Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tách thu hồi thuốc nhuộm dư trong nước thải nhuộm bằng màng lọc và khả năng giảm thiểu fouling cho quá trình lọc tách thuốc nhuộm qua màng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 81 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
........................................

CÙ THỊ VÂN ANH

       

NGHIÊN CỨU TÁCH THU HỒI THUỐC NHUỘM DƯ 
TRONG NƯỚC THẢI NHUỘM BẰNG MÀNG LỌC 
VÀ KHẢ NĂNG GIẢM THIỂU FOULING CHO QUÁ 
TRÌNH LỌC TÁCH THUỐC NHUỘM QUA MÀNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

HÀ NỘI, 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
........................................


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên tôi xin gửi lời cảm  ơn sâu sắc tới TS. Trần Thị  Dung, người đã 
giao đề tài và tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi xin chân thanh c
̀ ảm  ơn các Thầy Cô và các anh chị công tác tại Phòng thí 
nghiệm Nghiên cứu màng lọc, Phòng thí nghiệm Hóa môi trường – Trường Đại 
học Khoa học Tự  nhiên ­ ĐHQGHN, đã động viên và tạo mọi điều kiện cho tôi 
trong quá trình thực hiện luân văn.
̣
Tôi cung xin chân thành c


̃
ảm  ơn các anh chị, các bạn làm việc tại Trung tâm  
CETASD – Trường Đại học Khoa học Tự nhiên đã tạo điều kiện thuận lợi giúp 
tôi thực hiện luân văn này.
̣
Tôi xin chân thành cảm ơn !
                                                    Hà Nội, ngày 31  tháng 12 năm 2012
                                                                                                   H ọc viên

                                                                                               Cù Thị Vân Anh


MỤC LỤC
 2.2.2. Xác định độ giảm năng suất lọc theo thời gian                                                 
 
................................................
    
 37

MỤC LỤC HÌNH
 2.2.2. Xác định độ giảm năng suất lọc theo thời gian                                                 
 
................................................
    
 37

MỤC LỤC BẢNG

 2.2.2. Xác định độ giảm năng suất lọc theo thời gian                                                 
 

................................................
    
 37



BẢNG  KÍ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AA: axit acrylic
AFM: chụp phổ  hiểm vi lực nguyên tử
BOD: Nhu cầu oxy sinh hóa
COD: Nhu cầu oxy hóa học
DR: trực tiếp
DS: phân tán
FTIR – ATR: phổ hồng ngoại phản xạ ngoài
MA: axit maleic
MN: Màng nền
PP: phương pháp
SEM: chụp hiểm vi điện tử quét
SS: song song
TSS: Tổng hàm lượng chất rắn lơ lửng


MỞ ĐẦU

          Ngành dệt nhuộm đã có từ lâu đời vì nó gắn liền với một trong những nhu  
cầu cơ  bản của con người là may mặc. Sản lượng dệt trên thế  giới ngày càng  
tăng, không chỉ  về  chất lượng mà còn đa dạng về  mẫu mã, màu sắc của sản 
phẩm.  Ở   Ấn Độ, hàng năm sản xuất khoảng trên 4000 triệu mét  vải.  Ở  Việt 
nam, ngành công nghiệp dệt may đang trở  thành một trong những ngành công  
nghiệp mũi nhọn, hàng năm sản xuất khoảng trên 2000 triệu mét vải và trong các  

năm tới sẽ  còn tăng thêm.  Tuy nhiên, một vấn đề  luôn đi kèm theo qui mô sản  
xuất là vấn đề  chất thải của ngành này, trong đó có nước thải. Nước thải phát 
sinh trong ngành công nghiệp dệt nhuộm xuất phát từ các công đoạn hồ sợi, giũ 
hồ, nấu, tẩy, nhuộm... Nếu lượng nước thải này chỉ  xử  lý sơ  bộ, sau đó xả  ra 
môi trường sau mỗi chu trình thì không chỉ  gây thiệt hại cho nguồn tài nguyên 
nước mà còn làm ô nhiễm môi trường nước và không tận dụng hết thuốc nhuộm  
còn tồn dư. Hiện nay, các phương pháp xử  lý nước thải dệt nhuộm đòi hỏi khá  
nhiều chi phí, kỹ  thuật phức tạp mà hiệu quả  không cao. Thành phần gây ô  
nhiễm chính trong nước thải dệt nhuộm là lượng thuốc nhuộm tồn dư trong dòng  
thải sau công đoạn nhuộm. Do đó, việc tách thu hồi thuốc nhuộm tồn dư ngay tại  
công đoạn phát sinh là một trong những giải pháp hữu ích để xử lý và giảm thiểu  
ô nhiễm nước thải dệt nhuộm. So với các phương pháp xử  lý thông thường,  
ngoài mục đích tách thuốc nhuộm dư trong nước thải nhuộm, kỹ thuật lọc màng 
còn cho phép tái sử dụng lại dung dịch nhuộm và nước sạch sau khi đã tách thuốc 
nhuộm, đây là một phương pháp có nhiều ưu điểm và đã được áp dụng ở một số 
nước.  Ở  nước ta, việc áp dụng kỹ  thuật lọc màng trong xử  lý nước thải dệt  
nhuộm là vấn đề còn rất mới. 
Phương pháp tách bằng màng là một trong những kỹ  thuật tách hiện đại 
và được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực. Trong khoảng vài chục năm trở 

1


lại đây, kỹ thuật lọc màng đã có những bước tiến bộ vượt bậc và được áp dụng  
rộng rãi ở qui mô công nghiệp cho nhiều mục đích khác nhau, như sản xuất nước  
sạch và siêu sạch, lọc hoá dầu, dược phẩm, thực phẩm, hoá chất, y tế, môi  
trường … Ưu điểm của phương pháp lọc bằng màng là có thể tách được các cấu  
tử có kích thước rất khác nhau, từ cỡ hạt tới cỡ ion mà không cần phải sử dụng  
thêm các hoá chất khác, các cấu tử  cần tách không phải chuyển pha, là phương 
pháp tách hiện đại, tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường.

        Trong luận văn này, chúng tôi đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu tách thu hồi  
thuốc nhuộm dư  trong nước thải nhuộm bằng màng lọc và khả  năng giảm  
thiểu fouling cho quá trình lọc tách thuốc nhuộm qua màng”
               Luận văn được thực hiện tại Phòng thí nghiệm Nghiên cứu màng lọc,  
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội.

2


CH ƯƠ NG 1. T Ổ NG QUAN
1.1. Nước thải dệt nhuộm và các phương pháp xử lý nước thải dệt nhuộm
1.1.1. Công nghệ sản xuất và nguồn phát sinh nước thải
Ngành dệt nhuộm là ngành công nghiệp có dây chuyền công nghệ  sản  
xuất khá phức tạp với nhiều loại hình công nghệ  khác nhau. Quá trình sản xuất  
sử  dụng các nguồn nguyên liệu, hóa chất khác nhau để  sản xuất các mặt hàng 
với mẫu mã, màu sắc, chủng loại rất đa dạng. Nguyên liệu chủ yếu là xơ bông,  
xơ  nhân tạo để  sản xuất các loại vải cotton và vải pha, ngoài ra còn dùng các  
nguyên liệu như lông thú, đay gai, tơ tằm …
Thông thường công nghệ  dệt nhuộm gồm ba quá trình cơ  bản: Kéo sợi,  
dệt  vải  và   xử   lý  (nấu  tẩy),   nhuộm  và   hoàn  thiện  vải.   Các   công  đoạn  chính 
gồm[14­42]:
Làm sạch nguyên liệu: Nguyên liệu bông thô chứa các sợi bông có kích 
thước khác nhau cùng với các tạp chất cơ học được đánh tung, làm sạch và trộn  
đều.
Chải: Các sợi bông được chải song song và tạo thành các sợi thô.
Kéo sợi, đánh ống, mắc sợi: Kéo sợi thô tại các máy sợi con để giảm kích 
thước sợi, tăng độ bền và quấn sợi vào các ống thích hợp. Sợi con trong các ống  
nhỏ được đánh ống thành các quả  to để  chuẩn bị  dệt vải. Mắc sợi để  chuẩn bị 
cho công đoạn hồ sợi.


3


Hồ sợi dọc: Hồ sợi bằng hồ tinh bột và tinh bột biến tính để tạo màng hồ 
bao quanh sợi, tăng độ  bền, độ  trơn và độ  bóng của sợi. Ngoài ra còn dùng các  
loại hồ nhân tạo như polyvinylalcol PVA, polyacrylat …
Dệt vải: Kết hợp sợi ngang và sợi dọc để hình thành tấm vải mộc.
Giũ hồ: Tách các thành phần hồ  bám trên vải mộc bằng enzim hoặc axit 
sunfuric 0.5%, sau đó giặt bằng nước, xà phòng, xút, chất ngấm rồi đưa sang nấu 
tẩy.
Nấu vải: Loại trừ phần hồ còn lại và các tạp chất thiên nhiên của xơ sợi.  
Vải được nấu trong dung dịch kiềm và các chất tẩy giặt  ở  áp suất 2 đến 3 at,  
nhiệt độ 120 đến 1300C, sau đó vải được giặt nhiều lần.
Làm bóng vải: Mục đích làm trương nở  sợi cotton, xơ  sợi trở  nên xốp,  
thấm nước, bóng hơn, tăng khả  năng bắt màu thuốc nhuộm. Thường dùng dung 
dịch NaOH nồng độ  300 ppm, nhiệt độ  100C đến 200C, sau đó vải được giặt 
nhiều lần.
Tẩy trắng: Các chất tẩy thường dùng là NaClO2, NaOCl hoặc H2O2 cùng 
với các hóa chất phụ trợ khác.
Nhuộm vải và hoàn thiện: Thường sử  dụng các loại thuốc nhuộm tổng 
hợp và các hóa chất trợ nhuộm để tăng sự  gắn màu của vải. Phần thuốc nhuộm  
dư  không gắn vào vải sẽ  đi vào nước thải. Tỷ  lệ  màu gắn vào sợi nằm trong 
khoảng 50 đến 98%, tùy thuộc vào công nghệ  nhuộm, loại vải, độ  màu yêu cầu 
… Để tăng hiệu quả quá trình nhuộm, các hóa chất được sử dụng là các loại axit  
H2SO4,   CH3COOH,   các   muối   sunfat   natri,   các   chất   cầm   màu   như   syntephix, 
tinofix.
Nguồn nước thải phát sinh trong công nghệ  dệt nhuộm là từ  các công 
đoạn hồ sợi, giũ hồ, nấu, tẩy, nhuộm và hoàn tất, trong đó lượng nước thải chủ 
yếu do quá trình giặt sau mỗi công đoạn, và nước thải công đoạn giặt sau nhuộm  
chiếm từ 20 đến 60 % tổng lượng nước thải.


4


1.1.2. Đặc trưng nước thải dệt nhuộm và các tác động đến môi trường
Vấn đề  ô nhiễm chủ  yếu trong công nghiệp dệt nhuộm là ô nhiễm nước  
thải. Các chất thải trong nước thải dệt nhuộm bao gồm: Các thành phần nguyên 
liệu (tạp chất thiên nhiên, muối, dầu, mỡ  trong bông và len, xơ  sợi), hóa chất,  
thuốc nhuộm còn tồn dư  sau khi hoàn thành công đoạn nhuộm, in hoa và chất  
thải của các công đoạn phụ trợ. Mức độ  ô nhiễm nước thải phụ thuộc chủ yếu  
vào loại và lượng các hóa chất, chất trợ  thuốc nhuộm sử  dụng, phụ  thuộc vào 
công nghệ  và các máy móc thiết bị  trong dây chuyền công nghệ  áp dụng. Các 
chất gây ô nhiễm trong nước thải dệt nhuộm được chia thành ba nhóm chính 
gồm:
* Các chất độc với vi sinh và tôm cá gồm xút, natricabonat, axit vô cơ, các 
chất khử vô cơ như natrisunfua và natrihidrosunfit, dung môi hữu cơ clo hóa, các  
dẫn xuất phenol và đi phenol, các hợp chất kim loại nặng và các hợp chất hữu cơ 
hay dung môi.
* Các chất khó phân giải vi sinh gồm phần lớn thuốc nhuộm và chất tăng 
trắng quang học, các chất tạo phức­càng hóa, nhũ hóa, làm mềm, các chất hồ sợi,  
các chất giặt vòng thơm, ankylenoxit dài hay mạch nhánh ankyl.
* Các chất tương đối không độc và có thể phân giải vi sinh gồm xơ sợi 
và các tạp chất thiên nhiên của chúng, bột sắn không biến tính hóa học dùng để 
hồ sợi, các chất giặt ankyl mạch thẳng, axit axetic và axit fomic, muối trung tính  
nồng độ thấp.
Các thông số đặc trưng cho tính chất nước thải dệt­nhuộm gồm các thông 
số vật lý (nhiệt độ, pH, màu sắc, tổng lượng chất rắn lơ lửng, tổng lượng chất  
rắn hòa tan), các thông số  sinh học, sinh thái (BOD, COD, tổng cacbon hữu cơ 
TOC, cacbon hữu cơ hòa tan DOC, kim loại nặng, halogen hữu cơ AOX) và các  
thông số  hóa học (clo tự  do trong nước, nito amoni, nito tổng, phosphor tổng,  


5


sulfua, sulfite, sunfat, hidrocacbon tổng, các chất thơm, các chất hoạt động bề 
mặt..).
Đặc tính nước thải và các chất gây ô nhiễm trong nước thải ngành dệt­
nhuộm được thể hiện trong bảng sau.
Bảng 1.1. Các chất gây ô nhiễm và đặc tính của nước thải ngành dệt­nhuộm [14  
]
Công đoạn

Chất ô nhiễm trong nước thải

Đặc tính của nước thải

Hồ sợi, giũ 
hồ

Tinh bột, glucose, carboxy metyl xenlulo, 
polyvinyl alcol, nhựa, chất béo và sáp

BOD cao (34 đến 50 % 
tổng BOD)

Nấu tẩy

NaOH, chất sáp và dầu mỡ, tro, soda, 
silicat natri và xơ sợi vụn


Độ kiềm cao, màu tối, 
BOD cao (30 % tổng BOD)

Tẩy trắng

Hypoclorit, hợp chất chứa clo, NaOH, 
AOX, axit …

Độ kiềm cao, chiếm 5 % 
BOD

Làm bóng

NaOH, tạp chất

Độ kiềm cao, BOD thấp 
(dưới 1% tổng BOD)

Nhuộm

Các loại thuốc nhuộm, axit axetic và các 
muối kim loại

Độ màu rất cao, BOD khá 
cao, TS cao

In

Chất màu, tinh bột, dầu, đất sét, muối, 
kim loại, axit …


Độ màu cao, BOD cao và 
dầu mỡ

Hoàn thiện

Vết tinh bột, mỡ động vật, muối

Kiềm nhẹ, BOD thấp

        Trong các chất thải dệt nhuộm thì thuốc nhuộm là một trong những thành  
phần rất được quan tâm. Thuốc nhuộm đi vào nước thải do còn tồn dư  sau khi 
hoàn tất công đoạn nhuộm. Các thuốc nhuộm thường có trong nước thải xưởng  
nhuộm ở nồng độ 10­50 mppm. Tuy nhiên, tùy thuộc vào qui mô và công nghệ áp  
dụng, nồng độ thuốc nhuộm trong nước thải có thể cao hơn nhiều. Cho đến nay, 
việc xử lý thuốc nhuộm tồn dư trong nước thải dệt nhuộm vẫn là một thách thức 
đáng kể với ngành công nghiệp này.
1.1.3. Các   phương   pháp   ngăn   ngừa,   giảm   thiểu   và   xử   lý   nước   thải   dệt  

nhuộm 

6


Các phương pháp ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm nước thải ngành dệt 
nhuộm có thể thực hiện trong quá trình sản xuất như:
­ Giảm nhu cầu sử dụng nước bằng cách thường xuyên kiểm tra hệ thống  
nước cấp, tránh rò rỉ  nước. Sử  dụng công nghệ  tẩy, nhuộm, giặt hợp lý. Tuần 
hoàn, sử dụng lại các dòng nước giặt ít ô nhiễm và nước làm nguội.
­  Hạn chế  sử  dụng các hóa chất trợ, thuốc nhuộm  ở  dạng độc hay khó 

phân hủy sinh học. Giảm các chất gây ô nhiễm nước thải trong quá trình tẩy,  
giảm ô nhiễm kiềm trong nước thải từ công đoạn làm bóng.
­ Thu hồi và sử  dụng lại dung dịch hồ  từ  công đoạn hồ  sợi và giũ hồ,  
phương pháp lọc màng dùng để thu hồi PVA được ứng dụng lần đầu tiên ở Mỹ 
năm 1974 và cho đến nay đã được áp dụng ở nhiều nước châu Âu.
­ Sử dụng nhiều lần dịch nhuộm vừa tiết kiệm hóa chất, thuốc nhuộm và  
giảm được ô nhiễm môi trường. Các loại thuốc nhuộm cho phép sử  dụng lại 
nhiều lần gồm: Thuốc nhuộm axit dùng cho len và polyamit, thuốc nhuộm bazo 
dùng   cho   polyacrylonitril,   thuốc   nhuộm   trực   tiếp   cho   mặt   hàng   bông,   thuốc 
nhuộm phân tán cho sợi tổng hợp như polyester. Cho đến nay, việc thu hồi thuốc  
nhuộm từ  dịch nhuộm bằng phương pháp lọc màng đã được thực hiện thành 
công ở một số nước để thu hồi thuốc nhuộm indigo từ quá trình nhuộm sợi bông.  
Sau khi nhuộm thì phần thuốc nhuộm không gắn vào sợi sẽ đi vào nước giặt với  
nồng độ 0,1 ppm. Để thu hồi thuốc nhuộm, dùng phương pháp lọc màng để nâng 
nồng độ thuốc nhuộm sau lọc lên 60 đến 80 ppm và có thể đưa vào bể nhuộm để 
sử dụng lại. 
    Do đặc thù của công nghệ, nước thải ngành dệt nhuộm chứa tổng hàm lượng  
chất rắn, độ  màu, BOD, COD cao. Việc lựa chọn phương pháp xử  lý cần phải 
dựa vào nhiều yếu tố như lượng nước thải, đặc tính nước thải, tiêu chuẩn thải  
… Về nguyên lý, hiện có các phương pháp sau được áp dụng để xử lý nước thải  
dệt nhuộm:

7


*  Phương pháp đông keo tụ: Đây là phương pháp khá thông dụng trong xử  lý 
nước thải dệt nhuộm. Trong phương pháp này người ta dùng phèn nhôm hoặc 
phèn sắt cùng với sữa vôi khử màu và một phần COD. Điều chỉnh pH thích hợp 
cho từng loại phèn và loại nước thải cần xử  lý. Về  nguyên tắc, trong hệ  phản 
ứng có các bông hydroxit sắt hoặc nhôm sẽ  hấp phụ  các hợp chất màu và các 

chất khó phân hủy sinh học, lắng xuống tạo thành bùn. Phương pháp này  ứng  
dụng để khử màu của nước thải và cho hiệu suất khá cao với thuốc nhuộm phân  
tán. Có thể áp dụng phương pháp keo tụ điện hóa để tăng sự tạo bông và áp dụng 
trên quy mô lớn. Để  tăng sự tạo bông và trợ  lắng người ta thường cho thêm các 
polime hữu cơ. Tuy nhiên phương pháp này tạo ra lượng lớn bùn (từ  0,5 đến 2,5  
kg/1 m3 nước thải), bùn này sau đó phải tách nước và chôn lấp đặc biệt, nhưng  
COD chỉ giảm từ 60 đến 70%.
* Phương pháp hấp phụ: Dùng để xử lý các chất thải không có khả năng phân 
hủy sinh học và các chất hữu cơ không hoặc khó xử  lý bằng phương pháp sinh  
học, nước thải dệt nhuộm có thuốc nhuộm hòa tan và thuốc nhuộm hoạt tính. Cơ 
sở  của quá trình là hấp phụ  chất tan lên bề  mặt chất rắn xốp (chất hấp phụ). 
Các chất hấp phụ  thường là than hoạt tính, than nâu, đất sét, cacbonat, magie,  
trong đó than hoạt tính có bề    mặt riêng lớn từ  400 đến 500 m 2/g.   Tuy nhiên 
phương pháp này cũng chỉ giảm tối đa 70% COD.
* Phương pháp oxi hóa: Các chất nhuộm vải hầu hết đều là các chất bền hóa 
học nên phải dùng các chất oxi hóa mạnh. Nhiều kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, 
khi dùng ozon hoặc không khí có chứa hàm lượng ozon nhất định có khả  năng  
khử  màu tốt, đặc biệt cho nước thải có chứa thuốc nhuộm hoạt tính. Theo tài 
liệu cứ 1g thuốc nhuộm hoạt tính cần 0,5g O3. Tuy nhiên giá thành cho việc sản 
xuất ozon khá cao. Dùng khí clo là phương pháp kinh tế  để  khử  màu nước thải 
dệt nhuộm. Xử lý vi sinh tiếp theo sẽ giảm đáng kể  tải lượng COD và độ  độc. 
Tuy nhiên, phương pháp này có bất lợi là sinh ra hợp chất clo hữu cơ, do đó làm 
tăng tổng lượng halogen hữu cơ  AOX trong nước thải. Nếu dùng peroxit H2O2 

8


trong môi trường axit với chất xúc tác muối sắt (II) thì gốc hydroxyl trung gian  
được tạo ra có thể  có khả  năng oxi hóa cao hơn cả  ozon, tuy vậy phương pháp  
này cũng khá tốn kém.

*  Phương pháp sinh học: Mặc dù thuốc nhuộm hầu hết đều là các chất khó  
phân hủy nhưng trong thành phần nước thải dệt nhuộm cũng có chứa nhiều chất  
có thể  phân hủy sinh học. Tuy nhiên trong nước thải dệt nhuộm có nhiều chất 
gây độc cho vi sinh vật như chất thải vô cơ, fomandehit, kim loại nặng.... và các  
chất khó phân hủy sinh học như chất tẩy giặt, hồ PVA.... cho nên trước khi đưa  
vào xử  lý sinh học cần xử  lý sơ  bộ  các chất gây độc, giảm tỷ  lệ  các chất khó  
phân hủy. Với  phương pháp xử  lý  hiếu khí cần kiểm  tra  tỷ  lệ  theo chỉ  tiêu 
BOD5 : N : P = 100:5:1. Do nước thải dệt nhuộm có chứa nito và photpho nên các 
kết quả  nghiên cứu cũng chỉ  ra rằng nên trộn cùng nước thải sinh hoạt để  đưa 
vào xử lý sinh học. Các phương pháp sinh học thường dùng là phương pháp bùn 
hoạt tính, lọc sinh học, hồ oxy hóa hoặc kết hợp xử  lý sinh học nhiều bậc. Các  
kết quả  cho thấy nước sau xử  lý không màu và hàm lượng chất rắn nhỏ  song  
lượng bùn sinh khối tạo ra tương đối lớn. Như vậy sẽ kèm theo chi phí xử lý bùn 
và giá thành sẽ lại cao. 
       Các nghiên cứu cho thấy việc áp dụng các phương pháp như  sinh hóa, hấp 
phụ, bùn lắng.... cũng không mang lại hiệu quả  cao, chi phí tốn kém nhưng chỉ 
loại bỏ tối đa được khoảng 70% COD [41]
* Phương pháp màng lọc:   Phương pháp này đã được  ứng dụng trong xử  lý  
nước thải ngành dệt nhuộm với mục đích thu hồi các chất tái sử dụng lại như hồ 
tinh bột, PVA, thu hồi muối và thuốc nhuộm. Một số kết quả nghiên cứu về việc 
áp dụng kỹ  thuật lọc màng NF và RO đã cho thấy phương pháp này khá hiệu 
quả, có thể  giảm COD tới 99,5 % [41]. Việc áp dụng công nghệ  màng có thể 
giảm lượng nước sạch tiêu tốn cho quá trình nhuộm vải tới 70%. Kỹ  thuật lọc  
màng có thể  áp dụng để  xử  lý nước thải nhuộm tốt hơn rất nhiều so với các 
phương pháp thông thường [9,17, 18, 26,28,37,46].  

9


1.2. Giới thiệu về màng lọc và các quá trình phân tách màng

Màng lọc là một loại vật liệu được sử dụng trong quá trình tách một hỗn 
hợp đồng thể hay dị thể (lỏng – lỏng, lỏng – rắn, khí – rắn, khí – khí). Một cách  
khái quát, có thể coi màng là một lớp chắn có tính thấm chọn lọc đặt giữa hai pha 
– pha đi vào (feed) và pha thấm qua (filtrate). Trong quá trình tách, màng có khả 
năng lưu giữ  được một số  cấu tử  trong hỗn hợp và cho các cấu tử  khác đi qua. 
Quá trình vận chuyển chất qua màng được thực hiện một cách tự  nhiên hay 
cưỡng bức nhờ  động lực giữa hai phía màng. Động lực của quá trình tách qua  
màng là chênh lệch áp suất, chênh lệch nồng độ, chênh lệch nhiệt độ  hay chênh  
lệch điện trường. 
1.2.1. Phân loại màng lọc
Dựa vào bản chất, người ta chia màng thành hai loại: màng sinh học và 
màng tổng hợp. Đây là cách phân loại rõ ràng nhất vì hai loại màng này khác nhau 
hoàn toàn cả về cấu trúc và chức năng [27]. 
Một cách phân loại khác là dựa vào cấu trúc màng, đây cũng là một cách 
phân loại quan trọng vì cấu trúc màng quyết định cơ  chế  tách và phạm vi  ứng  
dụng của màng. Trong phạm vi các màng tổng hợp rắn, người ta chia thành hai  
loại: màng đối xứng và màng bất đối xứng [28].
Màng đối xứng là loại màng có cấu trúc đồng nhất từ trên xuống dưới với  
hai mặt hoàn toàn như nhau (ví dụ như màng xenlophan, cuprophan). Độ dày của 
màng đối xứng (xốp hoặc không xốp) nằm trong khoảng từ  10 đến 200 μm, trở 
lực chuyển khối được quyết định bởi độ dày của toàn bộ màng, nếu giảm độ dày 
của màng thì sẽ  làm tăng tốc độ  thấm qua. Loại màng này thường được dùng  
trong các quá trình vi lọc để lọc các tiểu phân nhỏ hoặc hoặc dùng cho thẩm tách  
máu [4, 28].
Một bước đột phá trong các  ứng dụng công nghiệp là sự  phát triển của 
màng bất đối xứng. Loại màng này có cấu trúc gồm hai lớp: lớp thứ nhất là lớp  

10



hoạt động rất mỏng (cỡ  khoảng từ  0.1 đến 0.5 μm), lớp thứ  hai là lớp đỡ  xốp  
nằm ở dưới, lớp này dày hơn rất nhiều so với lớp hoạt động (cỡ khoảng 50 đến 
150 μm). Kích thước lỗ  của lớp hoạt động nhỏ  hơn rất nhiều so với kích thước  
lỗ của lớp đỡ. Trở lực chuyển khối của màng hoàn toàn do lớp hoạt động quyết 
định, lớp đỡ  có tác dụng làm tăng độ  bền cơ  học của màng, giữ  cho lớp hoạt  
động khỏi bị rách nhưng không ảnh hưởng tới việc vận chuyển dung môi và các 
chất qua màng. Do đó, loại màng này có năng suất lọc rất cao. Các lớp đỡ thường  
có cấu trúc xốp kiểu ngón tay hoặc kiểu tổ ong [1, 4, 28]. Với cấu trúc đặc biệt  
như vậy, màng bất đối xứng có hiệu quả tách cao, có độ bền cơ học tốt và được  
ứng dụng nhiều trong quá trình siêu lọc, lọc nano, tách khí, thẩm thấu ngược,… 
Tùy theo điều kiện chế  tạo màng ta có thể  thay đổi chiều dày và kích thước lỗ 
của lớp hoạt động cũng như cấu trúc xốp của lớp đỡ.
Màng composite là một trường hợp đặc biệt của màng bất đối xứng, lớp  
hoạt động và lớp đỡ xốp của nó được làm từ hai loại vật liệu khác nhau, mỗi lớp 
có thể  được chế  tạo tối  ưu hóa một cách độc lập. Loại màng này có hiệu quả 
tách rất cao, có tính năng cơ học và hóa học rất tốt [6, 28, 31].
1.2.2. Module màng lọc 
Trong các ứng dụng lớn  ở quy mô công nghiệp và bán công nghiệp, màng 
thường được sử  dụng  ở  dạng module (bộ  lọc), để  tăng diện tích làm việc và 
công suất lọc[7, 28]. 
Module sợi rỗng

11


Hình 1.1. Module sợi rỗng
      

Module sợi rỗng (hollow fibre) gồm những sợi rỗng rất nhỏ, có đường  


kính ngoài khoảng 80 μm và đường kính trong khoảng 40 μm. Lớp hoạt động 
nằm ở phía trong sợi. Loại màng này có thể chịu được áp suất cao.
Module khung bản

Hình 1.2. Module khung bản
Module khung bản gồm nhiều tấm màng đặt song song nhau. Giữa các 
tấm có lớp đệm, dung dịch đi vào giữa hai tấm màng còn dung dịch thấm qua và  
dung dịch lưu giữ được dẫn ra ngoài theo các kênh khác nhau.
Module cuộn
Module cuộn là các tấm dài được cuộn quanh một lõi. Hai tấm màng dài 
được đặt song song  ở  giữa có lớp đệm xốp. Module cuộn có chiều dài từ  30 –  
150 cm với đường kính từ 5 – 30 cm [7,9,28].

12


       
Hình 1.3. Module cuộn
1.2.3. Mô hình dòng qua module và cách sắp xếp hệ thống module màng lọc
Trong   quá   trình   lọc   màng,   bao   giờ   cũng   có   tối   thiểu   3   pha   trong   một  
module (bộ  lọc) gôm pha đi vào, pha l
̀
ưu giữ  và pha thấm qua. Sơ  đồ  mô tả  các 
dòng (pha) đi qua một module màng lọc được đưa ra ở Hình 1.3.

Pha đi vào

Module

Pha lưu giữ


Pha thấm qua

Hình 1.4. Sơ đồ dòng qua module màng lọc

Trong phương pháp làm việc gián đoạn, một thể tích nhất định dung dịch 
được nén qua màng, theo thời gian nồng độ chất bị lưu giữ tăng dần trên bề mặt 
màng và năng suất lọc giảm dần. Sơ đồ mô tả quá trình được đưa ra ở hình 1.5.

13


Dung d ịch vào

                              

Dung d ịch t hấm qua

                                  Hình 1.5. Sơ đồ quá trình lọc gián đoạn
Trong phương pháp làm việc liên tục, dung dịch vào được bơm liên tục  
qua module, sản phẩm (dung dịch thấm qua) được lấy ra liên tục. So với phương 
pháp gián đoạn, phương pháp này có chất lượng sản phẩm và năng suất lọc  ổn  
định, mặt khác sẽ giảm được hiện tượng phân cực nồng độ và tắc màng. 
Dung dịch vào

Dung dịch lưu giữ

Dung dịch thấm qua

Dung dịch l ưu gi ữ


Dung dịch vào

Dung dịch th ấm qua

Dung dịch l ư u gi ữ

Dung dịch vào

Dung dịch t hấm qua

      

Hình 1.6. Sơ đồ hệ lọc màng liên tục

14


1.2.4. Một số đặc tính của màng 
Mật độ lỗ
             Mật độ  lỗ  là số  lỗ  trên một đơn vị  diện tích bề  mặt. Màng công nghiệp  
thường có từ  108  – 109  lỗ/cm2. Tính chất này cũng phần nào đánh giá được độ 
xốp và lưu lượng lọc của màng. Các màng có cùng đường kính lỗ  xốp thì màng 
nào có mật độ lỗ lớn sẽ có độ xốp cao hơn, lưu lượng lọc lớn hơn và ngược lại 
[4,7].
Độ thấm ướt
       Độ thấm ướt là một đặc trưng quan trọng của màng. Màng lọc dễ thấm ướt 
bởi dung dịch cần lọc thì quá trình lọc xảy ra dễ dàng hơn so với màng lọc không  
thấm ướt bởi dung dịch cần lọc [2,4,7].


Độ xốp của màng
        Độ xốp của màng là thể tích lỗ trống không bị chiếm bởi vật liệu màng trên  
tổng thể tích của màng. Độ xốp được quyết định bởi kích thước lỗ và mật độ lỗ 
xốp [2,4,6,7].
Chiều dày màng
         Chiều dày màng là một đặc trưng quan trọng và được khống chế  khi chế 
tạo. Màng càng dày thì trở  lực của màng càng lớn và năng suất lọc của màng bị 
giảm nhưng màng sẽ  bền hơn, ngược lại nếu màng mỏng thì sẽ  không bền. 
Thông thường màng polyme được chế  tạo với chiều dày từ  300­500 μm, chiều 
dày của màng chế tạo thường dao động 10% so với giá trị xác định [4,7].
Độ nén ép    
           Đối với các quá trình lọc đặc biệt là lọc bằng màng thì đòi hỏi phải có sự 
chênh lệch áp suất giữa hai phía của màng lọc. Trong quá trình lọc, do sự chênh 
lệch áp suất, màng bị  nén lại làm cho độ  xốp của màng bị  giảm đi, trở  lực của  

15


màng tăng lên. Tuỳ  thuộc vào sự  chênh lệch áp suất và thời gian làm việc mà 
màng bị  nén ít hay nhiều, khi đó năng suất lọc cũng bị  giảm xuống so với khi  
chưa bị nén trong cùng điều kiện lọc [4, 7].
Trở lực của màng
Trở  lực của màng là áp suất thuỷ  tĩnh để  dung dịch có thể  chảy được qua  
màng với lưu lượng riêng nào đó. Màng càng dày, càng ít lỗ thì trở  lực càng lớn  
và ngược lại [4, 7]. 
1.2.5. Các quá trình màng dùng động lực áp suất
        Các quá trình màng động lực áp suất chủ yếu gồm: lọc thường, vi lọc, siêu 
lọc, lọc nano, thẩm thấu ngược. Việc phân chia thành các quá trình màng dựa  
theo kích thước lỗ  màng và cũng chỉ  mang tính tương đối. Ngoài ra còn một số 
quá trình khác như điện thẩm tách, thẩm tách và bốc hơi qua màng[3,16,28].


Vi lọc (Microfiltration)
Màng vi lọc có kích thước lỗ  từ  0.1 đến 10µm, có khả  năng giữ  được  
những tiểu phân có kích thước tương đối lớn và các loại vi khuẩn. Loại màng  
này có độ  cản thuỷ  lực thấp. Quá trình tách qua màng xảy ra theo cơ  chế  sàng  
lọc. Vật liệu tạo màng có thể  là vô cơ  (gốm, thủy tinh, kim loại) hoặc hữu cơ 
(polyme).
Siêu lọc (Ultrafitration)
Để tách các tiểu phân có kích thước tương đối nhỏ và các phân tử có kích 
thước trung bình, người ta phải dùng màng siêu lọc. Màng này có cấu trúc bất đối 
xứng, vật liệu tạo màng thường là polyme hoặc gốm. Kích thước lỗ  của lớp  
hoạt động khoảng từ  0.001 đến 0.1µm. Độ  cản thủy lực của màng lớn hơn so  
với màng vi lọc. Quá trình tách qua màng cũng xảy ra theo cơ chế sàng lọc (rây  

16


phân   tử).   Khả   năng   tách   của   màng   được   đặc   trưng   bởi   hệ   số   cắt   phân   tử 
(MWCO) hay còn gọi là giới hạn tách phân tử.
Thẩm thấu ngược (Reverse Osmosis)
      Màng thẩm thấu ngược có kích thước lỗ  vô cùng nhỏ, khoảng một vài nm.  
Loại màng này có thể tách được các ion trong dung dịch và cho dung môi đi qua.  
Độ cản thủy lực của màng này rất lớn, theo đó áp suất làm việc cũng rất lớn, có  
thể  lên đến 80 bar [2,6,31]. Quá trình tách qua màng xảy ra theo cơ chế hoà tan  
khuếch tán và hấp phụ mao quản.
Lọc nano (Nanofiltration) 
Màng lọc nano có cấu trúc bất đối xứng và thường dùng để  tách các tiểu 
phân có kích thước nhỏ  (đường, amino axit, thuốc trừ  sâu, chất diệt cỏ,…) theo  
cơ chế thấm khuếch tán và sàng lọc. Độ cản thủy lực của quá trình này cao hơn 
so với quá trình siêu lọc.

Màng thẩm thấu ngược và lọc nano dùng cho dung môi nước khá giống 
nhau về  cấu trúc và phương pháp chế  tạo. Tuy nhiên, màng lọc nano có kích  
thước lỗ  lớn hơn một chút so với màng thẩm thấu ngược và quá trình chuyển  
khối qua màng lọc nano là phức tạp hơn vì quá trình tách xảy ra không chỉ do cơ 
chế thấm khuếch tán mà còn có cả  cơ  chế  sàng lọc. Màng thẩm thấu ngược và 
lọc nano cần có tính chất ưa nước, bền về mặt hoá học (đặc biệt là với các tác  
nhân làm sạch và khử trùng chứa clo – nước gia ven), chống được vi khuẩn, và có 
độ bền cơ học tốt. Màng bất đối xứng làm từ vật liệu cellulose acetate dùng cho  
thẩm thấu ngược và lọc nano hiện nay vẫn khá thông dụng. Tuy nhiên, các loại 
màng composite (TFC) cũng đang có  ưu thế  trên thị  trường, ví dụ  như  màng  
composite   với   lớp   đỡ   là   polysulfone   hay   polyethersulfone   và   lớp   bề   mặt 
polyamide. So với màng composite, màng làm từ  dẫn xuất cellulose có khả  năng  
chịu được môi trường clo tốt hơn, nhưng khả  năng chịu dung môi kém hơn và  

17


khoảng pH làm việc thích hợp hẹp hơn. Giới hạn tách của các loại màng dùng  
động lực áp suất có thể được biểu diễn như Hình 1.7.

     
       Hình 1.7. Giới hạn tách của các loại màng lọc dùng động lực áp suất
1.2.6. Cơ chế tách qua màng 
Quá   trình   vận   chuyển   chất   qua   màng   là   một   quá   trình   phức   tạp.   Qua  
nghiên cứu các nhà khoa học đã đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau để  giải thích  
cơ chế của quá trình tách qua màng như[4,7,20]: 
Thuyết sàng lọc
Thuyết này cho rằng màng gồm nhiều mao quản có kích thước lỗ  xác  
định. Cấu tử  nào có kích thước bé hơn kích thước mao quản thì sẽ  vận chuyển 
qua màng, còn cấu tử  có kích thước lớn hơn thì bị  giữ  lại [2,5]. Thuyết này chỉ 

phù hợp trong việc giải thích cho các quá trình siêu lọc và vi lọc (chất tan có kích  
thước lớn). Trong trường hợp phân tử chất tan và phân tử dung môi có kích thước  
tương đương nhau thì thuyết này không giải thích được.
Thuyết hòa tan khuếch tán
Thuyết này cho rằng dưới động lực áp suất cao, dung môi và chất tan đều 
khuếch tán qua màng. Các phân tử  sau khi thẩm thấu vào màng sẽ  khuếch tán, 
nhưng dòng khuếch tán chất tan và dòng khuếch tán dung môi khác nhau về tốc  
độ, tốc độ  này tỉ  lệ  với hệ số khuếch tán của chúng trong màng. Hệ  số  khuếch 

18


tán của dung môi càng lớn và của chất tan càng nhỏ  thì quá trình tách càng hiệu  
quả. Thuyết này cho thấy ảnh hưởng của vật liệu tạo màng đến hiệu quả tách.
Thuyết mô hình mao quản
 Thuyết này cho rằng màng bán thấm được cấu tạo từ  nhiều mao quản,  
trên bề mặt màng bán thấm và trong ống mao quản hình thành một lớp nước liên 
kết hấp phụ. Do tác dụng của các lực hoá lý, lớp nước hấp phụ  này đã mất đi 
một phần hay toàn bộ khả năng hoà tan chất tan, vì thế nó không cho chất tan đi  
qua các ống mao quản. Nếu các ống mao quản có đường kính đủ nhỏ hơn hai lần 
chiều dày lớp nước liên kết hấp phụ  thì màng chỉ  cho nước tinh khiết đi qua.  
Thuyết này giải thích được khá đầy đủ cơ chế và các yếu tố ảnh hưởng tới quá 
trình tách. 
1.2.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tách qua màng 
 * Sự phân cực nồng độ và tắc màng (fouling)
Sự  phân cực nồng độ  là hiện tượng tăng nồng độ  chất tan trên bề  mặt 
màng do dung môi vận chuyển được qua màng còn chất tan bị  giữ  lại. Hiện  
tượng này làm cho lưu lượng của màng giảm xuống trong quá trình tách. Khi sự 
phân cực nồng độ  lớn thì chất tan sẽ  bám trên bề  mặt màng khiến cho bề  mặt 
làm việc của màng giảm xuống, đồng thời làm tăng vọt áp suất thẩm thấu, do đó 

hiệu quả làm việc của màng giảm[4,7,28].
Có nhiều cách làm giảm sự phân cực trên màng bán thấm. Đối với nhiều 
thiết bị  lớn, để  làm mất đi sự  phân cực nồng độ  trên màng bán thấm người ta 
thường cho dung dịch trên màng vận chuyển với tốc độ  lớn và tạo dòng xoáy.  
Còn đối với thiết bị phòng thí nghiệm người ta thường tạo ra dao động rung hoặc 
khuấy đảo để làm mất đi sự phân cực nồng độ trên màng[29, 34].
Trong quá trình tách qua màng, có thể  xảy ra hiện tượng chất tan bị hấp  
phụ  trên bề mặt và trong các lỗ  xốp của màng, làm cho năng suất lọc của màng 

19


giảm xuống theo thời gian, thậm chí màng có thể  bị  tắc nghẽn. Các yếu tố   ảnh 
hưởng tới mức độ  tắc nghẽn màng bao gồm nồng độ  chất cần tách, pH, ái lực  
giữa chất cần tách và vật liệu màng … [1, 31].
* Ảnh hưởng của áp suất làm việc
Áp suất làm việc ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình tách bằng màng thẩm  
thấu ngược. Khi áp suất tăng, lúc đầu lưu lượng lọc và độ  lưu giữ  đều tăng  
nhưng khi đạt đến một áp suất nào đó thì độ lưu giữ R hầu như không thay đổi, 
trong khi lưu lượng lọc vẫn tăng theo áp suất. Tuy nhiên, chỉ  nên tăng áp suất 
tách tới một giá trị giới hạn xác định, để bảo vệ màng và an toàn cho thiết bị.
Sourirajan đã đưa ra công thức liên hệ  giữa độ  lưu giữ  R, năng suất lọc J 
và áp suất như sau:        J = β1 + β 2 lg P
                            R = α

α1 P
P +1
2

   Trong đó:     P = Áp suất làm việc,   α1, α2, β1, β2 = Các hệ số thực nghiệm

* Ảnh hưởng của nồng độ dung dịch tách
       Trong dung dịch chất tan được solvat hóa (hay còn gọi là hydrat hoá, khi dung 
môi là nước). Các ion chất tan được bao bọc bởi hai lớp vỏ  hydrat hóa gần và  
hydrat hóa xa. Hydrat hóa gần là sự tương tác giữa chất tan với các phân tử nước 
ở  gần nó, liên kết này khá bền nên các phân tử  nước không chuyển động tự  do 
mà gắn liền với ion chất tan. Do tương tác tĩnh điện nên các phân tử nước ở lớp 
hyđrat thứ  nhất có thể  liên kết với các phân tử  nước  ở  ngoài để  thành lớp vỏ 
hydrat thứ  hai, hiện tượng này gọi là hydrat hoá xa, tương tác này yếu hơn nên  
các phân tử nước ở lớp vỏ thứ hai không mất đi khả năng chuyển động tự do và 
tương đối linh động.  Ở  vùng nồng độ  loãng, các ion chất tan bị  bao bọc bởi hai 
lớp vỏ  hydrat, đồng thời trong dung dịch vẫn tồn tại các phân tử  nước  ở  trạng 
thái tự do. Nếu tăng nồng độ chất tan tới một giới hạn nào đó thì trong dung dịch  
không còn các phân tử  nước  ở  trạng thái tự  do nữa mà chỉ  đủ  để  tạo thành hai 

20


×