Tải bản đầy đủ (.doc) (243 trang)

Sự kiến tạo văn hoá cộng đồng của khu đô thị mới ở hà nội (nghiên cứu trường hợp mỹ đình mễ trì và việt hưng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.46 MB, 243 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ KIM CHI

SỰ KIẾN TẠO VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG
CỦA KHU ĐÔ THỊ MỚI Ở HÀ NỘI
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP MỸ ĐÌNH - MỄ TRÌ
VÀ VIỆT HƯNG)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI - 2019


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ KIM CHI

SỰ KIẾN TẠO VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG
CỦA KHU ĐÔ THỊ MỚI Ở HÀ NỘI
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP MỸ ĐÌNH - MỄ TRÌ
VÀ VIỆT HƯNG)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 62 31 06 40

Người hướng dẫn khoa
học:


1. PGS, TS. LÊ QUÝ ĐỨC
2. TS. NGUYỄN VĂN THẮNG

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc
rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo qui định.
Tác giả luận án

Bùi Thị Kim Chi


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
SỰ KIẾN TẠO VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG CỦA KHU ĐÔ THỊ
MỚI Ở HÀ NỘI

1.1. Nghiên cứu về văn hóa cộng đồng và văn hóa cộng đồng của đô thị Hà
Nội
1.2. Nghiên cứu về sự kiến tạo văn hóa cộng đồng của khu đô thị mới ở Hà
Nội
1.3. Những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu trong luận án

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI VÀ KHÁI QUÁT
VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU

2.1. Những vấn đề lý luận của đề tài
2.2. Khái quát về địa bàn nghiên cứu
Chương 3: NHẬN DIỆN SỰ KIẾN TẠO VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG
CỦA KHU ĐÔ THỊ MỚI MỸ ĐÌNH - MỄ TRÌ VÀ VIỆT
HƯNG
3.1. Sự kiến tạo các yếu tố văn hóa cộng đồng nội tại
3.2. Sự kiến tạo các yếu tố văn hóa cộng đồng ngoại tại
3.3. Nhận xét chung về sự kiến tạo văn hóa cộng đồng của khu đô thị mới
Mỹ Đình - Mễ Trì và Việt Hưng – từ góc nhìn so sánh
Chương 4: NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ BÀN
LUẬN VỀ GIẢI PHÁP KIẾN TẠO VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG
CỦA KHU ĐÔ THỊ MỚI Ở HÀ NỘI

4.1. Những yếu tố tác động đến sự kiến tạo văn hóa cộng đồng của khu đô
thị mới
4.2. Những vấn đề đặt ra trong sự kiến tạo văn hóa cộng đồng của khu đô
thị mới
4.3. Bàn luận về giải pháp kiến tạo văn hóa cộng đồng của khu đô thị mới
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

8
8
26

34
37
37
63

71
71
93
107

117
117
126
141
148
151
152
160


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2. KĐTM:

Khu đô thị mới

3. KT – XH:Kinh tế - xã hội
4. PVS:
5. NCS:


Phỏng vấn sâu
Nghiên cứu sinh

6. Nxb:

Nhà xuất bản

7. UBND:Ủy ban nhân dân
8. UNESCO:Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc
9. VHCĐ:

Văn hóa cộng đồng


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1: Phân loại xã hội của Ian Robertson

15

Bảng 2.1: Khác biệt chính giữa văn hóa cộng đồng và văn hóa cá nhân

43

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1: Cư dân KĐTM thực hiện việc chào hỏi khi gặp nhau

72


Biểu đồ 3.2: Cư dân KĐTM thực hiện việc giúp đỡ hàng xóm

73

Biểu đồ 3.3: Mức độ quan hệ của gia đình với hàng xóm trong KĐTM

73

Biểu đồ 3.4: Cư dân quan tâm đến một số hiện tượng trong đời sống tại

83

KĐTM
Biểu đồ 3.5: Người dân tham gia các hoạt động cùng bạn bè, đồng nghiệp

98

Biểu đồ 4.1: Cư dân đánh giá chất lượng các dịch vụ của KĐTM

129

Biểu đồ 4.2: Cư dân từ 16-35 tuổi tham gia quyết định các dịch vụ trong

138

KĐTM
Biểu đồ 4.3: Cư dân từ 16-35 tuổi tham gia các hoạt động của KĐTM

139



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ những thập niên đầu của thời kỳ Đổi mới, Hà Nội đã từng bước hình
thành các khu đô thị mới (KĐTM). Trong một thời gian ngắn (1994 - 2019), nhiều
KĐTM ra đời đã ít nhiều làm thay đổi diện mạo của Thủ đô Hà Nội hơn ngàn năm
tuổi. Sự phát triển mạnh mẽ của các KĐTM ở Hà Nội đã đáp ứng nhu cầu nhà ở của
người dân, phù hợp với xu hướng phát triển của một đất nước đang tích cực chuyển
mình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), đô thị hóa và hội
nhập quốc tế.
Tuy vậy, có người cho rằng quá trình đô thị hóa đồng thời là quá trình làm
suy giảm tính cộng đồng trong cư dân đô thị. Con người đô thị trở nên cô đơn, vô
cảm giữa đám đông, trở thành con người chức năng. Đô thị giống như một khách
sạn khổng lồ - chỗ nghỉ qua đêm của hàng nghìn, hàng vạn con người xa lạ với
nhau. Ở nước ta, việc hình thành những KĐTM gây ra hiện tượng tăng dân số cơ
học nhanh chóng, tạo nên những áp lực mới về giao thông đô thị, công trình công
cộng: trường học, bệnh viện, khu vui chơi giải trí... Cùng với đó, việc người dân
bốn phương về sống chung tại một địa điểm tụ cư mới, việc chuyển đổi lối sống,
nếp sinh hoạt của người dân cũng đặt ra nhiều thách thức ở KĐTM. Trong bài viết
Quản lý đời sống văn hóa các KĐTM ở Hà Nội, tác giả Lê Thị Hương Huệ nhận
định: “Đặc trưng của văn hóa đô thị là tôn trọng tính cá nhân, dân chủ và nhân
quyền. Vì vậy, sinh hoạt văn hóa cộng đồng (VHCĐ) rất dễ rơi vào tình trạng đèn
nhà ai nhà ấy rạng, các hoạt động văn hóa rời rạc, không gắn kết” [34, tr.47]. Nhận
định đó khiến nghiên cứu sinh (NCS) băn khoăn và mong muốn tìm hiểu VHCĐ tại
các KĐTM của Hà Nội diễn ra như thế nào? Mặt khác, việc nhận thức đúng đắn về
VHCĐ, vai trò của VHCĐ trong nâng cao chất lượng sống của người dân, phát triển
kinh tế - xã hội (KT - XH) cũng là một trong những yêu cầu đặt ra hiện nay.
Việc nghiên cứu sự kiến tạo VHCĐ của KĐTM tại Hà Nội là một trong những
vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay. Đây cũng là vấn đề đặt ra

với những người làm công tác nghiên cứu lý luận và hoạch định chiến lược phát triển
văn hóa - xã hội ở nước ta. Vì vậy, NCS chọn đề tài “Sự kiến tạo văn hóa cộng


2
đồng của khu đô thị mới ở Hà Nội (nghiên cứu trường hợp Mỹ Đình - Mễ Trì và
Việt Hưng)” làm nội dung nghiên cứu của luận án này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích:
Nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về sự kiến tạo VHCĐ

của KĐTM ở Hà Nội hiện nay, góp phần vào việc nâng cao đời sống văn hóa cư dân
đô thị trong quá trình CNH, HĐH và đô thị hóa ở nước ta.
2.2. Nhiệm vụ:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến sự kiến tạo VHCĐ của KĐTM
ở Hà Nội;
- Làm rõ những vấn đề lý luận về sự kiến tạo VHCĐ;
- Khảo sát sự kiến tạo VHCĐ của KĐTM ở Hà Nội;
- Nhận diện những yếu tố tác động, vấn đề đặt ra và bàn luận về giải pháp
kiến tạo VHCĐ của KĐTM.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự kiến tạo VHCĐ của KĐTM ở Hà Nội
giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung nghiên cứu: Triển khai nội dung nghiên cứu đề tài luận án trên
hai phương diện: kiến tạo các yếu tố VHCĐ nội tại và các yếu tố VHCĐ ngoại tại
của KĐTM ở Hà Nội hiện nay. Trong đó, các yếu tố VHCĐ nội tại thể hiện các mối
quan hệ của các chủ thể trong không gian (phạm vi) của KĐTM. Các yếu tố VHCĐ
ngoại tại thể hiện các mối quan hệ của các chủ thể KĐTM với các cộng đồng bên

ngoài KĐTM, cộng đồng mạng xã hội, các yếu tố VHCĐ “mở” của KĐTM.
- Về không gian nghiên cứu: Tập trung khảo sát chủ yếu tại hai KĐTM là Mỹ
Đình - Mễ Trì và Việt Hưng. Hai KĐTM này hình thành trong những năm đầu của
thế kỷ XXI, trên địa bàn hành chính huyện chuyển thành quận. Hai KĐTM này đã
làm thay đổi diện mạo của vùng đất ven đô. Vì vậy, sự kiến tạo VHCĐ ở đây có
nhiều điểm đặc trưng, vừa mang tính hiện đại, vừa là nơi chuyển đổi mô hình
VHCĐ từ làng xã sang đô thị.


3
- Về thời gian nghiên cứu: Tiến hành nghiên cứu sự kiến tạo VHCĐ của hai
KĐTM Mỹ Đình - Mễ Trì và Việt Hưng từ năm 2006 đến 2019. Đây là khoảng thời
gian người dân chuyển đến sinh sống và hình thành cộng đồng mới.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của học thuyết mác-xít, thể hiện ở: (1) Tính
quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội: Trên cơ sở hạ tầng đô thị hiện
đại, sinh kế mới, quan hệ xã hội mới, người dân sống trong KĐTM sẽ dần hình
thành đời sống văn hóa mới của cộng đồng dân cư ở đây; (2) Về các mối quan hệ
phổ biến: Các mối quan hệ tất yếu khách quan từ trong truyền thống và đời sống
hiện đại; các mối quan hệ bên trong và bên ngoài của cư dân tại KĐTM ở Hà Nội sẽ
tác động và chi phối lẫn nhau, dẫn đến sự kiến tạo VHCĐ của KĐTM.
Luận án cũng dựa trên các quan điểm lý thuyết về kiến tạo văn hóa ở các đô
thị của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu trên, luận án sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
4.2.1. Phương pháp tiếp cận liên ngành
Văn hóa là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân

văn như triết học, nhân học, sử học, dân tộc học, tâm lý học, đạo đức học, nghệ
thuật học… Các nghiên cứu của nhiều nhà khoa học cho thấy văn hóa học vừa là
khoa học độc lập, vừa là khoa học liên ngành gắn với các ngành khoa học xã hội và
nhân văn khác. Tác giả Trần Ngọc Thêm cho rằng: văn hóa học là khoa học mang
tính tổng quát. Nó nằm ở giao điểm của các ngành khoa học xã hội và nhân văn.
Hay nói một cách khác, văn hóa học là một chuyên ngành không chuyên ngành, hậu
chuyên ngành.
Cũng như văn hóa, VHCĐ là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học
xã hội và nhân văn khác nhau. Hơn nữa, đề tài “Sự kiến tạo VHCĐ của KĐTM ở Hà
Nội (nghiên cứu trường hợp Mỹ Đình - Mễ Trì và Việt Hưng)” nằm trên ranh giới của


4
nhiều ngành khoa học ấy. Vì vậy, NCS đã tiếp cận các tài liệu có liên quan đến đề
tài thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau như: nhân học văn hóa, xã hội học văn hóa,
đô thị học, xã hội học đô thị, kiến trúc đô thị, quản lý đô thị, quản lý văn hóa…
NCS đã vận dụng, sử dụng các kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học trên làm
cơ sở, tài liệu cho nghiên cứu của mình. Ngoài ra, NCS sử dụng các khái niệm,
phạm trù và các phương pháp nghiên cứu của các ngành khoa học trên để nghiên
cứu các hiện tượng văn hóa, các hoạt động văn hóa tại KĐTM ở Hà Nội.
Phương pháp này giúp NCS tổng hợp, kiểm nghiệm, kế thừa kết quả nghiên
cứu của các ngành học khác về vấn đề VHCĐ của KĐTM. Hơn nữa, việc sử dụng
kết hợp các phương pháp nghiên cứu của các chuyên ngành giúp cho nội dung
nghiên cứu thêm phong phú và sâu sắc, bảo đảm tính chân xác khoa học gắn với
thực tiễn. Mặt khác, việc áp dụng phương pháp này giúp NCS lý giải một cách sâu
sắc, thuyết phục các hiện tượng VHCĐ tại các KĐTM.
4.2.2. Phương pháp điều tra xã hội học qua bảng hỏi
Phương pháp này nhằm thu thập dữ liệu định lượng. Thông qua những dữ liệu
thu được từ khách thể, NCS tìm hiểu về nhận thức, thái độ, thị hiếu, nhu cầu, hành vi
của chủ thể VHCĐ, trạng thái tồn tại của các sự vật, hiện tượng trong VHCĐ của

KĐTM. Để thu thập được số liệu cho nghiên cứu về sự kiến tạo VHCĐ, NCS đã chọn
mẫu, xây dựng phiếu điều tra, tiến hành điều tra và xử lý kết quả điều tra.

Nghiên cứu sinh đã xây dựng phiếu khảo sát trên cơ sở bám sát nội dung
nghiên cứu của luận án, làm cho người trả lời phiếu khảo sát thể hiện được quan
điểm của mình với những vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu. Từ đó, NCS thu nhận
được các thông tin đáp ứng các mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài luận án. Việc chọn
mẫu đảm bảo được tính ngẫu nhiên và tính đại diện. Vì vậy, NCS đã tiến hành chọn
mẫu là cư dân của KĐTM Mỹ Đình - Mễ Trì và Việt Hưng. NCS đã phân bổ mẫu
chọn gồm cả nam và nữ ở lớp người cao tuổi, trung niên và lớp trẻ. Tổng số mẫu
được chọn là 400, KĐTM Mỹ Đình - Mễ Trì chọn 200 mẫu, KĐTM Việt Hưng chọn
200 mẫu. Sau khi tiến hành điều tra, thu phiếu khảo sát về, NCS xử lý kết quả điều
tra bằng các phương thức thống kê, phân loại, tổng hợp, phân tích, so sánh … theo
các biến số độc lập để làm tài liệu cho các nội dung nghiên cứu.


5
4.2.3. Phương pháp điền dã (quan sát, tham dự, phỏng vấn sâu)
Nội dung của phương pháp này bao gồm: (1) Quan sát, phỏng vấn và ghi
chép chi tiết, khách quan những điều diễn ra trên thực địa; (2) Chụp ảnh, ghi âm,
ghi hình và chú thích kỹ các sự vật, hiện tượng văn hóa đang diễn ra tại thực địa; (3)
Khai thác nguồn tư liệu đã có về cộng đồng KĐTM.
Phương pháp điền đã giúp NCS tham gia vào đời sống của người dân tại các
KĐTM một thời gian để tìm hiểu, nghiên cứu VHCĐ tại đây. NCS đã trải nghiệm,
quan sát, phỏng vấn, ghi chép về những vấn đề liên quan đến đề tài, tham gia vào
một số sinh hoạt VHCĐ như tết Trung thu, tết Ông Công, Ông Táo, tết Nguyên
Đán; tìm hiểu sinh hoạt văn hóa của người dân tại những thời điểm khác nhau trong
thường nhật. Do cùng tham gia các sinh hoạt VHCĐ, NCS đã có cơ hội quan sát,
gặp gỡ, truyện trò, làm việc với nhiều cư dân của hai KĐTM.
Trong quá trình điền dã, NCS đã tiến hành sáu cuộc phỏng vấn sâu (PVS).

Những người trả lời PVS là: người dân về KĐTM sinh sống từ những ngày đầu
tiên; người dân tham gia vào các tổ chức đoàn thể tại KĐTM; người trong Ban quản
lý, Ban quản trị của KĐTM; Phó Chủ tịch UBND phường phụ trách vấn đề văn hóaxã hội. Nội dung PVS được thiết kế phù hợp với từng đối tượng trả lời phỏng vấn.
Song, nội dung cơ bản của PVS xoay quanh những vấn đề cơ bản sau: (1) Quá trình
chuyển đổi lối sống, nếp sống của người dân KĐTM; (2) Các sinh hoạt văn hóa của
cư dân trong thường nhật và dịp lễ, tết, hội; (3) Các hoạt động cải tạo, giữ gìn môi
trường sống; (4) Mối quan hệ của cư dân với các nhóm/cộng đồng bên ngoài
KĐTM; (5) Người dân tham gia vào cộng đồng mạng xã hội; (6) Những khó khăn,
hạn chế trong đời sống tại KĐTM và mong muốn của chủ thể.
Phương pháp này giúp NCS cảm nhận được đặc điểm văn hóa và môi trường
văn hóa KĐTM ở Hà Nội. VHCĐ được nhìn nhận trong chuỗi các sự kiện liên kết
chặt chẽ với nhau và phản ánh rõ nét VHCĐ của KĐTM.
4.2.4. Phương pháp so sánh - đối chiếu
Phương pháp so sánh - đối chiếu giúp NCS so sánh các đối tượng, sự vật được
nghiên cứu với các sự vật khác trong những quan hệ, hệ thống nhất định. Sự so sánh,
đối chiếu có thể được tiến hành cả về thời gian, không gian, quá trình…, nhằm chỉ ra


6
những đặc điểm, đặc trưng của đối tượng nghiên cứu, đem lại hiểu biết mới về đối
tượng vừa mang tính đặc thù, vừa mang tính phổ biến.
Phương pháp này cho phép NCS so sánh, đối chiếu các kết quả nghiên cứu
của các tác giả khác nhau về đối tượng nghiên cứu. Điều đó giúp NCS hiểu rõ điểm
khác biệt và tương đồng về quan điểm, nhận thức của các nghiên cứu đi trước.
Mặc khác, việc nghiên cứu sự kiến tạo VHCĐ được tiến hành khảo sát tại hai
địa điểm chính là KĐTM Mỹ Đình - Mễ Trì và Việt Hưng, phương pháp này giúp
NCS nhận thức rõ hơn sự khác biệt và tương đồng về VHCĐ tại hai địa điểm khảo
sát. Ngoài ra, NCS cũng đặt Mỹ Đình - Mễ Trì và Việt Hưng trong những mối quan
hệ, hệ thống KĐTM tại Hà Nội để nhận thức rõ hơn đối tượng nghiên cứu. Kết quả
NCS thu được sẽ là những hiểu biết toàn diện hơn về đối tượng vừa mang tính đặc

thù, vừa mang tính phổ biến ẩn chứa trong đối tượng nghiên cứu.
4.2.5. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phương pháp phân tích và tổng hợp giúp NCS tiến hành nghiên cứu về đối
tượng vừa cụ thể, chi tiết, vừa mang tính toàn diện, sâu sắc.
Phương pháp phân tích áp dụng trong việc nghiên cứu các tài liệu đã thu thập
được. Qua phân tích các tài liệu đó, NCS đã tổng hợp lại để có nhận thức tổng quát
về đối tượng nghiên cứu, những khía cạnh của đối tượng nghiên cứu đã được các
tác giả làm rõ, nhận ra những khoảng trống cần tiếp tục được nghiên cứu.
Phương pháp phân tích cũng được áp dụng để làm rõ những số liệu, dữ liệu
NCS thu được trong quá trình khảo sát thực tế, điều tra xã hội học qua bảng hỏi.
Trong quá trình phân tích, NCS sẽ làm rõ các mặt, các khía cạnh của đối tượng
nghiên cứu. Ngoài ra, dựa vào phương pháp phân tích, NCS đã phân chia đối tượng
nghiên cứu của mình (sự kiến tạo VHCĐ) thành các yếu tố văn hóa nội tại và các
yếu tố văn hóa ngoại tại. Các yếu tố VHCĐ nội tại cũng được phân chia thành: kiến
tạo các quan hệ xã hội - văn hóa chung của cộng đồng; kiến tạo lối sống, nếp sống
văn minh, hiện đại; kiến tạo cảnh quan văn hóa… Từ đó, NCS tiến hành nghiên cứu
những yếu tố đó một cách độc lập.
Sau khi đã có những kết quả nghiên cứu cụ thể của những yếu tố cấu thành,
NCS sử dụng phương pháp tổng hợp nhằm xác định những yếu tố chung cũng như


7
mối liên hệ, tác động qua lại giữa các yếu tố. Qua đó, đối tượng nghiên cứu lại được
kết hợp lại thành một chỉnh thể cố kết trong nội tại một cách sâu sắc hơn, đầy đủ và
toàn diện hơn trong nhận thức của NCS. Phương pháp tổng hợp cũng giúp NCS
hình thành nhận thức đầy đủ, tổng quát (trong tư duy) về đối tượng nghiên cứu của
đề tài luận án này.
5. Đóng góp mới của luận án
- Về lý luận: hệ thống hóa, bổ sung và phát triển một số vấn đề lý luận liên
quan đến VHCĐ; góp phần xác lập khái niệm và nội dung nghiên cứu VHCĐ từ

phương diện Văn hóa học. Nghiên cứu sự kiến tạo VHCĐ của KĐTM tại Hà Nội,
luận án bổ sung những nội dung và phương pháp nghiên cứu về VHCĐ của KĐTM
hiện nay - một vấn đề mới đang được xã hội quan tâm.
- Về thực tiễn: Luận án sẽ góp phần nhận diện thực trạng và những vấn đề thực
tiễn đặt ra trong kiến tạo VHCĐ. Thông qua đó để hiểu rõ hơn về thực trạng văn hóa đô
thị mới ở Hà Nội. Luận án chỉ ra sự cần thiết của việc tiếp tục phát huy tính chủ động,
tích cực của cộng đồng cư dân và các chủ thể trong xây dựng và phát triển VHCĐ ở
KĐTM Mỹ Đình - Mễ Trì và Việt Hưng nói riêng, KĐTM ở Hà Nội nói

chung. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần làm phong phú thêm nguồn tư
liệu về văn hóa, văn hóa đô thị, VHCĐ của KĐTM. Đây cũng là nguồn tư liệu tham
khảo cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy các nội dung về văn hóa đô thị,
VHCĐ…, hiện nay.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận án gồm 04 chương, 11 tiết.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến sự kiến tạo văn hóa
cộng đồng của khu đô thị mới ở Hà Nội
Chương 2: Những vấn đề lý luận của đề tài và khái quát về địa bàn nghiên cứu

Chương 3: Nhận diện sự kiến tạo văn hóa cộng đồng của khu đô thị mới Mỹ
Đình - Mễ Trì và Việt Hưng
Chương 4: Những yếu tố tác động, vấn đề đặt ra và bàn luận về giải pháp
kiến tạo văn hóa cộng đồng của khu đô thị mới ở Hà Nội.


8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN SỰ KIẾN TẠO
VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG CỦA KHU ĐÔ THỊ MỚI Ở HÀ NỘI

1.1. NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG VÀ VĂN HÓA CỘNG
ĐỒNG CỦA ĐÔ THỊ HÀ NỘI

1.1.1. Về cộng đồng và văn hóa cộng đồng
1.1.1.1. Về cộng đồng
“Cộng đồng” là vấn đề đã được nhiều nhà nghiên cứu ở trong và ngoài nước
đề cập đến từ nhiều khía cạnh và nội dung khác nhau. J.H. Fichter nhận thấy bản
thân mỗi cộng đồng đều có sự liên kết, cố kết nội tại. Sự cố kết này không phải do
các quy tắc rõ ràng, thành văn, mà do các quan hệ sâu hơn - đó là hằng số văn hóa.
Vì vậy, để hiểu ý nghĩa xã hội của cộng đồng, cần phải xem xét trên ba lĩnh vực là
đoàn kết xã hội, tương quan xã hội và cơ cấu xã hội.
Nhà xã hội học người Đức Fedinand Tonnies đã phân biệt cộng đồng truyền
thống thuộc xã hội nông nghiệp - nông thôn (Gemeinschaft) với cộng đồng thuộc xã
hội công nghiệp - đô thị (Gesellschaft). Theo ông, cộng đồng truyền thống có những
đặc trưng như: quan hệ xã hội mang tính thân tình và thân mật; bền vững; vị thế xã
hội của cá nhân được gán sẵn; tính cộng đồng lấy quan hệ dòng họ làm cơ bản.
Khác với cộng đồng truyền thống, cộng đồng đô thị có những đặc trưng như: tính cá
nhân rất cao (thậm chí là chủ nghĩa cá nhân); quan hệ xã hội dựa trên khế ước, hợp
đồng, các cam kết; coi trọng sự hợp lý và tính toán trong các quan hệ xã hội; cá
nhân phải phấn đấu để đạt được vị thế nhất định trong xã hội; sự nặc danh (vô danh)
trong tương tác xã hội [33, tr.19-20].
Về phân loại cộng đồng, Murray G. Ros đã phân ra thành hai loại: cộng đồng
địa dư và cộng đồng chức năng. Cộng đồng địa dư là nhóm dân cư ở trong một địa vực
riêng biệt, chẳng hạn như một làng, một tỉnh, một thành phố. Cộng đồng địa dư có thể
mở rộng ra để bao gồm tất cả dân chúng trong một nước, một khu vực hoặc cả thế giới.
Cộng đồng chức năng là một nhóm người có cùng quyền lợi, công việc hay nghĩa vụ
chung. Những quyền lợi này không bao gồm tất cả những người trong cùng


9

một cộng đồng địa dư mà chỉ những cá nhân và những nhóm có cùng quyền lợi hay
chức năng nào đó chung với nhau. Rõ ràng, cộng đồng chức năng không có ranh
giới rõ ràng. Nó có thể nằm trong một cộng đồng địa dư, cũng có thể được hình
thành trên nhiều cộng đồng địa dư khác nhau [33, tr.33].
Quan điểm của ông cho thấy các loại cộng đồng có thể không có ranh giới rõ
ràng. Các thành viên của cộng đồng này có thể là thành viên của các cộng đồng
khác. Đây là một phát hiện quan trọng, NCS sẽ vận dụng để tiến hành nghiên cứu về
VHCĐ KĐTM. VHCĐ của KĐTM không chỉ diễn ra trong phạm vi KĐTM (cộng
đồng địa dư). Thông qua các cá nhân/nhóm trong cộng đồng tham gia hoạt động văn
hóa với các cộng đồng khác, VHCĐ của KĐTM có thể tạo nên và lan tỏa ra bên
ngoài địa vực KĐTM (tạo nên yếu tố văn hóa ngoại tại).
Từ góc độ nghiên cứu của xã hội học, tác giả Tô Duy Hợp và Lương Hồng
Quang [33] khẳng định cộng đồng có nhiều loại hình khác nhau. Nhìn chung, các
cộng đồng được phân loại thành những loại hình chủ yếu sau:
Thứ nhất, loại hình cộng đồng thuần khiết và cộng đồng không thuần khiết.
Thứ hai, loại hình cộng đồng theo tính trồi nào đó như cộng đồng lãnh thổ,
cộng đồng huyết thống, cộng đồng dân tộc, cộng đồng tộc người, cộng đồng nghề
nghiệp, cộng đồng tôn giáo, cộng đồng địa dư… Đây là các cộng đồng được phân
chia dựa trên một đặc trưng xã hội của yếu tố nổi bật nhất định.
Thứ ba, loại hình cộng đồng lịch sử theo các thuyết tiến hóa xã hội. Theo lý
thuyết hình thái KT - XH của chủ nghĩa Mác, toàn bộ lịch sử nhân loại trải qua 3
hình thái cơ bản cộng đồng tính: (1) Cộng sản nguyên thủy với tính cộng đồng
thuần khiết nguyên sơ; (2) Các hình thái KT - XH có giai cấp và đấu tranh giai cấp;
(3) Hình thái cộng sản chủ nghĩa dường như sẽ quay lại cộng sản nguyên thủy
nhưng trên một trình độ cao hơn [33, tr.33-34].
Tác giả Phạm Hồng Tung [78] giới thiệu cách phân loại phổ biến nhất hiện
nay. Đó là chia cộng đồng thành ba loại:
Thứ nhất, cộng đồng địa lý hay cộng đồng địa vực. Đặc trưng nổi bật của loại
cộng đồng này là sự có chung hay cùng chia sẻ địa vực tồn tại của các cá thể trong
cộng đồng. Trong thực tiễn, đây thường là một trong những tiêu chí quan trọng để



10
nhận biết cộng đồng. Cộng đồng địa lý có ba nhóm cơ bản: (1) cộng đồng đơn vị cư
trú - hành chính; (2) cộng đồng láng giềng; (3) cộng đồng được kế hoạch hóa.
Thứ hai, cộng đồng văn hóa hay cộng đồng bản sắc. Tiêu chí gốc là các thành
viên có chung bản sắc hay những đặc trưng văn hóa. Vì vậy, dù có hoặc không có địa
bàn quần cư chung, họ vẫn thường xuyên có những tương tác và dễ dàng nhận biết về
nó. Hình thức tiêu biểu của loại hình cộng đồng này là: (1) cộng đồng nghề nghiệp;

(2) cộng đồng ảo; (3) cộng đồng tộc người; (4) cộng đồng tôn giáo; (5) cộng đồng
chính trị; (6) cộng đồng tưởng tượng.
Thứ ba, cộng đồng tổ chức: cộng đồng này dễ nhận biết bởi nó thường là
những thực thể xã hội hiện hữu, tồn tại khá bền vững. Hình thức chủ yếu của loại
hình cộng đồng này là: (1) cộng đồng huyết thống, chủ yếu là gia đình và họ tộc; (2)
các tổ chức chính trị và xã hội; (3) các tổ chức kinh tế, kinh doanh…
Cách phân loại này đã cung cấp một công cụ cho người nghiên cứu về cộng
đồng và VHCĐ. Trong thực tế, rất khó tìm được một cộng đồng thuần nhất chỉ thuộc về
một loại hình cộng đồng mà tác giả Phạm Hồng Tung đã khái quát ở trên. Hầu như các
cộng đồng đều ở dạng hỗn dung hay phức hợp của những kiểu loại khác nhau. Vì vậy,
khi nghiên cứu về VHCĐ theo địa vực, NCS không thể không chú ý đến mối liên hệ
của các cá nhân, nhóm trong cộng đồng này với các cộng đồng khác. Điều đó sẽ giúp
giải thích được nhiều hiện tượng văn hóa trong cộng đồng KĐTM hiện nay.

Khác với cách phân loại cộng đồng của tác giả Phạm Hồng Tung, Tô Duy
Hợp và Lương Hồng Quang, đồng tình với cách phân chia của Murray G. Ros, Giáo
trình môn: Văn hóa cộng đồng [76] chia cộng đồng thành hai loại:
- Cộng đồng địa lý: gồm những người dân cư trú trong cùng một địa bàn.
Cộng đồng này có thể có các đặc điểm văn hóa xã hội giống nhau và mối quan hệ
ràng buộc với nhau. Họ cùng được áp dụng chính sách chung.

- Cộng đồng chức năng: gồm những người có thể cư trú gần nhau hoặc không
gần nhau nhưng có lợi ích chung. Họ liên kết với nhau trên cơ sở nghề nghiệp, sở

thích, hợp tác hay hiệp hội có tổ chức [76, tr.5].
Như vậy, có nhiều cách phân loại cộng đồng, mỗi loại hình có quy mô và cấp độ
khác nhau từ lớn đến nhỏ, từ chung chung đến cụ thể. Cách phân loại này giúp cho


11
người nghiên cứu nhận thức rõ hơn về đối tượng nghiên cứu. Dựa trên các cách
phân loại đó, NCS nhận thấy cộng đồng KĐTM thuộc loại hình cộng đồng địa lý
(hay địa vực, hoặc địa dư) là chủ yếu. Song, các thành viên của cộng đồng này có
thể tham gia vào nhiều cộng đồng khác.
1.1.1.2. Về văn hóa cộng đồng
Văn hóa cộng đồng là vấn đề quan trọng trong nghiên cứu về các cộng đồng
khác nhau tồn tại trong lịch sử cũng như trong các xã hội hiện đại. Đến nay, đã có
nhiều tác giả công bố các công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực này. Về tiêu
chí hình thành VHCĐ ở Việt Nam, đã có một số tác giả ít nhiều đề cập đến (mặc dù
chưa có công trình nào đưa ra một quan niệm đầy đủ về VHCĐ).
Tác giả Trần Quang Nhiếp [53] cho rằng: Để xây dựng VHCĐ cơ sở, phải có
những tiêu chí, chuẩn mực làm căn cứ cho mọi thành viên trong cộng đồng noi theo.
Những tiêu chí, chuẩn mực này cũng là căn cứ quan trọng để thực hiện kiểm tra,
giám sát, đánh giá trình độ văn hóa của mỗi thành viên và của cả cộng đồng. Những
chuẩn mực VHCĐ cơ sở không thoát ly khỏi thực tế trình độ, điều kiện kinh tế, văn
hóa, xã hội. Nhân dân phải là người trực tiếp tham gia xây dựng những tiêu chí
VHCĐ ở địa phương, không có sự áp đặt chủ quan hoặc vay mượn từ bên ngoài.
Tác giả đã nêu lên một số tiêu chuẩn cụ thể như sau:
- Về chính trị: xác định rõ chế độ chính trị theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
hội nhập với thế giới hiện đại; nghiêm chỉnh thực hiện các chủ trương, đường lối,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

- Về đạo đức, lối sống: lòng trung thực, tính ngay thẳng, tình thương yêu
giúp đỡ, gắn bó với cộng đồng. Trong các mối quan hệ gia đình, xã hội phải chân
tình, cởi mở, gần gũi, gắn bó, không cá nhân, ích kỷ; có đời sống kinh tế ổn định và
phát triển, đời sống vật chất, tinh thần được nâng cao, có nơi sinh hoạt văn hóa, văn
nghệ, vui chơi; không mê tín dị đoan, thực hiện ma chay, cưới hỏi, lễ hội, các hoạt
động văn hóa lành mạnh, tiến bộ.
- Sự thống nhất về bản sắc dân tộc: luôn giữ gìn những giá trị truyền thống
tốt đẹp, mọi người đều gương mẫu, tôn trọng, tự giác thực hiện các quy định về đạo
đức, lối sống, nếp sống văn minh, tiến bộ.


12
Tác giả cũng cho rằng để xây dựng VHCĐ cơ sở, nên kết hợp hiệu quả Nhà
nước và nhân dân cùng làm trong xây dựng các thiết chế văn hóa, giải quyết những
nhu cầu cơ bản về giao thông, điện chiếu sáng, trường học, trạm y tế; giúp cộng
đồng xác định nội dung, phương hướng hoạt động, xây dựng cảnh quan môi trường,
vệ sinh sạch đẹp, văn minh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội...
Có thể nói, những tiêu chí mà tác giả Trần Quang Nhiếp nêu lên có phần lý
tưởng hóa, thể hiện rõ đặc tính của nhà quản lý. Song, đó cũng là điều chúng ta cần
chú ý để định hướng cho sự phát triển VHCĐ.
Với cái nhìn từ thực tiễn, tác giả Chu Thái Thành đưa ra một hệ tiêu chí cho
xây dựng VHCĐ trong bài Xây dựng đời sống văn hóa mới trong mỗi cộng đồng
dân cư [66]. Tác giả đã tiến hành khảo sát đời sống văn hóa trong cộng đồng dân cư
trên các nội dung:
(1) Tuyên truyền, xây dựng “Gia đình văn hóa”, thực hiện tốt nếp sống văn
hóa, văn minh;
(2) Hình thành mô hình, điển hình tiên tiến trong việc cưới, việc tang, lễ hội;
(3) Xây dựng làng văn hóa, tổ dân phố văn hóa;
(4) Phong trào xã hội hóa văn hóa.
Qua khảo sát, tác giả khẳng định: “Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước

ta đặc biệt quan tâm tới nhiệm vụ xây dựng và phát triển đời sống văn hóa, xã hội.
Cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa các cộng đồng dân cư (xóm, làng, ấp,
khu phố...) được phát triển rộng khắp, đang hướng theo chiều sâu và thu được nhiều
kết quả tốt đẹp” [66]. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tác giả chỉ ra những
vấn đề cần lưu tâm là: mức hưởng thụ văn hóa ở các làng, bản, thôn, ấp còn thấp; sử
dụng thiết chế văn hóa chưa hiệu quả; tác động tiêu cực trong giao lưu, mở cửa, hội
nhập kinh tế, văn hóa ngày càng sâu với quốc tế; quá trình đô thị hóa nhanh làm mất
đi những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp.
Từ đó, tác giả đưa ra những vấn đề cần giải quyết. Đó là phải đề cao trách
nhiệm của mỗi người dân trong việc xây dựng đời sống văn hóa ở ngay trong cộng
đồng; duy trì và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng cộng đồng văn hóa và nội
dung các tiêu chí công nhận danh hiệu làng, ấp, bản, thôn, khu phố văn hóa, tránh xu


13
hướng chạy theo thành tích, phản ánh không thực chất phong trào và chất lượng
VHCĐ; phát huy vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, chính quyền, vai trò tham mưu của
các cơ quan chức năng trong cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở cộng
đồng dân cư.
Có thể thấy, những nội dung mà tác giả nêu ra được định hình trên cơ sở các văn
bản quản lý của Nhà nước. Nó thể hiện ý chí của Nhà nước môt cách rõ nét trong xây
dựng và quản lý văn hóa. Vì vậy, các tiêu chí này chưa xuất phát từ bản thân cộng đồng
nên nó chưa phản ánh được chiều hướng văn hóa từ phía nhân dân. Mặt khác, các tiêu
chí này còn mang tính định hướng là chủ yếu nên chưa rõ ràng, cụ thể.

1.1.2. Về văn hóa đô thị, văn hóa cộng đồng đô thị Hà Nội
1.1.2.1. Văn hóa đô thị
Văn hóa đô thị là nội dung được nhiều tác giả nghiên cứu trên nhiều khía
cạnh và bình diện khác nhau.
 Về đô thị

Khi nghiên cứu về đô thị, văn hóa đô thị, các tác giả đều khẳng định đô thị là
bước phát triển tiếp theo của xã hội loài người. Emile Durkheim cho rằng:
Nếu dân số tập trung đông trong các thành thị, thay vì phân tán ở các
vùng nông thôn thì đó là do xu hướng của công luận, tức là áp lực tập thể
đẩy các cá nhân vào sự tập trung ấy. Chúng ta không còn có thể chọn cho
mình các kiểu nhà như các kiểu áo quần - mà ít ra, cả hai cách lựa chọn
đều có sự cưỡng chế như nhau [51, tr.126].
Theo E. Durkheim, sự tập trung dân số tại thành thị là do dư luận tập thể dẫn
dắt. Quan điểm này của ông thể hiện tính duy tâm. Trái với quan điểm của ông, nhiều
nhà nghiên cứu khẳng định khi xã hội phát triển đến một mức độ nhất định, một bộ
phận dân cư tách ra khỏi sản xuất nông nghiệp, lấy các hoạt động thương nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, quản lý xã hội…, làm nghề chính của mình.
Những người dân đó sống tập trung tại các khu trung tâm, đầu mối giao thông phù hợp
với nghề của họ. Từ thời điểm đó, xã hội đô thị bắt đầu hình thành.

Pierre George cho rằng thành thị được khai sinh từ môi trường thương mại,
đến thế kỷ XIX mới trở thành môi tường kỹ thuật và nhân văn. Khi nghiên cứu đô


14
thị, chúng ta cần xem xét đến các nhu cầu và phương thức thực hiện ở mỗi hệ thống
như: (1) dạng chợ nhỏ, kèm theo là trung tâm phòng thủ, hành chính và tôn giáo; (2)
các thành thị thương mại ở các thời kỳ khác nhau; (3) thành phố thương mại và công
nghiệp, hệ thống này xuất hiện từ cuộc cách mạng công nghiệp và tư bản chủ nghĩa;

(4) các thành phố thuộc địa do nhu cầu bành trướng kinh tế tư bản chủ nghĩa; (5)
các thành phố xã hội chủ nghĩa có chức năng hành chính và công nghiệp vượt trội
hơn so với chức năng luân chuyển và phân phối sản phẩm [40, tr.118-119].
Khi so sánh đời sống đô thị tại các thành phố công nghiệp của Mỹ với đời sống
đô thị dân gian - nông thôn (folk-urban model), Robert Redfield nhận thấy “đô thị

dân gian” thường có quy mô nhỏ nhưng thiêng liêng, tính cá nhân cao và đồng nhất. Nó
trái ngược với đô thị tại các thành phố công nghiệp. Từ đó, ông đưa ra những đặc điểm
của đô thị công nghiệp là phi cá nhân, không đồng nhất, thế tục, và pha trộn. Quan
niệm này có tính hợp lý nhất định nhưng còn nhiều điểm không phù hợp ngay cả với
các đô thị công nghiệp của Mỹ. Còn G.Endruweit và G.Trommsdorff cho rằng đô thị là
nơi tập trung đông dân cư nhưng không đồng nhất về thành phần, dựa trên nền kinh tế
phi nông nghiệp là chủ yếu. Đây là những đặc điểm nổi bật của đô thị.

Tuy nhiên, sự hình thành và phát triển cũng như những đặc trưng của đô thị
châu Âu khác châu Á, đô thị Việt Nam khác với đô thị ở các nước khác. Tác giả Lê
Quý Đức và Vũ Thy Huệ cho biết: đô thị ở nước ta “hình thành bởi hai yếu tố “đô”
và “thị”. Đô là nơi đặt trụ sở của bộ máy cai trị nhà nước trung ương, địa phương
(tỉnh, phủ, huyện). Thị là chợ, nơi dân cư quần tụ để sản xuất, buôn bán, trao đổi sản
phẩm hàng hóa” [21, tr.80]. Vì vậy, nếu đô thị của phương Tây là trung tâm kinh tế
trước khi gắn với yếu tố chính trị thì ở Việt Nam có sự trái ngược lại. Không những
thế, đô thị ở phương Tây gắn với kinh tế công nghiệp, dịch vụ, thương mại, còn đô
thị của Việt Nam đến thời phong kiến trung đại vẫn là “đô thị của nền kinh tế nông
nghiệp, thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ” [21, tr.80]. Nét đặc trưng này của đô thị
Việt Nam cũng giúp NCS lý giải được vì sao văn hóa nông nghiệp, nông thôn luôn
tồn tại và phát triển trong lòng xã hội đô thị Việt Nam. Mặc dù mang đặc trưng như
vậy, đô thị Việt Nam cũng như ở các nước khác trên thế giới vẫn có sự khác biệt với
nông thôn trên nhiều khía cạnh.


15
Nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra những điểm khác biệt cơ bản giữa nông thôn
và đô thị. Năm 1987, Ian Robertson đưa ra 11 tiêu chí để phân biệt giữa xã hội tiền
công nghiệp (nông thôn) và xã hội công nghiệp (đô thị) (xem Bảng 1.1).
Bảng 1.1: Phân loại xã hội của Ian Robertson
Chỉ báo


Các xã hội tiền công nghiệp

1) Chiến lược
sống

Xã hội công nghiệp

Săn bắt, hái lượm, du mục, trồng Chủ nghĩa công nghiệp và hậu
trọt
công nghiệp

2) Cơ cấu xã Tương đối đơn giản: có một số Phức hợp: nhiều vị thế, vai trò,
hội
vị thế và vai trò. Ngoài gia đình nhiều thiết chế xã hội phát

3) Các vị thế

còn có một số thiết chế khác

triển cao như giáo dục, khoa

tương đối phát triển

học…

Hầu hết đều được gán sẵn

Một số được gán sẵn song,
nhiều địa vị do cá nhân phấn đấu

đạt được

4) Các
xã hội

nhóm Hầu hết là nhóm sơ cấp (hữu
danh, thân thuộc)

5) Kích thước Đặc trưng cơ bản là nhỏ (cộng
cộng đồng
đồng xóm làng).

Hầu hết là nhóm thứ cấp (vô
danh, không thân thuộc)
Đặc trưng cơ bản là lớn (thành
phố).

6) Phân công Không có gì đáng kể ngoài phân Đa dạng hóa cao: các nghề nghiệp
lao động
công theo giới tính, lứa tuổi
được chuyên môn hóa cao
7) Kiểm
xã hội

soát Phần lớn là phi chính thức, dựa trên Thường là chính thức, dựa chắc
phản ứng tự phát của cộng đồng trên luật pháp, cảnh sát và tòa án

8) Giá trị

Truyền thống, định hướng tôn Hiện đại, định hướng thế tục

giáo

9) Văn hóa

Thuần nhất: Hầu hết cư dân chia Không thuần nhất: Nhiều văn
sẻ những giá trị giống nhau, có hóa phụ chứa đựng các giá trị,
một số văn hóa phụ

10) Công
nghệ

chuẩn mực khác nhau

Thô sơ, chủ yếu dựa trên cơ bắp Tiên tiến, chủ yếu dựa trên
của người và súc vật
máy móc và năng lượng
(điện…)


16
11)

Biến

Chậm chạp

Nhanh chóng

đổi xã hội
Nguồn: Lương Hồng Quang (2018), Phát triển văn hóa dựa vào cộng

đồng:
các tranh luận lý thuyết và thực tiễn, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.28.
Về văn hóa đô thị
Khi xác định được sự khác nhau giữa đô thị và nông thôn trên một số tiêu chí cơ
bản, các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu về văn hóa đô thị. Isaac Joseph, một thành viên
chủ lực của nhóm Văn hóa đô thị Pháp, cho rằng “Văn hóa đô thị là biểu hiện cần
khẳng định lại bền bỉ trong bối cảnh mới về các phẩm chất gắn với nguồn gốc, điều
kiện xã hội hoặc địa điểm cư trú” [40, tr.81]. Với ông, văn hóa đô thị chính là sự tiếp
nối của văn hóa nông thôn. Văn hóa đô thị không phải là sự tách biệt, xa lạ với văn hóa
nông thôn. Khác với I.Joseph, tác giả Trần Ngọc Khánh cho rằng văn hóa đô thị:

Là một tập hợp gồm toàn thể các thành tố văn hóa của loài người trong
quá trình hoạt động về mọi phương diện: kinh tế, chính trị, kỹ thuật, xã
hội, luật pháp, hành chính, giáo dục, y tế, vệ sinh, tín ngưỡng, tôn giáo,
học thuyết, khoa học, kỹ thuật, quy hoạch… nhằm tạo lập đời sống,
không ngừng cải thiện môi trường sống, làm cho con người phát triển
cân bằng, toàn diện [40, tr.85-86].
Tuy cách hiểu này mang tính thống kê, song nó cho thấy văn hóa đô thị là một
tổng hòa các thành tố văn hóa trong mọi hoạt động sống của con người. Trong đó, các
giá trị văn hóa truyền thống tồn tại hài hòa trong cái tiến bộ văn minh của thời đại,
nhằm đáp ứng các nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần của mọi thành phần cư dân.
Văn hóa đô thị phát triển các mối quan hệ trong tương quan lợi ích cá nhân, cộng đồng
và xã hội ngày càng đa dạng, rộng lớn. Tính đa dạng của văn hóa đô thị đòi hỏi sự
tương ứng về hình thức, quy mô và tính chất hoạt động của các công trình văn hóa đô
thị, kể cả hoạt động kinh tế. Các nhân tố văn hóa, tính chất văn hóa quy định các hoạt
động của văn hóa đô thị. Trong tính tổng thể hài hòa đó, văn hóa đô thị giúp con người
phát triển cân bằng và toàn diện trong môi trường nhân tạo, trong đó, môi trường tự
nhiên vẫn là một thành tố không thể thiếu và được tôn trọng. Trên cơ sở đó, tác giả tiếp
cận văn hóa đô thị một cách hệ thống từ lý thuyết văn hóa đô thị đến thực



17
tiễn văn hóa đô thị, thời gian văn hóa đô thị, không gian văn hóa đô thị và chủ thể
văn hóa đô thị.
Trong phần Lý thuyết văn hóa đô thị, tác giả Trần Ngọc Khánh cho rằng văn hóa
đô thị là một thực thể toàn vẹn thuộc phạm trù văn hóa. Thực thể toàn vẹn đó làm cho
đô thị không bị hạn hẹp trong tính văn hóa của đô thị hoặc các hoạt động văn hóa

ở đô thị. Mặt khác, nó làm cho văn hóa gần gũi hơn, gắn bó hơn với đời sống thực
tiễn, làm cho đô thị mang tính nhân văn, có bề dày của quá trình lịch sử hình thành
và phát triển.
Yếu tố văn hóa chỉ định đô thị là một quá trình gồm năm giai đoạn của quá
trình đô thị hóa: phát hiện (tìm thấy hoặc xác lập địa hình, địa lợi trong môi
trường tự nhiên), phát minh (hình thành cái mới, nhân tạo, theo ý muốn của
con người), đổi mới (ứng dụng vào đời sống xã hội), tiến hóa (tạo nên
chuyển động, biến đổi) và truyền bá (vừa lan tỏa trong không

gian, vừa tiếp nối theo thời gian) [40, tr.9].
Như vậy, VHCĐ đô thị không thể tự nhiên sinh ra. Nó cần trải qua quá trình
gồm các giai đoạn: “phát hiện”, “phát minh”, “đổi mới”, “tiến hóa” và “truyền bá”.
Quá trình “truyền bá” sẽ làm cho văn hóa đô thị không bị bó hẹp trong phạm vi địa
vực của đô thị.
Tác giả Lê Văn Định viết: “có thể hiểu văn hóa đô thị là các giá trị vật chất tinh thần cùng cách thức con người sáng tạo ra chúng cũng như phương thức sử
dụng chúng trong quá trình con người sống, hoạt động và phát triển ở môi trường
đô thị” [11, tr.29]. Theo tác giả, văn hóa đô thị chính là văn hóa của con người hình
thành và phát triển gắn với môi trường đô thị. Văn hóa đô thị khác văn minh đô thị.
Song, văn hóa đô thị phải tương thích với văn minh đô thị để đô thị đạt được sự phát
triển bền vững, hiện đại, nhân văn, cư dân đô thị có thể phát huy, sáng tạo và được
hưởng thụ ngày càng nhiều hơn các giá trị văn hóa.
Theo tác giả Phan Đăng Long, “văn hóa đô thị là tổng thể các quan hệ và hoạt

động văn hóa được vận hành theo các giá trị - chuẩn mực vật chất, tinh thần nhất định,
để tôn vinh và sản sinh, truyền bá, thực hành các giá trị chân, thiện, mỹ mới, nhằm làm
giàu tính người hơn trong đời sống đô thị” [47, tr.19-20]. Văn hóa đô thị


18
sẽ chi phối, điều tiết đời sống tinh thần cũng như mọi hoạt động xã hội của con
người trong cộng đồng.
Tác giả Nguyễn Thanh Tuấn khẳng định: “văn hóa đô thị là tổng thể các tri thức,
kinh nghiệm và giá trị vật chất, tinh thần, kể cả các hoạt động văn hóa để tôn vinh và
sản sinh, truyền bá, thực hành các tri thức, kinh nghiệm và giá trị chân, thiện, mỹ, nhằm
làm giàu tính người hơn trong đời sống đô thị” [77, tr.29]. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra
bốn phương diện cần được xem xét khi nghiên cứu văn hóa đô thị. Đó là:

- Tri thức, kinh nghiệm hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người;
- Các giá trị văn hóa với tính chất là biểu tượng của đời sống thường nhật và
chuẩn mực văn hóa với tính chất là sự áp dụng cụ thể các giá trị văn hóa vào đời
sống thường nhật;
- Các thể thức biểu hiện của văn hóa đô thị thông qua các cá nhân (hành vi
văn hóa, lối sống có văn hóa) và thông qua các loại hình văn hóa (văn học, mỹ
thuật, sân khấu, ca nhạc, điện ảnh, nhiếp ảnh…);
- Hoạt động sáng tạo, truyền bá và thực hành các chuẩn mực văn hóa.
Như vậy, văn hóa đô thị hình thành và phát triển trong xã hội đô thị, một hình
thái xã hội phát triển cao hơn mà con người đã tạo ra.
 Đặc trưng của văn hóa đô thị
Khi nghiên cứu về biến đổi văn hóa đô thị Việt Nam, tác giả Nguyễn Thanh
Tuấn [77] nêu ra 5 đặc trưng của văn hóa đô thị là:
- Lối sống văn hóa đô thị tùy thuộc chủ yếu vào các dịch vụ công, từ nhà ở, ăn
uống, đi lại cho đến các sinh hoạt gia đình và cá nhân. Dịch vụ công đã trở thành một
bộ phận hữu cơ tạo nên môi trường sống, là một phần cơ bản tạo nên văn hóa đô thị,


một đặc trưng của văn hóa đô thị.
- Hệ số sử dụng các phương tiện giao thông lớn và tăng lên không ngừng
cùng với quá trình hiện đại hóa.
- Văn hóa đô thị có tính phân hóa cao và rõ nét. Sự phân hóa đó quy định
tính hai mặt trong phát triển nhân cách ở người đô thị.
- Hoạt động đa phương hóa, đa dạng hóa theo hướng ngày càng mở rộng.
- Sự phức hợp giữa văn hóa bác học với văn hóa dân gian và văn hóa đại chúng.


19
Tác giả Lê Văn Định [11] cũng nhận thấy những đặc trưng nổi bật của văn
hóa đô thị là:
- Môi trường xã hội đô thị có tính nhân tạo cao hơn;
- Gắn bó chặt chẽ với khoa học, kỹ thuật, công nghệ;
- Hệ thống quản lý xã hội chủ yếu dựa trên nền tảng pháp luật;
- Gắn liền với nền sản xuất công nghiệp, dịch vụ;
- Văn hóa bác học phát triển mạnh hơn văn hóa dân gian.
Tuy các tác giả đề cập đến những đặc trưng không hoàn toàn giống nhau,
song cho thấy văn hóa đô thị là một thực thể có tính biến đổi cao, có xu hướng mở
rộng các hoạt động ra bên ngoài cương vực của nó. Hơn nữa, thực thể ấy cũng có
tính hấp dẫn và thu hút mạnh mẽ đối với cư dân nông thôn, sức chinh phục to lớn
với văn hóa nông thôn. Điều này càng khẳng định rõ hơn quan điểm của MácĂngghen đã nêu ra trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản: thành thị thu hút người
dân nông thôn chuyển đến sống và làm việc tại thành thị để “thoát khỏi vòng ngu
muội của đời sống thôn dã” [50, tr.50].
 Cấu trúc của văn hóa đô thị
Tác giả Trần Ngọc Khánh [40] đã phân chia cơ cấu và tiến hành nghiên cứu
văn hóa đô thị trên ba nội dung chính. Đó là:
(1) Thời gian văn hóa đô thị: tác giả nghiên cứu quá trình hình thành và biến
đổi thành thị trên thế giới từ các thành thị đầu tiên, tìm ra đặc trưng văn hóa các đô

thị cổ, quá trình đô thị hóa đến các đô thị hiện đại, các mô hình đô thị; chất lượng
sống ở đô thị và đặc trưng đô thị hóa các đô thị lớn trên thế giới;
(2) Không gian văn hóa đô thị: tác giả nghiên cứu về không gian tự nhiên, tổ
chức không gian đô thị, không gian kỹ thuật và không gian nhân văn. Trong đó đề
cập về sự tiến hóa địa hình, địa lợi và tổ chức không gian đô thị, về quy hoạch đô
thị, giao thông, các phân khu chức năng đô thị;
(3) Chủ thể văn hóa đô thị: tác giả nghiên cứu các nội dung về di sản văn hóa
đô thị, chính sách văn hóa đô thị, môi trường văn hóa đô thị, xây dựng môi trường
văn hóa đô thị, quản lý và xây dựng bản sắc đô thị.
Tác giả Nguyễn Thanh Tuấn [77] nghiên cứu văn hóa đô thị qua bốn phương
diện sau:


×