Hå ViÕt HiÕu
khoa häc
LuËn v¨n th¹c sÜ
MỞ ĐẦU
Nghiên cứu về bệnh sốt rét và phòng chống bệnh sốt rét đã có quá trình
lịch sử lâu đời. Bệnh sốt rét vẫn còn là một bệnh nguy hiểm và là gánh nặng
bệnh tật đối với nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Hàng năm,
trên thế giới có khoảng 300500 triệu ca mắc bệnh sốt rét và ít nhất một triệu
trong số đó tử vong. Mặc dù đã có những nỗ lực lớn trong công tác điều trị và
trong phòng chống véc tơ, trong vòng 30 năm nay tỷ lệ nhiễm mới vẫn tăng
lên, do điều kiện kinh tế xã hội, ký sinh trùng kháng thuốc và côn trùng
kháng hóa chất.
Tại Việt Nam, năm 2000, số ca mắc bệnh sốt rét là 293.016 ca trong đó
có 148 ca tử vong. Đến năm 2008, số ca sốt rét đã giảm xuống còn 19.485 ca
trong đó có 14 ca tử vong. Để thu được thành quả này có sự đóng góp đáng kể
của hoạt động nghiên cứu và phòng chống véc tơ sốt rét. Hiện nay, ở Việt
Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, chương trình phòng chống sốt rét
đang sử dụng một số hóa chất thuộc nhóm pyrethroid tổng hợp để phòng
chống véc tơ sốt rét như alphacypermethrin, lambdacyhalothrin, permethrin các
hóa chất này chủ yếu để tẩm màn và phun tồn lưu. Tuy vậy, sau một thời
gian dài sử dụng hóa chất diệt côn trùng trong cả y tế và nông nghiệp có thể
dẫn tới sự thay đổi độ nhạy cảm của véc tơ sốt rét và một số loài muỗi
truyền bệnh làm giảm hiệu lực của hóa chất này. Thông thường muốn đạt
được hiệu quả trong phun hóa chất diệt làm giảm mật độ muỗi đốt người vào
mùa phát triển và đặc biệt khi có dịch bệnh do muỗi truyền người ta phải tăng
liều lượng hóa chất hoặc thay đổi chủng loại hóa chất diệt. Việc sử dụng hóa
1
Hå ViÕt HiÕu
khoa häc
LuËn v¨n th¹c sÜ
chất đã tạo áp lực chọn lọc đối với quần thể và có thể làm thay đổi cấu trúc
di truyền của quần thể đó.
Theo thông báo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO,1992), trong số 200
loài động vật chân đốt có tầm quan trọng về y học kháng hóa chất có tới 50%
là muỗi truyền bệnh sốt rét, sốt xuất huyết và giun chỉ. Chính vì vậy việc xác
định tính kháng đối với các véc tơ sốt rét là yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao
hiệu quả của công tác phòng chống sốt rét.
Có nhiều phương pháp khác nhau để xác định tính kháng hóa chất diệt
côn trùng ở véc tơ sốt rét như phương pháp thử sinh học, phương pháp hóa
sinh miễn dịch và phân tử. Phương pháp hóa sinh đã được sử dụng nhiều trong
các nghiên cứu xác định tính kháng của các véc tơ sốt rét. Năm 1986,
Hemingway và cộng sự đã nghiên cứu áp dụng phương pháp hóa sinh trong
việc xác định tính kháng [38]. Năm 1988 Brogden và cộng sự đã nhận biết cơ
chế kháng hóa chất nhờ phương pháp thử hóa sinh với các quần thể muỗi An.
albimanus kháng hóa chất thuộc nhóm carbamat và phốt pho hữu cơ [29]. Năm
1990, Lee đưa ra phương pháp hóa sinh đơn giản để xác định tính kháng dựa
vào hoạt tính của enzym esterase [42].
Xác định, đánh giá hiệu quả các loại hóa chất diệt nhằm đánh giá và lựa
chọn các loại hóa chất diệt côn trùng phù hợp với từng loại véc tơ sốt rét cũng
như tình trạng kháng hóa chất và biện pháp đối phó. Trong những năm gần
đây, việc sản xuất các loại hóa chất mới có giảm sút đi vì lý do công nghiệp
và giá chi phí đặc biệt khi áp dụng trên phạm vi rộng lớn.
Việc xác định tính kháng của véc tơ sốt rét tại Việt Nam chủ yếu thực
hiện bằng phương pháp thử sinh học tại thực địa. Phương pháp thử sinh học
2
Hå ViÕt HiÕu
khoa häc
LuËn v¨n th¹c sÜ
là để phát hiện kháng hóa chất ở cá thể côn trùng bằng đo lường sự thay đổi
trong một khoảng thời gian yêu cầu cần thiết cho một loại hóa chất để đạt
được mục tiêu và hiệu quả, phương pháp này có độ tin cậy cao, kỹ thuật đơn
giản, kinh tế.
Trong bối cảnh đó, chúng tôi tiến hành đề tài:
“Nghiên cứu tính kháng thuốc ở một số loài muỗi truyền bệnh tại Việt Nam”.
Mục tiêu của đề tài:
Xác định thành phần loài tại các điểm nghiên cứu.
Xác định mức độ kháng hóa chất của véc tơ sốt rét.
Kết quả xác định kháng hóa chất của các véc tơ sốt rét đóng góp đáng
kể cho chương trình phòng chống sốt rét Quốc gia trong việc lựa chọn hóa
chất diệt muỗi thích hợp cho từng vùng địa lý khác nhau tại Việt Nam.
3
Hå ViÕt HiÕu
khoa häc
LuËn v¨n th¹c sÜ
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình sốt rét trên thế giới
Hàng trăm năm qua bệnh sốt rét có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
kinh tế xã hội trên thế giới với khoảng một nửa dân số thế giới nằm trong
vùng có nguy cơ mắc bệnh sốt rét, đặc biệt ở những nước có thu nhập thấp
như châu Phi. Hàng năm, trên thế giới có khoảng 300500 triệu ca sốt rét và ít
nhất một triệu người trong số đó tử vong. Hầu hết các trường hợp mắc sốt
rét và tử vong là trẻ em và phụ nữ có thai. Mặc dù chúng ta đã có các biện
pháp phòng bệnh thích hợp và thuốc chữa bệnh sốt rét có hiệu quả cao, nhưng
sốt rét vẫn là một bệnh nguy hiểm trên phạm vi toàn cầu .
Hai châu lục có bệnh sốt rét trầm trọng là châu Phi và châu Á. Sự lan
truyền sốt rét ở vùng cận sa mạc Shahara, châu Phi có mặt ở hầu hết mọi nơi,
trong khi đó ở châu Á sự lan truyền lại không hoàn toàn đồng đều gây nên
biến đổi khác nhau về mức độ lan truyền bệnh. Tuy nhiên các chương trình
phòng chống đã có các biện pháp đặc hiệu tương đối giống nhau ở cả hai lục
địa. Vùng cận sa mạc Sahara có véc tơ truyền bệnh chính An. gambiae sensu
lato sinh đẻ ở nơi có tiếp xúc tạm thời với ánh nắng mặt trời như các hồ chứa
nước, vũng nước, vết chân trâu, hố đất. An. funestus cũng gần giống như loài
muỗi trên nhưng chỉ có vai trò khi nào thảm thực vật phát triển. Phức hợp hai
4
Hồ Viết Hiếu
khoa học
Luận văn thạc sĩ
vộct nymbocholantruynbnhkộodivgiithớchtisaostrột
lantruynrngrói chõuPhi,chimti90%gỏnhnngstrộtcatonth
gii.Cỏckhuvckhỏcnhchõu,chõuMLatinh,khuvcTrungụngvn
angbnhhng.Trongs101ncvvựnglónhthmstrộtcúmtthỡ
45ncthuckhuvcchõuPhi,21ncthuckhuvcchõuM,4nc
thucchõuu,14ncthuckhuvcụngaTrungHi,8ncthuckhu
vcụngNam,9nctrongkhuvcTõyThỏiBỡnhDng.
chõu,cbitlcỏcnctrongkhuvctiuvựngsụngMờKụng
tớnhadngsinhhccaAnophelesphongphỳhnnhiusovichõuPhi.Cú
ti20loikhỏcnhaucúthtỡmthycỏcvựngsõu,xacakhuvcnycựng
vimtsloith yu.Cú3loivộctchớnhcúmt,vựngrngnỳicúAn.
dirusvAn.minimus,vựngbinncllAn.epiroticus(trcõygilAn.
sundaicus)[2].TrongúAn.diruslloivộctnguyhimphmvitoncu
nhngch giihn sinhcnhrngrm.Strột nhhngch yun
nhngnhúmngicúcỏchotngliờnquannrng.Trongúquantrng
lcỏcnhúmdõntcthiusvdõndic[14].
Sauhn10nmthchinchngtrỡnhtiờuditstrộttoncu,strột
ócthanhtoỏncỏcncphỏttrinvmtlotcỏckhuvcrngln
cỏcncchõu,chõuM nhitivcnnhitivonm1967.Gia
nhngnm1955vnm1967,sdõnthoỏtkhinguycstrộtótngt220
triungin953triu,t l t vongtstrộtgimxungdi1triu
ngivhuhtlcỏcncnhitichõuPhi[50].
S thnhcụngcachngtrỡnhtiờuditstrộttoncuób nh
hngsõuscdonhngthayisinhhccakớsinhtrựngstrộtvvộct
5
Hå ViÕt HiÕu
khoa häc
LuËn v¨n th¹c sÜ
truyền bệnh. Đến năm 1970, gần 20% trong tổng số các vùng sốt rét lưu hành
đã thấy có sự kháng DDT của các véc tơ sốt rét hay kháng với chloroquine của
kí sinh trùng sốt rét, thậm chí ở một số nơi có mặt cả hai loại kháng này [31].
Hiệu quả giảm sút trong hoạt động chống sốt rét do các vấn đề về kĩ
thuật, sự xuống cấp của các hệ thống y tế cộng đồng, các nguồn tài chính
hạn hẹp đã làm cho vấn đề sốt rét bắt đầu từ từ, thậm chí nhanh chóng quay
lại ở rất nhiều nơi trên thế giới. Sự trỗi dậy trên quy mô rộng lớn của sốt rét
trong những năm 1970 đã thúc đẩy sự quan tâm tới căn bệnh này, và nhận thấy
sự cần thiết phải phát triển các chương trình phòng chống sốt rét quốc gia phù
hợp với tình hình dịch tễ học, năng lực tài chính và nguồn lực con người của
mỗi nước [43]. Vào năm 1978, WHO đã thay đổi chiến lược từ tiêu diệt sốt
rét sang phòng chống sốt rét.
Trước tình hình này, hội nghị các Bộ trưởng bàn về vấn đề sốt rét đã
được tổ chức tại Amsterdam năm 1992. Chiến lược phòng chống sốt rét toàn
cầu (The Global Malaria Control Strategy) đã được thông qua tại hội nghị này.
Mục đích của chiến lược này nhằm ngăn chặn tình trạng tử vong, giảm
tỷ lệ mắc sốt rét và giảm thiểu những thiệt hại về kinh tế, xã hội do sốt rét
gây ra thông qua việc cải thiện nhanh chóng và củng cố năng lực địa phương
trong vấn đề phòng chống sốt rét [54].
Chiến lược mới này khác một cách đáng kể so với cách tiếp cận trước
đó về vấn đề sốt rét. Việc thực thi chương trình phòng chống sốt rét có tính
chất linh hoạt phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Chiến lược này
6
Hå ViÕt HiÕu
khoa häc
LuËn v¨n th¹c sÜ
được phát triển nhằm cung cấp các công cụ mới có khả năng và hiệu quả cao
trong công tác phòng chống sốt rét và duy trì thành quả đạt được.
Như vậy, vấn đề sốt rét đang được phòng chống bằng cách sử dụng các
công cụ hiện thời. Tuy nhiên, sự kháng của kí sinh trùng với các loại thuốc sốt
rét, sự kháng của véc tơ truyền sốt rét với hoá chất diệt côn trùng và nhu cầu
cần thiết phải cải thiện các kĩ thuật chẩn đoán sốt rét đang đặt ra đòi hỏi phải
phát triển các nghiên cứu trong tương lai, cung cấp các công cụ mới trong việc
phòng chống sốt rét. Các chương trình hợp tác quốc tế, sự cố gắng nỗ lực của
các chính phủ, sự tham dự của các cấp chính quyền địa phương và cộng đồng
là điều quan trọng nhằm thu được thành tựu cao nhất trong công cuộc phòng
chống sốt rét.
Bảng 1: Hóa chất sử dụng tẩm màn phổ biến ở các nước:
Hóa chất
Dạng hóa chất
Liều lượng
Permethrin
50EC
500mg/m2
Etonfenprox
10EW
200mg/m2
Lambdacyhalothrin
2.5CS
30mg/m2
Alphacypermethrin
10SC
25mg/m2
Deltamethrin
1SC
20mg/m2
Cyfluthrin
10EW
3050mg/m2
Bifenthrin
50EC
50mg/m2
1.2 . Tình hình sốt rét tại Việt Nam.
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới ở Đông Nam Á
thuộc cực Đông của bán đảo Đông Dương. Năm 2001, trong số khoảng 80
7
Hå ViÕt HiÕu
khoa häc
LuËn v¨n th¹c sÜ
triệu dân cả nước lúc bấy giờ có khoảng 40 triệu dân sinh sống trong vùng sốt
rét lưu hành [40]. Các vùng lưu hành bệnh bao gồm vùng rừng núi phía Bắc,
ven dọc Trường sơn, cao nguyên miền Trung, khu vực Đông nam, Tây nam và
các miền Duyên Hải.
Trước năm 1992, tình hình sốt rét rất nghiêm trọng, hàng nghìn ca chết
mỗi năm, tỷ lệ mắc sốt rét tăng và nhanh chóng làm cho sốt rét kháng thuốc.
Tuy nhiên sau hơn 10 năm, chương trình quốc gia phòng chống sốt rét của
Việt Nam đã có nhiều tiến bộ, tỷ lệ chết do bệnh sốt rét giảm 96% và tỷ lệ
mắc giảm 78%. Năm 2000, số ca mắc sốt rét tại Việt Nam là 293.016 ca trong
đó có 148 ca tử vong. Đến năm 2007, số ca sốt rét đã giảm xuống còn 70.910
ca trong đó 20 ca tử vong. Tình hình sốt rét hiện nay tương đối ổn định nhưng
vẫn còn là mối đe dọa sức khỏe với người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới và dân di cư.
Tuy nhiên, cũng như nhiều nước khác trên thế giới, tình trạng kháng
thuốc của kí sinh trùng cũng như kháng hoá chất diệt côn trùng của véc tơ sốt
rét đang đặt ra đòi hỏi phải phát triển các nghiên cứu trong tương lai, cung cấp
các công cụ mới trong phòng chống sốt rét ở Việt Nam.
Bảng 2: Hóa chất sử dụng tẩm màn và phun tồn lưu ở Việt Nam
Năm
20022006
Dạng hóa
Nồng
chất
độ
Alphacypermethrin
SC
100 g/l
Lambdacyhalothrin
WP
100 g/l
Tên hóa chất
ứng dụng
Tẩm màn + phun tồn
lưu
Phun tồn lưu + tẩm
màn
8
Hå ViÕt HiÕu
khoa häc
2007
2010
LuËn v¨n th¹c sÜ
Lambdacyhalothrin
CS
25 g/l
Alphacypermethrin
SC
100 g/l
Lambdacyhalothrin
CS
100 g/l
Lambdacyhalothrin
WP
100 g/l
Lambdacyhalothrin
CS
25 g/l
Phun tồn lưu + tẩm
màn
Tẩm màn + phun tồn
lưu
Phun tồn lưu + tẩm
màn
Phun tồn lưu + tẩm
màn
Phun tồn lưu + tẩm
màn
1.3. Tình trạng kháng hóa chất diệt của véc tơ truyền bệnh
Véc tơ là một động vật chân khớp hút máu, bảo đảm sự truyền sinh học
tích cực tác nhân gây bệnh từ động vật này sang động vật khác (theo
F.Rodhain và C.Peres, 1985).
Véc tơ chính đóng vai trò truyền bệnh chủ yếu trong mọi hoàn cảnh,
quanh năm mà điều kiện cho phép. Véc tơ phụ cùng với véc tơ chính duy trì
lan truyền sốt rét ở địa phương và vai trò truyền bệnh hạn chế nếu không có
vector chính. Theo Mac Donald (1957) thì một loài Anopheles được xác định
véc tơ sốt rét: Có thoa trùng trong tuyến nước bọt; ái tính với máu người (ưa
đốt người); tần số đốt người cao, tuổi thọ đủ dài; mật độ cao ở mùa sốt rét.
Theo Trần Đức Hinh, Nguyễn Đức Mạnh và CTV (2001), các véc tơ sốt
rét chính và phụ ở Việt Nam bao gồm:
Véc tơ chính vùng rừng núi toàn quốc: An. minimus
9
Hồ Viết Hiếu
khoa học
Luận văn thạc sĩ
ưVộctstrộtchyuvựngrngnỳit20vBcvoNam: An.minimus,
An.dirus
ưVộctstrộtchyuvenbinNamB:An.epiroticus.
ưVộc t st rột ven bin min Bc: An.subpictus, An.sinensis, An.vagus,
An.indefinitus.
ưVộctstrộtthyuminnỳi:An.aconitus,An.jeyporiensis,An.maculatus.
Khỏnghúachtlschnlccimcútớnhkthacamtqun
th cụntrựnggõyrathtbimtsnphmhúachtmongikhis dng
theoquinh.TheonhnghacaWHOls phỏttrinkh nngsngsút
camtscỏthsaukhitipxỳcvinngcamthoỏchtmvinng
úascỏthtrongmtqunthbỡnhthngcaloiús bchtsau
khitipxỳc[34].
Khnngphỏttrintớnhkhỏnghoỏchtditphthucvocỏcyut:
sinhhc,sinhthỏihccacụntrựng,mctraoidũnggengiacỏcqun
th,thigiantnlucahoỏchtvcng s dnggmliulngv
thigiansdng[37].
1.4.Cssinhhccatớnhkhỏnghúachtditcụntrựng
Hintngkhỏnghúachtkhụngphilmtquỏtrỡnhthớchnghisinh
lýcacỏccỏthtrongqunth.Hintngnybtnguntssaikhỏct
nhiờncúbnchtditruynv mc mncmivicỏcchtcgia
cỏccỏthtrongqunth.Skhỏcbitnycúsntrongcỏcqunthtnhiờn
ngayt khichatipxỳcvithucdit.Tớnhkhỏnghoỏchtlmthin
10
Hå ViÕt HiÕu
khoa häc
LuËn v¨n th¹c sÜ
tượng tiến hóa là kết quả của quá trình chọn lọc các gen kháng ở côn trùng
dưới áp lực của hoá chất. Các gen kháng có thể có sẵn trong quần thể hoặc
sinh ra do đột biến. Những cá thể trong quần thể mang gen kháng sống sót
mặc dù tiếp xúc với hoá chất và truyền những gen kháng cho thế hệ sau. Việc
sử dụng lặp lại một hoá chất sẽ loại bỏ các cá thể nhạy và tỷ lệ các cá thể
kháng sẽ tăng và cuối cùng số cá thể kháng sẽ trội lên trong quần thể [54].
Kết quả là quần thể không phục hồi trở lại được tính mẫn cảm của hóa chất
đó. Do vậy, giám sát và phát hiện ngay từ những dấu hiệu đầu tiên là quan
trọng để kịp thời có một chương trình quản lý tính kháng.
1. 5. Các loại cơ chế kháng của côn trùng
Các hóa chất có thể xâm nhập vào cơ thể muỗi bằng nhiều cách và ảnh
hưởng đến sự sống sót của chúng ở mức độ khác nhau. Dựa vào khả năng hóa
chất bị phân giải trực tiếp hay không khi tác động lên cơ thể muỗi để chia ra
các loại cơ chế:
1.5.1. Kháng do giảm tính thẩm thấu
Là cơ chế mà trong đó hóa chất diệt không bị phân hủy trực tiếp, song
tính kháng hình thành là do giảm khả năng thấm. Nhiều loại hoá chất diệt côn
trùng thâm nhập vào cơ thể côn trùng qua lớp biểu bì. Những thay đổi của lớp
biểu bì của côn trùng làm giảm tốc độ thẩm thấu của hoá chất diệt côn trùng
gây nên sự kháng đối với một số hoá chất diệt. Đơn thuần tính thấm giảm chỉ
11
Hå ViÕt HiÕu
khoa häc
LuËn v¨n th¹c sÜ
gây ra sự kháng ở mức độ thấp [46]. Cơ chế này hiếm khi được đề cập tới,
nó thường được coi là thứ yếu thậm chí không được nhắc tới ở muỗi. Tuy
nhiên, nếu phối hợp với các cơ chế kháng khác, nó có thể tạo nên sự kháng
cao. Cơ chế này hầu hết được phát hiện qua các nghiên cứu tính thấm sử
dụng hoá chất diệt đánh dấu.
1.5.2. Kháng tập tính (behaviouristic resistance)
Đó là sự thay đổi của côn trùng trong tập tính né tránh được liều chết
của hóa chất. Những thay đổi bao gồm sự giảm xu hướng bay vào vùng sử
dụng hoá chất hay tránh xa khỏi bề mặt có hoá chất. Tuy nhiên, sự kháng này
cũng hiếm khi được đề cập đến và giống như hậu quả thay đổi gây ra trực
tiếp bởi sự có mặt của hoá chất diệt côn trùng hoặc do những con muỗi sống
trong nhà của quần thể muỗi bị tiêu diệt.
1.5.3. Kháng do cơ chế chuyển hóa(metabolic mechanism)
Trong cơ chế này khi phân tử hóa chất diệt xâm nhập vào cơ thể, dưới
tác dụng của các enzym khác nhau trong cơ thể muỗi kháng thuốc nó sẽ bị
phân giải theo nhiều con đường khác nhau như: oxy hóa, thủy phân, hydro hóa,
khử clo, ankyl hóa... trở thành chất không độc.
Ví dụ : ở muỗi kháng DDT do trong cơ thể có enzym DDTase hoạt
động, nó khử clo của phân tử DDT, chuyển DDT thành DDE là hợp chất
không có tính độc cho với côn trùng [15].
H DDTase
Cl C CL Cl C CL
Cl C CL khử Clo Cl C
Cl Cl
12
Hå ViÕt HiÕu
khoa häc
LuËn v¨n th¹c sÜ
DDT độc với muỗi DDE không độc với muỗi
Cơ chế này tạo ra một mức độ kháng mạnh mẽ nhất của muỗi đối với từng
loại hóa chất. Sự kháng là kết quả của sự thay đổi về mặt cấu trúc enzym làm
tăng khả năng giải độc của nó hoặc tăng số lượng enzym dẫn đến tăng sự đào
thải độc tố hoá chất diệt côn trùng ra khỏi cơ thể chúng. [28].
Hình 1: các ví dụ về các cơ chế kháng hóa sinh ở cấp độ phân tử
A. Đột biến ở một axit amin trong vùng trải trên màng IIS6 của gen kênh vận chuyển Na +
đã tạo ra tính kháng DDT – pyrethroid ở Anopheles gambiae. Cũng codon bị đột biến đó đã
tạo ra tính kháng rất phong phú ở côn trùng.
B. Nhân tố điều hòa (phía trên trình tự mã hóa) còn gọi là “hộp Barbie” cho phép cảm ứng
các gen kháng mã hóa Esterase và Oxidase phân hủy thuốc diệt côn trùng. Nhiều các nhân tố
điều hòa giả thiết này đã được tìm ra là có liên quan đến các ezyme kháng ở véc tơ.
13
Hå ViÕt HiÕu
khoa häc
LuËn v¨n th¹c sÜ
C. Đơn vị siêu sao chép A2B2 Esterase. Các gen Esterase kháng này nằm ở đầu 5’ tới đầu
5’ trong cùng một đơn vị khuyếch đại. Hơn 100 bản sao của đơn vị siêu sao chép này có thể
xuất hiện trong cùng một con muỗi. Đây chỉ là một ví dụ của một họ các gen Esterase được
khuyếch đại.
1.5.4. Kháng do biến đổi vị trí đích nhạy cảm
Sự kháng này gây ra bởi sự biến đổi vị trí đích tác động của hoá chất
diệt côn trùng. Sự biến đổi đó đã được quan sát thấy ở các enzym và cơ quan
cảm nhận thần kinh, đó là điểm đích của một số lớp hoá chất diệt côn trùng.
Có 3 hình thức kháng hoá chất diệt côn trùng bằng cách thay đổi vị trí đích
nhạy cảm.
Hình 2. Cơ chế tác động gây chết muỗi của 4 nhóm hóa chất, vị trí đích của các
nhóm Phốt pho hữu cơ và Carbamate là enzyme Acetylcholinesterase và vị trí đích của nhóm
hóa chất Pyrethroid và DDT là cổng điện thế của kênh vận chuyển ion natri (WHO, 2006).
(AchE: Enzyme Acetylcholinesterase, Ach: Chất dẫn truyền thần kinh Acetylcholine, ChAT:
Enzyme vận chuyển Acetylcholine, vgNa+ chanel: kênh vận chuyển ion natri, MACE:
enzyme Acetylcholine đã bị thay đổi, kdr: Kháng hạ gục).
Kháng “hạ gục” (Knockdown Resistance: Kháng Kdr)
Kháng “hạ gục” được đặt tên từ việc quan sát các côn trùng sau khi cho
tiếp xúc với DDT hoặc pyrethroid. Các côn trùng nhạy cảm sau khi tiếp xúc
với hoá chất diệt nhanh chóng bị tê liệt hay “hạ gục” (knockdown). Điều này
không quan sát thấy ở các cá thể kháng. Các pyrethroid là hoá chất được sử
dụng rộng rãi trong chương trình phòng chống sốt rét. Các hoá chất này làm
thay đổi động học của các kênh vận chuyển natri có vai trò trong sự truyền các
14
Hồ Viết Hiếu
khoa học
Luận văn thạc sĩ
xungthnkinh.Khỏnghgcliờnquanncỏctbingentnghpcỏc
proteincúvaitrũvnchuynnatriquamng mts loicụntrựng.Cúhai
dngtbinkdrkhỏcnhauócphỏthin muiAn.gambiae chõu
Phi.ụngPhi,khỏnghgcliờnquannmttbindntiktqu
lmtleucinecthayth bimtphenylalanin mnhS6thucdomain
th2caalenkdr(L1014F). Kenyamtdngtbinkhỏccngctỡm
thy,últbinthayth leucinebngserine v trớtngt (L1014S)
[49].S khỏngchộoiviDDTvpyrethroidlmtch th cas khỏng
kdr,khimc ch khỏngtraoichtvicỏchoỏchtditcụntrựngny
khụngquansỏtthy.Skhỏngdngkdrthngcútớnhlnditruyn.
Tớnhakhỏng(cúhaihocnhiuc ch khỏngtrongcựngmtcỏth
cụntrựng_Multiresistance)angphỏttrinrtnhanhdocỏcchngtrỡnhphũng
chngvộct torakhis dngliờntiplphoỏchtnysaulphoỏcht
kia.
15
Hå ViÕt HiÕu
khoa häc
LuËn v¨n th¹c sÜ
Hình 3: Những cơ chế kháng chính ở muỗi (WHO, 2006)
Metabolic: enzyme liên quan tính kháng ở muỗi là: esterases, monooxygenases, GSH S
Transferases.
Targetsite: hai cơ chế kháng vị trí đích
Kdr (kháng hạ gục): đột biến trên gen kdr
MACE: enzyme acetylcholinesterase đã bị biến đổi tầm quan trọng tương ứng của mỗi
một cơ chế kháng đã được biểu thị bởi kích thước của những chấm tròn.
16
Hồ Viết Hiếu
khoa học
Luận văn thạc sĩ
1.6.Tỡnhtrngỏp ngvihúachtditcamtsloiAnophelesti
VitNam.
Húachtditỏpdngtrongphuntnluvtmmnlbinphỏp
chớnhditmuicútptớnhtmỏungivtrỳutrongnh.Tuynhiờn
sauthigianditipxỳccanhiuthhmui,gingnhcỏcloicụntrựng
khỏcmuicúthtrnờnkhỏnghúacht.Tớnhkhỏngcamtsloimuió
cthụngbỏosaukhicỏchúachtnycavosdngmtvinm.
ócúkhong125loimuikhỏngvimthaynhiuloihúacht.Khỏng
húachtphunlmttrngichớnhtrongchngtrỡnhthanhtoỏnstrộtton
cu.Quytnhỳngntrongviclachnhúachtcúthlmgimmc
vphmvikhỏnghúacht.Mcdựvyvicsdnghúachttrongnụng
nghipcnggúpphntrongkhỏngcacỏcqunth mui. ngnnga
khỏnghúachtvphũngchngmui,vngiỏmsỏtvộctlcnthit.
Tớnhkhỏnghoỏchtditcụntrựnglmthintngcúthxuthin
trong mi nhúm cụn trựng truyn bnh. Nm 1946 mi ch cú hai loi
Anopheles khỏngDDT,nhngnnm1991ócúti55loikhỏngvi1
hocnhiuloihúacht.Trong55loicú53loikhỏngviDDT,27loivi
organophorous,17vicarbamatev10loivipyrethroid,16loicúkhỏngvi
c4loihúachtdit[47].Cú21loitrong55loikhỏnglvộctquantrng
ócWHObỏocỏonm1996.Mts khỏnginhỡnhnh: An.aconitus
viDDT Kalimantan,Bangladesh, n ,NepalvThỏiLan.S khỏng
DDT muiótravn phitỡmrahoỏchtkhỏcthayth nú.Nhiu
hoỏchtditmuiócarath nghimvemliktqu tt,ó
17
Hồ Viết Hiếu
khoa học
Luận văn thạc sĩ
cWHOkhuyncỏosdngtrongchngtrỡnhphũngchngstrột[49].
Tuynhiờn,vnnysinhkhidndncỏcvộcttrnờnkhỏngvicỏchoỏ
chtny.Tinm1992,WHOcụngb72loimuikhỏnghoỏcht,trongú
69loikhỏngDDT,38loikhỏngphtphohuc,17loikhỏngvic3hoỏ
chttrờn.Skhỏnghoỏchtcamuingycngtngcvslngloiln
mc khỏngvmtloikhỏngvinhiuhoỏcht.nnm2000,ócú
khong100loimuikhỏnghoỏchttrongúhn50loi Anopheles [25].
Mttrongnhnglýdodnnskhỏngngycngtngnhanhvtrmtrng
ldossdngtrnlanhoỏchttrongnụngnghipvyt.
Khỏnghoỏchtcỏcvộcttruynbnhsnhhngtrctipvsõu
sctisxuthintrlicacỏcbnhdovộcttruyn.Tinhngnino
mkhỏnghoỏchtcha nhhngtis xuthincadchbnhthỡnú
cngedaskhngchdchbnh.Chớnhvỡvyshiubitvkhỏnghoỏ
chtditcụntrựngcỏcvộcttruynbnhcúthgiỳpracỏcchinlc
phựhputranhvichỳng[27,47].
Tuyvy,phũngchngvộct bnghoỏchtditcụntrựngch b tỏc
ngkhimckhỏnglntỏcngrừrngnhiulccahoỏcht
vs lantruynbnh.Trongnhiutrnghp,vicphũngchngvộct cú
th khụngb nhhngbimc khỏng.Chnghnhotngphũng
chngkimsoỏtc75%qunthvộcttrongkhimckhỏngthphn
10%thỡtớnhkhỏngs khụng nhhngnhiuqu phũngchngvộct.
Trongtrnghpny,tngcngkimtra,giỏmsỏttns khỏngl v
khụngcnthayiphngphỏpphũngchngvộct [27,48].Mcdựvy,
18
Hå ViÕt HiÕu
khoa häc
LuËn v¨n th¹c sÜ
nhìn chung các điều tra giám sát kháng hoá chất là cần thiết bởi: Hoạt động
này cung cấp dữ liệu cơ bản cho việc lập chương trình và chọn lọc các hoá
chất diệt côn trùng thích hợp trước khi thực hiện công việc phòng chống véc
tơ.
Phát hiện kháng hoá chất ở giai đoạn sớm nhằm thực hiện kịp thời các
biện pháp quản lý. Tuy nhiên, trong những trường này, bất cứ một biện pháp
phòng chống nào trừ khi thay thế hoá chất diệt côn trùng đều khó có thể thực
hiện.
Hiện nay, các hoá chất thuộc nhóm pyrethroid (alphacypermethrin,
lambdacyhalothrin, deltamethrin, permethrin, Etofenprox…) đang được sử
dụng rộng rãi trong chương trình phòng chống sốt rét ở nhiều nước trên thế
giới trong đó có Việt Nam. Vì vậy, sự phát triển tính kháng của véc tơ sốt rét
với các hoá chất này có thể gây trở ngại cho sự thành công của hoạt động
phòng chống sốt rét.
Pyrethroid là dẫn xuất của este cacboxylat (còn gọi là este pyrethrum
hoặc este pyrethrin) có nguồn gốc tự nhiên từ cây hoa cúc họ Chrysanthemum
cinerariefolium và C. roseum, chứa nhiều hoạt chất pyrethrin có độc tính cao
với côn trùng nhưng có độc tính thấp với động vật máu nóng. Mô phỏng cấu
trúc của pyrethrin, người ta thay đổi nhóm thế để tổng hợp lên các chất mới
có hiệu lực diệt côn trùng mạnh hơn. Tuy nhiên, tính kháng pyrethroid đang
biểu hiện rõ dần bất chấp sự lạc quan ban đầu cho rằng lớp hoá chất diệt côn
trùng mới và lớn này sẽ không tạo nên tính kháng vì hoạt động gây độc nhanh
của nó. Tại Guatemala, sự kháng pyrethroid lần đầu tiên được ghi nhận ở một
19
Hồ Viết Hiếu
khoa học
Luận văn thạc sĩ
qunth An.albimamusókhỏngvifenitrothion.Khideltamethrincs
dng,esteraseúngvaitrũtrongskhỏngfenitrothionóctngcngdo
ỏplcchnlctoratớnhkhỏngchộovideltamethrin.Hnthna,ngita
ótỡmraskhỏngchộoDDTưpermethrinldoOxidasetrongcựngmtcỏth
mui.Mtkiutngtcatớnhkhỏngchộoócphỏthinivi C.
pipiens Ohio[24,40].TiVitNam,mts ktqu nghiờncumc
nhycmvihoỏchtnhúmpyrethroidcngóccụngb [10,21,25].
TheoNguynTunRuyn(1997),mts qunth An.minimus GiaLõm
(HNi),KhỏnhVnh(KhỏnhHo), An.jeyporiensis VừNhai(BcThỏi);
An.aconitus, An.philippinensis ChiờmHoỏ(TuyờnQuang), An.aconitus
NaHang(TuyờnQuang),An.sinensis SúcTrngótngmcchung(cú
khnngkhỏng)vipyrethroid[19].
1.6.1.Anophelesdirus
MuiAn.diruslloimuitruynbnhstrộtquantrngvựngrng
rmvbỡarngtvtuyn20trvoNam.õylmtloimuithucnhúm
loi An.balabacensis.Trongnhúmny VitNamchodnnaych mixỏc
nhc2loilAn.dirusvAn.takasagoensis.Tronghailoinyngita
ch phỏthinthyAn.diruscúvaitrũquantrngtrongvictruynbnhst
rột
Mui An.dirus cúkớchthctrungbỡnh,thõnthondi,pancú4bng
trng,bngtrngth1digp2ư3lnbngtrng2,3,4.Cỏcbngtrng2,3,4
chõncúnhium hoa.cimquantrngca An.dirus lchõnsau
khpcngvbncúmtbngtrngrngrừrt.Cỏnhmuicúnhium
20
Hå ViÕt HiÕu
khoa häc
LuËn v¨n th¹c sÜ
đen, trắng . Costa có trên 4 điểm đen, gốc Costa gián đoạn, điểm đen
Presector trên L1 kéo dài về phía gốc cánh hơn điểm đen Presector trên Costa.
Muỗi An. dirus trú ẩn tiêu máu ngoài nhà nhưng có xu hướng vào nhà đốt máu
người, tấn công người cả trong và ngoài nhà. Muỗi vào nhà đốt người vào
thời điểm sớm trong đêm. Sau 12 giờ đêm số lượng muỗi vào nhà giảm dần.
An. dirus có thời gian đậu nghỉ ngắn trước khi đốt mồi. Vào mùa khô mật độ
muỗi ở khu vực nhà rẫy tăng cao do đó làm tăng nguy cơ lan truyền. Bọ gậy
An. dirus thường sống trong các ổ nước tự nhiên hoặc nhân tạo, nước sạch,
không chảy, dưới tán cây rừng, ít ánh sáng chiếu rọi trực tiếp. Những ổ nước
đó thường là nước mưa trên nên muỗi phát triển mạnh vào mùa mưa. Do
mùa mưa ở ba miền khác nhau nên đỉnh phát triển của An. dirus cũng khác
nhau tùy theo vùng địa lý tự nhiên. An. dirus nhạy với các hóa chất đang được
sử dụng trong chương trình phòng chống sốt rét quốc gia như: permethrin,
lambdacyhalothrin, deltamethrin... An. dirus có khả năng truyền bệnh sốt rét
cao ở Việt Nam, tỉ lệ nhiễm thoa trùng từ 2,5 – 4%. Muỗi có đặc tính hoang
dại, ít trú trong nhà tiêu máu, nên biện pháp phòng chống muỗi là phun hóa
chất mặt trong và ngoài nhà [4].
1.6.2. Anopheles minimus
An. minimus phân bố rộng ở các nước vùng Đông phương trải dài từ
đông Ấn Độ đến Nam Nhật Bản, từ Nam Trung Quốc đến Bắc Malaysia.
Chính xác hơn, dải phân bố của chúng dọc theo các nước Bangladesh,
Campuchia, ấn Độ (Andhra Pradesh, Assam), Nhật Bản (quần đảo Ryukyu,
21
Hå ViÕt HiÕu
khoa häc
LuËn v¨n th¹c sÜ
Miyako, Yaeyama Gunto), Lào, Malaysia (Perlis), Myanmar, Nepal, Trung
Quốc, Đài Loan, Thái Lan và Việt Nam [36,39].
Tại Việt Nam, An. minimus có mặt ở vùng rừng núi, cao nguyên, trung
du trong cả nước. Nó chủ yếu có mặt ở những nơi có độ cao từ 200m đến
800m và hiếm gặp ở độ cao trên 1500m . An. minimus cũng được tìm thấy ở
một số địa phương vùng Châu thổ sông Hồng [11].
Vị trí sinh sản thuận lợi cho An. minimus là những con suối nhỏ hay
trung bình, nước sạch, không bị ô nhiễm, nước chảy chậm, có thực vật thuỷ
sinh ven bờ và được chiếu sáng trực tiếp của mặt trời [6]. Đây là dạng suối
phổ biến ở vùng đồi núi các nước Đông Nam châu á. Bọ gậy An. minimus
cũng có thể được bắt gặp ở các vũng nước gần suối, trong các bể chứa nước
sinh hoạt và thậm chí trong cả một số bể nước có độ ô nhiễm cao [39].
Theo dải phân bố của chúng, nhìn chung An. minimus có mật độ đỉnh
vào mùa khô. Tuy nhiên, thời điểm đạt mật độ đỉnh tuỳ thuộc vào vùng phân
bố. Tại Assam (ấn Độ) mật độ cao nhất của An. minimus đạt được là từ tháng
ba cho đến tháng tám, trong khi đó ở Thái Lan lại là từ tháng mười một đến
tháng mười hai [36]. Tại miền Bắc Việt Nam, sự phát triển của An. minimus
bị ảnh hưởng lớn bởi lượng mưa. Mật độ của chúng đạt đỉnh vào tháng tư và
tháng năm khi một số lượng lớn các ổ bọ gậy được tạo thành sau các cơn
mưa nhẹ. Trong các tháng có mưa rào (tháng tám, tháng chín), mật độ An.
minimus giảm một cách rõ rệt. Khi mùa mưa kết thúc, mật độ của chúng lại
tăng và đạt đỉnh lần thứ hai trong năm vào tháng 10 và 11. Tại miền Trung, hai
đỉnh của An. minimus cũng được xác định, đỉnh thứ nhất từ tháng tư đến tháng
22
Hồ Viết Hiếu
khoa học
Luận văn thạc sĩ
nm,nhthhaitthỏngminmihai(nhthhaicaohnnhth
nht)[21].
VaitrũtruynstrộtcaAn.minimus:An.minimusccholvộct
truynstrộtchớnhmimimnúcúmt.Bitớnhahỳtmỏungicao
nờnnúcxỏcnhlvộctstrộtquantrng iLoan[41].TiNepal,
trongsutgiaiontnm1955n1965,tl kớsinhtrựngstrộtmui
An.minimusl1,7%vnúcngccoilvộctstrộtchớnhõy.Kớsinh
trựngPlasmodiumcngcphỏthin An.minimustiminụngPakistan
vThỏiLan.TiVitNam,An.minimus lvộctstrộtchớnh vựngrng
nỳi.Chonnay,t l nhimkớsinhtrựngstrột mui An.minimus cao
nht minBc(1,1%)cghinhnvounhngnm1960titnh
ThanhHoỏ. An.minimus nhimkớsinhtrựngstrộtvit l caotimin
TrungVitNam.TimtaphngKhỏnhHo,3,6%,An.minimusnhim
kớsinhtrựngstrộttronggiaion1993ư1995.An.minimuscngccoil
vộct truynstrộtgõyracỏcv dchstrột mts aphngthuc
ngbngChõuthsụngHngvonhngnmcuithpk1950[8].
TheoLờKhỏnhThun,TrngVnCúnghiờncukhuvcMinTrung
ưTõyNguyờn(1997):Anophelesminimusphỏttrinquanhnm,phõnb rng
tvựngbỡarng,phỏttỏnravựngsavancbi,vộctnycúuthvựngbỡa
rng,mt gim vựngrngvrngrm.Anophelesminimushotng
tmỏusutờmvcúmt caonhtt 22gi n4gi sỏng.T l
AnophelesminimusnhimthoatrựngtixóIakor,huynChSờ,tnhGiaLai
nm1994l2,58%[20].
23
Hồ Viết Hiếu
khoa học
Luận văn thạc sĩ
Trongnhngnmtrcõy,vicsdngDDTphuntnlutrongnh
óemlihiuqurừrttrongvicphũngchng An.minimus.TiThỏiLan,
saumtvinmsdngDDT,An.minimusgimrừrtcỏcbỏnovgn
nhbloitrcỏcvựngngbngtrungtõm.An.minimuscngbloitr
sauvicsdngDDTPerlisthucMalaysia,Nepaltrongnhngnm1960
[24].TiminBcVitNam,saubanmliờntip(1962ư1964)sdngDDT
phuntnlutrongnh,ókhụngtỡmthy An.minimus phnlncỏca
imphun.Tuynhiờn,ỏpngviDDTcaAn.minimuslkhụngngnht
vmtalý.ChnghnnhThỏiLanlmtvớd,saumtsnmphun
DDT, An.minimus cloitr vựngngbngtrungtõmlnsongvn
xuthinnhiuvựngrngnỳi.
DiỏplccaDDT,nhngthayitptớnhxuthinAn.minimus.
TiMyanmar,sauthigiansdngDDT, An.minimusphnlnchuynsang
tmingoinh,thmchớcnhngniphungiỏnonDDT.
Hinnaycỏchoỏchtditcụntrựngnhúmpyrethroidangcs
dng nhiu ni trờn th gii, trong ú cú Vit Nam di nhiu dng
thngphmkhỏcnhau.TiVitNam,vicsdngpyrethroidtrongphũng
chngstrộtótcnhngthnhtuỏngktrongviclmgimmc
lantruynstrộttrờntonquc.Tuynhiờn,saunhiunms dng,mc
nhycmcaAn.minimusvinhúmhoỏchtnycúththayi[25].Vỡ
vy,theodừigiỏmsỏtmcnhycmcaAn.minimusvihoỏchtditcụn
trựnglcnthitchoviclachnbinphỏpvhoỏchtthớchhpphũng
chngloimuitruynstrộtquantrngny.
24
Hå ViÕt HiÕu
khoa häc
LuËn v¨n th¹c sÜ
1.6.3. Anopheles maculatus
Muỗi An. maculatus ở Việt Nam là một nhóm loài đồng hình. Cho đến
nay, đã phát hiện nhóm loài này gồm 14 thành viên, trong đó có 6 loài đã xác
định tên là An. maculatus, An. dravidicus, An. notanandai, An. pseudowillmori,
An. sawadwongporni và An. willmori.
Muỗi An. maculatus và các dạng gần gũi của nó phân bố rộng ở các
vùng rừng núi toàn quốc. Muỗi An. sawadwongporni chiếm ưu thế ở các tỉnh
phía Nam từ Quảng Bình trở vào.
Muỗi An. pseudowillmori và An.willmori có mặt ở các tỉnh phía Bắc.
An . dravidicus và An. notanandai có mặt rải rác ở một số địa phương . Các
loài muỗi thuộc nhóm An. maculatus ưa đốt máu súc vật , trú đậu tiêu máu
ngoài nhà. Các kiểu ổ bọ gậy của các thành viên trong nhóm loài này đều này
có những đặc diểm chung : nguồn nước thường trong, có ánh sáng; các ổ
nước ngầm đứng nhưng có lưu thông là phù hợp cho tấc cả các loài. Riêng
hai loài An. notanandai và An. sawadwongporni có thể sống ở các thuỷ vực
nước chảy.
Có ít nhất một loài trong nhóm (An. maculatus s.s) có khả năng truyền
hai loại ký sinh trùng sốt rét P. falciparum và P. vivax với tỉ lệ nhiễm thoa
trùng 0.58% (P. falciparum : 0,29% ; P. vivax : 0, 29%), khẳng định vai trò véc
tơ thứ yếu của An. maculatus s.l. [1].
25