Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 31 trang )

Đề tài : Thực Trạng THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Mục lục :

Chương 1 : Tính cấp thiết của đề tài
1.1 Mục đích , đối tượng
1.2 Cơ sở lý luận

Chương 2 : Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán


2.1 . Chứng khoán và thị trường chứng khoán

2.1.1 Khái Niệm
2.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của cácTTCK trên thế giới:
2.1.3 Chức năng trò của TTCK ( lược bỏ bớt ý thừa , tóm gọn )


2.2 : Sự hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam

2.2.1 Tính tất yếu của việc hình thành thị trường chứng khoán Việt nam :
2.2.1.1 Do yêu cầu của nhà nước
2.2.1.2 Do yêu cầu của nền kinh tế
2.2.2 Sự phát triển của TTCK Việt Nam và vai trò đối với nền Kinh Tế :
2.2.2.1 Sự phát triển của TTCK VN
2.2.2.2 Vai trò với nền kinh tế
2.2.3 Thực trạng thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay :
2.2.3.1 TTCK Việt Nam còn yếu và đang trong giai đoạn phát triển
2.2.3.2 Các tác động ảnh hưởng đến Thị trường chứng khoán
2.2.3.3 Thị trường UPCOM , OTC thực trạng và hiệu quả mang lại
2.2.3.4 Vai trò của các quỹ đầu tư hiện nay và sự tác động đến TTCK VN



Chương 3: Những vấn đề còn tồn tại và hạn chế :

Độ tín nhiệm, bất cân xứng thông tin ,tính minh bạch còn thấp
Cơ sở hàng hóa chưa đa dạng
Chất lượng niêm yết phát hành , sử dung vốn chưa cao
Thị trường còn yếu , niềm tin nhà đâu tư thấp , nhiều biến động.
Số lượng các tổ chức kinh doanh CK không đi đôi với chất lượng
TTCK vẫn đang trong giai đoạn tái cấu trúc và xây dựng
3.6.1 Quá trình tái cấu trúc nền kinh tế , hệ thống tài chính .
3.6.2
Quá trình tái cấu trúc các công ty chứng khoán (CTCK)
3.7 Các hạn chế khác :
3.7.1
Bán khống (shortsell ) vẫn tràn lan

3.1
3.2
3.3
3.4
3.5
3.6


3.8

3.7.2 Cạnh tranh không lành mạnh giữa các MMs
Chưa có biện pháp bảo vệ nhà đầu tư

Phần III :Định hướng và giải pháp để phát triển thị trường

chứng khoán ở Việt Nam :

1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam
2. Giải pháp để khắc phục những hạn chế giải quyết vấn đề về hàng hoá trên thị

trường chứng khoán
3. Kết luận

Tài liệu tham khảo:
Nhóm có tham khảo tài liệu , thông tin kinh tế , tài chính , luật pháp phục vụ việc
nghiên cứu thực hiện đề tài tại một số trang sau :
- HTTP://Cafef.vn
- HTTP://Vietstock.vn
- HTTP://Gafin.vn
- HTTP://Vneconomy.vn
- HTTP://Vsd.vn
- HTTP://ssc.gov.vn
- HTTP://Hsx.vn
- HTTP://Hnx.vn


Phần I: Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán việt nam mới ra đời đầu năm 2000, vì vậy thuật ngữ ”thị
trường chứng khoán còn khá mới mẽ đối với công chúng việt nam.Trong khi đó ở nhiều
nước trên thế giới, thị trường chứng khoán đã ra đời rất lâu và phát triển rất sôi động.Đầu
tư vào thị trường chứng khoán đã trở nên rất quan trọng đối với mọi người.
để tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán thì mọi người phải có những hiểu biết và
kiến thức nhất định về thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán chỉ có thể phát
triển được khi có sự tham gia ngày càng đông , niềm tin về thị trường của những người
có đầy đủ kiến thức và hiểu biết về thị trường chứng khoán được nâng dần lên . Do đó

kiến thức của mọi người dân về thị trường chứng khoán việt nam cân được nâng cao.Thị
trường chứng khoán có sự hấp dẩn vốn có của nó. Nó không chỉ quan trọng đối với nến
kinh tế của một quốc gia, mà nó còn quan trọng hấp dẩn lôi cuốn mọi ngưởi bởi khả năng
đầu tư sinh lời của nó. Vì vậy tùy theo điều kiện và khả năng của mình phải thích ứng và
tiếp cận thật nhanh đễ tham gia đầu tư có hiệu quả vào thị trường chứng khoán. Chính
các hoạt đông này sẻ góp phần đưa thị trường chứng khoàn phát triển mạnh và góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước
1.Mục đích, đối tượng:
Lựa chọn chủ đề “thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam”, đề tài này đặt ra
3 nhiệm vụ:
Một, nghiên cứu một cách có hệ thống nền tảng của chứng khoán và thị trường
chứng khoán, phân tích từng bước sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam để
từ đó làm luận giải một cách khoa học những vấn đề lý luận và thực tiễn sự hình thành thị
trường chứng khoán Việt Nam
Hai, đánh giá thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam, từ đó đưa ra được
những vấn đề còn tồn đọng, yếu kém hay những tiềm năng của thị trường nhằm đưa ra
phướng hướng phát triển trong tương lai
Ba là đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những thiếu sót cũng như phát triển
những điểm mạnh để thị trường chứng khoán Việt Nam là kênh huy động vốn hiệu quả
cho doanh nghiệp cũng như kênh đầu tư tối ưu cho nhà đầu tư trong và ngoài nước.
2.Cơ sở lý luận :
Để hoàn thành đề tài này, ngoài các phương pháp nghiên cứu truyền thống (duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử, diễn dịch, quy nạp), đề tài còn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp mô hình hoá, phương
pháp kinh tế lượng....

Phần II: Những vấn đề cơ bản về thị trường
chứng khoán
Chương 1 : Chứng khoán và thị trường chứng khoán



1. Khái niệm :

Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của Thị trường vốn, hoạt động
của nó nhằm huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội tập trung thành
nguồn vốn lớn tài trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và Chính phủ để phát triển
sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu tư.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại
chứng khoán. Việc mua bán được tiến hành ở hai thị trường sơ cấp và thứ cấp. do vậy thị
trường chứng khoán là nơi chứng khoán được phát hành và trao đổi.
2. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên thế giới:

Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách tự phát và rất sơ khai, xuất
phát từ một sự cần thiết đơn lẻ của buổi ban đầu. Vào giữa thế kỷ 15 ở tại những thành
phố trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê
để trao đổi việc mua bán trao đổi các vật phẩm hàng hoá. Lúc đầu chỉ một nhóm nhỏ, dần
dần sau đó tăng dần và hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ 15, để thuận tiện hơn
cho việc làm ăn, khu chợ trở thành “thị trường” với việc họ thống nhất các quy ước và
dần dần các quy ước được sửa đổi hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc
chung cho mọi thành viên tham gia ” thị trường”.
Phiên chợ riêng đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ điếm của gia đình
Vanber ở Bruges Bỉ, tại đó có một bảng hiệu hình ba túi da với một tiếng Pháp là
“Bourse” tức là “mậu dịch thị trường” hay còn gọi là “Sở giao dịch”.
Vào năm 1547, thành phố ở Bruges Bỉ mất đi sự phồn thịnh do eo biển Even bị cát
lấp nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers Bỉ, ở đây
thị trường phát triển rất nhanh và giữa thế kỷ 16 một quan chức đại thần của Anh quốc đã
đến quan sát và về thiết lập một mậu dịch thị trường tại London Anh, nơi mà sau này
được gọi là Sở giao dịch chứng khoán London. Các mậu dịch thị trường khác cũng lần
lượt được thành lập tại Pháp, Đức và Bắc Âu.
Sự phát triển của thị trường ngày càng phát triển cả về lượng và chất với số thành

viên tham gia đông đảo và nhiều nội dung khác nhau. Vì vậy theo tính chất tự nhiên nó
lại được phân ra thành nhiều thị trường khác nhau như: Thị trường giao dịch hàng hoá,
thị trường hối đoái, thị trường giao dịch các hợp đồng tương lai và thị trường chứng
khoán… với đặc tính riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch của người tham
gia trong đó.
Quá trình các giao dịch chứng khoán diễn ra và hình thành như vậy một cách tự
phát cũng tương tự ở Pháp, Hà Lan, các nước Bắc Âu, các nước Tây Âu và Bắc Mỹ.
Các phương thức giao dịch ban đầu được diễn ra sơ khai ngay cả khi ở ngoài trời với
những ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Ở Mỹ cho đến
năm 1921, khu chợ này được chuyển từ ngoài trời vào trong nhà, Sở giao dịch chứng
khoán chính thức được thành lập.
Ngày nay, theo sự phát triển của công nghệ khoa học kỹ thuật, cácphương thức
giao dịch ở các Sở giao dịch chứng khoán cũng được cải tiến dần theo tốc độ và khối
lượng yêu cầu nhằm đem lại hiệu quả và chất lượng cho giao dịch, các Sở giao dịch đã


dần dần sử dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyền dần từ giao dịch thủ
công kết hợp \/ói máy vi tính sang sử dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử thay cho
thủ công trước kia.
Lịch sử phát triển các thị trường chứng khoán Thế giới trải qua một sự phát triển
thăng trầm lúc lên, lúc xuống, vào những năm 1875-1913, thị trường chứng khoán Thế
giới phát triển huy hoàng cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế Thế giới lúc đó, nhưng
rồi đến “ngày thứ năm đen tối ” tức ngày 29/10/1929 đã làm cho thị trường chứng khoán
Tây, Bắc Âu và Nhật bản khủng hoảng mất lòng tin. Cho mãi tới chiến tranh thế giới thứ
2 kết thúc, các thị trường chứng khoán cũng hồi phục dần và phát triển mạnh và rồi cho
đến năm 1987 một lần nữa đã làm cho các thị trường chứng khoán.
Thế giới điên đảo với “ngày thứ hai đen tối” do hệ thống thanh toán kém cỏi
không đảm đương được yêu cầu của giao dịch, sụt giá chứng khoán ghê gớm, mất lòng
tin và phản ứng dây chuyền mà hậu quả của nó còn nặng hơn cuộc khủng hoảng năm
1929. Theo quy luật tự nhiên, sau gần hai năm mất lòng tin, thị trường chứng khoán Thế

giới lại đi vào giai đoạn ổn định và phát triển đến ngày nay. Cứ mỗi lần khủng hoảng như
vậy, giá chứng khoán của tất cả các thị trường chứng khoán trên Thế giới sụt kinh khủng
tuy ở mỗi khu vực và mỗi nước ở những mức độ khác nhau gây ra sự ngừng trệ cho thị
trường chứng khoán toàn cầu và cũng ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế mỗi nước.
Cho đến nay, phần lớn các nước trên Thế giới đã có khoảng trên 160 Sở giao dịch
chứng khoán phân tán khắp các châu lục bao gồm cả các nước trong khu vực Đông nam
Á phát triển vào những năm 1960 -1970 vào ở các nước ở Đông Âu như Balan,
Hunggari, Séc, Nga, và Châu Á như Trung quốc vào những năm 1980 - đầu năm 1990.
Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên Thế giới cho thấy
thời gian đầu, thị trường hình thành một cách tự phát, đối tượng tham gia chủ yếu là các
nhà đầu cơ, dần dần về sau mới có sự tham gia ngày càng đông đảo của công chúng. Khi
thị trường bắt đầu xuất hiện sự trục trặc và bất ổn, chính phủ buộc phải can thiệp bằng
cách thành lập các cơ quan quản lý nhằm bảo vệ quyền lợi của công chúng đầu tư và sau
đó dần dần hệ thống pháp lý cũng bắt đầu được ban hành. Kinh nghiệm đối với những thị
trường mới hình thành về sau này cho thấy thị trường sau khi thiết lập chỉ có thể hoạt
động có hiệu quả, ổn định và nhanh chóng nếu có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt về
hàng hoá, luật pháp, con người, bộ máy quản lý và đặc biệt sự giám sát và quản lý
nghiêm ngặt của Nhà nước.
Có thể nói, Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính không thể thiếu
được trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường và nhất là những
nước đang phát triển đang cần thu hút luồng vốn lớn dài hạn cho nền kinh tế quốc dân.
3. Chức năng của thị trường chứng khoán bao gồm:

Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế:
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi
của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản
xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy


động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế,

phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng:
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội
lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời
hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả
năng, mục tiêu và sở thích của mình.
Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán:
Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành
tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một
trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho
thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu
quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao.
Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp:
Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách
tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp
được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản
phẩm.
Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô:
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và
chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng
trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh
tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng
giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có
thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và
quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp
tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền
kinh tế.
2.1 Thị trường sơ cấp
Là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn

từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các
chứng khoán mới phát hành.
2.2 Thị trường thứ cấp
Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp.Thị
trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.
2.3 Sở giao dịch chứng khoán
Sở Giao dịch Chứng khoán là một pháp nhân được thành lập theo quy định của
pháp luật thực hiện việc tổ chức giao dịch chứng khoán cho các chứng khoán của tổ chức
phát hành đủ điều kiện niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán.


Theo tính chất tổ chức thị trường, Sở Giao dịch Chứng khoán là thị trường chứng khoán
tập trung; trong đó việc giao dịch chứng khoán được thực hiện tại một địa điểm tập trung
là sàn giao dịch hay qua hệ thống mạng thông tin máy tính điện tử do các thành viên của
Sở Giao dịch Chứng khoán thực hiện. Các chứng khoán được giao dịch tại Sở Giao dịch
Chứng khoán thông thường là chứng khoán của các công ty có uy tín, công ty lớn đáp
ứng đủ điều kiện hay tiêu chuẩn niêm yết. Gồm các chức năng cơ bản:
• Cung cấp, đảm bảo cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc giao dịch chứng khoán (địa
điểm và hệ thống giao dịch). Đảm bảo việc giao dịch chứng khoán được diễn ra
thông suốt, đúng pháp luật và công khai kể cả giá cả.
• Tổ chức niêm yết và giám sát các chứng khoán niêm yết, các tổ chức niêm yết.
• Tổ chức và giám sát chặt chẽ quá trình giao dịch chứng khoán.
• Giám sát chặt chẽ những người tham dự vào quá trình giao dịch.
Trên thế giới có 3 hình thức sở hữu sở giao dịch chứng khoán phổ biến là sở hữu nhà
nước, thành viên và công ty cổ phần. Riêng ở Việt Nam, sở giao dịch chứng khoán là một
tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật (Luật chứng khoán và luật doanh
nghiệp Việt Nam).
2.4 Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Nhà phát hành:
Là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK dưới hình thức phát hành

các chứng khoán.
Nhà đầu tư:
Là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư có thể
được chia thành 2 loại:
-Nhà đầu tư cá nhân: là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên
TTCK với mục đích kiếm lời.
-Nhà đầu tư có tổ chức: là các định chế đầu tư thường xuyên mua bán chứng khoán với
số lượng lớn trên thị trường.
Các định chế này có thể tồn tại dưới các hình thức sau: công ty đầu tư, công ty bảo hiểm,
Quỹ lương hưu, công ty tài chính, ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán.
Các công ty chứng khoán:
Là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhận một
hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là môi giới, quản lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát
hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và tự doanh.
Các tổ chức có liên quan đến TTCK:
- Uỷ ban chứng khoán Nhà nước: là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản
lý nhà nước đối với TTCK ở Việt nam.
- Sở giao dịch chứng khoán: là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban hành những
quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở phù hợp với các quy
định của luật pháp và UBCK.
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán: là tổ chức phụ trợ, phục vụ các giao dịch chứng
khoán.


- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực
thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết
của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể.
2.5 Hàng hoá ở thị trường chứng khoán ( chi tiết)
Hàng hóa giao dịch trên Thị trường chứng khoán bao gồm: các cổ phiếu, trái
phiếu và một số công cụ tài chính khác có thời hạn trên 1 năm

2.6 Những nguyên tắc cơ bản về hoạt động của thị trường chứng khoán
Nguyên tắc cạnh tranh:
Theo nguyên tắc này, giá cả trên TTCK phản ánh quan hệ cung cầu về chứng
khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà
phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà
đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường
thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao
nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá.
Nguyên tắc công bằng:
Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những qui
định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình
thức xử phạt nếu vi phạm vào những qui định đó.
Nguyên tắc công khai:
Chứng khoán là loại hàng hoá trừu tượng nên TTCK phải được xây dựng trên cơ
sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải
cung cấp thông tin đầy đủ theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng, Sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên
quan.
Nguyên tắc trung gian:
Nguyên tắc này có nghĩa là các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua
tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư
không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị
trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán
mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua
việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình.
Nguyên tắc tập trung:
Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC
dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản.

Chương 2 : Sự hình thành thị trường chứng khoán tại Việt

Nam


A. / Tính tất yếu của việc hình thành thị trường chứng khoán
tại Việt Nam
1. Do yêu cầu phát triển của nền kinh tế :
Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán có tác động tích cực tới sự

phát triển của các quốc gia. Thực tế cho thấy thị trường chứng khoán đã thúc đẩy
phát triển kinh tế ở nhiều nước một cách có hiệu quả thông qua việc góp phần tạo ra vốn
khả dụng. Thực vậy, đa số các dự án đầu tư cần phải sử dụng vốn dài hạn thì mới đạt
hiệu quả cao trong khi các nhà tiết kiệm lại không muốn mất quyền kiểm soát món
tiết kiệm của họ trong thời gian dài. Thị trường chứng khoán hoạt động trôi chảy sẽ
cho phép khắc phục được mâu thuẫn này khiến cho các hoạt động đầu tư trên thị
trường hấp dẫn, thuận tiện và có lãi suất cao hơn so với gửi tiết kiệm vì người tiết
kiệm có thể mua một loại chứng khoán nào đó rồi lại đem bán một cách nhanh chóng ít
phí tổn khi cần tiền mặt hoặc để đầu tư vào một loại chứng khoán khác mà họ thích.
Việc trao đổi này diễn ra trên thị trường thứ cấp trong khi đó các doanh nghiệp vẫn
được sử dụng nguồn vốn dài hạn thường xuyên và ổn định. Như vậy, thông qua việc
tạo điều kiện thuận lợi cho các khoản đầu tư dài hạn phát triển, làm cho các khoản
đầu tư sinh lợi nhiều hơn mà thị trường chứng khoán khuyến khích được nhiều vốn
hơn vào nền kinh tế góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Thị trường
chứng khoán cũng hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng trong nhiều lĩnh vực. Về cơ bản,
thị trường chứng khoán bổ sung cho hệ thống ngân hàng trong việc cung cấp vốn vay
trung và dài hạn. Hệ thống ngân hàng với chức năng chủ yếu là "tạm ứng" vốn cho nền
kinh tế thông qua hoạt động tín dụng: Nhân tố tiền gửi của dân cư mà học nhân được
lên nhiều. Tiền được cho vay qua các hoạt động tín dụng cần được thu về. Tuy vậy
bao giờ cũng có phần vốn vay kém hiệu quả không thu hồi được vẫn nằm trong lưu
thông, làm cho mức gia tăng tiền tệ cao hơn tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Điều đó có nghĩa
là một lượng tiền tăng thêm không có lượng hàng hoá dịch vụ tăng theo tương ứng

ngày càng gây ra lạm phát trong nền kinh tế. Do vậy hệ thống ngân hàng chỉ có thể cấp
tín dụng trung và dài hạn cho nền kinh tế một cách hạn chế nếu không sẽ dẫn đến tình
trạng chuyển hoá vốn quá mức, không những đe doạ an toàn của các ngân hàng mà còn
gây nguy cơ lạm phát.
Trong bối cảnh đó, thị trường chứng khoán là nơi bổ sung nguồn vốn trung và
dài hạn quan trọng cho các khoản đầu tư phát triển. Trên thị trường sơ cấp vốn được
chuyển trực tiếp từ người có vốn sang người cần vốn thông qua việc phát hành lần
đầu các loại chứng khoán. Trên thị trường thứ cấp sau đó, chứng khoán đã phát
hành có tác dụng như "gây tiếp sức" để người đầu tư mới tiếp sức cho người đầu tư
cũng thông qua việc mua bán lại chứng khoán.
Như vậy thị trường chứng khoán hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng trong việc cấp
các khoản tín dụng trung và dài hạn góp phần làm giảm áp lực lạm phát, sự phân tích
ở trên đã chỉ ra rằng thị trường chứng khoán có vai trò tích cực
và không thể thiếu trong nền kinh tế. Thực tế cho thấy ở tất cả các nước có thị trường
chứng khoán, khi nền kinh tế thị trường ra đời thì chưa có thị trường chứng khoán.


Thị trường chứng khoán chỉ ra đời khi nền kinh tế thị trường đã phát triển ở mức độ
nhất định và đòi hỏi phải hình thành một tổ chức nào đó có khả năng tiếp thêm sức
mạnh cho thị trường - đó là thị trường chứng khoán với việc cung cấp vốn cho nền kinh
tế. Có thể nói nền kinh tế hàng hoá phát triển làm nảy sinh thị trường chứng khoán và
thị trường chứng khoán đến lượt nó lại tiếp thêm nguồn lực để thúc đẩy nền kinh tế
hàng hoá phát triển.
"Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, chủ yếu mới có hình thức giao lưu vốn giáp
tiếp nên chưa huy động và thu hút có hiệu quả tối ưu nguồn vốn còn khá tiềm tàng của
đất nước. Do đó, cùng với sự phát triển, hoàn thiện thị trường liên ngân hàng, nâng
cao trình độ giao lưu vốn gián tiếp, cần phải thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ hình thức
giao lưu vốn trực tiếp" .
Giao lưu vốn trực tiếp là hình thức giao lưu vốn chủ yếu thông qua phương thức
thu hút vốn bằng phát hành các phương tiện tín dụng, như trái phiếu, cổ phiếu. Phương

thức giao lưu vốn trực tiếp có nhiều ưu điểm nổi bật hơn phương thức giao lưu vốn
gián tiếp. Do vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay, cùng với việc hoàn thiện tổ chức
giao lưu vốn gián tiếp phải đồng thời phát triển mạnh giao lưu vốn trực tiếp nhằm
làm phong phú thị trường tiền vốn và đổi mới cơ chế giao lưu vốn theo hướng hiện
đại. Chỉ khi nào cả hai hình thức giao lưu vốn trên cùng tồn tại, phát triển và bổ sung
cho nhau thì thị trường tiền tệ - tín dụng mới từng bước được cải tiến, thị trường
chứng khoán mới xuất hiện và hoạt động có hiệu quả trong một thị trường tiền tệ tín dụng hoàn chỉnh, nhờ đó mà thu hút được mọi nguồn vốn tiềm tàng trong và ngoài
nước cho đầu tư phát triển.
2. Do yêu cầu của nhà nước :
Để hoàn thiện nhiệm vụ của mình nhà nước luôn phải chi tiêu mà nguồn thu chủ
yếu của nhà nước từ thuế thường không trang trải hết các hoạt động của nhà nước.
Nhà nước buộc phải vay vốn trong dân cư và các tổ chức tín dụng bằng cách phát
hành kỳ phiếu. Thị trường chứng khoán ra đời sẽ giúp cho quá trình phát hành này
được thuận lợi hơn.
Như ở phần trên em đã trình bày, thị trường chứng khoán cũng có tác động tích
cực trong việc giảm áp lực lạm phát. Đặc biệt từ năm 1993, nhà nước ta đã có chủ
trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tức là chuyển các doanh nghiệp quốc
doanh sang hình thức cổ phần. Quá trình này diễn ra còn chậm nếu thị trường chứng
khoán hình thành thì sẽ thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước diễn
ra nhanh hơn.
Nhu cầu về một thị trường chứng khoán tại Việt Nam ngày càng trở nên bức thiết
do những lý do mà em đã nêu trên nên chắc chắn trong tương lai gần Việt Nam sẽ có
một thị trường chứng khoán theo đúng ý nghĩa của nó để đáp ứng các nhu cầu của nền
kinh tế.

B. Sự phát triển của TTCK ở Việt Nam và vai trò với nền
kinh tế :
1. Sự phát triển của TTCK ở Việt Nam :



Thị trường chứng khoán tuy hoạt động 12 năm nhưng vẫn là ngành kinh doanh mới,
chứa đựng nhiều khó khăn, rủi ro. 12 năm nhìn lại, thị trường chứng khoán Việt Nam
đã thực sự có sự trưởng thành sau khi nỗ lực vượt qua nhiều gian khó, qua đó đạt
được những thành tựu đáng khích lệ.
Sự trưởng thành của thị trường được thể hiện sinh động qua nhiều con số. So với cách
đây 12 năm, quy mô thị trường hiện tăng trên 50 lần, vốn hoá năm đầu tiên dưới 1%
GDP, nhưng cuối năm 2011 đạt gần 27%. Khối lượng giao dịch cũng tăng 30- 40 lần so
với năm đầu tiên giao dịch. Công ty niêm yết trong năm đầu tiên thị trường hoạt động chỉ
hơn 10 doanh nghiệp, nay tăng lên gần 800 doanh nghiệp.
Huy động vốn thực sự là điểm đáng chú ý hơn cả, với gần 700.000 tỷ đồng huy
động cho nền kinh tế qua 12 năm, đỉnh cao là năm 2007 đạt 127.000 tỷ đồng. Luồng vốn
đầu tư gián tiếp nước ngoài có thời điểm cao nhất lên đến 12 tỷ USD, nay khoảng 6,7 tỷ
USD, góp phần cân bằng cán cân thanh toán, cũng như gia tăng sức hấp dẫn của môi
trường đầu tư Việt Nam trong con mắt nhà đầu tư quốc tế.
Các tổ chức kinh doanh chứng khoán đã có những bước phát triển về quy mô,
mạng lưới công nghệ và trở thành một tổ chức trung gian phục vụ cho hoạt động tư vấn,
cổ phần hóa kết nối cung cầu trên thị trường chứng khoán.
Về số lượng tài khoản nhà đầu tư cũng ngày một gia tăng, khi mới có thị trường
chứng khoán chỉ có khoảng 3.000 tài khoản, nhưng đến hiện nay đã có 1,2 triệu tài
khoản. Lượng vốn huy động qua thị trường, đặc biệt là từ khối nhà đầu tư nước ngoài đến
nay danh mục của khối này khoảng 8 tỷ USD.
Các tổ chức thị trường như Sở, Trung tâm Lưu ký cũng ngày càng phát triển, công
nghệ thông tin đã được cải thiện, nhiều dịch vụ, nghiệp vụ, sản phẩm mới cũng đã được
triển khai đảm bảo cho hoạt động thị trường được thông suốt, không xảy ra đổ vỡ. Khung
pháp lý cho thị trường cũng ngày càng được hoàn thiện và từng bước tiếp cận với tiêu
chuẩn quốc tế.
Kết quả này có được là bởi ngay từ đầu thị trường chứng khoán đã có cơ quan
quản lý, có hệ thống luật pháp điều chỉnh tương đối đồng bộ và đặc biệt là sự quan tâm
chỉ đạo của Chính phủ. Trong đó, có sự đóng góp quan trọng của nhà đầu tư, họ đã bền bỉ
tham gia thị trường ngay vào những thời điểm khó khăn nhất.

2. Vai trò của TTCK đối với nền kinh tế :
Thị trường chứng khoán đang đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh
tế các nước trên thế giới nói chung và việt nam nói riêng. Khi nền kinh tế hàng hóa thị
trường phát triển đến một mức độ nhất định sẻ cần đến thị trường chứng khoán để hổ trợ
cho quá trình phát triển.
TTCK là một thành phần quan trong của thị trường tài chính, là nơi mà mọi thành
phần kinh tế - xả hội có thể tham gia đầu tư một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt
động kinh doanh cảu doanh nghiệp, là nơi mà chính phủ có thể huy động vốn cho nhu cầu
đấu tư phát triển kinh tế. TTCK có thể xem là kênh dẩn vốn quan trọng chuyển vốn từ
khu vực tiết kiệm sang khu vực đầu tư, tăng cường minh bạch trong sản xuất kinh doanh,
góp phần phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng quản lý trong nền kinh tế.
Góp phần phát triển Thị Trường Tài Chính (TTTC)


Sự phát triển của TTCK đã đóng góp vào sự phát triển chung của TTTC Việt
Nam , là hệ thống các loại hình định chế như NHTM (NHTM Nhà nước, NHTMCP, ngân
hàng liên doanh…), công ty tài chính , công ty đầu tư tài chính, công ty chứng khoán..
Cho đến thời điểm giữa năm 2011, có thể nói, TTTC Việt Nam đã phát triển khá sâu rộng
và có sự hội nhập quốc tế. Số lượng các định chế tài chính đã tăng lên tới con số hàng
ngàn và tổng tài sản có gấp nhiều lần GDP Việt Nam.
TTCK là công cụ chỉ báo hữu hiệu cho nền kinh tế Việt Nam
Khi nền kinh tế phát triển tốt, công chúng đầu tư tin tưởng vào các doanh nghiệp khu
vực sản xuất, tin vào môi trường kinh doanh tốt... thì các dòng vốn sẽ chảy vào nền kinh
tế đó, do đó, giá chứng khoán sẽ cao, chỉ số chứng khoán sẽ tăng mạnh; và ngược lại,
TTCK sẽ giảm sút. Các diễn biến đó đã làm cho TTCK được coi là hàn thử biểu của nền
kinh tế và là chỉ báo quan trọng cho các nhà đầu tư và cho các nhà điều hành chính sách
có các điều chỉnh phù hợp. Đối với TTCK Việt Nam hiện nay, rõ ràng, khi giá chứng
khoán giảm liên tục, đang phản ánh tình hình kinh tế có biểu hiện mất cân đối: ít nhất là
lạm phát gia tăng, thâm hụt thương mại nhiều... hoạt động ngân sách và khu vực DNNN
yếu kém thất thoát nhiều.

TTCK tăng cường quản trị quản lý nền kinh tế vĩ mô và vi mô
TTCK Việt Nam góp phần tăng cường tính minh bạchquản trị điều hành kinh tế (vĩ mô)
và kinh doanh (vi mô). Đánh giá về đóng góp này, như đã nêu, các chỉ số chứng khoán
phản ánh rất nhanh tình hìnhkinh tế vĩ mô - phản ánh chất lượng, năng lực điều hành
kinh tế vĩ mô và cũng phản ánh chất lượng quản lý điều hành, kết quả kinh doanh của các
doanh nghiệp. Quá trình phát hành chứng khoán của Chính phủ (trái phiếu)và của doanh
nghiệp (cổ phiếu và trái phiếu công ty) và trong quá trình niêm yết cũng phải thực hiện
chế độ công bố thông tin hoạt động, tăng cường quản lý.
Tạo kênh huy động vốn đa dạng cho nền kinh tế, cho các doanh nghiệp
Số liệu về huy động vốn qua TTCK cho thấy, thị trường này đã cùng với hệ thống NHTM
tạo các kênh vốn đa dạng dài hạn và ngắn hạn cho nền kinh tế, mà nơi được hưởng lợi
trực tiếp là các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm trọng về vốn trung và dài hạn. Số liệu về
phát hành lần đầu (huy động vốn qua TTCK) ở Việt Nam vừa qua cho thấy TTCK đã có
tác động khơi thông vốn rất lớn cho TTTC Việt Nam và cũng như khơi thông dòng vốn từ
nước ngoài chảy vào Việt Nam.

C. Thực trạng thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay :
1. Thị trường chứng khoán Việt Nam còn yếu và đang trong giai đoạn phát triển :

Tổng quan 2 chỉ số VN Index và HNX Index :Trong 5 tháng đầu năm 2012, thị
trường chứng khoán Việt Nam đã có sự hồi phục với khoảng 20%. Tuy nhiên , sau nhiều
đợt điều chỉnh và cú sốc bán tháo “Bầu Kiên” ngày 21/8/2012 , thị trường đã đánh mất
thành quả tăng điểm từ đầu năm và đang trong giai đoạn lình xình , chưa rõ xu hướng
trên cả 2 sàn , thanh khoản sụt giảm mạnh .


VNINDEX đến 26/10/2012

HNXINDEX đến 26/10/2012
Theo nhóm , có thể xuất phát từ 4 nguyên nhân chính:

Thứ nhất, mặc dù kinh tế vĩ mô đã có nhiều cải thiện hơn, ngay báo cáo Chính phủ
cũng đã đề cập là kinh tế Việt Nam đã đi qua giai đoạn khó khăn nhất, lạm phát giảm,
thanh khoản ngân hàng có sự cải thiện, lãi suất có xu hướng giảm, dự trữ ngoại tệ tăng
lên. Nhưng đó chỉ là những mặt tích cực ,nền kinh tế nhìn chung vẫn còn rất nhiều mảng
tối , kinh tế vĩ mô vẫn còn rất nhiều khó khăn. Trong khi đó, diễn biến thị trường chứng


khoán còn phụ thuộc rất lớn vào thực trạng hoạt động của doanh nghiệp và dòng tiền.
Thực trạng doanh nghiệp lại cho thấy doanh nghiệp hiện vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn
đặc biệt là vấn đề hàng tồn kho, nợ xấu, đầu ra cho doanh nghiệp; chi phí lãi vay tăng; số
lượng doanh nghiệp niêm yết thua lỗ tăng hơn trước (cuối năm 2011 có 72 công ty thua
lỗ, quý I-2012 là 113 công ty và quý 2 dự báo số lượng này sẽ tăng lên), hơn 60 công ty
chứng khoán thua lỗ. Con số trên cho thấy nền tảng doanh nghiệp đang gặp nhiều khó
khăn hơn là thời điểm trước.
Thứ hai, tình hình quốc tế cũng đã tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đầu năm 2012 thì vấn đề
nợ châu Âu rất căng thẳng và đến tháng 6 này tiếp tục căng thẳng; dự báo tăng trưởng
toàn cầu cũng giảm; các chỉ số niềm tin, sản xuất tại Mỹ, châu Âu, Nhật Bản đều sụt
giảm...Diễn biến đó khiến cho dòng tiền cũng có sự điều chỉnh. Dòng tiền đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam 6 tháng qua thấp hơn nhiều nếu so với con số của năm 2011 (năm
2011 có 240 triệu USD, 2010 là 1 tỷ USD, trong khi 6 tháng khoảng 50-60 triệu USD).
Trong tháng 5 thì dòng tiền lại có xu hướng rút ra. Rõ ràng, khi kinh tế châu Âu và
toàn cầu có khó khăn thì tái cơ cấu lại danh mục đầu tư xảy ra và dòng tiền có sự điều
chỉnh, ảnh hưởng đến tâm lý thị trường. Gần đây thị trường không tăng mạnh như những
tháng đầu năm mà có xu hướng giảm, đi ngang. Điều này cũng là phù hợp với thực tế
đang diễn ra.
Thứ ba, lãi suất tuy giảm nhưng tiếp cận vốn ngân hàng khó khăn, tín dụng ra 6
tháng đầu năm ở mức thấp nên dòng tiền cho thị trường cũng còn những điểm hạn chế.
Chính phủ đã đề ra nhiều giải pháp cho vấn đề này nhưng các giải pháp cũng cần phải có
thời gian. Các biện pháp hỗ trợ thị trường cũng đã được đưa ra như xây dựng chỉ số, kéo
dài thời gian giao dịch, đưa lệnh thị trường vào, tính toán điều chỉnh biên độ để cải thiện

thanh khoản. Tuy nhiên, những biện pháp đó chỉ mang tính nghiệp vụ, kỹ thuật thôi còn
cái chính vẫn là nền tảng kinh tế vĩ mô.
Thứ tư , niềm tin vào thị trường đã bị sụt giảm một cách trầm trọng ,TTCK không
là sân chơi bình đẳng mà trở nên thiếu công bằng đối với các nhà đầu tư .
2. Các tác động ảnh hưởng đến TTCK :
Các yếu tố ảnh hưởng ngắn hạn:
Trong ngắn hạn, TTCK lên xuống do những sự kiện hàng ngày, các thông tin cập nhật về
doanh nghiệp , kể cả do những tin đồn gây nên. Trạng thái tâm lý trên thị trường cũng
góp phần khiến giá chứng khoán lên xuống. Đôi khi nhà đầu tư phản ánh một cách hốt
hoảng, thái quá, ngược với mọi logic thường nhật hay các luận cứ kinh tế. Điều này có
thể dẫn đến thị trường tăng giảm vô căn cứ.Một ví dụ rõ nhất là sự ảnh hưởng mạnh vào
ngày 21/8/2012 khi tin Bầu Kiên , một trong những nhân vật trong ngành tài chính bị
bắt , kéo theo đó TTCK bị một đợt bán tháo mạnh của các nhà đầu tư , bất kể cổ phiếu
tốt hay xấu đều giảm sàn hết biên độ .
Các yếu tố ảnh hưởng trung hạn:
Yếu tố lãi suất đóng vai trò quan trọng. Việc tăng hay giảm lãi suất của hệ thống tổ chức
tín dụng đôi khi còn phát huy tác dụng lên TTCK, vượt trước tác động vào nền kinh tế
một thời gian.
Tiền và tâm lý cũng là những yếu tố có tính quyết định đến xu hướng thị trường trong
trung hạn .Nếu chỉ có một trong hai yếu tố tích cực, còn yếu tố kia không có thì thị


trường vẫn chưa thể đi lên. Một khi tiền cộng với tâm lý phấn khích, TTCK sẽ theo xu
hướng đi lên, phát triển nhanh một cách bùng nổ.
Các yếu tố ảnh hưởng dài hạn :
Quá trình phát triển nền kinh tế , tình hình chính trị, các chính sách vĩ mô , chính sách tín
dụng, tiền tệ , tài khóa luôn rất quan trọng và tác động mạnh tới thị trường chứng
khoán .Quá trình kinh doanh của các ngành cũng như từng doanh nghiệp, triển vọng sinh
lời của chúng là những yếu tố ảnh hưởng tới TTCK trong một khoảng thời gian dài.Ngoài
ra, vấn đề đối nội, đối ngoại, chủ trương phát triển kinh tế của nhà nước ,, sự phát triển

thị trường bất động sản, thị trường vàng, thị trường tiền tệ,… cũng có ảnh hưởng trực tiếp
đến TTCK.
3. Thị trường UPCoM , OTC thực trạng và hiệu quả mang lại :
Thị Trường UPCOM :
Ngày 24/6/2009 , cùng với việc Sở Giao Dịch Chứng Khoán Hà Nội (HNX) chính
thức đi vào hoạt động , thị trường UPCom cũng bắt đầu mở cửa . Trong bối cảnh giao
dịch tự do bùng phát mạnh và tiềm ẩn rủi ro hệ thống , UPCom đã được xây dựng với
mục tiêu tăng cường thị trường có tổ chức và quản lý nhà nước . Bản chất sàn UPCom
là trạm trung chuyển của các cổ phiếu trước khi niêm yết tại sàn HNX và HOSE .

UPCoM áp dụng hai hình thức giao dịch là thỏa thuận thông thường và thỏa thuận
điện tử với mục tiêu biến các công ty chứng khoán trở thành các nhà tạo lập thị trường.
Đến tháng 7/2010, HNX đã thay đổi phương thức giao dịch trên thị trường UPCoM và
chuyển sang áp dụng 2 phương thức giao dịch là khớp lệnh liên tục và thỏa thuận, tương
tự như đối với thị trường cổ phiếu niêm yết. .Sau 3 năm ra đời , thị trường UPCoM có
hơn 130 doanh nghiệp đăng ký giao dịch .
Các thông tin liên quan đến báo cáo tài chính quý, năm của doanh nghiệp đều
không có, nên nhà đầu tư phải tự tìm kiếm và đó chính là điều nhà đầu tư cần phải cân
nhắc thật kỹ trước quyết định đầu tư dài hạn . Đây là thị trường tập dượt cho doanh


nghiệp về quản trị công ty, công bố thông tin, từng bước hạn chế phát triển, ngăn chặn
được nguy cơ lừa đảo, vỡ nợ trên thị trường tự do.
Thị Trường OTC :
Thị trường OTC hay còn gọi là thị trường phi tập trung, là thị trường được tổ chức
không dựa vào một mặt bằng giao dịch cố định như thị trường sàn giao dịch (thị trường
giao dịch tập trung), mà dựa vào một hệ thống vận hành theo cơ chế chào giá cạnh tranh
và thương lượng thông qua sự trợ giúp của các phương tiện thông tin. Thị trường OTC
không có một không gian giao dịch tập trung. Thị trường này thường được các CTCK
cùng nhau duy trì, việc giao dịch và thông tin được dựa vào hệ thống điện thoại và

Internet với sự trợ giúp của các thiết bị đầu cuối.
Hàng hoá của thị trường: là các loại cổ phiếu của các DN cổ phần, có triển vọng
phát triển, chuẩn bị niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung hoặc có những lợi thế
thương mại riêng biệt . Tính thanh khoản của các loại chứng khoán trên thị trường OTC
thường thấp hơn thị trường giao dịch tập trung, chứa đựng nhiều rủi ro hơn, song cũng có
thể đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Thị trường OTC mang nhiều rủi ro hơn cho nhà đầu tư
như: Tranh chấp , thiệt hại về quyền mua CP mới , thiệt hại tranh chấp về cổ tức , rủi ro
mua bán cổ phiếu chưa được chuyển nhượng , rủi ro trong giao dịch chuyển nhượng
quyền mua .
Thực trạng và hiệu quả mang lại :
Thị trường UPCoM , sân chơi an toàn đúng nghĩa ! UPCoM giúp ngăn chặn nguy
cơ lừa đảo, vỡ nợ trên thị trường tự do, tập cho doanh nghiệp cách thức quản trị công ty,
công bố thông tin trước khi niêm yết .
Thị trường UPCoM cần tiếp tục phát triển hơn nữa để thu hẹp thị trường tự doSự
hiện diện của thị trường UPCoM đã góp phần không nhỏ trong những thay đổi tích cực
của thị trường chứng khoán Việt Nam. Những chợ OTC tự phát gần như biến mất, quy
mô, mức độ hoạt động và tính chất phức tạp của thị trường tự do đã được kiểm soát. Tuy
nhiên, xu hướng niêm yết vẫn là lựa chọn chính và UPCoM chỉ là thứ yếu đối với đại bộ
phận doanh nghiệp.Bên cạnh đó, tín hiệu chưa thực sự mạnh mẽ, quyết liệt từ các cơ
quan quản lý và việc các công ty đại chúng vẫn hy vọng có phương án xây dựng thị
trường thứ tư cho chuyển nhượng cổ phiếu của cũng là một trở ngại cho UPCoM trong
hành trình ‘xóa sổ chợ OTC’.
4. Vai trò của các quỹ đầu tư hiện nay và sự tác động đến TTCK VN :
Hiện tại Việt Nam đang có 32 quỹ đầu tư tên tuổi đang ĐKKD và hoạt động ,
ngoài ra còn nhiều quỹ khác đang phân tích và tìm kiếm cơ hội tai . Mặc dù đã có mặt ở
Việt Nam từ khá lâu nhưng chỉ đến khi TTCK sôi động, các quỹ đầu tư, nhất là các quỹ
đầu tư nước ngoài mới ồ ạt đổ bộ vào Việt Nam . Lớn nhất hiện nay phải kể đến 3 quỹ
đầu tư trên TTCK: Dragon Capital, Vina Capital và Indochina Capital đang nắm giữ gần
4 tỷ USD.. Ngoài ra còn các quỹ đầu tư khác với số tương đối lớn là : VEIL (190 triệu
USD) và VGF (90 triệu USD) JF Vietnam Opportunities (100 triệu USD) , Mekong

Capital cũng đẩy mạnh đầu tư với số vốn 18.5 triệu USD của Mekong Enterprise Fund
vào các doanh nghiệp cổ phần . Việc 2 quỹ lớn của Dragon Capital là VEIL và VGF được
gia hạn hoạt động 2 đến 5 năm là một tín hiệu đáng mừng cho TTCK của chúng ta.


Danh mục đầu tư của 2 quỹ VEIL và VGF của Dragon Capital
Vai Trò to lớn của FII:
FII lại có tác động kích thích thị trường tài chính phát triển theo hướng nâng cao
hiệu quả hoạt động, mở rộng quy mô và tăng tính minh bạch, tạo điều kiện cho doanh
nghiệp trong nước dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn mới; nâng cao vai trò quản lý nhà
nước và chất lượng quản trị doanh nghiệp, có tác động thúc đẩy mạnh mẽ các mối quan
hệ kinh tế .Các doanh nghiệp Việt Nam đang trong quá trình cải cách và cổ phần hóa
nhằm gia tăng năng lực và hiệu quả cạnh tranh khi gia nhập WTO.
Cổ phần hóa phải đi đôi với việc hình thành các thị trường vốn, các kênh huy động
vốn (hạt nhân là thị trường chứng khoán (TTCK)). Các mối quan hệ kinh tế gia tăng,
dòng vốn lưu chuyển nhanh sẽ góp phần tạo ra các hiệu ứng tốt tác động đến các doanh
nghiệp. Vì lợi ích của hội nhập không những được đánh giá thông qua sự luân chuyển
(vào, ra) dễ dàng của dòng hàng hóa, dòng người mà còn có cả dòng vốn.Việc tham gia
của các nhà đầu tư FII sẽ có tác động mạnh mẽ đến thị trường tài chính, giúp cho thị
trường tài chính minh bạch và hoạt động hiệu quả hơn, xác lập giá trị thị trường của các
cổ phiếu niêm yết một cách chuyên nghiệp, giảm thiểu những dao động “phi thị trường”
và góp phần giải quyết một cách cơ bản các mối quan hệ kinh tế (vốn, công nghệ, quản
lý…).
Tại Việt Nam , cửa đã mở cho quỹ hoán đổi danh mục (ETF) , thay vì quỹ đóng
như trước đây . Với dự thảo “Thông tư hướng dẫn thành lập quỹ ETF , khung pháp ly cho
loại hình quỹ đầu tư mới , vốn đã và đang rất phát triển tại các thị trường chứng khoán
quốc tế trong hơn 10 năm qua , đang được cơ quan quản lý và các thành viên thị trường
xúc tiến rất tích cực . Khác với quỹ đóng , quỹ ETF mới chỉ cần hoán đổi chứng khoán cơ
cấu lấy chứng chỉ quỹ hoặc ngược lai , dẫn tới toàn bộ vốn huy động đều được đầu tư vào
chứng khoán, khác với quỹ đóng luôn cần phải duy trì một lượng tiền mặt nhất định .

ETF rất hữu ích , công dụng đầu tư của ETF rất đa dạng giúp cho việc xử lý vấn
đề nợ xấu của ngân hàng và các sở hữu chéo giữa các tập đoàn khá hiệu quả và đã từng
thành công ở Nhật Bản hơn 10 năm qua . Vì vậy có thể tin ETF sẽ mang lại giá trị gia


tăng cũng như sự phát triển tổng thể của thị trường chứng khoán Việt Nam trong tương
lai
Sự tác động đến TTCKVN , ETF- Chỉ báo thị trường :
Thực tế, đánh giá một cách chính xác ảnh hưởng của các quỹ đầu tư nước ngoài
đối với TTCK hiện tại là điều chưa thể thực hiện bởi chưa có số liệu chính xác về số
lượng và giá trị cổ phiếu mà họ sở hữu. Với cổ phiếu trên sàn, một cái nhìn bao quát cho
thấy tỷ lệ cổ phiếu do các quỹ đầu tư nắm giữ là không nhỏ, phần nhiều đều được sở hữu
từ 20 - 49%.

(Nguồn: Vietstock.vn)
Mỗi đợt cơ cấu danh mục của quỹ ETF vào mỗi quý sẽ gia tăng thanh khoản rất tốt
cho thị trường , nhưng sau khi các quỹ ETF ổn định danh mục thì sẽ là giai đoạn khó
khăn với nhiều nhà đầu tư bởi mất phương hướng . ETF thường đẩy giá cổ phiếu nhằm
làm đẹp báo cáo , thời điểm đó thường được các nhà đầu tư cá nhân cũng như tổ chức
thoát hàng , thoái vốn . Tuy nhiên phần lớn các quỹ đều tuyên bố họ đầu tư lâu dài và
cam kết nắm giữ cổ phiếu trong một thời gian nhất định với các doanh nghiệp mà họ sở
hữu trên 10% cổ phần.
Như vậy, ảnh hưởng của các quỹ đến cổ phiếu niêm yết là tương đối lớn . Nhiều
phiên, sự mua vào bán ra của các quỹ đã quyết định chiều hướng lên, xuống của thị
trường. Hiện tượng “xanh vỏ đỏ lòng“ cũng thường xuyên xảy ra trên thị trường khi thị
trường chuyển biến xấu nhằm giữ nhịp TT và giữ giá của một số CP chủ chốt vốn hóa lớn
như VNM , MSN ,BVH , VIC. Ngoài ra ,việc làm đẹp danh mục báo cáo, làm tăng giá trị
tài sản ròng (NAV , Net Asset Value) vào cuối năm của các quỹ thường là giai đoạn thị
trường được nâng đỡ nhất .


Chương III: Những vấn đề còn tồn tại và hạn chế :


1. Độ tín nhiệm, bất cân xứng thông tin ,tính minh bạch còn thấp :

Có lẽ chưa bao giờ chúng ta nói nhiều đến chuyện rò rỉ thông tin, chuyện cạnh
tranh thiếu lành mạnh... của một bộ phận tham gia thị trường chứng khoán như hiện nay.
Một quy chuẩn đạo đức tin cậy cho thị trường chứng khoán tại Việt Nam đang được giới
đầu tư mong đợi . Dường như luôn có những con sóng ngầm trước mỗi biến động của
bảng điện hàng ngày …
Rò rỉ thông tin được coi là một trong những vấn đề nguy hại nhất trên thị trường
chứng khoán. Nó thường bắt nguồn từ những người có trách nhiệm trong các công ty
niêm yết, công ty chứng khoán và cả nhân viên làm việc trên sàn chứng khoán . Không ít
người, đặc biệt là những người giữ trọng trách tại các công ty niêm yết, thông qua một
buổi tiệc , ăn nhậu có thế tiết lộ cho những nhà đầu tư quen biết , thân cận trên thị trường
chứng khoán về kế hoạch kinh doanh trong quí, tháng và cả những vấn đề nội bộ trong
doanh nghiệp chưa công bố. Hoặc khi các nhân viên của các công ty chứng khoán nắm
được thông tin trước các nhà đầu tư, họ có thể mua bán trước làm lợi cho cá nhân hoặc
báo cho người thân quen mua dưới nhiều hình thức (vì nhân viên công ty chứng khoán
không được phép mua bán ngắn hạn).
Đã có công ty chứng khoán vì mục đích lợi nhuận đã thổi phồng tình hình kinh
doanh của doanh nghiệp lên để phát hành cổ phiếu (IPO) giá cao. Sau đó bỏ mặc các nhà
đầu tư với những thua lỗ của doanh nghiệp đã phát hành cổ phiếu .Tính minh bạch của
các doanh nghiệp và cá nhân tham gia là sự sống còn của thị trường chứng khoán, nhưng
hiện nó đang bị coi nhẹ. Giới đầu tư cũng chỉ biết bất bình khi có công ty giải thích lý do
chậm nộp báo cáo quyết toán là “hỏng máy tính”.
Khi khi kết thúc năm 2012, Việt Nam sẽ bắt đầu các cam kết mở cửa thị trường
chứng khoán của mình khi gia nhập WTO , nhưng kệ thống các bộ luật về chứng khoán
vẫn chưa được hoàn thành . Ngoài ra, những lỗ hổng trong luật chứng khoán đã góm
phần làm tăng khó khăn trong khâu quản lý nhà nước, gây nên tình trạng lũng đoạn thị

trường của giới đầu cơ cũng như những nhóm người tham gia làm “giá” cổ phiếu , đội lái
…. làm giảm tính minh bạch và sự tín nhiệm của giới đầu tư trong lẫn ngoài nước . Ngoài
ra, hiện tượng các nhà đầu tư nước ngoài với tiềm lực vốn mạnh của mình mua ào ạt
nhằm đẩy giá lên cao sau đó lại rút ra đột ngột nên các loại bong bóng tài sản đã gây thiệt
hại không nhỏ đến những nhà đầu tư và cả đối với nền kinh tế của chúng ta . Tất cả
những điều trên đang làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng mất đi sự
“công bằng” vốn có của mình và biến thị trường thành sân chơi thiếu tính chuyên nghiệp
chỉ dành cho nhóm nhà đầu tư và đầu cơ có tiềm lực vốn mạnh .
2. Cơ sở hàng hóa chưa đa dạng :
Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn thiếu Thị trường phái sinh và các công
cụ của nó . Các nghiệp vụ tài chính phái sinh là sản phẩm tất yếu bởi sự phát triển sâu
rọng , đa dạng của thị trường tài chính , và thị trường chứng khoán không phải ngoại lệ .
Sự biến động khó lường của giá chứng khoán và các loại sản phẩm tài chính khác mang
lại rủi ro cho nhà đầu tư . Đa dang hóa sản phẩm của thị trường , thêm nhiều sản phẩm
phái sinh là điều cần thiết để thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển .


Thị trường chứng khoán là nơi giao dịch của nguồn vốn nói chung và các loại giấy
tờ có giá nói riêng. Tuy nhiên, tại Việt Nam, khi nhắc đến thị trường chứng khoán, những
nhà đầu tư mới bắt đầu tìm hiểu hay đã tham gia nhưng chưa tìm hiểu kĩ sẽ mặc định nghĩ
ngay rằng đây là nơi giao dịch cổ phiếu của các công ty cổ phần. Có thể nói nguyên nhân
của suy nghĩ này nằm ở việc thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn mới sơ khai, việc
đưa ra nhiều loại hàng hóa khác với cổ phiếu, trái phiếu sẽ gây loãng cho thị trường khi
mà chưa đánh giá hết nhu cầu của nhà đầu tư. Tất nhiên, việc đa dạng hàng hóa là việc
phải làm trong tương lai nhưng cần phải đánh giá hiệu quả của từng loại hàng hóa nhằm
đón đầu thị trường, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế chung đang gặp nhiều bất ổn. Việc
sở giao dịch chứng khoán Hà Nội dự kiến sẽ đưa vào giao dịch một sản phẩm phái sinh
đầu tiên trên thị trường chứng khoán Việt Nam là chứng chỉ quỹ ETF (mô phỏng chứng
chỉ quỹ ETF HNX 30-là loại quỹ cho phép nhà đầu tư nắm giữ danh mục tài sản cơ cấu
và giao dịch chứng chỉ quỹ trên sở giao dịch chứng khoán) là tín hiệu đáng mừng cho

việc đưa ra công chúng những sản phẩm mới khác trong tương lai.
Tuy nhiên, bên cạnh lộ trình xây dựng và thực hiện khá khẩn trương của từ các cơ
quan chức năng, thì phía các thành viên tham gia vào hoạt động giao dịch, như các công
ty quản lý quỹ đóng vai trò tổ chức phát hành, các công ty chứng khoán đảm nhận công
việc tổ chức lập quỹ, tổ chức môi giới, nhà tạo lập thanh khoản... lại chưa thấy có những
động tĩnh đón chờ cơ hội mới này. Việc nhà đầu tư có đón nhận ETF hay những sản phẩm
mới trong tương lai thế nào là điều khó đoán trước ,nhưng trong giai đoạn trầm lắng của
thị trường vốn hiện tại thì động thái này của sở giao dịch chứng khoán Hà Nội có thể xem
là bước thử nghiệm cho sự phát triển của thị trường vốn trong tương lai.
3. Chất lượng niêm yết phát hành , sử dụng vốn chưa cao:

Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam sụt giảm sâu và kéo dài không chỉ bởi tác
động từ khủng hoảng kinh tế thế giới, cộng với những khó khăn kinh tế trong nước. Các
nhà phân tích cho rằng, nguyên nhân còn nằm ở nội tại thị trường, trong đó có quy định
tiêu chí về chất lượng phát hành và niêm yết chứng khoán của các công ty chưa cao.
Nhận định này hoàn toàn có cơ sở, bởi theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
(UBCKNN) chỉ trong năm 2011, đã có 3 công ty bị hủy niêm yết do liên tiếp vi phạm
quy định về công bố thông tin. Bên cạnh đó, có 28 công ty bị đưa vào diện cảnh báo, 14
công ty trong diện bị kiểm soát, 3 công ty bị tạm ngừng giao dịch, 4 công ty bị cảnh cáo,
có 575 công ty bị nhắc nhở bằng văn bản cũng do vi phạm quy định về công bố thông tin.
Những con số trên cho thấy hành vi vi phạm này xem ra khá trầm trọng, và dường như
đang thách thức niềm tin của nhiều nhà đầu tư tham gia thị trường.
Hiện tại trên 2 sàn HXN và HOSE có hàng trăm mã chứng khoán dưới mệnh giá phát
hành , la liệt những cổ phiếu giá rẻ hơn bó rau , bó hành ngoài chợ như THV (900 đồng) ,
DDM ( 1500 đồng) , VIG ( 1800 đồng ) … Ngoài ra , một vài mã trụ cột trên HNX 30
đang ở mức giá quá thấp như DCS ( 3600 đồng ) , PVX (4700 đồng) ( Dữ liệu được lấy
giá đóng cửa ngày 19/10/2012 ) .


(Nguồn:vietstock.vn)

Nhìn vào chất lượng chứng khoán trên thị trường nhiều nhà đầu tư cũng không còn
mặn mà lắm bởi ngay cả cơ quan quản lý cũng tỏ ra bo quan khi cho rằng, số lượng
chứng khoán nhiều nhưng chất lượng còn thấp. Đa số các công ty niêm yết là những công
ty vừa và nhỏ. Trong hơn 700 công ty đăng kỳ niêm yết thì có hơn 342 công ty có vốn
điều lệ dưới 100 tỷ đồng. Chưa kể hiệu quả hoạt động chưa cao, năng lực quản lý và tính
minh bạch còn nhiều bất cập
Việc giá của cổ phiếu quá thấp cũng thể hiện phần nào kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp , những doanh nghiệp này thua lỗ quá nhiều , thậm chí âm cả VCSH .Một phần
nguyên nhân đến từ khó khăn chung của nền kinh tế nhưng một phần cũng đến từ nội tại
của doanh nghiệp . Rất nhiều cổ phiếu thuộc loại này đến từ sàn HNX chứng tỏ chất
lượng niêm yết trên sàn Hà Nội vẫn còn rất thấp , chủ yếu cho các doanh nghiệp vốn hóa
vừa và nhỏ . Vì vậy đề án sáp nhập 2 sàn HNX và HOSE đang được đưa ra , đồng thời
việc nâng chuẩn niêm yết của tổ chức phát hành đang được nghiên cứu sẽ giúp cải thiện
được tình hình .
4. Thị trường còn yếu , niềm tin nhà đầu tư thấp , nhiều biến động:

Thi trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu hình thành từ năm 2000, qua suốt 12
năm phát triển, những biến động không ngừng của thị trường đã phần nào cho thấy sự tác
động từ yếu tố tâm lý nhà đầu tư là khá lớn. Khi thông tin ngày càng dễ tiếp cận bởi sự
phát triển của công nghệ thì càng nhiều nhà đầu tư bị ảnh hưởng bởi lượng thông tin đến
quyết định đầu tư của mình. Tất nhiên, tâm lý là yếu tố quyết định đến việc mua hay bán
của nhà đầu tư. Nếu ở các thị trường chứng khoán lớn trên thế giới, khi nhận được thông
tin có thể ảnh hưởng đến lợi ích của bản thân thì tự mỗi nhà đầu tư sẽ suy xét đến tương
lai hơn là những gì thông tin đó tác động đến hiện tại. Riêng ở Việt Nam, điều này gần
như trái ngược. Khi có bất cứ thông tin xấu nào được đưa ra, nhà đầu tư rất nhanh chóng
tiếp nhận thông tin đó và dường như ngay lập tức bán tháo ngay để phòng ngừa rủi ro cổ
phiếu đó có thể mất giá hơn nữa .
Một nhà đầu tư bán tháo sẽ không ảnh hưởng lớn đến thị trường nhưng hàng loạt
những nhà đầu tư khác sẽ không muốn mình là người chịu thiệt sẽ tiếp tục bán số lượng
cổ phiếu mình nắm giữ khiến thị trường mất điểm. Trong thời gian dài sẽ ảnh hưởng

không chỉ đến sự phục hồi trong hiện tại mà còn đến sự phát triển trong tương lai của thị
trường chứng khoán Việt Nam.


Ảnh :VNINDEX trải qua đợt bán tháo chưa từng có vào ngày 21/8/2012
Tiêu biểu là chuỗi ngày đen tối của cả 2 sàn vào ngày 21/ 8 khi tin bầu Kiên (một
nhân vật có ảnh hưởng lớn trong giới ngân hàng ) bị bắt . Việc lo ngại còn nhiều bất ổn
sâu xa trong hệ thống tài chính sau thông tin trên khiến các nhà đầu tư bán tháo hàng
loạt . Hàng loạt cổ phiếu lớn nhỏ nằm sàn , không phân biệt tốt xấu , ảnh hưởng nghiêm
trong tới niềm tin của nhà đầu tư , giá trị thương hiệu của các công ty ….Tổng vốn hóa
thị trường của cả 2 sàn (market cap) theo thống kê của Vietstock đã bị mất tới 5.62 tỷ
USD chỉ trong vòng 3 ngày . Kéo theo đó là chuỗi ngày giảm điểm , lình xình của TT
chứng khoán trong nước . Việc thị trường chứng khoán bất ổn với mức giảm điểm quá
lớn như vậy là một nỗi lo cho thị trường tài chính của chúng ta , mất đi sự hấp dẫn đới
với các nhà đầu tư trong lẫn ngoài nước . Chính đợt sụp đổ của 2 sàn vừa quá đã thể hiện
phần nào hiện trạng của thị trường tài chính nước ta . Đồng thời phản ánh được thực
trạng nền kinh tế còn đang gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn hiện nay, vi mô lẫn vĩ
mô . Sự kém vững chắc của hệ thống tài chính và yếu kém trong cách điều hành của nhà
quản lý , nhất là Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước khi không có động thái kịp thời ngăn
chặn , củng cố niềm tin của nhà đầu tư , để TTCK mất điểm với biên độ quá lớn như vậy
trong một thời gian quá ngắn .


5. Số lượng các tổ chức kinh doanh CK không đi đôi với chất lượng :

Thời gian qua, những quy định về điều kiện cấp phép thành lập công ty chứng
khoán, công ty quản lý quỹ quá dễ dàng dẫn đến số lượng các công ty này ra đời ồ ạt, lên
tới 105 công ty , dường như vượt quá quy mô của toàn thị trường . Trong đó có không ít
các công ty quy mô nhỏ, năng lực quản lý yếu kém, gặp nhiều khó khăn khi thị trường có
biến động, làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của thị trường vốn Việt Nam .

Top thị phần mô giới tai sàn Thành Phố Hồ Chí Minh (HOSE) quý 3/2012

(Nguồn: Hsx.vn)
Top thị phần mô giới tại sàn Hà Nội (HNX) quý 3/2012

(Nguồn: Hnx.vn)
Gần giống như HNX ,với việc thị phần của 10 công ty mô giới top đầu trên HOSE
chiếm gần 60% thị phần thị trường , miếng bánh 40% còn lại là quá nhỏ cho hàng chục
công ty chứng khoán còn lại . Trong khi đó thanh khoản của toàn thị trường đang có dấu
hiệu yếu dần đi so với đầu năm và chưa có dấu hiệu được cải thiện . Việc phải gánh một
khoản chi phí hoạt động lớn cùng các khoản tự doanh không mang lại hiệu quả thì việc
thua lỗ của nhiều công ty chứng khoán là điều có thể được dự đoán được qua mỗi quý .
Có thể nói, năm 2012 là năm không thực sự tốt đối với các công ty chứng khoán
Việt Nam khi từ đầu năm, hàng loạt những công ty lớn đã phải đưa ra các báo cáo tài
chính với lợi nhuận âm hàng chục tỷ đồng. Đơn cử như cổ phiếu của SBS (Chứng khoán


Sacombank) rơi vào diện kiểm soát từ 23/7/2012 do lợi nhuận chưa phân phối của SBS
bị âm 1.424,14 tỷ đồng, vượt quá vốn đầu tư chủ sở hữu (tính đến 31/3/2012) và tình hình
tài chính chưa được giải trình đầy đủ.
Tương tự, chứng khoán Golden Bridge Việt Nam (GBS), SBS đã bị ủy ban chứng
khoán Nhà nước xử phạt 30 triệu đồng do chậm nộp Báo cáo tài chính kiểm toán năm
2011 và chậm nộp báo cáo tài chính quý I/2012. Năm 2011, SBS lỗ 788 tỉ đồng, trở thành
quán quân thua lỗ trên thị trường chứng khoán, trong khi chỉ 1 năm về trước, công ty này
vẫn ghi nhận lãi 101 tỉ đồng. Từ vị trí thứ 3, SBS bị rơi khỏi Top 10 môi giới chứng
khoán tại HNX. Đây chỉ là 2 trong hàng loạt các công ty chứng khoán có tình hình kinh
doanh không thuận lợi chỉ tính riêng trong năm 2012. Thực tế này đã phần nào cho thấy
sự phức tạp trong công tác tái cơ cấu Thị trường chứng khoán Việt Nam. Tuy nhiên,
nghịch lý là mặc dù kinh doanh không hiệu quả và lỗ liên tiếp nhưng các công ty chứng
khoán này vẫn không bị bắt buộc hủy niêm yết hay tuyên bố phá sản.

Mặt khác, trong giai đoạn đầu năm 2012, hàng loạt người điều hành của các công
ty chứng khoán lớn bị buộc thôi việc hay bị điều tra vì những sai phạm trong công tác
quản lý đã phần nào khiến nhà đầu tư mất thêm niềm tin đối với thị trường. Vậy nguyên
nhân do đâu các công ty chứng khoán này vẫn cố sức tồn tại bất chấp những khoản lỗ
hàng chục, thậm chí hàng trăm tỷ đồng. Có thể liệt kê 3 nguyên nhân chủ yếu như sau :
• Thứ nhất : Do việc xin giấy phép thành lập , hoạt động , tạo dựng thương hiệu
với công ty chứng khoán hiện nay khó khăn , tốn nhiều tâm huyết , tiền bạc
nên các công ty trên vẫn cố gắng giữ hoạt động , chờ đợi cơ hội từ sự đi lên của
thị trường chung .
• Thứ hai : Ngân hàng đầu tư là một lĩnh vực còn mới , nhiều tiềm năng phát
triển tại Việt Nam . Nhưng hiện tại , vẫn chưa có quy định cho phép các ngân
hàng thương mại hoạt động trên lĩnh vực này . Vì vậy việc thành lập các công
ty chứng khoán ( Ngân hàng mẹ làm cổ đông lớn ) để hoạt động trên lĩnh vực
này là điều cần thiết . Do đó dù có thua lỗ , nhưng ngân hàng mẹ vẫn muốn giữ
lại sự hoạt động của các CTCK này , điển hình là SBS .
• Thứ ba: Có thể công ty chứng khoán muốn phá sản nhưng không được (nhóm)
cổ đông lớn đồng ý.
Còn đứng về phía ủy ban chứng khoán thì có thể thấy nếu bắt buộc các công ty
chứng khoán này đóng cửa mà không xem xét đến những vấn đề xảy ra phía sau sẽ dễ
gây ra ảnh hưởng đến nhà đầu tư, đặc biệt trong giai đoạn nhạy cảm hiện tại khi mà thị
trường đang cố gắng phục hồi và bất cứ những quyết định sai lầm nào cũng có thể gây ra
hậu quả không mong muốn.
6. TTCK vẫn đang trên giai đoạn tái cấu trúc và xây dựng :
Quá trình tái cấu trúc nền kinh tế :
Một vấn đề khác được Chính phủ quyết tâm cao độ đó là tái cấu trúc nền kinh tế.
Trọng tâm của tiến trình tái cấu trúc là tái cơ cấu đầu tư công, sao cho đầu tư công đạt
hiệu quả và giảm dần bội chi. Đi kèm là nâng cao hiệu quả đầu tư công, phải có cơ chế
chính sách huy động các nguồn lực khác để nền kinh tế đạt hiệu quả cao hơn. Thứ hai, tập
trung tái cơ cấu DNNN để DNNN làm tốt vai trò định hướng thị trường, làm tốt hơn
nhiệm vụ so với nguồn lực được đầu tư, đạt hiệu quả cao hơn.



Ngoài những khó khăn kiềm chế lạm phát dưới 9% trong năm 2012 thì vấn đề
giảm bội chi ngân sách cũng đang rất được quan tâm. Thực tế năm 2011, Chính phủ đặt
mục tiêu giảm bội chi xuống còn 5,3% GDP. Nhưng thực tế, tỷ lệ này đã được kiểm soát
ở mức 4,9%. Năm 2012, nhiệm vụ là đưa mục tiêu giảm bội chi xuống 4,8%. Chính vì
vậy, Chính phủ sẽ phải tiếp tục cắt giảm đầu tư công. Ngân sách dành cho đầu tư công
năm tới là 180 ngàn tỷ đồng. Đồng thời cũng cần tranh thủ thêm các nguồn khác từ bên
ngoài để bù đắp.
Quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng , xử lý nợ xấu còn chậm chạp :
Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng , tài chính là một trong những vấn đề quan trong
và nhức nhối hiện nay . Việc hệ thống ngân hàng quá yếu , thanh khoản gặp khó khăn ở
một số ngân hàng nhỏ đang là vấn đề rất nhức nhối . Nợ xấu cũng là một trong những vấn
đề nhức nhối . Nợ xấu trên của các ngân hàng và cả nền kinh tế dường như tăng lên mỗi
ngày và vẫn chưa có những chính sách cụ thể của chính phủ nhằm giải quyết vấn đề này .
Cục máu nợ xấu còn tồn đọng sẽ gây nên lãng phí rất lớn đối với nền kinh tế , khi mà
chúng ta vẫn đang cần rất nhiều nguồn lực để hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng và phát triển .

Ảnh : Mạng nhện sở hữu chéo giữa các ngân hàng (Nguồn : Vneconomy.vn)


×