Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Bước đầu đánh giá kết quả đo PH - trở kháng 24 giờ ở bệnh nhân trào ngược dạ dày - thực quản kháng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.32 KB, 8 trang )

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐO PH - TRỞ KHÁNG 24 GIỜ Ở
BỆNH NHÂN TRÀO NGƯỢC DẠ DÀY
- THỰC QUẢN KHÁNG TRỊ
1

Đào Việt Hằng1,2, Hoàng Bảo Long1
Viện Nghiên cứu và Đào tạo Tiêu hóa, Gan mật
2
Trường Đại học Y Hà Nội

Trào ngược dạ dày-thực quản (GERD) có xu hướng tăng nhanh ở Việt Nam. Đồng thuận Lyon 2018 khuyến
cáo đo PH - trở kháng thực quản 24 giờ để chẩn đoán GERD. Nghiên cứu đánh giá kết quả đo PH - trở kháng
24 giờ ở bệnh nhân GERD kháng trị thuốc ức chế bơm proton (PPI) và khảo sát liên quan với nội soi và đo áp
lực và nhu động thực quản. Kết quả thu tuyển được 37 bệnh nhân (13 nam và 24 nữ, tuổi trung bình 43,3 ±
10,3). 21 bệnh nhân có thời gian thực quản tiếp xúc axít bất thường (TXAXBT) (trung vị 41,6%, min-max 6,2%90,1%). Bệnh nhân TXAXBT bị viêm thực quản trào ngược và thoát vị hoành nhiều hơn (66,7% so với 50%, và
14,3% so với 0%), có áp lực tích hợp khi nghỉ trong 4 giây (IRP4s) của cơ thắt thực quản dưới thấp hơn (IRP4s
trung vị: 4,9 so với 12,4 mmHg) và tỷ lệ giảm nhu động thực quản cao hơn (52,4% so với 31,2%) (tất cả p >
0,05). Đo PH - trở kháng 24 giờ là công cụ hữu ích trong chẩn đoán GERD, đặc biệt là GERD kháng trị PPI.
Từ khóa: trào ngược dạ dày-thực quản, kháng trị PPI, đo PH - trở kháng.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trào ngược dạ dày - thực quản (GERD)
được định nghĩa là “rối loạn trong đó các chất
từ dạ dày lên thực quản gây các triệu chứng
khó chịu và/hoặc biến chứng” (đồng thuận
Montreal) [1]. Các nghiên cứu tại khu vực
Đông Nam Á báo cáo tỷ lệ bệnh nhân nghi mắc
GERD là 5% - 10,1% và có xu hướng gia tăng
[2].


Đồng thuận Lyon (2018) thống nhất tiêu
chuẩn chẩn đoán GERD dựa trên kết quả nội
soi thực quản-dạ dày và đo pH - trở kháng
24 giờ: bệnh nhân được chẩn đoán xác định
GERD bệnh lý khi (1) nội soi có thực quản
Barrett đoạn dài, viêm thực quản Los Angeles
C/D, hoặc hẹp thực quản, hoặc (2) khi thời
gian tiếp xúc axít > 6% trên kết quả đo pH - trở
Tác giả liên hệ: Đào Việt Hằng, Trường Đại học Y
Hà Nội
Email:
Ngày nhận: 18/03/2019
Ngày được chấp nhận: 18/04/2019

TCNCYH 119 (3) - 2019

kháng 24 giờ [3].
Kỹ thuật đo pH - trở kháng 24 giờ được đưa
vào ứng dụng trong chẩn đoán GERD trong
khoảng 20 năm trở lại đây. Nó được coi là tiêu
chuẩn vàng trong các kỹ thuật chẩn đoán vì
cung cấp bằng chứng trực tiếp về cơn trào
ngược và sự xuất hiện của dịch axít/kiềm trong
lòng thực quản, do đó, có thể phát hiện GERD
ở cả những bệnh nhân không có tổn thương
viêm thực quản trên nội soi. Bệnh nhân mang
một catheter qua đường mũi xuống thực quản
và dạ dày trong vòng 24 giờ. Tín hiệu trở
kháng và pH trong lòng thực quản sẽ được ghi
nhận vào một thiết bị mang theo người, sau đó

được chuyển sang phần mềm trên máy tính
để phân tích kết quả. Đo pH - trở kháng 24
giờ cho phép nhận định số cơn trào ngược,
tính chất dịch trào ngược, thời gian thực quản
tiếp xúc với dịch axít và mức độ liên quan tới
triệu chứng lâm sàng. Tuy nhiên, kỹ thuật này
có chi phí cao và tốn thời gian, do đó được
lựa chọn chỉ định trong các trường hợp nghi
33


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
ngờ GERD ngoài thực quản, bệnh nhân kháng
trị với thuốc ức chế bơm proton (PPI) hoặc có
chỉ định phẫu thuật [4]. Trên bệnh nhân người
châu Á, kháng trị với PPI được định nghĩa là
triệu chứng không thuyên giảm sau 8 tuần sử
dụng PPI với liều chuẩn (omeprazole 20 mg/
ngày, esomeprazole 40 mg/ngày, lansoprazole
30 mg/ngày, pantoprazole 40 mg/ngày,
rabeprazole 20 mg/ngày) [5].
Từ 2018, kỹ thuật đo pH - trở kháng 24 giờ
bắt đầu được triển khai tại Viện Nghiên cứu và
Đào tạo Tiêu hóa, Gan mật. Sau một thời gian
triển khai, chúng tôi tiến hành một nghiên cứu
hồi cứu với mục tiêu bước đầu đánh giá kết
quả đo pH - trở kháng thực quản 24 giờ ở bệnh
nhân GERD kháng trị với PPI và khảo sát mối
liên quan với lâm sàng, nội soi đường tiêu hóa
trên, và đo áp lực và nhu động thực quản độ

phân giải cao (HRM).

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Một nghiên cứu quan sát hồi cứu được
tiến hành tại Viện Nghiên cứu và Đào tạo Tiêu
hóa, Gan mật từ tháng 04/2018 đến 11/2018
trên bệnh nhân được chẩn đoán GERD dựa
vào triệu chứng lâm sàng (điểm GERDQ hoặc
FSSG ≥ 8) hoặc/và kết quả nội soi (có viêm
thực quản trào ngược), đã được điều trị theo
đúng phác đồ nhưng kháng trị với PPI. Dựa
theo hồ sơ bệnh án, có 37 bệnh nhân đủ tiêu
chuẩn.
2. Quy trình
Nghiên cứu thu thập thông tin về lâm sàng,
các bảng điểm về GERD (GERDQ [6] và FSSG
[7]), kết quả nội soi đường tiêu hóa trên, HRM,
và đo pH - trở kháng 24 giờ. Các thông tin
được điền lại vào một bệnh án nghiên cứu thiết
kế sẵn. Kỹ thuật HRM được tiến hành trên hệ
thống Solar GI của Laborie, sử dụng catheter
bơm nước 22 kênh áp lực. Kỹ thuật đo pH 34

trở kháng 24 giờ được tiến hành trên hệ thống
Ohmega của Laborie, sử dụng catheter có 6
kênh trở kháng và 1 kênh pH. Các kênh trở
kháng được đặt ở vị trí phía trên cách cơ thắt
thực quản dưới 3 cm, 5 cm, 7 cm, 9 cm, 13 cm,
và 17 cm.

Đánh giá kết quả nội soi và HRM
Chẩn đoán mức độ viêm thực quản trên nội
soi dựa trên phân loại Los Angeles [8]. Tình
trạng nhu động thực quản và cơ thắt thực quản
dưới được đánh giá theo phân loại Chicago
3.0 [9]. Rối loạn giảm nhu động thực quản bao
gồm nhu động không hiệu quả (IEM) và mất
nhu động hoàn toàn.
Đánh giá kết quả đo PH - trở kháng 24
giờ
Các thông số được khảo sát bao gồm: Tỷ
lệ phần trăm thời gian thực quản tiếp xúc với
axít (pH < 4,0) trong 24 giờ (gọi tắt là AET), số
cơn trào ngược (được định nghĩa là có hiện
tượng giảm trở kháng >50% so với trở kháng
nền trên ít nhất 2 kênh trở kháng liên tiếp, và
bắt đầu xuất hiện từ kênh trở kháng xa nhất),
và điểm DeMeester.
Thời gian thực quản tiếp xúc axít bất thường
(TXAXBT) được chẩn đoán khi bệnh nhân có
AET > 6% [3]. Những bệnh nhân không thuộc
nhóm TXAXBT có thể được xếp vào nóng rát
chức năng hoặc thực quản tăng nhạy cảm.
Thực quản tăng nhạy cảm được định nghĩa
là: không có trào ngược bệnh lý (AET < 6%)
nhưng có liên quan giữa triệu chứng với cơn
trào ngược [10, 11]. Nóng rát chức năng được
định nghĩa là: có triệu chứng nóng rát với AET
< 4%, không có liên quan giữa triệu chứng với
cơn trào ngược, không có tổn thương trên nội

soi, loại trừ viêm thực quản tăng bạch cầu ái
toan và các rối loạn nhu động thực quản nặng
[10].
3. Nhập liệu và xử lý số liệu
Số liệu trong bệnh án nghiên cứu sẽ được
TCNCYH 119 (3) - 2019


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
nhập vào cơ sở dữ liệu điện tử bằng phần
mềm EpiData Entry 3.1 (EpiData Association)
và được xử lý bằng R 3.5.1. Các biến định tính
được biểu diễn dưới dạng số đếm và tỷ lệ phần
trăm. Các biến liên tục được biểu diễn dưới
dạng trung bình (độ lệch chuẩn) hoặc trung vị
(khoảng tứ phân vị). Khác biệt giữa các tỷ lệ
được kiểm định bằng khi-bình phương và giữa
các trung bình được kiểm định bằng MannWhitney U test. Tất cả các kiểm định đều chọn
mức có ý nghĩa thống kê là p < 0,05.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng
Đạo đức Trường Đại học Y Hà Nội. Chỉ có
nhân viên nhóm nghiên cứu mới được truy cập
vào hồ sơ nghiên cứu. Cơ sở dữ liệu dùng để
phân tích số liệu không bao gồm thông tin có
thể xác định được danh tính của bệnh nhân.
Khi công bố, kết quả phân tích không bao gồm
danh tính của từng bệnh nhân cụ thể.

III. KẾT QUẢ

Từ tháng 04/2018 đến tháng 11/2018,
nghiên cứu thu tuyển được 37 bệnh nhân (13
nam và 24 nữ) với tuổi trung bình là 43,3 ±
10,3 (min-max 20 - 59). Điểm FSSG trung bình
của tất cả nhóm bệnh nhân là 18,1 ± 8,8, điểm
GERDQ trung bình là 8,4 ± 4,2. Dựa trên kết
quả đo PH - trở kháng thực quản 24 giờ, 21
bệnh nhân được chẩn đoán là có thời gian
thực quản tiếp xúc axít bất thường. Thời gian
niêm mạc thực quản tiếp xúc với axít trung vị là
41,6 (min-max 6,2 - 90,1) và điểm DeMeester
trung vị là 134 (min-max 17,5 - 329).
Bảng 1 so sánh các đặc điểm nhân khẩu
học, lâm sàng, và pH - trở kháng 24 giờ giữa
hai nhóm TXAXBT và không TXAXBT. Không
có khác biệt về giới, tuổi, BMI, tỷ lệ các triệu
chứng cơ năng, điểm FSSG và GERDQ giữa
hai nhóm. Số cơn trào ngược ở nhóm TXAXBT
cao hơn nhóm không TXAXBT có ý nghĩa
thống kê.

Bảng 1. Đặc điểm nhân khẩu học, lâm sàng, và pH - trở kháng 24 giờ giữa hai nhóm
TXAXBT và không TXAXBT
TXAXBT
(n = 21)

Không TXAXBT
(n = 16)

p*


Giới, nam (%)

8 (38,1%)

5 (31,2%)

0,93

Tuổi, trung bình (SD)

41,5 (10,7)

45,7 (9,44)

0,21

2 (9,5%)

0 (0%)

BMI (%)


Thiếu cân



Bình thường


15 (71,4%)

13 (81,2%)



Thừa cân / béo phì

4 (19,0%)

3 (18,8%)

FSSG (tổng), trung bình (SD)

19,1 (9,49)

16,8 (7,87)

0,54

GERDQ, trung bình (SD)

8,29 (4,14)

8,50 (4,37)

0,90

41,6
(6,20 - 90,1)


0,500
(0,00 - 4,80)

< 0,001

AET (%), trung vị (min-max)
TCNCYH 119 (3) - 2019

0,44

35


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TXAXBT
(n = 21)

Không TXAXBT
(n = 16)

p*

Điểm DeMeester, trung vị
(min-max)

134
(17,5 - 329)

2,02

(0,200 - 17,4)

< 0,001

Số cơn trào ngược, trung bình
(min-max)

19,0
(2,00 - 69,0)

11,0
(0,00 - 37,0)

0,03

SD: độ lệch chuẩn; BMI: chỉ số khối cơ thể; GERDQ: bộ câu hỏi trào ngược dạ dày-thực quản;
FSSG: bộ câu hỏi tần suất triệu chứng của GERD; AET: thời gian thực quản tiếp xúc với axít;
TXAXBT: thời gian thực quản tiếp xúc axít bất thường.
*: các giá trị được kiểm định sự khác biệt bằng khi bình phương cho biến phân loại và MannWhitney U test cho biến liên tục; các giá trị có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) được in đậm.
Trên nội soi thực quản-dạ dày, viêm thực quản trào ngược là tổn thương thường gặp nhất
(66,7% ở nhóm GERD bệnh lý và 50% ở nhóm không phải GERD), chủ yếu là độ A và độ B theo
phân loại Los Angeles. Không có khác biệt về tỷ lệ viêm thực quản giữa hai nhóm TXAXBT và
không TXAXBT. Tổn thương thực quản Barrett hiếm gặp, và không có Barrett đoạn dài. Có 3 bệnh
nhân ở nhóm TXAXBT có thoát vị hoành, tuy nhiên không có khác biệt có ý nghĩa thống kê (Bảng
2).
Bảng 2. Kết quả nội soi thực quản-dạ dày giữa hai nhóm TXAXBT và không TXAXBT
TXAXBT
(n = 21)

Không TXAXBT

(n = 16)

Tổng
(n = 37)

Viêm thực quản (%)

14 (66,7%)

8 (50,0%)

22 (59,5%)



Độ A

10 (47,6%)

5 (31,2%)

15 (40,5%)



Độ B

3 (14,3%)

2 (12,5%)


5 (13,5%)



Độ C

1 (4,8%)

1 (6,2%)

2 (5,4%)

Thực quản Barrett
đoạn ngắn (%)

1 (4,8%)

1 (6,2%)

2 (5,4%)

Thoát vị hoành (%)

3 (14,3%)

0 (0%)

3 (8,1%)


p*

0,49

0,33

*: các giá trị được kiểm định sự khác biệt bằng khi-bình phương. Không kiểm định cho Thực
quản Barrett đoạn ngắn vì số lượng bệnh nhân có tổn thương quá nhỏ.
Trên đo áp lực và nhu động thực quản độ phân giải cao, áp lực tích hợp khi nghỉ trong 4 giây của
cơ thắt thực quản dưới (IRP 4s) và áp lực co bóp đoạn xa của thực quản (DCI) thấp hơn (nhưng
không có ý nghĩa thống kê) ở nhóm TXAXBT. Áp lực nghỉ nền và nhịp nuốt của cơ thắt thực quản
dưới không có khác biệt. Tỷ lệ bệnh nhân có rối loạn giảm nhu động thực quản (52,4%) cao hơn ở
nhóm TXAXBT (31,2%), tuy nhiên không có ý nghĩa thống kê (Bảng 3).

36

TCNCYH 119 (3) - 2019


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 3. Kết quả đo áp lực và nhu động thực quản độ phân giải cao giữa hai nhóm TXAXBT
và không TXAXBT
TXAXBT
(n = 21)

Không TXAXBT
(n = 16)

p*


Áp lực nghỉ nền của LES (mmHg),
trung vị (min - max)

13,4
(5,10 - 33,5)

15,4
(3,80 - 38,8)

0,39

Áp lực nghỉ nhịp nuốt của LES
(mmHg), trung vị (min - max)

14,3
(6,70 - 33,5)

12,5
(0,20 - 53,5)

0,74

IRP 4s (mmHg), trung vị (min - max)

4,20
(1,50 - 16,3)

5,55
(0,00 - 51,6)


0,53

DCI (mmHg.cm.s), trung vị (min - max)

396
(7,00 - 1410)

842
(10,0 - 2090)

0,12

11 (52,4%)
1 (4,8%)
10 (47,6%)

5 (31,2%)
1 (6,2%)
4 (25,0%)

0,34

Rối loạn giảm nhu động (%)
Mất nhu động hoàn toàn
Nhu động không hiệu quả

LES: cơ thắt thực quản dưới; IRP 4s: áp lực tích hợp khi nghỉ trong 4 giây của cơ thắt thực quản
dưới; DCI: áp lực co bóp đoạn xa của thực quản.
*: các giá trị được kiểm định sự khác biệt bằng khi-bình phương cho biến phân loại và MannWhitney U test cho biến liên tục.


IV. BÀN LUẬN
Tại Việt Nam, GERD được chẩn đoán chủ
yếu dựa vào sự xuất hiện triệu chứng lâm sàng
điển hình (nóng rát, trào ngược), hình ảnh tổn
thương trên nội soi hoặc đáp ứng của bệnh
nhân với các thuốc ức chế bơm proton (PPI)
khi điều trị thử. Bệnh nhân nghi mắc GERD
trên lâm sàng và nội soi sẽ được điều trị PPI
trong thời gian 4 - 8 tuần sau đó đánh giá lại
[5].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, điểm
GERDQ và FSSG trung bình đều trên ngưỡng
chẩn đoán và không có khác biệt giữa 21 bệnh
nhân có thời gian thực quản tiếp xúc axít bất
thường (TXAXBT) và 16 bệnh nhân không phải
TXAXBT. Trong nghiên cứu Diamond (2010),
Dent và cộng sự sử dụng đo pH - trở kháng
48 giờ để khảo sát các bệnh nhân có chẩn
đoán GERD trên lâm sàng được điều trị PPI.
Kết quả cho thấy triệu chứng lâm sàng, điểm
TCNCYH 119 (3) - 2019

câu hỏi trào ngược, và đáp ứng với PPI đều có
độ nhạy và độ đặc hiệu không cao trong chẩn
đoán GERD [12]. Trên thực tế, bệnh nhân nóng
rát chức năng cũng có biểu hiện giống GERD
và hai tình trạng này chỉ có thể phân biệt dựa
trên kết quả đo pH - trở kháng 24 giờ [4, 11].
Ở nhóm bệnh nhân TXAXBT, 33,3% không
có viêm thực quản trên nội soi (NERD). Tỷ lệ

này trong nghiên cứu của Ribolsi và cộng sự
(2018) trên bệnh nhân GERD kháng trị là 32%
[13]. Nhóm bệnh nhân này có thời gian thực
quản tiếp xúc axít bất thường nhưng chưa
hình thành tổn thương đại thể quan sát được
nội soi mà chỉ có thể phát hiện trên mô bệnh
học [14] hoặc khi đo tính thấm của niêm mạc
thực quản [15]. Như vậy, để có thể phát hiện
và tối ưu hóa điều trị cho bệnh nhân NERD, đo
pH - trở kháng 24 giờ là thăm dò cần thiết.
Trong nhóm bệnh nhân có thời gian tiếp
37


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
xúc axít bình thường (nằm trong giới hạn sinh
lý), có tới 50% bệnh nhân có viêm thực quản
trên nội soi. Nguyên nhân có thể bao gồm: tình
trạng tiếp xúc kéo dài với dịch axít yếu (pepsin
trong dịch trào ngược hoạt động ở pH < 6 và
khả năng lành của niêm mạc thực quản bị ức
chế ở pH < 6,5 [16]), viêm thực quản do trào
ngược dịch mật, viêm thực quản tăng bạch cầu
ái toan, hoặc viêm thực quản do các nguyên
nhân khác. Điều này đặt ra thách thức đối với
các nhà lâm sàng và phần nào lí giải việc bệnh
nhân không đáp ứng với điều trị bằng PPI. Do
vậy, đồng thuận Lyon vẫn khuyến cáo sử dụng
nội soi thực quản-dạ dày để đánh giá biến
chứng GERD và loại trừ các chẩn đoán khác

[3].
Về mặt giải phẫu và chức năng của thực
quản, các yếu tố nguy cơ của GERD bao gồm
thoát vị hoành, rối loạn giảm nhu động thực
quản, và giảm áp lực cơ thắt thực quản dưới.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, sự khác biệt
giữa hai nhóm TXAXBT và không TXAXBT đều
không có ý nghĩa thống kê. Sự xuất hiện của
các yếu tố nguy cơ này không giúp chẩn đoán
xác định GERD, nhưng được vào đồng thuận
Lyon như một nhóm bằng chứng ủng hộ [3].

V. KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu bước đầu khảo sát giá
trị của kỹ thuật đo pH - trở kháng 24 giờ trên
bệnh nhân GERD kháng trị, chúng tôi có thể
xác định được các bệnh nhân có thời gian
thực quản tiếp xúc axít bất thường và các bệnh
nhân không có TXAXBT. Giữa hai nhóm bệnh
nhân không có khác biệt có ý nghĩa thống kê
về lâm sàng, tỷ lệ viêm thực quản trào ngược,
thoát vị hoành, áp lực cơ thắt thực quản dưới,
và tỷ lệ rối loạn giảm nhu động thực quản. Như
vậy, đo pH - trở kháng 24 giờ là công cụ giúp
chẩn đoán xác định bệnh trào ngược dạ dày
- thực quản đặc biệt trong những trường hợp

38

kháng trị PPI.


Lời cảm ơn
Nhóm nghiên cứu xin cảm ơn các bác sỹ
và điều dưỡng đã đánh giá và ghi nhận chi tiết
về tình trạng của bệnh nhân để bộ số liệu hồi
cứu được đầy đủ và chính xác. Tác giả tuyên
bố không có bất kì xung đột lợi ích nào từ kết
quả nghiên cứu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vakil N, van Zanten SV, Kahrilas P
et al. (2006). The Montreal definition and
classification of gastroesophageal reflux
disease: a global evidence-based consensus.
Am J Gastroenterol, 101, 1900-20; quiz 1943.
DOI: 10.1111/j.1572-0241.2006.00630.x.
2. Eusebi LH, Ratnakumaran R, Yuan
Y et al. (2018). Global prevalence of, and
risk factors for, gastro-oesophageal reflux
symptoms: a meta-analysis. Gut, 67, 430–440.
DOI: 10.1136/gutjnl-2016-313589.
3. Gyawali CP, Kahrilas PJ, Savarino E
et al. (2018). Modern diagnosis of GERD: the
Lyon Consensus. Gut, 67, 1351–1362. DOI:
10.1136/gutjnl-2017-314722.
4. Hunt R, Armstrong D, Katelaris P et al.
(2017). World Gastroenterology Organisation
Global Guidelines: GERD Global Perspective
on Gastroesophageal Reflux Disease. J Clin
Gastroenterol, 51, 467 – 478. DOI: 10.1097/

MCG.0000000000000854.
5. Fock KM, Talley N, Goh KL et al. (2016).
Asia-Pacific consensus on the management of
gastro-oesophageal reflux disease: an update
focusing on refractory reflux disease and
Barrett’s oesophagus. Gut, 65, 1402 – 1415.
DOI: 10.1136/gutjnl-2016-311715.
6. Jones R, Junghard O, Dent J et al.
(2009). Development of the GerdQ, a tool for
the diagnosis and management of gastroTCNCYH 119 (3) - 2019


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
oesophageal reflux disease in primary care.
Aliment Pharmacol Ther, 30, 1030 – 1038.
DOI: 10.1111/j.1365-2036.2009.04142.x.
7. Kusano M, Shimoyama Y, Sugimoto
S et al. (2004). Development and evaluation
of FSSG: frequency scale for the symptoms of
GERD. Journal of gastroenterology, 39, 888 –
891. DOI: 10.1007/s00535-004-1417-7.
8. Lundell LR, Dent J, Bennett JR
et al. (1999). Endoscopic assessment of
oesophagitis: clinical and functional correlates
and further validation of the Los Angeles
classification. Gut, 45, 172 – 180.
9. Kahrilas PJ, Bredenoord AJ, Fox
M et al. (2015). The Chicago Classification
of esophageal motility disorders, v3.0.
Neurogastroenterology and motility : the

official journal of the European Gastrointestinal
Motility Society, 27, 160 – 174. DOI: 10.1111/
nmo.12477.
10. Aziz Q, Fass R, Gyawali CP et al.
(2016). Functional Esophageal Disorders.
Gastroenterology.
DOI:
10.1053/j.
gastro.2016.02.012.
11. Schmulson M (2018). How to use Rome
IV criteria in the evaluation of esophageal
disorders. Curr Opin Gastroenterol, 34, 258 –
265. DOI: 10.1097/MOG.0000000000000443.
12. Dent J, Vakil N, Jones R et al.
(2010). Accuracy of the diagnosis of GORD
by questionnaire, physicians and a trial of

TCNCYH 119 (3) - 2019

proton pump inhibitor treatment: the Diamond
Study. Gut, 59, 714 – 721. DOI: 10.1136/
gut.2009.200063.
13. Ribolsi M, Cicala M, Zentilin P et al.
(2018). Prevalence and clinical characteristics
of refractoriness to optimal proton pump
inhibitor therapy in non-erosive reflux disease.
Aliment Pharmacol Ther, 48, 1074 – 1081.
DOI: 10.1111/apt.14986.
14. Krugmann J, Neumann H, Vieth M
et al. (2013). What is the role of endoscopy

and oesophageal biopsies in the management
of GERD? Best practice & research. Clinical
gastroenterology, 27, 373 – 385. DOI:
10.1016/j.bpg.2013.06.010.
15. Matsumura T, Ishigami H, Fujie M et
al. (2017). Endoscopic-Guided Measurement
of Mucosal Admittance can Discriminate
Gastroesophageal Reflux Disease from
Functional Heartburn. Clinical and translational
gastroenterology, 8, e94. DOI: 10.1038/
ctg.2017.22.
16. Pearson JP, Parikh S, Orlando RC
et al. (2011). Review article: reflux and its
consequences--the laryngeal, pulmonary and
oesophageal

manifestations.

Conference

held in conjunction with the 9th International
Symposium

on

Human

Pepsin

(ISHP)


Kingston-upon-Hull, UK, 21-23 April 2010.
Aliment Pharmacol Ther, 33 Suppl 1, 1 – 71.
DOI: 10.1111/j.1365-2036.2011.04581.x.

39


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

Summary
INITIAL EVALUATION OF 24-HOUR ESOPHAGEAL PHIMPEDANCE MONITORING ON PPI-REFRACTORY
GASTROESOPHAGEAL REFLUX DISEASE PATIENTS
The prevalence of gastroesophageal reflux disease (GERD) is increasing in Vietnam. The
2018 Lyon consensus recommends 24-hour esophageal pH-impedance monitoring to diagnose
GERD. Our study evaluated the results of 24-hour pH-impedance monitoring in proton pump
inhibitor (PPI)-refractory GERD and determined the relationship with endoscopy and highresolution manometry. The study recruited 37 patients (13 males and 24 females, the mean age
43.3 ± 10.3). Twenty-one patients had abnormal acid exposure time (AAE) (median 41.6%, minmax 6.2%-90.1%). AAE patients had higher proportions of reflux esophagitis and hiatal hernia
(66.7% versus 50%, and 14.3% verseus 0%), lower integrated resting pressure in 4 seconds
(IRP4s) of the lower esophageal sphincter (IRP4s median: 4.9 versus 12.4 mmHg) and a higher
proportion of esophageal hypomotility (52.4% versus 31.2%) (all had p > 0.05). 24-hour pHimpedance monitoring is a useful tool to diagnose GERD, especially in PPI-refractory GERD.
Keywords: gastroesophageal reflux disease, PPI-refractory, pH-impedance

40

TCNCYH 119 (3) - 2019




×