Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị SGA bằng Growth Hormon tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ 2017-2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.07 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019

BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ SGA
BẰNG GROWTH HORMON TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 TỪ 2017-2018
Nguyễn Hiếu Trung*, Trần Thị Bích Huyền*

TÓM TẮT
Giới thiệu: Trẻ nhỏ so với tuổi thai (SGA) được định nghĩa là trẻ sinh ra có cân nặng và hoặc chiều dài nhỏ
hơn 2 độ lệch chuẩn (2sd) so với cân nặng và hoặc chiều cao trung bình theo tuổi và giới. Một phần nhỏ trẻ SGA
sẽ không bắt kịp đà tăng trưởng và có chiều cao thấp lùn khi trưởng thành. Hormone tăng trưởng (GH) được
chứng minh an toàn và có hiệu quả trong việc cải thiện chiều cao ở những trẻ này và kết quả cuối cùng là cải
thiện chiều cao lúc trưởng thành.
Ba ca lâm sàng: Chúng tôi theo dõi và điều trị 3 trường hợp trẻ SGA với GH liều thấp (35 mcg/kg/ngày)
trong vòng 6 tháng đến 3 năm. Tuổi bắt đầu điều trị khá sớm từ 2,3 đến 4,5 tuổi. Cả 3 trường hợp đều có sds cân
nặng lúc sanh < -2 và sds chiều cao lúc bắt đầu điều trị < -3. Sau điều trị, chiều cao cải thiện rõ rệt ở cả 3 trường
hợp, với ∆sd chiều cao = 0,94 (0,34-1,43). Báo cáo cũng cho thấy chiều cao trung bình ba mẹ và tuổi bắt đầu
điều trị cũng ảnh hưởng đến kết quả điều trị.
Kết luận: GH liều thấp bước đầu cho thấy hiệu quả và an toàn trên bệnh nhân SGA được điều trị sớm. Liều
GH khởi đầu nên dựa trên tiên lượng đáp ứng điều trị của từng cá nhân cụ thể. Bên cạnh đó, việc sử dụng GH
cần cân nhắc giữa hiệu quả và chi phí điều trị.
Từ khóa: hormone tăng trưởng, trẻ nhỏ so với tuổi thai, SGA

ABSTRACT
INITIAL ASSESSMENT OF THE EFFECTIVENESS OF SGA TREATMENT WITH GROWTH HORMONE AT
CHILDREN’S HOSPITAL 1 FROM 2017-2018
Nguyen Hieu Trung, Tran Thi Bich Huyen
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 4 - 2019: 181 - 186
Objective: Small for gestation age (SGA) is defined as birth weight and/or birth length two or more standard
deviation scores below the mean for gender and gestation (-2 sds). A small part of SGA children will not catch up


with growth and have a low height in adulthood. Growth hormone (GH) is demonstrated benefits and safety in
treatment these children to get a normal adult height.
Three clinical cases: We present 3 cases of SGA treated with low dose GH (35 mcg/kg/day) for 6
months to 3 years. Age of onset treatment is relatively early, from 2.3 to 4.5 year old. All 3 cases have birth
weight sds below -2 and height sds at beginning of treatment below -3. After treatment, height improved
significantly in all 3 cases, with ∆sd height = 0.94 (0.34-1.43). Besides, midparental height and age of onset
treatment affect the treatment result.
Conclusion: Low dose GH is effective and safe enough to treat SGA children at early age. Midparental
height may contribute to the effect of GH in treatment of SGA, so dose of GH can be individualized. Besides,
treatment should be based on the balance between benefit and cost.
Key words: growth hormone, SGA, short stature
về mạch máu nhau thai, di truyền hoặc không có
ĐẶTVẤN ĐỀ
*Bệnh viện Nhi Đồng 1
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Hiếu Trung

ĐT: 0909279204

Trẻ em nhỏ so với tuổi thai (SGA) là tình trạng trẻ
có cân nặng và hoặc chiều dài lúc sinh <-2 độ lệch
chuẩn (-2sd) so với tuổi thai và giới(11) Nguyên nhân
gây nên tình trạng này là do nhiều yếu tố như: dinh
dưỡng, bệnh lý của mẹ trong thai kỳ, các bất thường

180

Email:

nguyên nhân.
Trẻ SGA không chỉ bị ảnh hưởng đến chiều cao

mà còn có những nguy cơ tiềm ẩn về sức khỏe như:
béo phì, rối loạn chuyển hóa và bệnh lý tim mạch
trong cuộc sống sau này. Nhưng những nguy cơ này

Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 2019


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019

Nghiên cứu Y học

thực sự không cao và rõ rệt bằng ảnh hưởng lên chiều
cao lúc trưởng thành. Khoảng 85-90% các trẻ SGA có
thể tăng trưởng nhanh bù trừ và bắt kịp chiều cao
trong vài năm đầu, tuy nhiên 10-15% còn lại sẽ không
đạt được chiều cao ở mức bình thường lúc 2 tuổi(13).
Nhóm trẻ SGA có chiều cao dưới -2sd lúc 2 tuổi
thường có xu hướng thấp lùn lúc trưởng thành.
Do đó vấn đề quan trọng là cần theo dõi sát và
can thiệp kịp thời để trẻ SGA có thể bắt kịp tốc độ
tăng trưởng và đạt được chiều cao bình thường lúc
trưởng thành. Thế giới đã có nhiều nghiên cứu chứng
minh growth hormone (GH) giúp cải thiện chiều cao
đáng kể ở trẻ SGA(7). Bên cạnh đó GH còn giúp tăng
khối cơ và giảm tỉ lệ mỡ cơ thể, một kiểu hình thường
thấy ở trẻ SGA lúc trưởng thành(12). Ngoài ra, cải thiện
thể chất còn góp phần tích cực vào sự phát triển tâm
lý trẻ(18). Việc điều trị trẻ nhỏ so với tuổi thai bằng GH
có lịch sử gần 50 năm(17). Và đến năm 2001 đã được
chỉ định một cách chính thức bởi FDA Hoa Kỳ, sau

đó được cơ quan đánh giá dược phẩm Châu Âu chấp
thuận từ năm 2003(6). Điều trị GH được chỉ định cho
những trẻ SGA lúc 2-4 tuổi và có chiều cao thấp hơn
hoặc bằng -2sd theo tuổi và giới. Tại Việt Nam, mặc
dù vấn đề chiều cao và hóc môn tăng trưởng đang
được quan tâm rất nhiều trong khoảng một thập niên
gần đây nhưng trẻ SGA vẫn chưa được quan tâm và
theo dõi đúng mức. Chưa có một báo cáo nào về tỉ lệ
trẻ SGA tại Việt Nam, cũng như không có nghiên cứu
về việc sử dụng và đánh giá hiệu quả của GH trên
những trẻ SGA tại nước ta.
Tại bệnh viện Nhi Đồng 1, chúng tôi đã triển khai
tiếp nhận chẩn đoán và điều trị cho trẻ SGA trong 2
năm gần đây. Từ năm 2017-2018 nhiều bệnh nhi đến
khám vì chậm tăng chiều cao do nhiều nguyên nhân
khác nhau, trong đó có 3 bệnh nhi SGA được điều trị
với GH. Báo cáo này là những đánh giá ban đầu về
kết quả điều trị bằng GH cho 3 bệnh nhi chậm tăng
chiều cao do tình trạng SGA.

Các bệnh nhi này được đánh giá chiều cao theo
biểu đồ tăng trưởng của WHO(19).
Cả 3 bệnh nhi đều được điều trị với GH liều trung
bình là 0,035 mg/kg/ngày, tiêm dưới da mỗi ngày
trước khi ngủ.
Theo dõi: bệnh nhi được theo dõi tái khám mỗi
3 tháng, đánh giá chiều cao, cân nặng và các tác
dụng phụ của GH như: tăng áp lực nội sọ lành tính,
đau nhức khớp, trượt chỏm xương đùi, tăng trưởng
tuyến vú ở nam, tăng đường huyết.

Tiêu chuẩn loại trừ
X-quang xương dài để loại trừ các bệnh lý bất
thường về xương.
Nhiễm sắc thể đồ (karyotype) thực hiện thường
qui ở nữ để loại trừ hội chứng Turner.
MRI não để loại trừ bệnh lý thần kinh trung
ương.
Một số xét nghiệm để loại trừ các bệnh mạn tính
khác như: các hormone khác của tuyến yên, chức
năng tuyến giáp, chức năng thận.

ĐỐITƯỢNG- PHƯƠNGPHÁPNGHIÊN CỨU

Các xét nghiệm về chức năng gan, thận, đường
huyết, điện giải trong giới hạn bình thường (Bảng 3).
Có 3 trường hợp đều cải thiện chiều cao đáng kể
với ∆ sd chiều cao=0,94 (0,34-1,43) (Bảng 4).
Không ghi nhận các tác dụng phụ của GH như:
tăng áp lực nội sọ lành tính, đau nhức khớp, trượt
chỏm xương đùi, tăng đường huyết (Bảng 5, Hình 1).
Bảng 3. Cận lâm sàng

Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi phân tích 3 trường hợp đến khám vì
chậm tăng chiều cao được chẩn đoán SGA thỏa các
tiêu chuẩn sau:
Tiêu chuẩn chẩn đoán SGA
Trẻ em sinh ra có cân nặng và hoặc chiều dài
lúc sinh ≤ - 2sd so với tuổi thai và giới tính theo
WHO(19).

Tiêu chuẩn điều trị GH: trẻ SGA ≥ 2 tuổi mà
không bắt kịp chiều cao (chiều cao ≤ -2sd theo tuổi và
giới).

KẾTQUẢ
Cả 3 bệnh nhi nhập viện trong tình trạng chiều
cao rất thấp ≤ -3sd so với chiều cao trung bình theo
tuổi và giới (Bảng 1, 2).
Bảng 1. Chiều cao và cân nặng lúc nhập viện
Ca
bệnh
1
2
3

Tuổi Chiều Chiều cao Cân nặng Cân nặng
(Kg)
(năm) cao(cm) Z-Score
Z-Score
Nữ 4,3
86
-4,35
10
-3,89
Nữ 2,3
80
-3,16
8.5
-3,00
Nữ 2,3

73
-4,68
6.5
-5,03

Giới

Bảng 2. Tiền sử lúc sanh
Ca
bệnh
1
2
3

Tuổi Chiều Chiều cao Cân nặng Cân nặng
(gr)
thai cao(cm) Z-Score
Z-Score
Nữ 39
48
- 0,66
1800
-3,68
Nữ 40
42
- 3,71
2500
-2,07
Nữ 38
44

-1,89
2000
-2,58

Giới

Cận lâm Ca bệnh Ca bệnh Ca bệnh
Giá trị bình thường
sàng
1
2
3
Tuổi xương 3,5 tuổi 2 tuổi
1 tuổi
IGF1
30,6
61
31,7
20 - 250 (ng/ml)
TSH
1,75
2,04
2,1
0,32 – 5 (mUI/ml)

Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 2019

181



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019

Nghiên cứu Y học
Cận lâm
sàng
FT4
Cotisol
Karyotype
MRI não

Ca bệnh Ca bệnh Ca bệnh
Giá trị bình thường
1
2
3
0.99
1,02
1,31
0,71 – 1,85 (ng/ml)
12,36
7,8
8,32
6,2-19,4 (mcg/dl)
46XX
46XX
46XX
Bình
Bình
Bình
thường thường thường


1
2
3

35
11
05

86
80
73

-4,35 109
-3,16 91
-4,68 77

-2,43
-1,73
-4,34

Bảng 5. Cân nặng trước và sau điều trị
Ca bệnh
1
2
3

Bảng 4. Điều trị
Ca
Liều GH

bệnh (mg/Kg/ngày)

0,03-0,05
0,03-0,04
0,03-0,04

Thời gian CC
ZCC
Z-Score
điều trị trước Score sau
sau
(Tháng) (cm) trước (cm)

Cân nặng
trước (Kg)
10
8,5
6,5

Bệnh nhi 1

Z-Score
-3,89
-3,00
-5,03

Cân nặng sau
Z-Score
(Kg)
17

-2,12
11
-2,27
8,4
-3,84

Bệnh nhi 2

Bệnh nhi 3

Hình 1. Biểu đồ tăng trưởng trong khi điều trị với GH của 3 bệnh nhi SGA
Liều điều trị GH ở bệnh nhân SGA cao hơn so
BÀN LUẬN
với
bệnh
nhân thiếu hormone tăng trưởng khác vì cơ
Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị của
chế bệnh sinh của trẻ SGA không phải do thiếu GH
GH trong năm đầu tiên gồm: liều điều trị GH, tuổi bắt
(14)
mà vì tình trạng đề kháng một phần GH hoặc bất
đầu điều trị, chiều cao ba mẹ . Liều điều trị GH cao,
thường trục GH-IGF1(1,4). Tuy nhiên có khoảng 50tuổi điều trị nhỏ và chiều cao trung bình ba mẹ cao
60% trẻ SGA không bắt kịp chiều cao có kèm bất
cho hiệu quả điều trị càng lớn. Trong đó liều GH là
(1,10,14)
thường tiết GH(9).
yếu tố quan trọng nhất
(Bảng 6).
Bảng 6. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị của GH trong năm đầu tiên


1

Liều GH
(mg/Kg/ngày)
0,03-0,05

2
3

Ca bệnh

bệnh
2
Z-score chiều Z-score chiều cao lúc Tuổi bắt đầu Chiều
caonhi
trung
cao lúc sanh
bắt đầu trị
điều trị
bình ba mẹ (cm)
-0.66

-4,35

4,33

0,03-0,04

- 3.7


-3,16

2,25

157

1,56

0,03-0,04

- 1.89

-4,68

2,25

148,5

0,81

Hiện nay chưa có một sự đồng thuận nào giữa các
hiệp hội nội tiết về liều điều trị GH cụ thể cho bệnh
nhân SGA. Khoảng liều đang được chấp nhận khá
rộng từ 35-70 mcg/kg/ngày(6). Theo hội nội tiết tại
Mỹ, khởi đầu điều trị GH với liều cao khi đạt đươc

182

152,5


∆ sd
chiều cao/năm đầu (ước tính)
1,05

tốc độ tăng chiều cao tốt sẽ giảm liều dần. Bên cạnh
đó, các tác giả cũng cho rằng khoảng thời gian 2 năm
kể từ lúc sanh là đủ để đánh giá trẻ có thể bắt kịp
chiều cao hay không, và điều này được chứng minh
bằng nhiều nghiên cứu(10,13), do đó các tác giả cho

Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 2019


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
rằng điều trị càng sớm thì khả năng để tối ưu hóa
chiều cao trưởng thành càng lớn. Ngược lai, hiệp hội
nội tiết tại Châu Âu lại cho rằng có thể chờ đến 4 tuổi
vì có khoảng 5-10% trẻ SGA sẽ bắt kịp dần chiều cao;
và liều GH điều trị ban đầu thấp, có thể tăng dần nếu
tốc độ tăng chiều cao không đáp ứng tốt. Nhiều
nghiên cứu cho thấy liều GH cao có ưu thế cải thiện
chiều cao trong 1-2 năm đầu so với liều thấp nhưng về
lâu dài thì chiều cao lúc trưởng thành không có sự
khác biệt giữa liều cao và liều thấp(7,8,16). Mặt khác
liều cao có thể tăng nguy cơ đề kháng insulin ở một số
trẻ, đồng thời chi phí điều trị có thể tăng gần gấp đôi.
Theo khuyến cáo của hội nội tiết thế giới, khởi đầu
điều trị GH cho trẻ SGA trong khoảng 2-4 tuổi khi
chiều cao của trẻ thấp hơn -2sd so vơi tuổi và giới,

liều khởi đầu tùy theo tưng cá thể. Ở ba trường hợp
nêu trên, chúng tôi đều khởi đầu GH liều thấp là 35
mcg/kg/ngày và hiệu quả trong năm đầu là cải thiện
chiều cao đáng kể với ∆sd chiều cao = 1,14 ( 0 81-1
56). Kết quả ban đầu của nghiên cứu của chúng tương
đồng với một số nghiên cứu khác với mức ∆sd chiều
cao từ 1,05-1,2(9,20). Măc dù liều điều trị GH của
chúng tôi là bắt đầu với liều thấp và tăng dần, tuy
nhiên tốc độ tăng chiều các của các trẻ là khá tốt trên
+1sd. Bên cạnh đó với liều điều trị GH liều thấp và
tăng dần sẽ giúp cân bằng giữa chi phí và hiệu quả
điều trị, phù hợp với tình hình kinh tế của bệnh nhân ở
nước ta, điều này cũng đã được một số tác giả đề nghị
(5,20)
.
Tuổi bắt đầu điều trị GH cho bệnh nhân SGA vẫn
chưa có sự thống nhất giữa các hiệp hội nội tiết như
Mỹ bắt đầu trị từ 2 tuổi, Châu Âu 4 tuổi, Nhật 3
tuổi(6,20). Nhiều tác giả cho rằng tuổi càng nhỏ thì mức
độ thiếu hụt về chiều cao càng ít(2) nên điều trị sẽ càng
hiệu quả. Ngược lại một số tác giả lại cho rằng nên trì
hoãn điều trị vì một số bé có thể tự động bắt kịp chiều
cao về sau nhưng điều này chỉ đặc biệt đúng với trẻ
sanh non SGA(6). Ba trẻ SGA trên đều là trẻ đủ tháng
nên chúng tôi quyết định điều trị sớm ngay khi phát
hiện với bé nhỏ nhất là 2 tuổi 3 tháng. Điều này đã
được lý giải ở trên là nhằm tối ưu hóa chiều cao lúc
trưởng thành, đồng thời tránh tình trạng mất theo dõi
do bỏ tái khám.
Ca 2 và 3 có cùng tuổi bắt đầu điều trị, với cùng

liều GH nhưng ca 2 có ∆sd chiều cao lớn hơn (1,56 so
với 0,81). Điều nay có thể lý giải bằng chiều cao trung
bình của ba mẹ tương ứng 157 cm so với 148,5 cm.
Chiều cao trung bình ba mẹ là một trong ba yếu tố ảnh
hưởng đến hiệu quả điều trị GH(14). Trong 3 yếu tố
liều GH, tuổi bắt đầu điều trị, chiều cao ba mẹ thì yếu
tố chiều cao ba mẹ và tuổi bắt đầu điều trị là không
thể can thiệp được, chỉ còn liều GH là có thể điều

Nghiên cứu Y học

chỉnh. Theo định nghĩa trong đồng thuận về SGA và
hướng dẫn điều trị SGA của Nhật thì thất bại điều trị
là độ lệch chuẩn chiều cao không tăng được ít nhất 0,5
trong năm đầu tiên(6,20). Với những trẻ có chiều cao ba
mẹ thấp, tuổi bắt đầu điều trị trễ thì chúng tôi cân nhắc
tăng liều GH sớm nếu chiều cao trẻ đáp ứng kém,
hoặc sử dụng GH liều cao ngay từ đầu.
Đa phần trẻ SGA có tuổi xương thấp hơn tuổi thật
vì các vấn đề liên quan đến GH như đã nói ở trên. Sau
thời gian điều trị với GH thì xương tăng tốc độ cốt
hóa(3,15). Có nghiên cứu cho rằng liều GH không ảnh
hưởng đến mức độ cốt hóa xương, nhưng tác giả khác
chứng minh rằng liều GH càng lớn thì mức độ cốt hóa
xương càng mạnh. Sau thời gian điều trị 5 năm thì
50% trường hợp có tuổi xương lớn hơn tuổi thật. Đây
cũng là một trong những lý do mà hiệu quả GH liều
cao trên chiều cao trưởng thành không thực sự khác
biệt so với GH liều thấp vì mức độ cốt hóa xương
mạnh hơn dẫn đến chiều cao trưởng thành dừng lại

sớm hơn. Ba trẻ SGA trên đều có tuổi xương thấp so
với tuổi thật. Vì thời gian điều trị và theo dõi ngắn nên
chỉ duy nhất ca 1 được chụp tuổi xương theo dõi. Sau
2 năm điều trị thì tuổi xương tăng 1,5 tuổi với ∆ tuổi
xương/∆ tuổi thật = 0,75 < 1. Như vậy với liều điều trị
GH thấp, tốc độ tăng trưởng chiều cao tốt cũng không
làm cốt hóa xương sớm dẫn đến tiên lượng hiệu quả
điều trị lâu dài tốt.
Nồng độ IGF1 ở cả 3 trẻ nằm trong ngưỡng cho
phép, tuy nhiên thấp hơn mức trung bình theo tuổi.
Điều này được giải thích vì thiếu hụt GH một phần
hay đề kháng GH ở những trẻ SGA(1,4). Sau khi điều
trị thì IGF1 tăng, tương ứng với chiều cao được cải
thiện. Việc kiểm soát liều GH, đặc biệt là GH liều cao
dựa trên nồng độ IGF1 được khuyến cáo trong đồng
thuận điều trị SGA nhằm tránh các tác dụng phụ
ngoại ý(6) Và cho đến nay, song song với việc kiểm tra
nồng độ IGF1 định kỳ, chúng tôi vẫn chưa ghi nhận
tác dụng phụ nào của GH trên ba trẻ SGA này. Tuy
nhiên quá trình điều trị trẻ SGA có thể lên đến hơn 10
năm nên việc theo dõi hiệu quả và tác dụng phụ cần
được tiếp tục trong một thời gian dài.

KẾT LUẬN
Điều trị GH trên bệnh nhân SGA bước đầu cho
thấy an toàn và hiệu quả đáng kể trong việc cải thiện
chiều cao, cho dù ở liều thấp. Điều trị hormone GH
cho bệnh nhân SGA là điều trị cá thể hóa. Dựa trên
từng trường hợp cụ thể, tiên lượng hiệu quả của việc
cải thiện chiều cao mà quyết định liều GH phù hợp,

bên cạnh đó còn phải cân nhắc giữa hiệu quả và chi
phí điều trị.

Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 2019

183


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Boguszewski M, Rosberg S, Albertsson-Wikland K (1995).
Spontaneous 24-hour growth hormone profiles in prepubertal small for
gestational age children. J Clin Endocrinol Metab, 80(9):2599-606.
2. Chatelain P, Carrascosa A, Bona G, Ferrandez-Longas A, Sippell W
(2007). Growth hormone therapy for short children born small for
gestational age. Horm Res, 68(6):300-9.
3. Chatelain P, Job JC, Blanchard J (1994). Dose-dependent catch-up
growth after 2 years of growth hormone treatment in intrauterine
growth-retarded children. Belgian and French Pediatric Clinics and
Sanofi-Choay (France). J Clin Endocrinol Metab, 78(6):1454-60.
4. Chatelain PG, Nicolino M, Claris O, Salle B, Chaussain J (1998).
Multiple hormone resistance in short children born with intrauterine
growth retardation?. Horm Res, 49(2):20-2.
5. Chernausek SD (2005). Treatment of short children born small for
gestational age: US perspective. Horm Res, số 64(S2):63-6.

6. Clayton PE, Cianfarani S, Czernichow P, Johannsson G (2007),
Management of the child born small for gestational age through to
adulthood: a consensus statement of the International Societies of
Pediatric Endocrinology and the Growth Hormone Research Society. J
Clin Endocrinol Metab, 92(3):804-10.
7. de Zegher F, Hokken-Koelega A (2005). Growth hormone therapy for
children born small for gestational age: height gain is less dose
dependent over the long term than over the short term. Pediatrics,
115(4):e458-62.
8. Hokken-Koelega AC, De Waal WJ (2004). Small for gestational age
(SGA): endocrine and metabolic consequences and effects of growth
hormone treatment. J Pediatr Endocrinol Metab, 17(3):463-9.
9. Hwang IT (2014. Efficacy and safety of growth hormone treatment for
children born small for gestational age. Korean J Pediatr, 57(9):37983.
10. Karlberg J, Albertsson-Wikland K (1995). Growth in full-term smallfor-gestational-age infants: from birth to final height. Pediatr Res,
38(5):733-9.
11. Lee PA, Hokken-Koelega AC, Czernichow P (2003), International
Small for Gestational Age Advisory Board consensus development
conference statement: management of short children born small for
gestational age, 2001. Pediatrics, 111(6 Pt 1):1253-61.

184

12. Leger J, Carel C (1994), Magnetic resonance imaging evaluation of
adipose tissue and muscle tissue mass in children with growth hormone
(GH) deficiency, Turner's syndrome, and intrauterine growth
retardation during the first year of treatment with GH. J Clin
Endocrinol Metab, 78(4):904-9.
13. Luo ZC, Albertsson-Wikland K, Karlberg J (1998). Length and body
mass index at birth and target height influences on patterns of postnatal

growth in children born small for gestational age. Pediatrics,
102(6):E72.
14. Ranke MB, Lindberg A (2003). Prediction of response to growth
hormone treatment in short children born small for gestational age:
analysis of data from KIGS. J Clin Endocrinol Metab, 88(1):125-31.
15. Sas T, de Waal W (1999). Growth hormone treatment in children with
short stature born small for gestational age: 5-year results of a
randomized, double-blind, dose-response trial. J Clin Endocrinol
Metab, 84(9):3064-70.
16. Tanaka T, Yokoya S (2018). Long-term safety and efficacy of daily
recombinant human growth hormone treatment in Japanese short
children born small for gestational age: final report from an open and
multi-center study. Clin Pediatr Endocrinol, 27(3):145-157.
17. Tanner JM, Ham TJ (1969). Low birthweight dwarfism with
asymmetry (Silver's syndrome): treatment with human growth
hormone. Arch Dis Child, 44(234):231-43.
18. van Pareren YK, Duivenvoorden HJ, Slijper FS (2004). Intelligence
and psychosocial functioning during long-term growth hormone
therapy in children born small for gestational age. J Clin Endocrinol
Metab, 89(11):5295-302.
19. WHO (2006). Child Growth Standards based on length/height, weight
and age. Acta Paediatr, 450:76-85.
20. Yokoya S, Tanaka T, Itabashi K, Osada H, Hirai H, Seino Y (2018).
Efficacy and safety of growth hormone treatment in Japanese children
with small-for-gestational-age short stature in accordance with
Japanese guidelines. Clin Pediatr Endocrinol, 27(4):225-234.

Ngày nhận bài báo:
Ngày phản biện nhận xét bài báo:
Ngày bài báo được đăng:


13/06/2019
21/06/2019
10/08/2019

Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 2019



×