Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nghiên cứu các giá trị của MUNE trên cơ duỗi ngắn các ngón chân ở người Việt Nam trưởng thành khỏe mạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.28 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

NGHIÊN CỨU CÁC GIÁ TRỊ CỦA MUNE TRÊN CƠ DUỖI NGẮN
CÁC NGÓN CHÂN Ở NGƯỜI VIỆT NAM TRƯỞNG THÀNH KHỎE MẠNH
Nguyễn Lê Trung Hiếu*, Nguyễn Hữu Công**

TÓM TẮT
Cơ sở nghiên cứu: Đơn vị vận động là thành phần cơ bản của hệ thống thần kinh cơ. Số lượng đơn vị vận
động có thể ước lượng được bằng điện cơ qua kỹ thuật MUNE (motor unit number estimation).
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát giá trị trung bình và ngưỡng chẩn đoán bất thường của MUNE trên cơ
duỗi ngắn các ngón chân ở người Việt Nam trưởng thành khỏe mạnh.
Phương pháp nghiên cứu: Thống kê mô tả hàng loạt trường hợp người trưởng thành khỏe mạnh. Khảo sát
MUNE bằng hai kỹ thuật kích thích tăng dần và kích thích nhiều điểm trên thần kinh mác sâu ghi trên cơ duỗi
ngắn các ngón chân hai bên.
Kết quả: Có 82 người tham gia nghiên cứu. Giá trị trung bình và ngưỡng chẩn đoán của MUNE trên cơ
duỗi ngắn các ngón chân từng bên theo kỹ thuật kích thích tăng dần lần lượt là: bên phải 146,5 ± 39,5 và 96, bên
trái 145,0 ± 38,5 và 94; và kỹ thuật kích thích nhiều điểm lần lượt là: bên phải 146,1 ± 37,8 và 97,3, bên trái 144,0
± 36,5 và 91,6.
Kết luận: Ngưỡng chẩn đoán bất thường của MUNE trên cơ duỗi ngắn các ngón chân có giá trị tham chiếu
lần lượt là 94 đối với kỹ thuật kích thích tăng dần và 91 đối với kỹ thuật kích thích nhiều điểm.
Từ khóa: cơ duỗi ngắn các ngón chân, thần kinh mác sâu, phương pháp ước lượng số lượng đơn vị vận
động, kỹ thuật kích thích tăng dần, kỹ thuật kích thích nhiều điểm

ABSTRACT
STUDYING MUNE VALUES IN THE EXTENSOR DIGITORUM BREVIS MUSCLE OF HEALTHY
ALDULT VIETNAMESE SUBJECTS
Nguyen Le Trung Hieu, Nguyen Huu Cong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 2 - 2017: 139 - 145
Background: Motor unit is basic component of neuromuscular system. Motor unit number estimation


(MUNE) is an electrodiagnostic method that can help us to estimate motor units number.
Objectives: Studying mean values and lower limit values of MUNE in the extensor digitorum brevis
muscle of healthy adult Vietnamese subjects.
Methods: The descriptive cross-sectional study was used. Bilateral MUNE in the extensor digitorum brevis
(EDB) muscle was done by incremental stimulation technique (IST) and multiple point stimulation (MPS)
Results: There were 82 normal adult Vietnamese volunteers. Mean thenar MUNE values and lower limit
MUNE values by IST at right foot: 146.5 ± 39.5 and 96, left foot 145.0 ± 38.5 and 94; by MPS at right foot: 146.1
± 37.8 and 97.3, left foot 144.0 ± 36.5 and 91.6.
Conclusion: Lower limit MUNE values by IST was 94 and MPS was 91.
Key words: the extensor digitorum brevis muscle, deep peronei nerve, motor unit number estimation,
incremental stimulation technique, multiple point stimulation technique

*BộmônThầnKinh, Đạihọc Y Dược TPHCM, **BộmônThầnKinh, Đạihọc Y PhạmNgọcThạch TPHCM
Tác giả lien lạc:ThS. BS. Nguyễn Lê Trung Hiếu ĐT: 0908393616
Email:

Thần kinh

139


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm 1971, Mc Comas giới thiệu phương
pháp ước lượng số lượng đơn vị vận động
(motor unit number estmation - MUNE). Cho
đến nay, đây là phương pháp duy nhất cho phép

ước lượng số lượng đơn vị vận động kiểm soát
một cơ hoặc một nhóm cơ và có thể ứng dụng
trong thực hành lâm sàng(9).
Trên thế giới, đã có nhiều công trình nghiên
cứu về MUNE trên người bình thường. Tuy
nhiên, các báo cáo về giá trị trung bình trên
người bình thường và ngưỡng chẩn đoán bệnh
của MUNE vẫn còn khá khác nhau tùy theo
nhóm tác giả và cơ sở nghiên cứu. Chưa có một
ngưỡng chẩn đoán chính thức được đồng thuận.
Tại Việt Nam, MUNE chưa có nghiên cứu
nào công bố về MUNE. Mục tiêu của nghiên cứu
này là xác định giá trị trung bình và ngưỡng
chẩn đoán bệnh của MUNE trên cơ duỗi ngắn
các ngón chân thuộc thần kinh mác sâu hai bên
bằng hai kỹ thuật MUNE kích thích tăng dần và
MUNE kích thích nhiều điểm ở người Việt Nam
trưởng thành khỏe mạnh.

ĐỐITƯỢNG–PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Người Việt Nam trưởng thành.
Không có tiền sử hoặc đang mắc bất kỳ bệnh
nào trong các bệnh sau đây: bệnh neuron vận
động, bệnh thần kinh ngoại biên, bệnh tiếp hợp
thần kinh cơ và bệnh cơ.
Không có tiền sử gia đình về bệnh thần kinh
di truyền.
Đồng ý tham gia nghiên cứu.


Tiêu chuẩn loại trừ
Có tổn thương dây thần kinh mác sâu hai
bên vì bất kỳ lí do gì (vết thương, dị tật…).
Có bất kỳ triệu chứng nào về vận động và
cảm giác tại hai bàn chân cho đến thời điểm
khảo sát.

140

Có bất kỳ thông số nào về dẫn truyền vận
động như thời gian tiềm, biên độ CMAP
(compound muscle action potential), tốc độ dẫn
truyền thần kinh vận động của thần kinh mác
sâu hai bên biểu hiện bất thường trên chẩn đoán
điện trong quá trình khảo sát. Không khảo sát
được đầy đủ các thông số cần cho nghiên cứu,
bao gồm biên độ CMAP, biên độ SMUP (single
motor unit potential) của thần kinh mác hai bên
và các giá trị MUNE.

Cỡ mẫu
Nghiên cứu nhằmtính giá trị trung bình của
một thông số nên công thức cỡ mẫu là:
n = C/(/)2.
Nghiên cứu ứng dụng hai kỹ thuật MUNE là
IST và MPS để khảo sát mà theo y văn giá trị
trung bình của hai kỹ thuật này gần bằng nhau
nên chúng tôi chọn giá trị trung bình MUNE
theo kỹ thuật kích thích tăng dần để tính cỡ mẫu.

Theo công bố về MUNE của nhóm tác giả
Gooch, Doherty, Bromberg, Stashuk, Daube và
cộng sự thuộc AANEM (hội bệnh thần kinh cơ
và chẩn đoán điện Mỹ), đăng trên tạp chí Muscle
& Nerve 50, năm 2014, trong đó: MUNE theo kỹ
thuật kích thích tăng dần khi khảo sát ở cơ duỗi
ngắn các ngón chân thuộc dây thần kinh mác sâu
là 206 ± 61 làm cơ sở tính cỡ mẫu.
Chấp nhận sai số loại I là α = 0,1 và loại II là
β = 0,2 ta có hằng số C = 6,15.
Cỡ n =6,15/(206/61)2 = 53,9.
Như vậy, cỡ mẫu ít nhất là: 54 người.

Phương pháp nghiên cứu
Các biến trong nghiên cứu
Tuổi: gồm có số tuổi và nhóm tuổi (< 30, 30 39, 40 - 49, > 50), tính theo lời khai về tuổi của
người tham gia nghiên cứu.
Giới tính: hai giá trị, 1 là nam và 0 là nữ, ghi
theo lời khai của người tham gia nghiên cứu.
Bên khảo sát: hai giá trị là bên phải và bên
trái, là bên của người tham gia nghiên cứu.
Kỹ thuật MUNE: hai kỹ thuật là IST và MPS.

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Biên độ CMAP (mV): biến định lượng, giá trị
biên độ CMAP thu được theo khảo sát vận động
thường qui, tính từ đường đẳng điện đến đỉnh

sóng âm (negative peak amplitude).
Biên độ SMUP (µV): biến định lượng, giá
trị biên độ điện thế đơn vị vận động đơn lẻ
thu được theo từng kỹ thuật, cũng được tính
từ đường đẳng điện đến đỉnh sóng âm. Loại
SMUP < 10µV.
Biên độ mSMUP (µV): biến định lượng, giá
trị biên độ trung bình từ các SMUP
MUNE: biến định lượng, MUNE = Biên độ
CMAP/Biên độ mSMUP.

Các kỹ thuật EMG thường qui và MUNE trong
nghiên cứu
Theo mô tả của tác giả Bromberg
Kỹ thuật MUNE kích thích tăng dần (IST):
Điện cực kích thích đặt cố định tại cổ chân Điện
cực bề mặt được đặt trên cơ duỗi ngắn các ngón
chân. Độ nhạy khai thác tăng từ 50 - 100
µV/khoảng để quan sát những bước biên độ
thấp trong chùm điện thế sóng đáp ứng co cơ.
Cường độ kích thích được giữ thấp từ 3 - 10mA
để kích hoạt sợi trục đầu tiên theo nguyên lí tất
cả hoặc không và ghi điện thế đơn vị vận động
đơn lẻ (SMUP) đầu tiên. Bằng cách tăng chậm
cường độ kích thích, một chồng 8 - 10 lớp điện
thế sóng đáp ứng co cơ riêng biệt. Đo đạt biên
độ, tính từng SMUP và ghi vào bảng thu thập số
liệu. Kích thích trên tối đa để ghi và tính biên độ
CMAP. Giá trị mSMUP và MUNE được tính sau
khi đã hoàn tất nhập số liệu.

Kỹ thuật MUNE kích thích nhiều điểm
(MPS): Điện cực kích thích đặt cố định tại cổ
chân. Các điện cực bề mặt được đặt trên cơ
duỗi ngắn các ngón chân theo cách ghi bụng
gân. Độ nhạy khai thác tăng từ 50 - 100
µV/khoảng để quan sát những bước biên độ
thấp. Cường độ kích thích thấp 3 - 10mA để
kích hoạt sợi trục đầu tiên và ghi SMUP đầu
tiên. Điện cực kích thích được di chuyển đến
một vị trí khác dọc dây thần kinh và cũng ghi
nhận một đáp ứng khác theo nguyên lí tất cả

Thần kinh

Nghiên cứu Y học

hoặc không tương tự đáp ứng đầu tiên. 10 đáp
ứng (SMUP) được chọn, ghi vào bảng thu thập
số liệu. Kích thích trên tối đa để ghi và tính
biên độ CMAP. Giá trị mSMUP và MUNE
được tính sau khi đã hoàn tất nhập số liệu.

Các bước tiến hành nghiên cứu
Bước 1: Giải thích và đồng ý tham gia
nghiên cứu.
Bước 2: Khảo sát dẫn truyền vận động
thường qui dây thần kinh mác sâu theo kỹ
thuật ghi CMAP. Ghi nhận CMAP, nếu có
biểu hiện quá bất thường, loại khỏi nghiên
cứu. Nếu biên độ và hình thái CMAP trong

giới hạn bình thường, thu thập số liệu biên độ
CMAP và sang bước 3.
Bước 3: Khảo sát MUNE bằng IST bên
phải, sau đó khảo sát sang bên trái. Thu thập
số liệu từ 8 – 10 SMUP từng bên, ghi vào bảng
thu thập số liệu, sau đó sang bước 4 (bắt
buộc). Nếu người tham gia không muốn tiếp
tục, loại khỏi nghiên cứu.
Bước 4: Khảo sát MUNE bằng MPS bên phải,
sau đó khảo sát sang bên trái. Thu thập số liệu từ
10 SMUP từng bên, ghi vào bảng thu thập số
liệu, sang bước 5.
Bước 5: Hoàn tất thu thập số liệu sau khi
nhập tất cả các thông số khảo sát và tính ra
MUNE từng bên theo từng kỹ thuật ở từng
người tham gia.

Phương pháp thu thập số liệu và thống kê
Thu thập số liệu
Các biến tuổi, giới thu thập bằng cách hỏi
trực tiếp theo bảng thu thập số liệu.
Các thông số chẩn đoán điện được đo đạc
và tính toán trên phần mềm khảo sát điện thần
kinh cơ cài sẵn trong máy EMG của hãng
Medtronic (Medtrnic A/S Tonshakken 16-18
DK-2740 Skovlunde Denmark) tại phòng điện
cơ của Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố
Hồ Chí Minh trong điều kiện nhiệt độ phòng
đảm bảo tử 22 – 26 độ C. Ghi kết quả vào bảng
thu thập số liệu.


141


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

Các số liệu được nhập liệu bằng phần
mềm Excel.

bình thường hoặc gần bình thường và tiếp tục
thực hiện các bước trên.

Xử lí thống kê
Các biến số định lượng được trình bày dưới
dạng trung bình ± độ lệch chuẩn.

Thống kê này được thực hiện trên phần
mềm Stata 12.0.

So sánh trung bình của một biến định lượng
ở các nhóm khác nhau bằng phép kiểm Student
t-test, có ý nghĩa khác biệt khi p < 0.05.

Đặc điểm của dân số

Nếu các biến này không thỏa điều kiện sử
dụng phép kiểm Student t-test, so sánh trung
bình bằng phép kiểm phi tham số

Kruskal Wallis.
Giới hạn trên, giới hạn dưới của một thông
số trên người tình nguyện khỏe mạnh được lấy
là khoảng 95% của giá trị của biến đó trong mẫu
nếu biến đó có phân phối bình thường. Giới hạn
dưới là bách phân vị thứ 2,5; còn giới hạn trên là
bách phân vị thứ 97,5 của giá trị của biến trong
bộ số liệu.
Nếu thông số đó có phân phối không bình
thường chúng tôi chuyển biến số sang phân phối

KẾT QUẢ
Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát giá trị
MUNE trên 82 người tình nguyện khỏe mạnh,
tất cả đều được khảo sát hai bàn chân.

Về giới tính
Có 42/82 (51,2%) người tham gia khảo sát là
nữ, tỉ lệ nữ/nam là 1,05.
Về tuổi
Tuổi nhỏ nhất, lớn nhất và trung bình của
nam lần lượt là 19 tuổi, 57 tuổi và 38,3 ± 10,8 tuổi.
Tuổi tương ứng ở nữ lần lượt là 18 tuổi, 73 tuổi
và 49,7 ± 12,7 tuổi.
Có 20 người (24,4%) tham gia < 30 tuổi, 24
người (29,2%) trong độ tuổi từ 30 – 39 tuổi, 16
người (19,5%) trong độ tuổi từ 40 – 49 tuổi, 22
người (26,8%) ≥ 50 tuổi.

Giá trị MUNE

Bảng 1: Giá trị MUNE trung bình.
Giá trị MUNE
Bên phải
IST
Bên trái

Bên phải
MPS
Bên trái

Nam (n=40)
Nữ (n=42)
Cả 2 giới (n=82)
Nam (n=40)
Nữ (n=42)
Cả 2 giới (n=82)
Cả 2 bên (n=82)
Nam (n=40)
Nữ (n=42)
Cả 2 giới (n=82)
Nam (n=40)
Nữ (n=42)
Cả 2 giới (n=82)
Cả 2 bên (n=82)

Nhỏ nhất
96,0
87,7
87,7
94,0

74,8
74,8
74,8
97,3
90,3
90,3
91,6
75,0
75,0
75,0

Lớn nhất
279,8
300,7
300,7
250,6
297,1
297,1
300,7
274,6
288,0
288,0
246,2
293,2
293,2
293,2

Trung bình
153,6 ± 38,7
139,7 ± 39,6

146,5 ± 39,5
146,5 ± 35,0
143,5 ± 42,0
145,0 ± 38,5
145,7 ± 39,0
152,8 ± 38,1
139,6 ± 36,7
146,1 ± 37,8
145,6 ± 34,6
142,4 ± 38,6
144,0 ± 36,5
145,0 ± 37,2

Đối với IST, so sánh giá trị trung bình MUNE

để so sánh MUNE giữa các nhóm tuổi, kết quả p

theo giới tính ở từng bên bằng phép kiểm

= 0,027 bên phải và bên trái p = 0,001, có ý nghĩa

Student t-test ghi nhận p = 0,111 ở bên phải và p

thống kê.

= 0,726 ở bên trái, không có ý nghĩa thống kê.

Đối với MPS, kết quả so sánh giá trị trung
bình MUNE theo giới là p = 0,115 ở bên phải và p


Thực hiện phép kiểm phi tham số Kruskal Wallis

142

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
= 0,690 ở bên trái, không có ý nghĩa thống kê. Giá
trị p khi so sánh giữa các nhóm tuổi lần lượt là
0,031 ở bên phải và 0,002 ở bên trái, có ý nghĩa
thống kê.
So sánh hai bên: Với IST, giá trị MUNE bên
phải là 146,5 ± 39,5; bên trái là 145,0 ± 38,5. Với
MPS, giá trị MUNE bên phải là 146,1 ± 37,8; bên
trái là 144,0 ± 36,5. Thực hiện phép kiểm Student
t-test bắt cặp để so sánh hai bên, giá trị p = 0,631
đối với IST và 0,432 đối với MPS. Khác biệt này
không có ý nghĩa thống kê.

Nghiên cứu Y học

± 12,7 tuổi (18 – 73 tuổi). Cũng không có sự khác
biệt về tuổi trung bình giữa hai giới và số lượng
người tham gia ở mỗi giới cũng đủ lớn nên
chúng tôi cũng đã tiến hành được các phép kiểm
so sánh giá trị trung bình của các thông số liên
quan MUNE theo giới.

Giá trị trung bình

Bảng 3: Giá trị MUNE bình thường theo các tác giả.
Ghi
chú

Năm

IST

1971
1973

199 ± 60
198 ± 58

McComas
Sica và
(11)
McComas
(5)
Gooch
Ballantyne và
(7)
Hanse

1995
2003

210 ± 65
143 ± 73
(n=86)

206 ± 61

Ngưỡng chẩn đoán

Chúng tôi

2015

Biểu đồ phân bố giá trị MUNE theo
Shapiro-Wilk test cho thấy tất cả giá trị MUNE
của thần kinh mác sâu hai bên theo từng kỹ
thuật bị lệch phải. Chúng tôi chuyển biến
MUNE được chuyển sang định dạng natural
log và xác định ngưỡng chẩn đoán của MUNE
thần kinh mác sâu.

Kết quả MUNE được khảo sát bằng IST

So sánh hai kỹ thuật: Việc so sánh giá trị
trung bình của MUNE từng bên giữa hai kỹ
thuật cũng được tiến hành bằng phép kiểm
Student t-test bắt cặp. Kết quả cho thấy p = 0,342
khi so sánh ở chân phải và p = 0,168 khi so sánh
ở chântrái, không có ý nghĩa thống kê.

IST
MPS

Giới hạn dưới Trung bình


Phải
Trái
Phải
Trái

96,0
94,0
97,3
91,6

146,5
145,0
146,1
144,0

Giới hạn
trên
250,3
232,4
226,2
211,1

BÀN LUẬN
Đặc điểm dân số
Nghiên cứu đã tiến hành trên 82 người Việt
Nam tình nguyện khỏe mạnh vượt cỡ mẫu dự
kiến là 54 người.
Nhóm tuổi chiếm nhiều nhất là 30 – 49 tuổi
(40 người, chiếm 48,8%) và chỉ có 1 người trên 60
tuổi nên chúng tôi gọp chung nhóm với nhóm từ

50 – 59 tuổi khi phân tích kết quả. Tuổi trung
bình của nam (40 người) là 38,3 ± 10,8 tuổi (19 –
57 tuổi); tuổi trung bình của nữ (42 người) là 39,7

Thần kinh

(6,10)

McComas
(3)
Campbell

(7,9)

2014

MPS

< 60
tuổi

290 ± 171

AANEM

197 ± 49
145,7 ± 39
(n=82)

145,0 ± 37,2

(n=82)

trong nghiên cứu của chúng tôi là 145,7 ± 39
tương tự công bố của tác giả Sica và McComas
(2003) trong một nghiên cứu với cỡ mẫu là 86
người(11). Kết quả này cũng thấp hơn so với công
bố của tác giả McComas (1971)(10) và Campbell
(1973)(3). So với công bố của McComas (1995) và

Bảng 2: Ngưỡng chẩn đoán của MUNE.
Giá trị MUNE

Tác giả

khuyến cáo của Gooch (2014)(5) thì kết quả của
chúng tôi thấp hơn. Tuy nhiên, chính tác giả
McComas là người sáng lập ra phương pháp
MUNE kích thích tăng dần cũng có những công
bố về giá trị MUNE trên thần kinh mác sâu khác
nhau trong các nghiên cứu khác nhau(7,10,11).
Tương tự, giá trị MUNE trung bình theo
MPS trong nghiên cứu của chúng tôi là 145,0 ±
37,2,thấp hơn so với với công bố của các tác giả
Ballantyne và Hanse và khuyến cáo được đưa ra
bởi Gooch (2014)(5). Mặc dù giá trị trung bình của
chúng tôi thấp hơn công bố của Gooch (2014)
nhưng độ lệch chuẩn trong nghiên cứu của
chúng tôi là 37, thấp hơn so với công bố của
Gooch là 171. Do đó, nếu chọn cùng cách tính


143


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

ngưỡng dưới (ngưỡng bệnh lí) theo cách lấy giá
trị trung bình trừ hai lần độ lệch chuẩn thì giá trị
ngưỡng dưới của chúng tôi là 108, không khác

đã có nhiều tác giả ứng dụng kỹ thuật AMPS để
khảo sát MUNE ở cơ duỗi ngắn các ngón và thần
kinh mác sâu.

biệt nhiều khi so với tác giả Gooch là 119.

Ngưỡng chẩn đoán của MUNE

So sánh theo giới

Bảng 4: Ngưỡng chẩn đoán của MUNE.

Chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt về giá
trị MUNE có ý nghĩa thống kê khi so sánh giữa
nam và nữ, kể cả đối với kỹ thuật MUNE kích
thích tăng dần lẫn kỹ thuật MUNE kích thích
nhiều điểm.

So sánh theo nhóm tuổi

Nhiềutácgiảcũng so sánhgiátrị MUNE
theogiớivàtuổi(4,12). Chúng tôi tìm thấy sự khác
biệt về giá trị biên độ CMAP của thần kinh mác
sâu theo nhóm tuổi ở cả bên phải lẫn bên trái.
Chính sự khác biệt về biên độ CMAP và
mSMUP dẫn đến sự khác biệt về MUNE theo
nhóm tuổi. Nhận định này gần giống tác giả
Campbell (1973)(3) ghi nhận giá trị MUNE của
thần kinh mác sâu giảm ở nhóm tuổi > 60.
Tuy nhiên, cỡ mẫu của từng nhóm tuổi trong
nghiên cứu của chúng tôi khá nhỏ (20 người < 30
tuổi, 24 người 30 – 39 tuổi, 16 người 40 – 49 tuổi
và 22 người > 50 tuổi trong đó có 1 người thuộc
nhóm từ 60 tuổi trở lên) nên chúng tôi cũng
không so sánh được sự khác biệt về MUNE giữa
hai nhóm trên và dưới 60 tuổi như các tác giả.
Đồng thời, chúng tôi vẫn tiến hành tính giá trị
trung bình và ngưỡng chẩn đoán cho MUNE
trên toàn bộ nhóm nghiên cứu vì không đủ cỡ
mẫu để tính riêng từng nhóm tuổi.

So sánh MUNE theo bên phải và bên trái
Với IST, giá trị MUNE bên phải là 146,5 ±
39,5 bên trái là 145,0 ± 38,5. Với MPS,
giátrịMUNE bên phải là 146,1 ± 37,8 bên trái là
144,0 ± 6,5. Không có sự khác biệt khi so sánh hai
bên ở cả hai kỹ thuật. Chúng tôi chưa có tài liệu
tham khảo để so sánh kết quả này.

Tác giả

(8)
McComas
(1)
Adrian

Năm
1993
2003

Chúng tôi

2015

Ngưỡng
76 (n=58)
120
96 (n=82)
94 (n=82)
97 (n=82)
91 (n=82)

Kỹ thuật
IST
IST
IST bên phải
IST bên trái
MPS bên phải
MPS bên trái

Có rất nhiều nghiên cứu khảo sát giá trị

MUNE nhưng số báo cáo đưa ra ngưỡng chẩn
đoán bệnh của MUNE không nhiều. Chúng tôi
chỉ tìm thấy ngưỡng chẩn đoán cho kỹ thuật
MUNE kích thích tăng dần. Trong đó, tác giả
McComas (1993) đưa ra ngưỡng chẩn đoán là 76,
thấp hơn của chúng tôi lần lượt là 96 và 94 đối
với bên phải và bên trái(8). Tuy nhiên, tác giả
Adrian lại công bố một ngưỡng chẩn đoán cao
hơn là 120(1).
Chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu về ngưỡng
chẩn đoán cho kỹ thật MUNE kích thích
nhiều điểm.

KẾT LUẬN
Nghiên cứu đã xác định được giá trị trung
bình và ngưỡng chẩn đoán bệnh của MUNE trên
cơ duỗi các ngón chân ngắn hai bên bằng hai kỹ
thuật MUNE kích thích tăng dần và MUNE kích
thích nhiều điểm ở người Việt Nam trưởng
thành khỏe mạnh. Với kỹ thuật kích thích tăng
dần các giá trị này là lần lượt là: bên phải 146,5,9
± 39,5 và 96, bên trái 145,0 ± 38,5 và 94; và kỹ
thuật kích thích nhiều điểm lần lượt là: bên phải
146,1 ± 37,8 và 97,3, bên trái 144,0 ± 36,5 và 91,6.
Ngưỡng chẩn đoán bất thường của MUNE
trên cơ duỗi ngắn các ngón chân có giá trị
tham chiếu lần lượt là 94 đối với kỹ thuật kích

So sánh MUNE cơ hai kỹ thuật


thích tăng dần và 91 đối với kỹ thuật kích

Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
khi so sánh hai kỹ thuật MUNE với nhau. Nhận
định này giống nhận định của Bromberg(2). Cũng

thích nhiều điểm.

144

Đây là các giá trị có giá trị tham chiếu cho các
nghiên cứu tiếp theo về MUNE trên người Việt Nam.

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

Adrian RM, McComas AJ (2003). MUNE in the
ecletrodiagnotis clinic. Motor Unit Number Estimation
(MUNE) and Quantitative EMG by Bromberg M.B, Supplements
to Clinical Neurophysiology, Vol. 55, pp.267-274.

Bromberg MB (2006). Motor unit number estimation in
peripheral neuropathies. Preriperal Nerve Diseases Handbook of
Clinical Neurophysiologic by Kimura Jun, Elsevier, 7, pp.281-294.
Doherty TJ, Stashuk DW, Brown WF (2003). MUNE
measurement of age-related changes. Motor Unit Number
Estimation (MUNE) and Quantitative EMG by Bromberg M.B,
Supplements to Clinical Neurophysiology, Elsevier, Vol. 55,
pp.158-164.
Gawel M, Kostera-Pruszczyk A (2014). Effect of age and

gender on the number ofmotor units in healthy subjects
estimated by the multipoint incremental MUNEmethod.
5.

6.

J Clin Neurophysiol, 31(3), pp.272-278.
Gooch CL, Doherty TM, Chan KM, Bromberg M.B, Lewis R.A,
Stashuk D.W, Berger MJ, Andary MT, Daube JR (2014). Motor
unit number estimation: a technology and litearture review.
Muscle & Nerve, 50(6), pp.884 – 893.
Lawson VH (2003). Establishing normal MUNE values. Motor
Unit Number Estimation (MUNE) and Quantitative EMG by
Bromberg M.B, Supplements to Clinical Neurophysiology, Vol. 55,
pp.147-154.

Thần kinh

7.


8.

9.
10.

11.

12.

Nghiên cứu Y học

McComas AJ (1995). Motor unit estimation: Anxieties and
Achievements. Muscle & Nerve, John Wiley & Sons, 18, pp.369379.
McComas AJ, Galea V, Bruin HD(1993). Motor Unit
Populations in Healthy and Diseased Muscles. Phys ther, 73,
pp.868-877.
Nguyễn Hữu Công (2013). Chẩn đoán điện và ứng dụng lâm sàng.
NXB Đại học quốc gia Tp.HCM, tr.4-15, tr.21-32, tr.95-98.
Shefner JM, Gooch CL (2003). Motor unit number estimation.
Physical Medicine and Rehabiliation Clinics of North America, 14(2),
pp.243-260.
Sica R, McComas A (2003). Review of MUNE over 30 years.
Motor Unit Number Estimation (MUNE) and Quantitative
EMG by Bromberg M.B, Supplements to Clinical Neurophysiology,
Elsevier, Vol. 55, pp.3-14.
Yerdelen D, Koç F, Sarica Y (2006). The effects of gender and
age on motor unit number estimation in a normal population.
Acta Neurol Belg, 106(1), pp.5-8.

Ngày nhận bài báo:


18/11/2016

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

12/12/2016

Ngày bài báo được đăng:

01/03/2017

145



×