soát
ngẫu nhiên kiểm tra việc sử dụng các LAM
100 mg hàng ngày và miễn dịch chủ động +

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Trưng Vương năm 2015


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015
thụ động với giả dược + miễn dịch chủ động
thụ động ở phụ nữ Trung Quốc từ tuổi thai 32
tuần đến 12 tuần sau khi sinh. Tất cả phụ nữ
được chọn với nồng độ HBV DNA > 10 9 bản
sao/mL. Ở 12 tuần sau sinh, trẻ thuộc nhóm
LAM đã giảm đáng kể trong HBsAg dương
tính (18% với 39%) và HBV DNA so với giả
dược, nhưng sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê. Ở nhóm LAM ghi nhận một

dị tật bẩm sinh ở trẻ khi sinh(23).
- Telbivudine (LDT) đã được nghiên cứu
để phòng ngừa LTMC của HBV. Trong một
nghiên cứu mở, 135 thai phụ có nồng độ HBV
DNA> 10⁷ bản sao/ mL được nhận LDT 600
mg hàng ngày từ tuần 20 đến tuần 32 của thai
kỳ. 94 thai phụ nhiễm HBV mạn tính (không
được điều trị trong thai kỳ) làm nhóm đối
chứng được chọn do kiểm tra xét nghiệm máu
kiểm tra ngẫu nhiên lúc sinh. Tất cả các bé của
2 nhóm được tiêm chủng miễn dịch chủ động
và thụ động. Bảy tháng sau khi sinh, LTMC là
thấp hơn đáng kể ở những trẻ sinh ra từ các bà
mẹ được điều trị LDT hơn (0% vs 8%). Không
có bất thường bẩm sinh đã được xác định (12).
Hiệu quả tương tự và dữ liệu an toàn cũng đã
được cung cấp bởi các nghiên cứu khác, trong
đó tỷ lệ LTMC là 8,6% ở nhóm đối chứng
và 0% ở nhóm điều trị (16). Trong một nghiên
cứu lớn hơn của Trung Quốc, 648 phụ nữ với
tải lượng virus cao được chọn ngẫu nhiên để
nhận LAM, LDT, hoặc giả dược từ 28 tuần
mang thai cho đến 4 tuần sau khi sinh. Xử lý
phân tích chỉ ra 0% HBsAg dương tính ở trẻ

Tổng Quan

trong nhóm điều trị tích cực và 2,84% HBsAg
dương tính ở trẻ nhóm dùng giả dược. Không
có bất thường bẩm sinh đã được xác

định trong nghiên cứu lớn này(27).
- Tenofovir (TDF): Ưu điểm của TDF để
phòng ngừa LTMC lần đầu tiên được chứng
minh trong một nghiên cứu nhỏ, trong đó thai
phụ có HBV DNA lớn hơn 10⁷ bản sao/mL
được cho TDF 300 mg mỗi ngày trong tam cá
nguyệt thứ ba. Thời gian trung bình của TDF
sử dụng là 10 tuần. Tất cả trẻ sơ sinh nhận
tiêm chủng miễn dịch chủ động và thụ
động. Tất cả trẻ đều có HBsAg âm tính 28 - 36
tuần sau khi sinh (17). Một nghiên cứu đa quốc
gia lớn hơn sau đó chứng minh rằng LTMC đã
được giảm xuống còn 2% trong một nhóm phụ
nữ có tải lượng virus cao đã được điều trị với
TDF 300 mg mỗi ngày, thời gian điều trị trung
bình của 58 ngày trước khi sinh. Trong cùng
một quần thể nghiên cứu, tỷ lệ LTMC là 20%
trong nhóm TDF và 0% trong nhóm
LAM (11). Mặc dù đã có những nghiên cứu có
giới hạn về TDF và viêm gan B trong thai kỳ,
nhưng có dữ liệu chứng minh TDF an toàn sử
dụng trong thai kỳ(24).
Trong bảng 1 theo Quản lý Thực phẩm và
Dược phẩm (FDA) Mỹ
- LDT và TDF là thuốc thai kỳ loại B
nghiên cứu động vật mà không có nguy cơ rõ
cho thai nhi.
- LAM là một thuốc loại C có nguy cơ bất
lợi cho thai nhi trong nghiên cứu động vật .


Bảng 2: Nghiên cứu trong nhiễm virus viêm gan B và thai kỳ
Các nghiên cứu
(12)

Han
(27)
Van Zonneveld
(16)
Pan
Zhang

(27)

Greenup

(11)

Thuốc
LDT 600mg /ngày
LAM 150mg /ngày
LDT 300mg /ngày
LDT 600mg /ngày hoặc
LAM 100mg /ngày
TDF 300mg /ngày

Tỷ lệ %
Nhóm điều trị Nhóm đối chứng
0
8
12,5

28
0
8,6

20 -32 tuần
34 tuần
23 tuần

Các biến chứng
(%)
0
0
0

28 tuần

0

0

2,8

0

1,1

20

Thời gian
điều trị


32 tuần

Bảng 2 tóm tắt thêm các nghiên cứu về các
lựa chọn thuốc trong thai kỳ. Dựa trên bằng
chứng sẵn có, các loại thuốc được đề cập có tác

dụng phụ được báo cáo tối thiểu cho các bà
mẹ hoặc trẻ sơ sinh, nhưng chưa được chấp
thuận cho sử dụng tiêu chuẩn trong thai kỳ.

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Trưng Vương năm 2015

3


Tổng Quan

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015

Interferon được chống chỉ định trong thai
kỳ vì sự an toàn trong thai kỳ của Entecavir
chưa rõ.

ngưng thuốc kháng virus và do đó kháng
virus thường được tiếp tục trong suốt thời kỳ
mang thai (4).

Nếu có chỉ định, điều trị kháng virus nên
được bắt đầu trong ba tháng cuối thai kỳ.


Nguy cơ bùng phát HBV sau sinh với
ngưng thuốc kháng virus: nguy cơ bùng phát
này thường được định nghĩa như là một sự gia
tăng đáng kể transaminase ở trên giới hạn trên
của mức bình thường.

THỜI GIANNGỪNGĐIỀU TRỊ
Đối với trẻ
Tiêm phòng liều thứ ba và cuối cùng của
vaccine HBV cần được hoàn tất lúc trẻ 9 tháng
tuổi (15).

Đối với bà mẹ
- Các bà mẹ bắt đầu dùng thuốc kháng
virus (được liệt kê trong bảng 1) ở tam cá
nguyệt thứ ba, việc ngưng các thuốc chống
virus phải dựa vào
+ Nếu khởi đầu cho thuốc chống siêu vi
là do tải lượng virus cao hoặc bệnh đang hoạt
động, sau đó thuốc có thể được tiếp tục, theo
các hướng dẫn hiện hành để điều trị nhiễm
HBV mạn tính (10,25).
+ Nếu các chỉ định điều trị được chỉ đơn
giản làm giảm LTMC, các loại thuốc kháng
virus có thể bị ngưng ngay sau sinh nếu bà mẹ
cho con bú, hoặc trong vòng bốn tuần đầu tiên
nếu trẻ sơ sinh được bú sữa công thức (25).
Hiện nay, HBsAg dương tính không phải
là một chống chỉ định cho con bú có nhiều

nghiên cứu đã chứng minh rằng nguy cơ lây
truyền là thấp(25). Mặc dù các chất hoạt hóa của
hầu hết các loại thuốc kháng virus không được
tìm thấy trong sữa mẹ, tuy nhiên việc bà mẹ
cho con bú dùng thuốc kháng virus không được
khuyến cáo(18).
Vấn đề mang thai ở những thai phụ nữ
đang được điều trị dài hạn đối với nhiễm HBV
mạn tính là một chủ đề chưa đề cập trong tổng
quan này. Trước những lo ngại cho các bất lợi
do việc điều trị kháng virus sớm trong thai kỳ,
phải ngừng thuốc trong hai tam cá nguyệt đầu
tiên. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân đó đã mang
thai có bệnh gan mạn tính do nhiễm HBV,
phải thật cân nhắc nguy cơ bệnh nặng hơn do

4

Nguyen (14) nghiên cứu tác dụng của thuốc
kháng virus tiếp tục hai tuần sau khi
sinh và mười hai tuần sau khi sinh, so với
bệnh nhân không được chọn để điều trị kháng
virus hoàn toàn. Trong nghiên cứu này, không
có khác biệt đáng kể trong sự xuất hiện của
bùng phát sau sinh giữa ba nhóm.
Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu cho thấy
kết quả tương tự (2). Từ đó kết luận rằng quyết
định để bắt đầu hoặc ngừng điều trị kháng
virus không nên dựa vào nguy cơ HBV bùng
phát sau sinh.

Tuy nhiên, điều
dõi chặt chẽ bà mẹ
tháng, đặc biệt là
HBeAg dương tính
kháng virus(6).

quan trọng là phải theo
sau sinh trong ít nhất 6
những người đang có
hoặc đã ngừng điều trị

KẾT LUẬN
- Trong kết luận, điều quan trọng là hãy
nhớ rằng các thai phụ nhiễm HBV mạn tính sẽ
cần chăm sóc bổ sung và cân nhắc chọn lựa
thuốc kháng virus điều trị trong thai kỳ.
- Tất cả trẻ sơ sinh mà bà mẹ nhiễm HBV
cần phải tiêm ngừa miễn dịch chủ động và thụ
động khi sinh theo khuyến cáo của FDA (15).
- Thai phụ bị nhiễm HBV mạn tính có tải
lượng virus cao hoặc transaminase tăng cao
cho thấy sự sao chép virus đang hoạt động có
nguy cơ LTMC nên được dùng thuốc kháng
virus trong tam cá nguyệt thứ ba của thai kỳ
để giảm nguy cơ LTMC: TDF, LAM và LDT
đều đã được chứng minh hiệu quả trong việc
giảm tải lượng virus khi sinh mà không gây dị
tật bẩm sinh.

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Trưng Vương năm 2015



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015
- Quyết định cuối cùng việc sử dụng thuốc
kháng virus trong thai kỳ phải được bàn bạc
kỹ giữa bác sĩ và bệnh nhân.
- Quan trọng là phải theo dõi chặt chẽ bà
mẹ sau sinh trong ít nhất 6 tháng, đặc biệt là
những người đang có HBeAg dương tính hoặc
đã ngừng điều trị kháng virus.

10.

11.

12.

KIẾNNGHỊ
Mặc dù các nghiên cứu trong nhiều thập
niên gần đây đã chứng minh tỷ lệ an toàn điều
trị, nhưng cho đến nay vẫn chưa có hướng
dẫn thống nhất liên quan đến công tác phòng
chống LTMC.
Nghiên cứu ngẫu nhiên lớn cần được tiến
hành ở nước ta để tìm hiểu thêm các phương
pháp hiệu quả nhất để giảm thiểu sự lây
truyền của HBV cho các thế hệ tương lai.

13.


14.

15.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.
9.

Buchanan C, Tran TT (2010). Management of chronic
hepatitis B in pregnancy. Clin Liver Dis. 14:495–504.
Borg ter MJ, Leemans WF, de Man RA, Janssen HL (2008).
Exacerbation of chronic hepatitis B infection after
delivery. J Viral Hepat. ;15:37–41.
Brown RS, Verna EC, Pereira MR, Tilson HH, Aguilar C,
Leu CS, Buti M, Fagan EA (2012). Hepatitis B virus and
human immunodeficiency virus drugs in pregnancy:
findings from the Antiretroviral Pregnancy Registry. J

Hepatol. 57:953–959.
Bzowej NH (2012). Optimal Management of the Hepatitis
B Patient Who Desires Pregnancy or Is Pregnant. Curr
Hepat Rep.11:82–89.
Canho del R, Grosheide PM, Mazel JA, Heijtink RA, Hop
WC, Gerards LJ, de Gast GC, Fetter WP, Zwijneberg J,
Schalm SW (1997). Ten-year neonatal hepatitis B
vaccination program, The Netherlands, 1982-1992:
protective
efficacy
and
long-term
immunogenicity. Vaccine;15:1624–1630.
Chang ML, Liaw YF (2014). Hepatitis B flares in chronic
hepatitis B: pathogenesis, natural course, and
management. J Hepatol ;61:1407–1417.
Chen HL, Lin LH, Hu FC, Lee JT, Lin WT, Yang YJ,
Huang FC, Wu SF, Chen SC, Wen WH, et al (2012). Effects
of maternal screening and universal immunization to
prevent
mother-to-infant
transmission
of
HBV. Gastroenterology; 142:773–781.e2.
Degertekin B, Lok AS (2009). Indications for therapy in
hepatitis B. Hepatology. ;49:S129–S137.
Dyson JK, Waller J, Turley A, Michael E, Moses S,
Valappil M, Hudson M, Bassendine M, McPherson S
(2014). Hepatitis B in pregnancy. Frontline Gastroenterol;
5:111–117.


16.

17.

18.

19.

20.

21.

22.

Tổng Quan

European Association For The Study Of The Liver (2012).
EASL clinical practice guidelines: Management of chronic
hepatitis B virus infection. J Hepatol;57:167–185.
Greenup AJ, Tan PK, Nguyen V, Glass A, Davison S,
Chatterjee U, Holdaway S, Samarasinghe D, Jackson K,
Locarnini SA, et al. Efficacy and safety of tenofovir
disoproxil fumarate in pregnancy to prevent perinatal
transmission of hepatitis B virus. J Hepatol.2014;61:502–
507.
Han GR, Cao MK, Zhao W, Jiang HX, Wang CM, Bai SF,
Yue X, Wang GJ, Tang X, Fang ZX. A prospective and
open-label study for the efficacy and safety of telbivudine
in pregnancy for the prevention of perinatal transmission

of hepatitis B virus infection. J Hepatol. 2011;55:1215–
1221.
Lamberth JR, Sheila C Reddy, Jen-Jung Pan, and Kevin J
Dasher (2015). Chronic hepatitis B infection in pregnancy.
Journal List J Hepatol; 7 (9): 1233-1237.
Nguyen VTan PK, Greenup AJ, Glass A, Davison S,
Samarasinghe D, Holdaway S, Strasser SI, Chatterjee U,
Jackson K, et al. Anti-viral therapy for prevention of
perinatal HBV transmission: extending therapy beyond
birth does not protect against post-partum flare. Aliment
Pharmacol Ther. 2014;39:1225–1234.
Mast EE, Margolis HS, Fiore AE, Brink EW, Goldstein ST,
Wang SA, Moyer LA, Bell BP, Alter MJ. A comprehensive
immunization strategy to eliminate transmission of
hepatitis B virus infection in the United States:
recommendations of the Advisory Committee on
Immunization Practices (ACIP) part 1: immunization of
infants, children, and adolescents.MMWR Recomm
Rep. 2005;54:1–31.
Pan CQ, Han GR, Jiang HX, Zhao W, Cao MK, Wang CM,
Yue X, Wang GJ. Telbivudine prevents vertical
transmission from HBeAg-positive women with chronic
hepatitis B. Clin Gastroenterol Hepatol. 2012;10:520–526.
Pan CQ, Mi LJ, Bunchorntavakul C, Karsdon J, Huang
WM, Singhvi G, Ghany MG, Reddy KR. Tenofovir
disoproxil fumarate for prevention of vertical
transmission of hepatitis B virus infection by highly
viremic pregnant women: a case series. Dig Dis
Sci.2012;57:2423–2429.
Patton H, Tran TT. Management of hepatitis B during

pregnancy. Nat Rev Gastroenterol Hepatol. 2014;11:402–
409.
Sarkar M, Terrault NA. Ending vertical transmission of
hepatitis
B:
the
third
trimester
intervention. Hepatology. 2014;60:448–451.
Shi Z, Yang Y, Wang H, Ma L, Schreiber A, Li X, Sun W,
Zhao X, Yang X, Zhang L, et al. Breastfeeding of
newborns by mothers carrying hepatitis B virus: a metaanalysis and systematic review. Arch Pediatr Adolesc
Med. 2011;165:837–846.
Thompson ND, Perz JF, Moorman AC, Holmberg SD.
Nonhospital health care-associated hepatitis B and C virus
transmission: United States, 1998-2008. Ann Intern
Med.2009;150:33–39.
Xu DZ, Yan YP, Choi BC, Xu JQ, Men K, Zhang JX, Liu
ZH, Wang FS. Risk factors and mechanism of
transplacental transmission of hepatitis B virus: a casecontrol study. J Med Virol. 2002;67:20–26.

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Trưng Vương năm 2015

5


Tổng Quan
23.

24.


25.

6

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015

Xu WM, Cui YT, Wang L, Yang H, Liang ZQ, Li XM,
Zhang SL, Qiao FY, Campbell F, Chang CN, et al.
Lamivudine in late pregnancy to prevent perinatal
transmission of hepatitis B virus infection: a multicentre,
randomized, double-blind, placebo-controlled study. J
Viral Hepat. 2009;16:94–103.
Wang L, Kourtis AP, Ellington S, Legardy-Williams J,
Bulterys M. Safety of tenofovir during pregnancy for the
mother and fetus: a systematic review. Clin Infect
Dis.2013;57:1773–1781.
Whittaker G, Herrera JL. Hepatitis B in pregnancy. South
Med J. 2014;107:195–200.

26.

27.

28.

Wiseman E, Fraser MA, Holden S, Glass A, Kidson BL,
Heron LG, Maley MW, Ayres A, Locarnini SA, Levy MT.
Perinatal transmission of hepatitis B virus: an Australian
experience. Med J Aust. 2009;190:489–492.

Zhang H, Pan CQ, Pang Q, Tian R, Yan M, Liu X.
Telbivudine or lamivudine use in late pregnancy safely
reduces perinatal transmission of hepatitis B virus in reallife practice.Hepatology. 2014:Epub ahead of print.
Zonneveld van M, van Nunen AB, Niesters HG, de Man
RA, Schalm SW, Janssen HL. Lamivudine treatment
during pregnancy to prevent perinatal transmission of
hepatitis B virus infection. J Viral Hepat. 2003;10:294–297.

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Trưng Vương năm 2015



×