Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đánh giá kết quả sớm và trung hạn của phẫu thuật Fontan trên bệnh nhân tim một thất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.88 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỚM VÀ TRUNG HẠN CỦA PHẪU THUẬT 
FONTAN TRÊN BỆNH NHÂN TIM MỘT THẤT 
Nguyễn Hoàng Định*, Cao Đằng Khang**, Huỳnh Thị Minh Thùy* 

TÓM TẮT 
Mở  đầu:  Phẫu thuật Fontan là thì sau cùng của chuỗi các can thiệp điều trị tim bẩm sinh một thất. Việc 
đánh giá kết quả của phẫu thuật Fontan có ý nghĩa rất quan trọng, giúp nhận định tính khả thi và đề xuất quy 
trình phù hợp cho bệnh nhân trong điều kiện Việt Nam. Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá kết quả sớm 
và trung hạn của phẫu thuật Fontan trong điều trị bệnh tim một thất ở bệnh viện Đại Học Y Dược Thành Phố 
Hồ Chí Minh. 
 Mục tiêu: Xác định tỷ lệ tai biến và tử vong trong thời gian nằm viện của phẫu thuật Fontan dùng ống 
ghép ngoài tim. Đánh giá mức độ cải thiện lâm sàng, chức năng của hệ thống tuần hoàn Fontan và các biến 
chứng muộn sau phẫu thuật. 
Đối tượng ‐ Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu 10 bệnh nhân được phẫu thuật Fontan tại Bệnh Viện Đại 
Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2008 đến 2013. 
Kết  quả:  Có 10 bệnh nhân được phẫu thuật Fontan trong thời gian nghiên cứu, trong đó 8 trường hợp 
được phẫu thuật đặt ống nối ngoài tim, 2 trường hợp bất thường đổ về tĩnh mạch chủ dưới được phẫu thuật nối 
tĩnh mạch chủ trên vào động mạch phổi, để lại tĩnh mạch trên gan đổ về nhĩ. Có một trường hợp tử vong trong 
thời gian hậu phẫu.Biến chứng loạn nhịp gặp ở 3 bệnh nhân (30%) trong thời gian hồi sức, khi xuất viện tất cả 9 
trường hợp sống còn đều có nhịp xoang. Biến chứng tràn dịch màng phổi gặp ở 9 bệnh nhân (90%). Độ bão hòa 
oxy tăng từ 75,3± 7,2% lúc nhập viện lên đến 93,1 ± 4,3% lúc xuất viện. Dung tích hồng cầu giảm so với lúc 
nhập viện, từ 54,8± 7,1% giảm xuống còn 36,9 ± 5,4%. Lâm sàng cải thiện khi xuất viện. Không có biến chứng 
đáng kể sau khi xuất viện trong thời gian theo dõi 1,21 năm. 
Kết luận: Phẫu thuật Fontan là lựa chọn được đề nghị trong điều trị bệnh lý tim một thất với giai đoạn hậu 
phẫu sớm còn nhiều thách thức, nhưng kết quả sớm và trung hạn của phẫu thuật rất khả quan. 
Từ khóa: tim một thất, phẫu thuật Fontan, ống nối ngoài tim 


ABSTRACT  
EARLY AND MIDTERM OUTCOMES OF FONTAN OPERATION  
IN PATIENTS WITH SINGLE VENTRICLE 
Nguyen Hoang Dinh, Cao Dang Khang, Huynh Thi Minh Thuy 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 168 ‐ 175 
Background  ‐  Objectives:The Fontan operation has been applied in the definitive management for single 
ventricle.Evaluating  outcomes  of  Fontan  operation  has  significance  to  set  up  practicably  and  correctly 
approaching in surgical treatment single ventricule in Vietnam. This study aimed at evaluating the early and 
mid‐term outcomes of Fontan Procedure in patients with single ventricle. 
Methods: We retrospectively reviewed 10 patients with single ventricle who underwent a Fontan operation 
at The University Medical Center at Ho Chi Minh City between 2008 and 2013. 
* Bộ môn Phẫu thuật LNTM ‐ Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh 
** Khoa PTTM – BV Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Hoàng Định  ĐT: 0908500090 

Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim  – Mạch máu

Email:   

169


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Results:We  had  10  pateints  undergone  Fontan  operation  in  study  with  8  extracardiac  conduits  and  2 
superior  vena  cava  –  pulmonary  artery  shunt  with  interrupted  inferior  vena  cava.One  patient  died  in 
postoperative  time.There  were  3  patients  had  arrhythmias  in  intensive  care  unit,  and  all  had  sinus  rhythm  at 
discharge.Nine  patients  (90%)  had  pleural  effusion  after  operation.Saturation  of  peripheral  oxygen  rised  from 

75.3 ± 7.2% at admission to 93.1 ± 4.3% at discharge.Hematocrit dropped from 54.8 ± 7.1% to 36.9 ± 5.4%.After 
1.21‐followed‐year, no severe complication happened. 
Conclusions:  Fontan  operation  is  good  offered  for  surgical  treatment  in  patients  with  single  ventricle. 
Despite of the challenges in early postoperative time, it has good early and mid‐term outcomes. 
Keywords: single ventricle, Fontan operation, extracardiac conduit 
bệnh  viện  Đại  Học  YDược  Thành  Phố  Hồ  Chí 
MỞ ĐẦU 
Minh. 
Tim  một  thất  là  một  nhóm  bệnh  tim  bẩm 
Mục tiêu đề tài 
sinh  phức  tạp,  không  đồng  nhất,  đặc  trưng  với 
Xác định tỷ lệ tai biến và tử vong trong thời 
chỉ  một  buồng  tống  máu  chức  năng  chịu  trách 
gian nằm viện của phẫu thuật Fontan dùng ống 
nhiệm duy trì tuần hoàn hệ thống và tuần hoàn 
ghép ngoài tim. 
phổi(12)(16). Phẫu thuật Fontan là thì sau cùng của 
chuỗi  các  can  thiệp  điều  trị  tim  bẩm  sinh  một 
thất(12)(2).  Bắt  đầu  từ  những  năm  1970  đến  nay, 
phẫu  thuật  Fontan  đã  phát  triển  và  cải  tiến  với 
những phương pháp: Fontan kinh điển, kỹ thuật 
đường  bên,  kỹ  thuật  đặt  ống  nối  ngoài  tim(5). 
Trong  đó,  kỹ  thuật  đặt  ống  nối  ngoài  tim  được 
ghi  nhận  có  kết  quả  tốt  ở  nhiều  trung  tâm  trên 
thế  giới.  Theo  y  văn,  kỹ  thuật  này  có  nhiều  ưu 
điểm  như  giảm  tỉ  lệ  biến  chứng  rối  loạn  huyết 
động, loạn nhịp thấp hơn các kỹ thuật khác cũng 
như quy trình phẫu thuật đơn giản(4)(11)(13)(10). Tuy 
nhiên đặt ống nối ngoài tim cũng có những nguy 
cơ  chu  phẫu  của  bản  thân  phẫu  thuật  Fontan 

cũng như vấn đề sử dụng ống ghép(15). Tại Việt 
Nam,  phẫu  thuật  Fontan  đã  được  triển  khai  ở 
một số trung tâm. Khoa Phẫu Thuật Tim Mạch, 
Bệnh Viện Đại Học  Y  Dược  Thành  phố  Hồ  Chí 
Minh  áp  dụng  phẫu  thuật  Fontan  lần  đầu  tiên 
vào  năm  2008.  Chúng  tôi  tin  rằng  đây  là  một 
phương pháp khả thi và hiệu quả, mở ra hướng 
giúp  điều  trị  dạng  tim  bẩm  sinh  với  một  thất 
chức năng. Việc đánh giá kết quả của phẫu thuật 
Fontan, thì sau cùng của chuỗi các can thiệp điều 
trị  tim  bẩm  sinh  một  thất  có  ý  nghĩa  rất  quan 
trọng, giúp đánh giá tính khả thi và đề xuất quy 
trình  phù  hợp  cho  bệnh  nhân  trong  điều  kiện 
Việt Nam. Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh 
giá  kết  quả  ngắn  hạn  và  trung  hạn  của  phẫu 
thuật Fontan trong điều trị bệnh tim một thất ở 

170

Đánh  giá  mức  độ  cải  thiện  lâm  sàng,  chức 
năng của hệ thống tuần hoàn Fontan và các biến 
chứng muộn sau phẫu thuật. 

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Phương pháp nghiên cứu 
Đây là nghiên cứu loạt ca lâm sàng ‐ hồi cứu 
mô tả. 

Đối tượng nghiên cứu 
Tất cả bệnh nhân được phẫu thuật Fontan tại 

Khoa Phẫu Thuật Tim Mạch, Bệnh Viện Đại Học 
Y  Dược  Thành  Phố  Hồ  Chí  Minh  từ  tháng 
01/2008  đến  tháng  10/2013.  Dữ  liệu  được  thu 
thập  từ  hồ  sơ  bệnh  án.  Tiêu  chuẩn  chọn  bệnh: 
Bệnh  nhân  được  phẫu  thuật  Fontan  có  tường 
trình  phẫu  thuật,  có  siêu  âm  tim  và/hoặc  thông 
tim chẩn đoán trước phẫu thuật. Loại trừ những 
trường hợp hồ sơ bệnh án không đầy đủ. 

Tiếp cận bệnh nhân 
Đánh  giá  một  bệnh  nhân  trước  phẫu  thuật 
Fontan bao gồm bệnh sử, tuổi, khám lâm sàng, X 
quang ngực và điện tim. Siêu âm tim qua thành 
ngực  được  sử  dụng  để  xác  định  hình  thái  học 
của tim. Phổ màu Doppler cung cấp thông tin về 
trạng  thái  của  van  nhĩ  thất  và  tình  trạng  hẹp 
đường  thoát  thất  trái  cũng  như  những  bất 
thường  huyết  động  khác.  Thông  tim  cung  cấp 
chi tiết về giải phẫu các mạch máu lớn, đo kháng 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
lực mạch máu phổi, đo áp lực và độ bão hòa oxy, 
tuần hoàn bàng hệ. 
Để tiến hành phẫu thuật Fontan, nhiều bệnh 
nhân  cần  phải  phẫu  thuật  dự  bị  để  cân  bằng 
tuần hòa hệ thống và tuần hoàn phổi và chuẩn bị 
kết cấu giải phẫu cho tuần hoàn Fontan. Do đó, 

huyết  động  bất  thường  có  ý  nghĩa  (hẹp  tĩnh 
mạch  phổi  hay  hẹp  đường  thoát  thất  hệ  thống) 
cần được xác định. Lựa chọn chiến lược dựa theo 
cấu trúc giải phẫu và kháng lực mạch máu phổi. 
Chúng tôi không chờ bệnh nhân có triệu chứng 
mà tiến hành phẫu thuật  Fontan  sớm  khi  mạch 
máu  phổi  phù  hợp.  Một  số  bệnh  nhân  có  đặc 
điểm  Fontan  tốt,  quy  trình  Fontan  có  thể  được 
hoàn thành trong một thì. Tuy nhiên, trong hầu 
hết trường hợp, tuần hoàn Fontan được thiết lập 
theo quy trình phân thì: khởi đầu bằng thông nối 
tĩnh  mạch  chủ  và  động  mạch  phổi,  sau  đó  là 
hoàn  thành  thông  nối  tĩnh  mạch  chủ  và  động 
mạch phổi hoàn toàn. 

Nghiên cứu Y học

động mạch chủ, cannula được thực hiện qua bó 
mạch đùi.Chiều dài ống ghép được xác định đủ 
để  ống  ghép  nằm  cong  nhẹ  nhàng  theo  bờ  tim. 
Thân động mạch phổi được cắt ngang, mở rộng 
bờ dưới và nối với ống ghép bằng chỉ prolene 6.0 
sau khi khâu bít đầu phía thất phải. Tĩnh mạch 
chủ  dưới  được  cắt  ngang  ngay  chỗ  đổ  vào  nhĩ 
phải,  khâu  bít  đầu  nhĩ  phải.  Khâu  nối  tận  tận 
ống ghép vào đầu tĩnh mạch chủ dưới bằng chỉ 
prolene 6.0.Kiểm tra sự thông miệng nối và chảy 
máu sau khâu. 

Mở cửa sổ cho tuần hoàn Fontan 

Để giảm thiểu biến cố rò mao mạch do tăng 
áp  lực  tĩnh  mạch  hệ  thống  sau  phẫu  thuật 
Fontan,  một  luồng  thông  phải  trái  qua  cửa  sổ 
giữa ống ghép và thành tâm nhĩ được tạo nên để 
duy trì cung lượng tim và ngăn ngừa tai biến. 

Quy trình phẫu thuật 
Chúng  tôi  áp  dụng  kỹ  thuật  đặt  ống  nối 
ngoài  tim  để  tạo  tuần  hoàn  Fontan.  Phẫu  thuật 
được  tiến  hành  dưới  sự  hỗ  trợ  của  tuần  hoàn 
ngoài  cơ  thể,  không  liệt  tim,  không  hạ  nhiệt  độ 
trừ trường hợp có sữa chữa khác trong tim kèm 
theo. Sau khi bộc lộ hai nhánh động mạch phổi 
và tĩnh mạch chủ qua đường mở ngực giữa, tuần 
hoàn  ngoài  cơ  thể  được  thiết  lập  với  cannula 
động  mạch  chủ  và  cannula  tĩnh  mạch  chủ  trên 
ngay  trên  miệng  thông  nối  dự  bị  và  tĩnh  mạch 
chủ  dưới  ngay  trên  mặt  hoành.Những  trường 
hợp  khó  bộc  lộ  tĩnh  mạch  chủ  hoặc  đứt  đoạn 

 
Hình 1: Ống nối được đặt nằm cong nhẹ nhàng theo 
bờ tim. Nguồn Gardner, Spray et al(5) 

 
Hình 2: Cửa sổ được tạo qua kỹ thuật nối bên bên giữa ống ghép và thành bên tâm nhĩ.Nguồn Gardner, Spray et 
al(5) 

Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim  – Mạch máu


171


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Theo dõi hậu phẫu 
Đặc  điểm  hồi  sức  được  thu  thập  bao  gồm 
thời gian nằm hồi sức, thời gian nội khí quản, độ 
bão hòa oxy, áp lực Fontan, áp lực nhĩ, chênh áp 
qua động mạch phổi, các biến chứng loạn nhịp 
tim,  tràn  dịch  màng  phổi,  nhiễm  trùng,  chảy 
máu,  loại  kháng  đông  được  sử  dụng.  Theo  dõi 
những  lần  tái  khám  đánh  giá  thể  trạng  bệnh 
nhân, tím, mức độ gắng sức, tình trạng suy tim 
theo  NYHA,  siêu  âm  đánh  giá  thông  nối,  tình 
trạng  của  van  nhĩ  thất.  Áp  lực  Fontan  được  đo 
qua ống thông đặt qua tĩnh mạch cảnh vào tĩnh 
mạch  chủ  trên.  Áp  lực  nhĩ  được  đo  qua  ống 
thông  đặt  xuyên  thành  ngực  trong  lúc  phẫu 
thuật. Tính chênh áp qua động mạch phổi. 

Xử lý số liệu 
Số liệu thống kê được xử lý bằng phần mềm 
R 3.0.2. Các biến số liên tục được trình bày theo 
số  trung  bình  ±  độ  lệch  chuẩn  hoặc  trung  vị 
(khoảng  tứ  phân  vị).  Các  biến  số  rời  rạc  được 
trình bày theo tần suất và tỉ lệ. 


KẾT QUẢ 
Từ  tháng  01  năm  2008  đến  tháng  10  năm 
2013, có 10 bệnh nhân được phẫu thuật Fontan 
tại  đơn  vị  của  chúng  tôi,  trong  đó  có  7  bệnh 
nhân  (70%)  đã  được  phẫu  thuật  dự  bị  nối  tĩnh 
mạch chủ trên ‐ động mạch phổi và 3 bệnh nhân 
được  phẫu  thuật  Fontan  một  thì.  Tất  cả  bệnh 
nhân đều tím với độ  bão hòa oxy 75,3 ± 7,22%. 
Đặc  điểm  dịch  tễ  của  nhóm  bệnh  nhân  được 
trình bày ở Bảng 1. 
Bảng 1: Đặc điểm nhóm bệnh nhân 
Đặc điểm chung
Phẫu thuật dự bị

7 (70)
54,1 [38,7 Tuổi phẫu thuật dự bị, tháng
72,43]
101,5 [86,5 Tuổi phẫu thuật Fontan, tháng
112,5]
Thời gian phẫu thuật dự bị - Fontan, tháng 44 [33; 54]
Giới tính [Nam:Nữ]
1:4
Cân nặng, kg
20,72 +/- 5,84
Diện tích da cơ thể, m2
0,831 +/Mạch, lần/phút
91 ± 9,96
Độ bão hòa oxy,%
75,3 ± 7,22
Mức độ suy tim đánh giá theo phân độ NYHA


172

Đặc điểm chung
I
0 (0)
II
7 (70)
III
3 (30)
IV
0 (0)
Tim bên phải
3 (30)
Tổn thương giải phẫu tim
Không lỗ van ba lá
3 (30)
Teo van ba lá
1 (10)
Bất thường Ebstein
1 (10)
Tâm thất độc nhất
3 (30)
Teo van động mạch phổi
2 (20)
Hở van nhĩ thất
0
5 (50)
1
2 (20)

2
2 (20)
3
1 (10)
4
0 (0)
NYHA: New York Heart Association. Dữ liệu được trình bày
theo tần suất (tỉ lệ), trung bình ± độ lệch chuẩn hoặc trung vị
[khoảng tứ phân vị].

Bảng 2: Đặc điểm phẫu thuật 
Thời gian gây mê

340 [285;
442,5]
72 [62,5; 123]
2

Thời gian THNCT
Kẹp động mạch chủ
Ống ghép
GORE
7
DACRON
0
HEMASHIELD
1
KHÔNG
2
Kích thước ống ghép

14
1
18
7
Vị trí ống ghép
Phải
6
Trái
2
Mở cửa sổ
2
Phẫu thuật khác
Khâu tạo hình rẽ lá van nhĩ thất, đặt vòng
1
van 30
Tai biến trong phẫu thuật
Chảy máu
1
Loạn nhịp
1
Dữ liệu được trình bày theo tần suất (tỉ lệ), hoặc trung vị
[khoảng tứ phân vị].

Đặc điểm phẫu thuật được mô tả trongBảng 
2.  Trong  10  bệnh  nhân  được  phẫu  thuật,  8 
trường  hợp  (80%)  sử  dụng  tuần  hoàn  ngoài  cơ 
thể hỗ trợ không ngưng tim, 2 (20%) trường hợp 
sử  dụng  tuần  hoàn  ngoài  cơ  thể  có  ngưng  tim. 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Có  8  trường  hợp  dùng  ống  nối  ngoài  tim,  2 
trường hợp tĩnh mạch chủ dưới đứt đoạn được 
phẫu thuật tạo tuần hoàn Fontan bằng cách nối 
tĩnh mạch chủ trên vào động mạch phổi, để  lại 
tĩnh  mạch  trên  gan  đổ  về  nhĩ  phải.  Trong  8 
trường hợp dùng ống nối, có  6  trường  hợp  đặt 
ống  nối  bên  phải  tim  và  2  trường  hợp  đặt  ống 
nối bên trái tim. Có 2 trường hợp mở cửa sổ giải 
áp.  Áp  lực  Fontan  sau  khi  đặt  ống  13,62  ±  3,81 
mmHg.  Có  1  trường  hợp  có  kết  hợp  sửa  chữa 
trong timkhâu tạo hình rẽ lá van nhĩ thất và đặt 
vòng van số 30. 
Tai biến trong lúc phẫu thuật: 1 trường hợp 
loạn nhịp ngoại tâm thu thất, 1 trường hợp chảy 
máu  nhiều  khi  gỡ  dính.Tai  biến  được  xử  lí 
tốt.Không  có  trường  hợp  nào  tử  vong  trong 
phẫu thuật. 
Sau  phẫu  thuật,  thời  gian  được  chăm  sóc 
trong phòng hồi sức trung bình 4,2 ± 1,55 ngày, 
thời gian nội khí quản trung vị là 13 giờ. 
Tai  biến  loạn  nhịp  trong  thời  gian  hồi  sức 
phần  lớn  là  nhịp  xoang  đều  với  7  trường  hợp 
(70%), 3 trường hợp còn lại (30%) có loạn nhịp, 
cụ thể 1 trường hợp ngoại tâm thu thất, 1 trường 
hợp  block  nhĩ  thất  độ  III,  1  trường  hợp  ngoại 
tâm  thu  thất  và  nhịp  bộ  nối.Tràn  dịch  màng 
phổi  gặp  ở  hầu  hết  các  bệnh  nhân.Cóđến  9 

trường  hợp  (90%)  tràn  dịch  màng  phổi.  Thời 
gian  trung  vị  của  tràn  dịch  là  10  ngày,  có  5 
trường hợp tràn dịch kéo dài trên 10 ngày, trong 
đó 3 trường hợp đặt dẫn lưu lại sau khi rút. Về 
tính chất dịch, 8 trường hợp tràn dịch thanh dịch 
và  1  trường  hợp  tràn  dịch  dưỡng  trấp.Có  2 
trường  hợp  phải  phẫu  thuật  lại,  trong  đó  1 
trường  hợp  chảy  máu  và  1  trường  hợp  nhiễm 
trùng  xương  ức.Có  2  trường  hợp  không  dùng 
kháng  đông  sau  phẫu  thuật,  4  trường  hợp  sử 
dụng Sintrom, 2 trường hợp sử dụng Aspegic và 
2  trường  hợp  sử  dụng  kết  hợp  Sintrom  và 
Aspegic.  Không  có  bệnh  nhân  nào  mắc  hội 
chứng mất protein hoặc tai biến thần kinh. 
Có  1  trường  hợp  tử  vong  trong  giai  đoạn 
hậu phẫu. Bệnh nhân có dị tật tâm thất tâm nhĩ 
độc nhất dạng thất phải, tĩnh mạch chủ dưới đứt 

Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim  – Mạch máu

Nghiên cứu Y học

đoạn đổ về tĩnh mạch chủ trên. Trường hợp này 
được  xử  trí  tạo  thông  nối  giữa  tĩnh  mạch  chủ 
trên  và  động  mạch  phổi,  để  lại  tĩnh  mạch  trên 
gan đổ về nhĩ phải. Hồi sức sau phẫu thuật ban 
đầu diễn tốt thuận lợi, thời gian nội khí quản 20 
giờ, nằm hồi sức 3 ngày với độ bão hòa oxy 94%, 
không  có  tai  biến  loạn  nhịp  và  tràn  dịch  màng 
phổi  trong  thời  gian  hồi  sức.  Ngày  thứ  7  sau 

phẫu  thuật,  bệnh  nhân  tràn  dịch  màng  phổi 
dưỡng trấp, kéo dài 18 ngày.Xuất hiện phù, tím 
dần, độ bão hòa oxy giảm duy trì ở mức 45‐55%. 
Siêu âm tim đánh giá thông nối không ghi nhận 
không có tín hiệu của luồng máu đi qua, thất co 
bóp kém. Bệnh nhân tử vong do sốc tim sau khi 
gây mê chuẩn bị thông tim chẩn đoán. 
Xuất viện: Trong 9 trường hợp xuất viện tất 
cả có nhịp xoang đều.Mức độ suy tim giảm từ 2 
trường hợp NYHA II, 7 trường hợp NYHA I. Độ 
bão hòa oxy tăng từ 75,3± 7,2% lúc nhập viện lên 
đến  93,1±  4,3%  lúc  xuất  viện.  Dung  tích  hồng 
cầu  giảm  so  với  lúc  nhập  viện,  từ  54,8±  7,1% 
giảm xuống còn 36,9 ± 5,4%. 
Bảng 3: Đặc điểm hậu phẫu 
Biến số hậu phẫu
Áp lực Fontan hậu phẫu, mmHg
Áp lực nhĩ hậu phẫu, mmHg
Thời gian nội khí quản, giờ
Thời gian nằm hồi sức, ngày
Thời gian nằm viện, ngày

14 [11,5; 17]
7 ± 3,3
13 [10,25; 18,5]
4,2 ± 1,55
15 [10; 26,75]

Thời gian tràn dịch màng phổi, ngày


10 [4,75; 16,75]

Sớm
Muộn
Biến chứng hậu phẫu sớm
Trung thất
Nhiễm trùng
Viêm phổi
NTT Thất
BAV III
Loạn nhịp
NBN Chậm
Sinus
Biến chứng thần kinh
Không
<10
ngày
Tràn dịch màng
phổi
>= 10 ngày
Đặt lại dẫn lưu
Thanh dịch
Tính chất dịch
Dưỡng trấp
Phẫu thuật lại
Chảy máu

1 (10)
0 (0)


Tử vong

1 (10%)
1 (10%)
2 (20%)
1 (10%)
1 (10%)
7 (70%)
0 (0%)
1 (10%)
4 (40%)
5 (50%)
3 (33%)
8 (89%)
1 (11%)
1 (10%)

173


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Biến số hậu phẫu
Nhiễm trùng trung thất
1 (10%)
Sintrom
4 (40%)
Aspegic

2 (20%)
Kháng đông/ICU
Cả hai
2 (20%)
Không
2 (20%)
Độ bão hòa oxy trong thời gian hồi sức,%
91,6 ± 6,36
Độ bão hòa oxy khi xuất viện,%
93,1 ± 4,3
Dữ liệu được trình bày theo tần suất (tỉ lệ), trung bình ± độ
lệch chuẩn hoặc trung vị [khoảng tứ phân vị].

Thời gian theo dõi trung vị 1,21 năm (5 ngày 
đến 67 tháng), trong 9 trường hợp xuất viện an 
toàn  không  có  trường  hợp  nào  tử  vong  hoặc 
nhập viện điều trị lại sau khi xuất viện. Kiểm tra 
siêu  âm  tim:  9  trường  hợp  đều  có  thông  nối 
Fontan tốt, không có trường hợp nào tổn thương 
van  nhĩ  thất  đáng  kể.  Mức  độ  gắng  sức  được 
bảo tồn với 2 trường hợp (22,2%) NYHA II và 7 
trường  hợp  (77,8%)NYHA  I.  Không  có  bệnh 
nhân nào mắc hội chứng mất protein.Không có 
bệnh nhân nào có biến chứng thần kinh. 
Bảng 4: Theo dõi ngoại trú 
Thời gian theo dõi, năm
Cân nặng hiện tại, kg
Tím
Sintrom
Kháng

đông
Aspegic
0
1
Hở van
2
nhĩ thất
3
4
Tốt
Thông nối
Không tốt
I
II
NYHA
III
IV

1,21 [1,036; 1,65]
23,88 ± 5,94
0 (0)
7 (77,8)
2 (22,2)
2 (22,2)
6 (66,6)
1 (11,1)
0 (0)
0 (0)
9 (100)
0 (0)

7 (77,8)
2 (22,2)
0 (0)
0 (0)

NYHA:  New  York  Heart  Association.  Dữ 
liệu  được  trình  bày  theo  tần  suất  (tỉ  lệ),  trung 
bình  ±  độ  lệch  chuẩn  hoặc  trung  vị  [khoảng  tứ 
phân vị]. 

BÀN LUẬN 
Phẫu thuật Fontan là phương pháp được lựa 
chọn  hiện  nay  trong  điều  trị  bệnh  lý  tim  một 
thất.  Những  thách  thức  trong  kỹ  thuật  và  kết 
quả của quá trình phẫu thuật lẫn hồi sức đặt ra 

174

nhiều  thách  thức  cho  phẫu  thuật  viên.  Qua  5 
năm  nhìn  lại  những  trường  hợp  phẫu  thuật 
Fontan ở Bệnh Viện Đại Học Y Dược Thành Phố 
Hồ Chí Minh, chúng tôi rút ra được những nhận 
xét sau: 

Về chuẩn bị bệnh nhân 
Những  bệnh  nhân  trong  nghiên  cứu  có  bất 
thường  giải  phẫu  tim  với  một  thất  chức  năng 
hoặc hai thất nhưng một thất thiểu sản, chỉ định 
phẫu  thuật  Fontan  ở  những  bệnh  nhân  trong 
nghiên  cứu  là  phù  hợp  với  ý  kiến  được  nhiều 

trung  tâm  đồng  thuận  trên  thế  giới  như  theo 
Sharma(12), van Doorne(16), Gardner(5). Hoạt động 
cơ  ở  bệnh  nhân  giúp  tăng  hồi  lưu  tĩnh  mạch, 
góp phần vào đảm bảo tuần hoàn Fontan(12,17), vì 
thế  lứa  tuổi  được  phẫu  thuật  Fontan  trong 
nghiên cứu là 101,5 tháng tuổi lứa tuổi phù hợp 
để tiến hành phẫu thuật. 

Về kỹ thuật 
Hai  trường  hợp  phẫu  thuật  Fontan  một  thì 
nối  tĩnh  mạch  chủ  trên  với  động  mạch  phổi  ở 
trường hợp đứt đoạn tĩnh mạch chủ dưới là chỉ 
định  phù  hợp  với  các  tác  giả  Gardner(5), 
Sharma(12), van Doorne(16). Tám trường hợp được 
đặt ống nối ngoài tim phù hợp với xu thế đồng 
thuận về lựa chọn kỹ thuật hiện nay như các tác 
giả  Azakie(1),  Steward(14),  Yetman(18),  Fiore(3), 
Kaulitz(6).  Hai  trường  hợp  tuần  hoàn  ngoài  cơ 
thể có ngưng tim do loạn nhịp và sửa chữa khác 
trong  tim,  8  trường  hợp  có  tuần  hoàn  ngoài  cơ 
thể  không  ngưng  tim  phù  hợp  với  xu  thế  hiện 
nay, góp phần giảm biến cố hậu phẫu. (??) 

Về kết quả sớm 
Đặc  điểm  hồi  sức  nhìn  chung  với  3  bệnh 
nhân (30%) trong nghiên cứu có rối loạn nhịp, 9 
bệnh nhân (90%) tràn dịch màng phổi trong thời 
gian hậu phẫu chứng tỏ phẫu thuật Fontan còn 
nhiều thách thức trong giai đoạn hậu phẫu gần. 
Áp lực Fontan trong ngày đầu hồi sức trung vị 

14 được ghi nhận nằm trong giới hạn cho phép, 
áp lực nhĩ trong ngày đầu hồi sức 7 mmHg (??). 
Thời  gian  nội  khí  quản  13  giờ  và  hồi  sức  4,2 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
ngày so sánh với các tác giả Kim(7), Nakayama(9), 
LaPar(8) thì đây là yếu tố tiên lượng tốt với thời 

2.

gian thông khí ngắn, hồi sức không quá dài. Tuy 
nhiên 3 bệnh nhân rối loạn nhịp và 9 bệnh nhân 
tràn  dịch  màng  phổi  cho  thấy  thách  thức  của 

3.

phẫu  thuật  Fontan  trong  thời  gian  hậu  phẫu 
gần.Những  biến  chứng  này  tương  tự  như  ghi 

4.

nhận của các tác giả khác(7,8,9). Những biến chứng 
thần  kinh,  mất  protein  không  ghi  nhận  trong 

5.

loạt bệnh nhân này. 

Bệnh  nhân  tử  vong  trong  nghiên  cứu  ghi 

6.

nhận tuần hoàn Fontan thất bại, không có luồng 
thông qua chỗ nối, bệnh nhân tử vong khi được 
gây mê chuẩn bị thông tim.  

7.

8.

Về kết quả trung hạn 
Tất cả 9 bệnh nhân xuất viện an toàn, không 
có trường hợp nào có biến cố phải can thiệp lại. 

9.

Tình  trạng  gắng  sức  cải  thiện,  tăng  cân,  không 
tím hơn. Mức độ gắng sức được bảo tồn so với 
lúc xuất viện. 

10.

KẾT LUẬN 
Phẫu thuật Fontan là lựa chọn phù hợp cho 
quy trình điều trị phẫu thuật trên bệnh nhân tim 

11.


một  thất.  Kỹ  thuật  đặt  ống  nối  ngoài  tim  được 
áp  dụng  rộng  rãi  và  mang  lại  kết  quả  sớm  và 

12.

trung hạn khá khả quan. Tuy nhiên, phẫu thuật 
Fontan  vẫn  còn  những  thách  thức  với  tỉ  lệ  tử 

13.

vong sớm được ghi nhận cũng như những biến 
chứng loạn nhịp và tràn dịch màng phổi thường 
gặp  gây  nặng  nề  quá  trình  hồi  phục  sau  phẫu 

14.

thuật  của  bệnh  nhân.Vì  vậy  cần  áp  dụng  phẫu 
thuật  Fontan  đúng  chỉ  định  với  lựa  chọn  và 
chuẩn bị bệnh nhân trước phẫu thuật cũng như 

15.

lựa chọn kỹ thuật  phù  hợp  góp  phần  nâng  cao 
chất lượng điều trị cho bệnh nhân. 

16.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

17.


1.

Azakie A, McCrindle BW, Van Arsdell G, Benson LN, Coles J, 
Hamilton  R,  et  al  (2001).  Extracardiac  conduit  versus  lateral 
tunnel  cavopulmonary  connections  at  a  single  institution: 

Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim  – Mạch máu

Nghiên cứu Y học

impact  on  outcomes.  J  Thorac  Cardiovasc  Surg,  122:  1219‐
1228. 
Feinstein JA, Benson DW, Dubin AM, Cohen MS, Maxey DM, 
Mahle  WT,  et  al  (2012).  Hypoplastic  left  heart  syndrome: 
current  considerations  and  expectations.  Journal  of  the 
American College of Cardiology, 59: S1‐42.  
Fiore  AC,  Turrentine  M,  Rodefeld  M,  Vijay  P,  Schwartz  TL, 
Virgo  KS,  et  al  (2007).  Fontan  operation:  a  comparison  of 
lateral tunnel with extracardiac conduit. Ann Thorac Surg, 83: 
622‐629; discussion 629‐630.  
Fontan F, Kirklin JW, Fernandez G, Costa F, Naftel DC, Tritto 
F,  et  al  (1990).  Outcome  after  a  ʺperfectʺ  Fontan  operation. 
Circulation, 81: 1520‐1536. 
Gardner  TJ,  Spray  TL,  Rob  C  (2004).  Operative  cardiac 
surgery. In: Gardner TJ, Spray TL. Operative cardiac surgery, 
5th edition: Oxford University Press, New York. 
Kaulitz R, Ziemer G, Paul T, Peuster M, Bertram H, Hausdorf 
G  (2002).  Fontan‐type  procedures:  residual  lesions  and  late 
interventions. Ann Thorac Surg, 74: 778‐785.  

Kim  SJ,  Kim  WH,  Lim  HG,  Lee  JY  (2008).  Outcome  of  200 
patients  after  an  extracardiac  Fontan  procedure.  J  Thorac 
Cardiovasc Surg, 136: 108‐116. 
LaPar  DJ,  Mery  CM,  Peeler  BB,  Kron  IL,  Gangemi  JJ  (2012). 
Short  and  long‐term  outcomes  for  bidirectional  glenn 
procedure  performed  with  and  without  cardiopulmonary 
bypass. Ann Thorac Surg, 94: 164‐170; discussion 170‐161.  
Nakayama Y, Hiramatsu T, Iwata Y, Okamura T, Konuma T, 
Matsumura  G,  et  al  (2012).  Surgical  results  for  functional 
univentricular heart with total anomalous pulmonary venous 
connection  over  a  25‐year  experience.  Ann  Thorac  Surg, 93: 
606‐613.  
Ota N, Fujimoto Y, Murata M, Tosaka Y, Ide Y, Tachi M, et al 
(2012).  Impact  of  postoperative  hemodynamics  in  patients 
with  functional  single  ventricle  undergoing  Fontan 
completion  before  weighing  10  kg.  The  Annals  of  Thoracic 
Surgery, 94: 1570‐1577.  
Rogers LS, Glatz AC, Ravishankar C, Spray TL, Nicolson SC, 
Rychik  J,  et  al.  (2012).  18  years  of  the  Fontan  operation  at  a 
single  institution:  results  from  771  consecutive  patients. 
Journal of the American College of Cardiology, 60: 1018‐1025.  
Sharma  MS,  Kostolny  M,  de  Leval  MR,  Tsang  VT  (2007). 
Surgical  approaches  for  single  ventricle  palliation. 
Multimedia Manual of Cardio‐Thoracic Surgery, 2007.  
Sharma  V,  Burkhart  HM,  Cetta  F,  Hagler  DJ,  Phillips  SD, 
Dearani  JA  (2012).  Fontan  conversion  to  one  and  one  half 
ventricle  repair.  The  Annals  of  Thoracic  Surgery,  94:  1269‐
1274; discussion 1274. 
Stewart RD, Pasquali SK,  Jacobs  JP,  Benjamin  DK,  Jaggers  J, 
Cheng  J,  et  al  (2012).  Contemporary  Fontan  operation: 

association  between  early  outcome  and  type  of 
cavopulmonary connection. Ann Thorac Surg, 93: 1254‐1260; 
discussion 1261.  
Van  den  Bosch  AE,  Roos‐Hesselink  JW,  Van  Domburg  R, 
Bogers  AJ,  Simoons  ML,  Meijboom  FJ  (2004).  Long‐term 
outcome and quality of life in adult patients after the Fontan 
operation. Am J Cardiol, 93: 1141‐1145. 
van Doorn C, de Leval MR (2006). Single Ventricle. In: Single 
Ventricle: John Wiley & Sons, Ltd.  
Wallace MC, Jaggers J, Li JS, Jacobs ML, Jacobs JP, Benjamin 
DK, et al (2011). Center variation in patient age and weight at 
Fontan  operation  and  impact  on  postoperative  outcomes. 
Ann Thorac Surg, 91: 1445‐1452.  

175


Nghiên cứu Y học 
18.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Yetman  AT,  Drummond‐Webb  J,  Fiser  WP,  Schmitz  ML, 
Imamura  M,  Ullah  S,  et  al  (2002).  The  extracardiac  Fontan 
procedure  without  cardiopulmonary  bypass:  Technique  and 
intermediate‐term  results.  Annals  of  Thoracic  Surgery,  74: 
S1416‐S1421. 

Ngày nhận bài báo:  


 

 

29/10/2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

29/10/2013 

Ngày bài báo được đăng :  

05/01/2014 

 

 
 

176

Chuyên Đề Ngoại Khoa 



×