Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Y học: Tỉ lệ và yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay của nhân viên y tế tại quận 5 thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.84 KB, 27 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG THỊ NGỌC BÍCH

TỈ LỆ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN
BỆNH CHÀM TAY CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ
TẠI QUẬN 5 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Dịch tễ học
Mã số: 62720117

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2019


2

Công trình được hoàn thành tại:
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐỖ VĂN DŨNG

Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:



Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
vào hồi ……. giờ………. ngày……. tháng……. năm ……….

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Khoa học Tổng hợp TPHCM
- Thư viện Đại học Y Dược TP.HCM


1

GIỚI THIỆU LUẬN ÁN
1. Đặt vấn đề
Bệnh chàm tay là một bệnh da nghề nghiệp phổ biến trên thế
giới: chiếm trên 50% bệnh da nghề nghiệp ở Liên Xô cũ, chiếm tỉ lệ từ
9% - 35% bệnh da nghề nghiệp tại Mỹ, chiếm đa số trong bệnh da nghề
nghiệp ở Đan Mạch năm 2012.
Bệnh chàm tay để lại các hậu quả to lớn về mặt kinh tế: đã có
những người lao động phải nghỉ việc từ 1 - 4 tuần hoặc chuyển nghề
do bệnh. Theo Mathias, chỉ riêng tại Mỹ, chi phí cho các vấn đề liên
quan đến bệnh chàm tay ước lượng từ 222 triệu đến 1 tỉ USD mỗi năm.
Nhân viên y tế (NVYT) thuộc nhóm đối tượng có nguy cơ cao
mắc bệnh chàm tay, do công việc của họ phải dùng bàn tay tiếp xúc
với nước nhiều lần trong ngày, ngoài ra họ còn tiếp xúc với nhiều dị
ứng nguyên gây chàm tay như: dung dịch sát khuẩn, cồn I-ốt, bột talc
trong găng tay, điều này cho thấy họ tiếp xúc với nhiều dị ứng nguyên
gây chàm tay hơn các nghề khác.
Ở nước ta, tỉ lệ bệnh chàm tay trong dân số chung và ở đối tượng

nghề nghiệp có nguy cơ cao vẫn chưa được xác định. Để xác định mức
độ của bệnh chàm tay ở đối tượng nghề nghiệp là nhân viên y tế, cùng
với đi tìm những chứng cứ để có thể đưa bệnh chàm tay vào danh mục
bệnh nghề nghiệp cần được bảo hiểm, đề tài “Tỉ lệ và yếu tố liên quan
đến bệnh chàm tay của nhân viên y tế tại quận 5 thành phố Hồ Chí
Minh” được thực hiện với những mục tiêu sau đây:
(1) Xác định tỉ lệ hiện mắc và đặc điểm (thực trạng) bệnh chàm
tay của nhân viên y tế đang làm việc trong các bệnh viện công lập tại
quận 5 thành phố Hồ Chí Minh năm 2013.
(2) Xác định các yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay như: cơ địa
dị ứng, nhóm tuổi nghề, mức độ rửa tay, vị trí công tác.


2

(3) Xác định hiệu quả của can thiệp bằng truyền thông giáo dục
sức khỏe trong phòng ngừa bệnh chàm tay của nhân viên y tế.
2. Tính cấp thiết của đề tài
Bệnh chàm tay gây ra tác hại rất nhiều, đã có người lao động
phải nghỉ việc từ 1 - 4 tuần hoặc chuyển nghề. Làm nghề y mà phải
chuyển nghề là một thiệt hại cho xã hội (người bệnh, ngành y) vì nghề
y là một nghề nghiệp được đào tạo lâu dài, kinh nghiệm được đúc kết
trong quá trình làm việc. Ở nước ta, cho đến hiện nay, bệnh chàm tay
vẫn chưa được đưa vào danh mục bệnh nghề nghiệp. Do vậy đề tài có
tính cần thiết quan trọng và thực tiễn, giúp các nhà quản lý biết được
mức độ của bệnh chàm tay và có thêm những luận điểm, chứng cứ để
đưa bệnh chàm tay vào danh mục bệnh nghề nghiệp.
3. Những đóng góp mới của luận án
Luận án đã xác định được tỉ lệ hiện mắc thời khoảng 1 năm bệnh
chàm tay của nhân viên y tế tại quận 5 thành phố Hồ Chí Minh năm

2013 là 15,6%. Các yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay của nhân viên
y tế gồm: cơ địa dị ứng, nhóm tuổi nghề (≥5 năm), số lần rửa tay (>5
lần) và vị trí công tác (bác sỹ khối ngoại). Truyền thông giáo dục sức
khỏe giúp nâng cao kiến thức phòng bệnh và tăng cường hành vi phòng
ngừa bệnh (hành vi đeo găng tay và dùng kem dưỡng da tay).
4. Bố cục luận án
Luận án dày 117 trang không kể phụ lục và tài liệu tham khảo;
gồm 4 chương; 37 bảng; 12 hình; 1 biểu đồ; 1 sơ đồ; 121 tài liệu tham
khảo (25 tài liệu tiếng Việt; 96 tài liệu tiếng Anh) và phụ lục. Bố cục
luận án gồm: đặt vấn đề: 2 trang; tổng quan tài liệu: 37 trang; đối tượng
và phương pháp nghiên cứu: 20 trang; kết quả: 21 trang; bàn luận: 35
trang; kết luận: 1 trang; kiến nghị: 1 trang và 3 bài báo có nội dung liên
quan với luận án đã được công bố.


3

1. CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sơ lược về bệnh nghề nghiệp và bệnh da nghề nghiệp
Bệnh nghề nghiệp là những bệnh phát sinh do điều kiện lao động
có hại của nghề nghiệp tác động đến người lao động. Ở nước ta, Bộ
Lao Động-Thương Binh và Xã Hội đã chia bệnh nghề nghiệp được bảo
hiểm thành 5 nhóm, trong đó bệnh da nghề nghiệp được xếp riêng
thành 1 nhóm (hiện tại có 4 bệnh được bảo hiểm). Bệnh da nghề nghiệp
gặp ở mọi ngành nghề từ công nghiệp, nông lâm ngư nghiệp đến các
ngành dịch vụ (y tế), thể thao. Bệnh da nghề nghiệp được xếp theo 4
loại căn nguyên sau: cơ học, lý học, hóa học, sinh học. Thường gặp
nhất là do chất hóa học, chiếm tỉ lệ 90%.
1.2. Đại cương về bệnh chàm tay
Bệnh chàm tay là một dạng của bệnh chàm, liên quan đến các

ngón tay và lòng bàn tay. Bệnh thường ảnh hưởng cả hai bàn tay. Phần
lớn có khởi đầu là khô da tay, tay trở nên sần sùi, tróc vảy, viêm đỏ và
sau đó là nứt da tay. Bệnh chàm tay có 5 dạng lâm sàng chính (bảng
1.1)
Bảng 1.1. Các dạng lâm sàng của bệnh chàm tay
Phân loại

Đặc điểm lâm sàng

Kích ứng

Mọi vị trí

Cơ chế

Chẩn đoán

Hiệu ứng gây Bằng cách loại
hại trực tiếp trừ
không

đặc

hiệu
Dị ứng

Thể tạng

Mặt lưng bị nhiều Hiện
hơn mặt lòng bàn tay

Có thể lan đến cổ tay.
Có thể bị từ nhỏ.

tượng

quá mẫn muộn

Làm Patch test
Dựa vào bệnh

Không rõ

sử và đặc điểm
lâm sàng


4

Phân loại

Đặc điểm lâm sàng
Mụn

Tổ đỉa

nước,

Cơ chế

bóng


Dựa vào đặc

nước ở lòng bàn tay Không rõ

điểm lâm sàng

và rìa ngón tay
Tăng
sừng

Chẩn đoán

Mảng dày sừng ở

Dựa vào đặc

lòng bàn tay > mặt Không rõ

điểm lâm sàng

lưng tay

Chàm tay có thể trầm trọng hơn hoặc/và có thể khởi phát do một
số yếu tố chính như sau: tiếp xúc với các hóa chất gây kích ứng da như:
xà bông, dầu gội đầu, dầu xả, các hóa chất tẩy rửa và vệ sinh nhà cửa,
chất dung môi, xi-măng, dầu mỡ…
1.3. Bệnh chàm tay của nhân viên y tế qua các nghiên cứu
1.3.1. Tỉ lệ hiên mắc bệnh chàm tay của NVYT
Có nhiều nghiên cứu về tỉ lệ mắc bệnh chàm tay liên quan đến

nghề y, đối tượng nghiên cứu bao gồm: nhân viên y tế, điều dưỡng,
bác sỹ hoặc sinh viên điều dưỡng. Các nghiên cứu về đề tài này được
thực hiện với bộ câu hỏi, hoặc vừa sử dụng bộ câu hỏi vừa khám lâm
sàng (khám da tay).
Bảng 1.2. Tỉ lệ hiện mắc bệnh chàm tay của nhân viên y tế qua y văn
Đối tượng
Quốc gia
Cỡ mẫu
% hồi đáp
% bệnh
nghiên cứu
NVYT
Hà Lan
1232
56,9
12
(2013)
Đan
NVYT
3181
71
21
Mạch
(2009)
Trung
ĐD (2004)
214
96,3
18,3
Quốc

BS (2005)
361
79,2
12,9
Nhật Bản

ĐD (2003)

363

84

35


5

Quốc gia

Úc
Hàn
Quốc

Đối tượng
nghiên cứu
ĐD (2006)
BS (2004)
SVĐD
(2004)
ĐD (2005)

SVĐD
(2006)

Cỡ mẫu

% hồi đáp

% bệnh

1162
895
232

74
34,3
85,9

53,3
25,1
18,5

262

58,8

50,0

270

74,8


10,4

BS: bác sỹ, ĐD: điều dưỡng, NVYT: nhân viên y tế, SVĐD: sinh viên điều dưỡng

1.3.2. Các yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay của NVYT
Có nhiều đề tài nói về mối liên quan giữa bệnh chàm tay và các
đặc điểm của NVYT.
Các đề tài mô tả cho thấy bệnh có liên quan đến các yếu tố như:
cơ địa dị ứng, mức độ rửa tay (các kết quả này hằng định qua các
nghiên cứu) và tìm ra một số dị ứng nguyên gây bệnh chàm tay như:
ethanol, iode, chlorhexidine, acrylate, găng tay cao su.
Có 2 đề tài đoàn hệ theo dõi dọc bệnh chàm tay ở sinh viên điều dưỡng
được thực hiện tại Đức (2005) và Hà Lan (2013) xác định thâm niên
công tác có liên quan đến bệnh chàm tay. Điểm mạnh của các nghiên
cứu là chiều thời gian rõ rệt; xác định được số mới mắc bệnh chàm tay
theo bộ câu hỏi là 6,7%; theo khám lâm sàng là 4,8% (2005). Tỉ suất
mới mắc bệnh chàm tay ở sinh viên điều dưỡng năm 2013 (Hà Lan) là
13,7% người-năm học. Ngoài ra có một nghiên cứu bệnh chứng về
chàm tay ở điều dưỡng được thực hiện tại Đài Loan vào năm 2011 Kết
quả cho thấy chàm thể tạng là yếu tố nguy cơ cao đối với bệnh chàm
tay (OR hiệu chỉnh =3,763; KTC95%: 2,399 - 5,901 và p<0,001). Bên
cạnh đó thâm niên công tác cũng liên quan đến chàm tay (OR=1,524;
KTC95%: 1,067 - 2,177 và p=0,021). Giữa những người không bị


6

chàm thể tạng thì số lần rửa tay (trên 6 lần) là yếu tố liên quan đến
bệnh chàm tay (OR=3,02; KTC95%: 1,26 -7,23 và p =0,0131).


Hình 1.1. Các yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay của NVYT
1.3.3. Các nghiên cứu can thiệp nhằm thay đổi hành vi trong
phòng ngừa bệnh chàm tay của nhân viên y tế
Năm 1999, tại Đức, tác giả Loffler và cộng sự tiến hành nghiên
cứu can thiệp kéo dài 3 năm (1999 - 2002) tại 14 trường điều dưỡng
nhằm dự phòng nguyên phát bệnh da nghề nghiệp cho nhân viên y tế.
Nhóm can thiệp là nhóm được nhận một chương trình giảng dạy mọi
vấn đề liên quan đến phòng ngừa nguyên phát và nhóm chứng là nhóm
không có chương trình này. Đơn vị để chọn phân bố ngẫu nhiên vào
nhóm can thiệp là trường. Chương trình giảng dạy bao gồm các kiến
thức về: cấu trúc da, cách dự phòng bệnh chàm tay (dùng kem dưỡng
da, cách rửa tay, cách tẩy trùng bàn tay). Kem dưỡng da được cung cấp
cho mọi sinh viên (nhóm can thiệp và nhóm chứng), ghi nhận lượng
kem sử dụng và đánh giá việc sử dụng kem dưỡng da bằng kỹ thuật
huỳnh quang. Kết quả: ở nhóm can thiệp, tình trạng da tay tốt hơn so
với nhóm chứng. Trong khi ở nhóm chứng, sau 3 năm, da tay bị bệnh


7

nhiều (OR=4,8; KTC95% 2,9 - 7,8). Điểm mạnh của nghiên cứu đó là
thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng. Điểm hạn chế của đề
tài là thời gian can thiệp lâu (3 năm) đưa đến tỉ lệ mất mẫu cao (37,6%).
Năm 2001, tại Copenhagen, Held và cộng sự làm nghiên cứu
can thiệp để điều tra liệu một chương trình giáo dục sức khỏe có hiệu
quả trong việc phòng ngừa các bệnh da ở bàn tay. Nghiên cứu được
tiến hành ở 107 sinh viên điều dưỡng, nhóm can thiệp có 61 người,
nhóm chứng có 46 người, theo dõi trong 10 tuần thực tập tại bệnh viện.
Tất cả những người tham gia đều nhận được bộ câu hỏi, khám da tay,

đo chỉ số TEWL và làm patch test. Kết quả cho thấy: chỉ số TEWL
tăng ở nhóm chứng (p<0,005); làm patch test phát hiện dị ứng nguyên
gồm: nickel, hỗn hợp tạo mùi thơm, colophonium, hỗn hợp mercapto.
Điểm mạnh của nghiên cứu đó là thử nghiệm can thiệp có nhóm chứng,
có phân tích thông tin của nhóm bỏ cuộc. Điểm hạn chế của đề tài này
là không kiểm soát được sự lây nhiễu thông tin giữa 2 nhóm, không có
làm mù, không nêu được RR và NNT.
Vào năm 2005, tại miền Bắc nước Đức, Tác giả Dulon và cộng
sự, tiến hành nghiên cứu can thiệp ngẫu nhiên có nhóm chứng ở đối
tượng là điều dưỡng khoa Lão để dự phòng bệnh da nghề nghiệp. Mục
đích của nghiên cứu này là để điều tra liệu một chương trình chăm sóc
da cho điều dưỡng khoa Lão bằng lời khuyên và huấn luyện cho điều
dưỡng cách làm giảm bệnh chàm tay, làm thay đổi hành vi có liên quan
đến công việc để bảo vệ da và tăng việc cung cấp các sản phẩm chăm
sóc da. Đo lường hiệu quả của can thiệp (hành vi bảo vệ da tay) tại thời
điểm ban đầu và 3 tháng sau can thiệp. Kết quả: tại thời điểm ban đầu,
không có sự khác biệt về hành vi giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng.
Sau 3 tháng theo dõi, bệnh chàm tay ở nhóm can thiệp giảm từ 26%
xuống còn 17% (p=0,02); tình trạng chàm tay ở nhóm chứng không


8

thay đổi; hành vi dùng kem dưỡng da (p=0,002) và lót bông gòn dưới
găng tay (p=0,001) ở nhóm can thiệp tăng so với nhóm chứng.
Năm 2009, tại Đan Mạch, tác giả Ibler và cộng sự đã tiến hành
nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có làm mù để so sánh hiệu
quả giữa giáo dục sức khỏe (giáo dục chăm sóc da và tư vấn cá nhân)
so với điều trị thông thường bệnh chàm tay của nhân viên y tế. Mục
đích của nghiên cứu là đánh giá hiệu quả phòng ngừa thứ phát (giáo

dục sức khỏe) so với điều trị thông thường trong bệnh chàm tay của
nhân viên y tế. Biện pháp can thiệp là giáo dục sức khỏe về chăm sóc
da và tư vấn cá nhân dựa trên kết quả tìm dị ứng nguyên của patch test
và prick test. Kết quả (sau 5 tháng): chỉ số HECSI giảm ở nhóm can
thiệp so với nhóm chứng (p<0,001); chỉ số chất lượng cuộc sống ở
nhóm can thiệp cải thiện hơn so với nhóm chứng (p<0,003); hành vi
bảo vệ da (cách rửa tay, đeo găng tay) ở nhóm can thiệp tốt hơn so với
nhóm chứng.
1.3.4.

Các công trình nghiên cứu về chàm tay ở Việt Nam
Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu bệnh chàm tay vẫn còn

ít. Có nhiều đề tài nghiên cứu về bệnh da (từ bệnh da nhiễm trùng đến
bệnh da miễn dịch dị ứng, tân sinh) ở các ngành nghề nhưng riêng về
bệnh chàm tay thì số lượng rất ít. Cụ thể là có đề tài nghiên cứu về chất
lượng cuộc sống của bệnh nhân bị chàm tay, chàm tay ở công nhân xây
dựng; riêng đối tượng là nhân viên y tế thì chưa có.
2.

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Dân số mục tiêu là các nhân viên y tế bao gồm bác sỹ và điều
dưỡng/nữ hộ sinh đang làm việc trong các bệnh viện công lập tại quận
5 thành phố Hồ Chí Minh. Dân số chọn mẫu gồm nhân viên y tế đang
làm việc trong các bệnh viện công lập tại quận 5 thành phố Hồ Chí


9


Minh năm 2013 (44 khoa phòng). Đối tượng nghiên cứu gồm nhân
viên y tế được chọn ngẫu nhiên từ danh sách, thỏa theo tiêu chí đưa
vào và loại ra.
Tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu bao gồm các đối tượng sau đây:
- Các nhân viên y tế đang làm việc không phân biệt biên chế hay hợp
đồng.
- Đồng ý tham gia nghiên cứu và trả lời bảng thu thập thông tin.
- Có thời gian làm việc trong ngành y tối thiểu 6 tháng.
Tiêu chuẩn loại ra bao gồm các đối tượng sau đây:
- Không trực tiếp tham gia hoạt động khám chữa bệnh.
- Không có mặt trong ngày khám da tay
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Giai đoạn 1: mô tả cắt ngang có phân tích. Giai
đoạn 2: can thiệp bằng truyền thông giáo dục sức khỏe dựa vào mô
hình niềm tin sức khỏe.


10

Cỡ mẫu nghiên cứu giai đoạn 1: cỡ mẫu được tính theo công thức
sau:
n=

2
Z1−α/2
P(1 − P)

d2

Trong đó: với độ tin cậy 95%

α

=

0,05 (xác suất sai lầm loại 1)

d

=

0,04 (sai số cho phép)

Z 1 – α /2

=

1,96 (với α = 0,05)

Có 2 đề tài nghiên cứu bệnh chàm tay ở nhân viên y tế, tỉ lệ hiện
mắc thời khoảng 1 năm bệnh chàm tay là 21% và 12%. P được chọn
là 21%, thay vào công thức ta có: n ≈ 399
Dự trù mất mẫu là 10%, do đó cỡ mẫu sẽ là: 399/0,9 ≈ 444
Cỡ mẫu nghiên cứu giai đoạn 2: cỡ mẫu cho nghiên cứu can thiệp
được tính theo công thức kiểm định hai số trung bình:
2

n=

(Z1−α + Z1−β ) (𝜎12 + 𝜎22 /r)
2


(𝜇1 − 𝜇2 )2

Giả định có 80% cơ hội, ở mức ý nghĩa 5% để so sánh 2 trung bình
của mẫu cặp (trước và sau can thiệp): α=0,05 và Z975=1,96; 1-β=0,8 và
Z0,8=0,84
Cỡ mẫu cho kiến thức: n1=n2=57
Cỡ mẫu cho hành vi: n1=n2=48
Cỡ mẫu cho thiết kế can thiệp: n1=n2=57
Kỹ thuật chọn mẫu: ngẫu nhiên hệ thống.
Công cụ thu thập số liệu: bộ câu hỏi cấu trúc tự điền, bảng điểm
HECSI
Phân tích số liệu: Phương pháp phân tích thống kê sẽ theo sát với các
mục tiêu đề ra như sau:


11

- Giai đoạn 1 (thiết kế cắt ngang): báo cáo tần số và % các biến số:
giới, cơ địa dị ứng, nhóm tuổi nghề, mức độ rửa tay, bệnh chàm tay;
báo cáo PR và KTC95% của PR; báo cáo OR và KTC95% của OR;
hồi qui logistic đa biến để khử các yếu tố gây nhiễu và tương tác.
- Giai đoạn 2 (thiết kế can thiệp): báo cáo tần số và % các biến số:
giới, nhóm tuổi nghề, cơ địa dị ứng, mức độ rửa tay; mô tả số trung
bình và độ lệch chuẩn của kiến thức, hành vi trước và sau can thiệp;
xác định hiệu quả của can thiệp đến kiến thức và hành vi phòng ngừa
bệnh.
Kiểm soát sai lệch: để kiểm soát sai lệch chọn lựa, dân số chọn mẫu
phải theo đúng như các tiêu chí được đề ra ở phần đối tượng nghiên
cứu; theo đúng các tiêu chí đưa vào và loại ra.

Để hạn chế sai lệch do hồi tưởng, các yếu tố tiền căn bệnh và
các yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay được giới hạn trong khoảng
thời gian 12 tháng gần nhất.
Đạo đức nghiên cứu: nghiên cứu này tuân thủ đạo đức nghiên cứu y
khoa. Các đối tượng nghiên cứu đã được giải thích rõ ràng về mục đích
và ý nghĩa của nghiên cứu, và chỉ có đối tượng đồng thuận tham gia
vào nghiên cứu mới được nhận bộ câu hỏi và khám bệnh da. Tất cả đối
tượng tham gia nghiên cứu đều được khám bệnh da và trong trường
hợp phát hiện mắc bệnh (chàm tay hoặc bệnh da) sẽ được điều trị,
khuyến cáo và tư vấn đúng chuyên khoa. Biện pháp can thiệp không
xâm lấn: truyền thông sức khỏe nhằm gia tăng hành vi phòng ngừa
bệnh. Đề tài đã được hội đồng đạo đức của đại học Y Dược thành phố
Hồ Chí Minh chấp thuận cho nghiên cứu theo công văn số 60/ĐHYDHĐ ngày 12 tháng 02 năm 2015.


12

3.

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ

Giai đoạn 1 của nghiên cứu được tiến hành trong thời gian từ
tháng 02/2013 đến tháng 7/2013 các bệnh viện quận 5. Có 415 nhân
viên y tế đã trả lời bộ câu hỏi và có mặt đầy đủ trong ngày khám da
tay. Trong đó, 100% thỏa tiêu chí nghiên cứu với đầy đủ thông tin được
đưa vào phân tích. Tỉ lệ nhân viên y tế tham gia vào nghiên cứu là 93%
(415/483). Giai đoạn 2 được tiến hành từ 11/2016-04/2017. Có 107 đối
tượng tham gia với đầy đủ thông tin được đưa vào phân tích. Tỉ lệ tham
gia 94% (107/114). Kết quả được thể hiện như sau:
3.1. Tỉ lệ hiện mắc bệnh chàm tay của nhân viên y tế

Bảng 3.1. Tỉ lệ bệnh chàm tay và đặc điểm chung của nhân viên y tế
Tần số
Tỉ lệ %
Đặc điểm
Giới
Nữ
240
57,8
Nam
175
42,2
Vị trí công tác
Điều dưỡng
230
55,4
BS khối nội
102
24,6
BS khối ngoại
83
20,0
Cơ địa dị ứng
Không
324
79,1

91
21,9
Nhóm tuổi nghề
Dưới 5 năm

120
28,9
≥ 5 năm
295
71,1
Mức độ rửa tay
0-5 lần
88
21,2
6-10 lần
136
32,8
>10 lần
191
46,0
Dùng dung dịch sát khuẩn nhanh
Không
333
80,2

82
19,8


13

Đặc điểm
Tỉ lệ hiện mắc thời khoảng 1
năm bệnh chàm tay


Tần số

Tỉ lệ %

65

15,6

Bảng 3.1 cho thấy: nữ nhiều hơn nam; điều dưỡng nhiều hơn
bác sỹ; nhóm tuổi nghề trên 5 năm chiếm đa số; tỉ lệ bệnh chàm tay
qua khám da tay là 6,5%; tỉ lệ hiện mắc thời khoảng 1 năm bệnh chàm
tay của NVYT là 15,6%.
3.2. Các yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay
Bảng 3.2. Các yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay qua bộ câu hỏi
Bệnh
Không
PR (KTC95%)
p
chàm tay
bệnh
n (%)
n (%)
Giới tính
Nữ
41 (17,1) 199 (82,9)
1,2 (0,8 - 1,9)
0,3
Nam
24 (13,7) 151 (86,3)
1

Cơ địa dị ứng

21 (23,1)
70 (76,9)
1,7 (1,1 - 2,7)
0,03
Không
44 (13,6) 280 (86,4)
1
Nhóm tuổi nghề
≥ 5 năm
54 (18,3) 241 (81,7)
2,0 (1,1 - 3,7)
0,02
Dưới 5 năm 11 (9,2)
109 (90,8)
1
Mức độ rửa tay
>10 lần
39 (20,4) 152 (79,6)
3,6 (1,5 - 8,8) 0,002
6-10 lần
21 (15,4) 115 (84,6)
2,7 (1,1 - 6,9)
0,03
0-5 lần
5 (5,7)
83 (94,3)
1
Vị trí công tác

BS ngoại
19 (22,9)
64 (77,1)
2,6 (1,2 - 5,4) 0,008
Điều dưỡng 37 (16,1) 193 (83,9)
1,8 (0,9 - 3,6)
0,08
BS nội
9 (8,8)
93 (91,2)
1
Bảng 3.2 cho thấy chàm tay có liên quan có ý nghĩa thống kê
với cơ địa dị ứng, nhóm tuổi nghề, mức độ rửa tay và vị trí công tác.
3.3 Hiệu quả của truyền thông giáo dục sức khỏe


14

Bảng 3.3. Đặc điểm mẫu ở thời điểm T0 và T1
Đặc điểm
NCT (n=57) NC (n=50)
p
Thời điểm T0
Giới
15 (26,3)
Nam
20 (40)
0,13*
Nữ
42 (73,7)

30 (60)
Nghề nghiệp
37 (64,9)
Điều dưỡng
32 (64)
0,9*
Bác sỹ
20 (35,1)
18 (36)
Mức độ rửa tay
0 - 5 lần/ngày
4 (7,0)
5 (10)
6 - 10 lần/ngày
13 (22,8)
12 (24)
0,5*
11 - 20lần/ngày
29 (50,9)
14 (28)
> 20 lần/ngày
11 (19,3)
19 (38)
Nhóm tuổi nghề
0 - 5 năm
13 (22,8)
10 (20)
0,7*
>5 năm
44 (77,2)

40 (80)
Chàm tay
Không
55 (96,5)
47 (94)
0,5*

2 (3,5)
3 (6)
HECSI
17 ±1,4
13,6 ± 5,5
0,7**
Kiến thức phòng bệnh
5,4 ± 2,2
5,7 ± 1,2
0,4**
Dùng kem dưỡng da
0,7 ± 0,7
0,4 ± 0,4
0,003**
Đeo găng tay
1,0 ± 0,7
0,9 ± 0,8
0,4**
Thời điểm T1
Mất mẫu
2 (3,5)
2 (4)
0,8*

Bệnh chàm tay
0
4 (8)
0,03*
Kiến thức phòng bệnh 8,9 ± 0,9
5,9 ± 1,3
<0,001**
Dùng kem dưỡng da
1,2 ± 0,5
0,4 ± 0,5
<0,001**
Đeo găng tay
1,6 ± 0,5
0,9 ± 0,8
<0,001**
Số liệu trình bày là số ca (%) hoặc trung bình ± độ lệch chuẩn
*: phép kiểm chi bình phương
**: phép kiểm T test


15

Bảng 3.4. Sự thay đổi về kiến thức và hành vi giữa 2 nhóm từ T0-T1
NCT (n=57)

NC (n=50)

Số điểm

Số điểm


p

p

Độ khác biệt trong
khác biệt
∆NCT-∆NC p

Kiến thức
T0
5,4 (0,3)
5,7 (0,2)
T1
8,9 (0,1)
5,9 (0,2)
∆=T1-T0
3,5 (0,2) <0,001 0,2 (0,3) 0,5 3,3 (0,4)
<0,001
Dùng kem dưỡng da tay
T0
0,8 (0,1)
0,4 (0,1)
T1
1,2 (0,1)
0,4 (0,1)
∆=T1-T0
0,4 (0,1) <0,01
0
0,4 (0,1)

<0,01
Đeo găng tay
T0
1,0 (0,1)
0,9 (0,1)
T1
1,6 (0,1)
0,9 (0,1)
(∆=T1-T0) 0,6 (0,1) <0,01
0
0,6 (0,2)
<0,01
Số liệu trình bày là trung bình (sai số chuẩn)
Trung bình và sai số chuẩn được ước lượng bằng hồi quy tuyến tính
Bảng 3.4 cho thấy: tại thời điểm ban đầu, không có sự khác biệt
giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng về giới, nghề nghiệp, mức độ rửa
tay, nhóm tuổi nghề, bệnh chàm tay, chỉ số HECSI.
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN
Qua xử lý số liệu thu thập được bằng bộ câu hỏi: giai đoạn 1 của
nghiên cứu có 415 nhân viên y tế đã trả lời bộ câu hỏi và có mặt trong
ngày khám da tay tại 9 bệnh viện công lập quận 5 thành phố Hồ Chí
Minh; giai đoạn 2 có 107 đối tượng là nhân viên y tế của bệnh viện An
Bình và CTCH tham gia vào nghiên cứu, rút ra được một số nhận xét
sau đây:


16

4.1. Đặc điểm mẫu giai đoạn 1
Tỉ lệ tham gia vào nghiên cứu là 93% (415/444), như vậy tỉ lệ

mất mẫu là 7%. Với tỉ lệ này vẫn đảm bảo độ lớn của cỡ mẫu, hạn chế
những sai lệch do cơ hội vì trong lúc tính toán cỡ mẫu đã dự trù mất
mẫu 10%.
Kết quả thống kê cho thấy điều dưỡng nhiều hơn bác sỹ (bảng
3.1). Tỉ số điều dưỡng/bác sỹ trong mẫu (230/185=1,2) cũng tương
đương với thống kê của Bộ Y Tế năm 2013 (điều dưỡng/bác sỹ=1,4).
Đa số nhân viên y tế rửa tay trên 5 lần trong một ngày làm việc
thường nhật. Điều này tương tự như báo cáo tại Thổ Nhĩ Kỳ của tác
giả Ozyazicioglu và cộng sự: 58% nhân viên y tế rửa tay trên 10 lần
trong ngày làm việc.
Khám da tay, chẩn đoán chàm tay và chấm điểm HECSI được
thực hiện bởi các bác sỹ da liễu trong ngày hẹn đến khám và thu lại bộ
câu hỏi. Tỉ lệ bệnh chàm tay qua khám da tay là 6,5%. Dạng lâm sàng
thường gặp nhất là dạng mụn nước. Điểm trung bình của chỉ số HECSI
là 20,2 ±5,3 (dao động từ 15 – 37): tương đồng với điểm HECSI của
các bệnh nhân bị chàm tay trong các nghiên cứu tại Đan Mạch năm
2009 (điểm trung bình của HECSI=19,9).
So sánh với tỉ lệ bệnh chàm tay trong dân số chung của một số
nước qua khám da tay (Mỹ, Hà Lan): tỉ lệ thay đổi từ 0,5%-3,2%, tỉ lệ
chàm tay của nhân viên y tế trong đề tài này cao hơn nhiều. Tương tự
các nghiên cứu khác cũng cho thấy tỉ lệ chàm tay qua khám lâm sàng
của Nha Sỹ, ĐD đều cao hơn nhiều so với tỉ lệ chàm tay trong dân số
chung. Đây là một trong hai đặc trưng trong định nghĩa bệnh nghề
nghiệp của tổ chức lao động quốc tế.
Khám lâm sàng được coi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán bệnh
chàm tay. Tuy nhiên việc thực hiện rất tốn kém vì cần bác sỹ chuyên


17


khoa da liễu thăm khám và kết luận chẩn đoán bệnh. Chính vì vậy mà
các đề tài nghiên cứu bệnh chàm tay được chẩn đoán bằng khám lâm
sàng rất ít so với các đề tài được thực hiện bằng bộ câu hỏi. Việc chẩn
đoán bệnh chàm tay bằng bộ câu hỏi, mặc dù không chính xác như việc
chẩn đoán bằng khám lâm sàng, nhưng do tính khả thi, ít tốn kém và
dễ thực hiện nên được nhiều tác giả ứng dụng. Do kết cấu của bộ câu
hỏi, các triệu chứng về bệnh chàm tay được hỏi trong 12 tháng (“bạn
có bị các triệu chứng... trong vòng 12 tháng qua?”), do đó tỉ lệ bệnh
chàm tay theo bộ câu hỏi được gọi là tỉ lệ hiện mắc thời khoảng 1 năm
4.2. Tỉ lệ hiện mắc thời khoảng 1 năm bệnh chàm tay
Tỉ lệ hiện mắc thời khoảng một năm bệnh chàm tay của nhân
viên y tế năm 2013 là 15,6% (bảng 3.1). Kết quả này thấp hơn kết quả
nghiên cứu tại Đan Mạch (21%) và cao hơn kết quả nghiên cứu tại Hà
Lan (12%). Các đề tài tại các nước trong khu vực (Trung Quốc, Đài
Loan…) trên đối tượng hoặc là ĐD, hoặc là BS; tỉ lệ hiện mắc thay đổi
từ 12,9% - 18,3%. Như vậy, kết quả của đề tài này cũng tương đồng
với tỉ lệ chàm tay của NVYT các nước trong khu vực.
So sánh với tỉ lệ hiện mắc bệnh chàm tay trong dân số chung
(được thực hiện bằng bộ câu hỏi) ở một số quốc gia (Hà Lan, Thụy
Điển, Na Uy: dao động từ 8,2%-10,6%): tỉ lệ hiện mắc bệnh chàm tay
ở nhân viên y tế cao hơn nhiều so với tỉ lệ bệnh chàm tay trong dân số
chung.
Như vậy, bệnh chàm tay qua khám da tay và bệnh chàm tay qua
bộ câu hỏi ở đối tượng là nhân viên y tế đều cao hơn nhiều so với bệnh
chàm tay trong dân số chung.
4.3. Các yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay
- Nhóm tuổi nghề: Kết quả phân tích thống kê cho thấy bệnh
chàm tay có liên quan có ý nghĩa thống kê với nhóm tuổi nghề (xem



18

bảng 3.2). Mốc thời gian để nghiên cứu bệnh nghề nghiệp thay đổi tùy
theo loại bệnh. Trong đề tài này chọn mốc thời gian là 5 năm để dễ so
sánh với các đề tài đã công bố bởi vì trong nghiên cứu tương tự trước
đây, các tác giả thường lấy mốc là 5 năm. So sánh với các đề tài theo
dõi dọc ở đối tượng là sinh viên điều dưỡng của Klaus và Visser: tỉ lệ
chàm tay tăng theo năm học của sinh viên. Đề tài của tác giá Lan tại
Đài Loan (thiết kế nghiên cứu bệnh chứng) ở đối tượng là điều dưỡng
cho thấy nhóm có thâm niên cao bị chàm tay nhiều hơn (OR=1,524;
p=0,021 và KTC95%: 1,067 - 2,177). Xét về mặt y học chứng cứ thì
các kết quả từ nghiên cứu phân tích có độ mạnh hơn các nghiên cứu
mô tả trong việc diễn đạt các yếu tố nguy cơ. Như vậy, thâm niên công
tác là yếu tố nguy cơ của bệnh chàm tay và kết quả này hằng định qua
các nghiên cứu.
- Cơ địa dị ứng: kết quả thống kê cho thấy bệnh chàm tay có
liên quan đến cơ địa dị ứng (bảng 3.2). Điều này cũng tương tự như
kết quả nghiên cứu tương tự của Smith và cộng sự được thực hiện: tại
Hàn Quốc (trên đối tượng nghiên cứu là sinh viên điều dưỡng) với
OR=4,2; p =0,0083; KTC95%: 1,5 - 12,8; tại Trung Quốc trên đối
tượng là điều dưỡng với OR=4,6; p=0,0096; KTC95%: 1,4 - 15,0. Các
nghiên cứu khác như: nghiên cứu tại Thổ Nhĩ Kỳ của Ozyazicioglu
cũng cho kết quả tương tự là bệnh chàm tay có liên quan với tiền căn
dị ứng (p<0,01); nghiên cứu tại Ba Lan năm 2006 của Szepietowski
(chàm tay của điều dưỡng) đã nhận thấy rằng bệnh chàm tay có liên
quan đến tiền căn viêm mũi dị ứng (p<0,0001); gần đây nhất, tác giả
Ibler và cộng sự cũng tìm ra sự liên quan giữa cơ địa dị ứng thể tạng
và bệnh chàm tay (p<0,001). Tại Đài Loan, nghiên cứu bệnh chứng
của tác giả Lan ở đối tượng là điều dưỡng cho thấy chàm thể tạng là
yếu tố nguy cơ của bệnh chàm tay (OR hiệu chỉnh =3,763; KTC95%:



19

2,399 - 5,901 và p<0,001). Nghiên cứu theo dõi dọc của Visser tại Hà
Lan trên đối tượng là sinh viên điều dưỡng cũng cho thấy có mối liên
quan này (OR=2,5; KTC95%: 1,7-3,7). Xét về mặt y học chứng cứ,
các nghiên cứu phân tích (của tác giả Lan, Visser) có mức độ suy diễn
nhân quả cao hơn các nghiên cứu mô tả. Ngoài ra, xét về mặt sinh bệnh
học của bệnh chàm (cũng như chàm tay): cơ địa dị ứng liên quan đến
các gien thể tạng (yếu tố nội tại). Người mang gien thể tạng có thể bị
bệnh chàm ở tuổi rất nhỏ (sau khi chào đời) và bị bệnh nặng. Như vậy,
chàm tay có liên quan với tạng dị ứng và mối liên quan này hằng định
qua các kết quả nghiên cứu.
- Mức độ rửa tay: kết quả thống kê cho thấy chàm tay có liên
quan đến số lần rửa tay trong ngày làm việc (bảng 3.2). Số lần rửa tay
được phân ra các nhóm giống như các đề tài tương tự đã được công
bố. Kết quả thống kê trong đề tài này tương tự như kết quả nghiên cứu
tương tự của Smith và cộng sự: tại Nhật Bản trên đối tượng là điều
dưỡng (OR=2,0 và KTC95%: 1,2 - 3,4); tại Queensland (Úc) với
p=0,04. Tương tự, trong công trình nghiên cứu được thực hiện tại Thổ
Nhĩ Kỳ trên đối tượng là điều dưỡng khoa nhi của 3 bệnh viện: chàm
tay có liên quan đến mức độ rửa tay (p=0,007). Nghiên cứu của tác giả
Ibler tại Đan Mạch cũng cho thấy bệnh chàm tay có liên quan đến số
lần rửa tay (p<0,001). Nghiên cứu của Lan tại Đài Loan (thiết kế bệnh
chứng) trên đối tượng là điều dưỡng cũng cho kết quả tương tự: trong
nghiên cứu này, tác giả đã khảo sát số lần rửa tay của các điều dưỡng
không có tiền căn chàm thể tạng, rửa tay được chia làm 2 nhóm; kết
quả là nhóm rửa tay trên 6 lần trong ngày làm việc bị chàm tay nhiều
hơn nhóm kia (OR=3,02; KTC95%: 1,26 - 7,23 và p=0,0131). Nghiên

cứu theo dõi dọc của Visser cũng cho thấy rửa tay nhiều lần bị chàm
tay nhiều hơn (OR=1,5; KTC95% 1,0 - 2,3). Nhóm của Visser, Lan


20

làm các nghiên cứu phân tích nên mối liên quan này có độ mạnh về
mặt y học chứng cứ hơn các nghiên cứu còn lại. Ngoài ra, trong một
nghiên cứu được thực hiện tại Anh của tác giả Williams: nghiên cứu
mô phỏng việc rửa tay như nhân viên y tế (rửa tay 15 lần/ngày; mỗi
lần rửa tay với thời lượng 1 phút 30 giây; lượng xà bông dùng cho mỗi
lần là 3 lần xịt từ bình chứa; dung dịch rửa tay là dung dịch kháng
khuẩn có chứa 2% triclosan). Kết quả sau 14 ngày, chỉ số TEWL và
chỉ số HECSI tăng (p=0,003). Nghiên cứu của tác giả Williams đã cho
thấy việc rửa tay y tế là yếu tố nguy cơ gây bệnh chàm tay. Như vậy
bệnh chàm tay có liên quan đến số lần rửa tay và kết quả này hằng định
qua các nghiên cứu. Ngoài ra, công thức cấu tạo của các hóa chất tẩy
rửa là sự kết hợp giữa acid béo và chất kiềm (phản ứng xà phòng hóa).
Chất kiềm còn được gọi là sút ăn da. Do đó, khi rửa tay bằng dung dịch
tẩy rửa, chất kiềm sẽ tẩy rửa (lấy mất) các chất dầu (giữ ẩm) tự nhiên
của da. Do đó, việc rửa tay bằng xà bông nhiều lần, sẽ lấy mất rất nhiều
chất giữ ẩm da. Da không kịp tạo ra chất giữ ẩm nếu chúng ta rửa tay
liên tục nhiều lần với dung dịch tẩy rửa, da sẽ trở nên khô, đỏ và nứt
nẻ dẫn tới chàm tay (chàm tiếp xúc)
- Vị trí công tác: kết quả thống kê cho thấy (bảng 3.2) bệnh
chàm tay có liên quan đến vị trí công tác: bác sỹ khối ngoại bị chàm
tay gấp 2,6 lần bác sỹ khối nội. Điều này cũng phù hợp với các nghiên
cứu trước như của tác giả Sato tại Nhật Bản (bác sỹ phẫu thuật bị chàm
tay nhiều hơn bác sỹ nội khoa với p=0,001). Công việc của bác sỹ khối
ngoại liên quan đến các thủ thuật, phẫu thuật, phải tuân thủ quy trình

vệ sinh tay nghiêm ngặt, số lượng rửa tay y tế và rửa tay phẫu thuật
nhiều hơn hẳn so với bác sỹ khối nội và điều dưỡng. Ngoài việc rửa
tay y tế trong khám bệnh, các bác sỹ khối ngoại khi làm phẫu thuật
phải rửa tay phẫu thuật (rửa tay bằng bàn chải và xà bông tẩy trùng).


21

Việc rửa tay như vậy nhiều lần đã lấy mất các chất giữ ẩm da, làm da
trở nên khô rát và đưa đến bệnh chàm tay. Như vậy, vị trí công tác của
nhân viên y tế có liên quan đến mức độ rửa tay. Trong khi đó, mức độ
rửa tay có liên quan đến bệnh chàm tay, chính vì vậy mà kết quả thống
kê cho thấy vị trí công tác có liên quan đến bệnh chàm tay.
4.4. Hiệu quả của truyền thông giáo dục sức khỏe
Với tiêu chí bệnh nghề nghiệp là một bệnh có thể phòng ngừa
được và dựa vào mô hình niềm tin sức khỏe, can thiệp trong đề tài này
được thực hiện bằng biện pháp truyền thông sức khỏe nhằm thay đổi
hành vi (hướng đến thực hiện những hành vi tốt cho sức khỏe) trong
phòng ngừa bệnh chàm tay ở nhân viên y tế. Kết quả cho thấy (bảng
3.4): có sự khác biệt về kiến thức phòng ngừa bệnh chàm tay của nhân
viên y tế giữa nhóm bệnh và nhóm chứng. Tương tự, hành vi phòng
ngừa bệnh chàm tay qua tự báo cáo (bao gồm hành vi dùng kem dưỡng
da, hành vi đeo găng tay khi làm công việc có tiếp xúc với nước và hóa
chất) cũng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Đề tài chọn
2 bệnh viện khác nhau để làm nhóm chứng và nhóm can thiệp giúp hạn
chế việc “lây nhiễm” nội dung can thiệp. Kết quả của đề tài tương tự
như các kết quả của Ibler, Held, Dulon và Van Der Meer: truyền thông
giáo dục sức khỏe giúp nâng cao kiến thức về phòng ngừa bệnh chàm
tay của nhân viên y tế ở nhóm can thiệp so với nhóm chứng. Do có sự
thay đổi về kiến thức, biết rõ lợi ích của việc phòng ngừa bệnh chàm

tay, cho nên nhân viên y tế trong nhóm can thiệp gia tăng hành vi
phòng ngừa bệnh. Việc chọn thời điểm 6 tháng sau truyền thông giáo
dục sức khỏe để xác định hiệu quả của can thiệp (nhằm thay đổi hành
vi) vì: theo các công trình nghiên cứu về hành vi; người bình thường
mất ít nhất 21 ngày để hình thành 1 thói quen mới và mất hơn 2 tháng
(66 ngày) để 1 hành vi mới trở thành thói quen.


22

4.5. Điểm mạnh và điểm hạn chế của đề tài
4.5.1. Điểm mạnh:
- Nghiên cứu đa trung tâm (thực hiện tại các bệnh viện công lập quận
5 TPHCM).
- Chẩn đoán bệnh chàm tay được thực hiện bằng bộ câu hỏi và khám
lâm sàng.
- Thiết kế nghiên cứu và kỹ thuật chọn mẫu được sử dụng phù hợp
cho từng mục tiêu, từng giai đoạn, với các tiêu chí lựa chọn cụ thể để
tránh sai lệch, cơ hội. Sử dụng phương pháp hồi quy logistic đa biến
để kiểm soát các yếu tố gây nhiễu và tương tác
- Đặt được giả thuyết về mối quan hệ giữa bệnh chàm tay và các yếu
tố: thâm niên công tác, mức độ rửa tay và tiền căn tạng dị ứng.
- Xác định được hiệu quả của truyền thông giáo dục sức khỏe đến
việc nâng cao kiến thức và thay đổi hành vi (hướng đến thực hiện
những hành vi tốt cho sức khỏe) trong phòng ngừa bệnh chàm tay.
- Hành vi phòng ngừa bệnh chàm tay là hành vi tự báo cáo và hoàn
toàn tự nguyện. Các đối tượng không bị áp lực khi báo cáo hành vi.
4.5.2. Điểm hạn chế:
Mặc dù nhiều nỗ lực đã được thực hiện để đảm bảo chất lượng
của nghiên cứu, một số giới hạn của nghiên cứu được đề cập như sau,

giúp hỗ trợ người đọc trong việc phiên dịch chính xác kết quả nghiên
cứu:
- Khi lấy mẫu ở giai đoạn 1, chỉ được phép lấy mẫu ở một số khoa.
Do đó, mẫu có thể không đại diện cho quần thể nghiên cứu.
- Điều kiện kinh phí không cho phép tác giả thực hiện xét nghiệm
patch test, prick test tìm dị ứng nguyên gây bệnh chàm tay. Kỹ thuật
xét nghiệm trong nước không thực hiện xét nghiệm tính chỉ số mất
nước qua thượng bì (TEWL).


23

- “Sai số nhớ lại” có thể xảy ra nếu như đối tượng tham gia nghiên
cứu tường thuật quá mức hoặc che giấu bớt thông tin (khi khai thác
tiền căn cơ địa dị ứng, mức độ rửa tay). Bộ câu hỏi dựa vào các triệu
chứng khảo sát các triệu chứng trong vòng 12 tháng cũng có thể gây
“sai số nhớ lại”.
4.6 Tính ứng dụng
Nghiên cứu được thực hiện tại các bệnh viện công lập thuộc
quận 5 thành phố Hồ Chí Minh, nên có thể áp dụng cho nhân viên y tế
công lập. Từ nghiên cứu này có thể tiên lượng nguy cơ bị chàm tay và
có những biện pháp phòng ngừa thích hợp cho NVYT. Đây là nghiên
cứu bước đầu về một bệnh nghề nghiệp phổ biến ở các nước phát triển
nhưng vẫn chưa được quan tâm nhiều ở nước ta. Kết quả của nghiên
cứu sẽ làm cơ sở cho việc đề xuất và áp dụng những biện pháp phòng
ngừa, đồng thời tăng cường các yếu tố bảo vệ liên quan đến bệnh chàm
tay của nhân viên y tế; làm tiền đề cho các nghiên cứu phân tích sâu
hơn trên từng nhóm yếu tố liên quan với bệnh chàm tay (giúp đưa bệnh
chàm tay vào danh mục bệnh nghề nghiệp).
KẾT LUẬN

Đây là một nghiên cứu nhằm xác định tỉ lệ hiện mắc và các yếu
tố liên quan đến bệnh chàm tay của nhân viên y tế tại quận 5 thành phố
Hồ Chí Minh, đồng thời xác định hiệu quả của truyền thông giáo dục
sức khỏe đến kiến thức và hành vi phòng ngừa bệnh chàm tay. Kết quả
nghiên cứu đã trả lời đủ 3 mục tiêu cụ thể:
1. Tỉ lệ hiện mắc thời khoảng 1 năm bệnh chàm tay của nhân viên y
tế tại quận 5 thành phố Hồ Chí Minh năm 2013 là 15,6%.
2.

Các yếu tố liên quan đến bệnh chàm tay của nhân viên y tế tại
quận 5 thành phố Hồ Chí Minh gồm: cơ địa dị ứng (PR=1,7;
KTC95%: 1,1-2,7; p=0,03), mức độ rửa tay (nhóm rửa tay 6-10


×