A. THỰC TRẠNG CÁN CÂN THANH TOÁN
VIỆT NAM TỪ 2007 - 2010
1. Tài khoản vãng lai
Cán cân văng lai từ năm 2007-2010:
2007 2008 2009 2010
Tài khoản văng lai (7) (10.787) (7.440) (6.050)
1. Cán cân thương mai (10.483) (12.782) (8.306) (8.200)
2. Dịch vụ ròng (897) (915) (1.129) 550
3. Chuyển tiền ròng 6.43 7.311 6.527 6.900
4. Thu nhập từ đầu tư ròng
(2.190) (4.401) (4.532) (4.200)
Các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân tài khoản vãng lai:
- Ảnh hưởng của lạm phát:
Lạm phát tăng → mua hàng nước ngoài tăng → giảm cán cân tài khoản vãng lai.
xuất khẩu sang nước khác giảm
Nếu một quốc gia có tỷ lệ lạm phát tăng so với các quốc gia khác có quan hệ mậu dịch thì
tài khoản vãng lai của các quốc gia này sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau.
- Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái:
Hình: Thâm hụt cán cân thương mại nhìn từ góc độ tỷ giá hối
đ
o
á
i
Việc phá giá đồng tiền
t
r
o
n
g
nước sẽ góp phần làm
gi
ả
m
thâm hụt thương
m
ạ
i
Thâm hụt thương mại được xem xét trong mối quan hệ với tỷ giá
hối
đoái
cho nên việc
nâng giá hoặc giảm giá đồng tiền sẽ góp
phần
cải thiện cán cân thương mại.Từ cách tiếp
cận trên có thể thấy thâm hụt thương mại có nguyên nhân trực tiếp ở
việc
định giá cao
đồng tiền trong nước. Việc thâm hụt sẽ càng tăng khi đồng tiền trong nước lên giá mạnh.
Đ
ồng
thời, ở
khía
cạnh ngược lại, tình trạng thâm hụt càng lớn khả năng giảm giá đồng
tiền càng cao mà ở mức độ lớn hơn là đồng
tiền
trong
nước có thể bị phá giá để bảo
đảm cán cân thương mại được cải thiện hay để lấy lại điểm cân bằng mới.
Đ
ây
là
biện
pháp mà nhiều nước đã từng áp dụng như Hoa Kỳ áp dụng năm 1971 và 1973 để phá giá
đồng đô la. Năm 1986, đồng
Yên
buộc phải nâng giá so với các ngoại tệ khác đã làm
cho hàng hoá Nhật Bản trở nên kém tính cạnh tranh hơn so với
các
hàng
hoá nước khác.
Năm 1994, Trung Quốc đã áp dụng biện pháp phá giá đồng nhân dân tệ để thúc đẩy
xuất khẩu
hàng
hoá của Trung Quốc và cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ châu Á năm
1997 đã gây tình trạng phá giá hàng loạt các
đồng
tiền, sau đó 1-1.5 năm, cán cân
thương mại các nước đã được cải thiện đáng kể. Từ góc nhìn tỷ giá và thâm hụt
thương
S$TỶ GIÁ VND/USD
D$
Thâm hụt
PHÁ GIÁ
LƯỢNG USD
mại, biện pháp phá giá đồng tiền được coi là giải pháp thường được lựa chọn hơn cả.
Song trong điều kiện hiện tại,
việc
phá giá đồng tiền chịu tác động của nhiều loại ràng
buộc khác nhau như khả năng trả đũa của các đối tác thương mại, năng
lực
cạnh tranh của
hàng hoá xuất khẩu chua hẳn đã được cải thiện đáng kể nhờ phá giá, các mối quan hệ
ràng buộc lẫn nhau
về
thương mại và đầu tư và những mặt trái của hoạt động phá giá đối
với nền kinh tế trong nước như việc tăng giá của các
hàng
hoá nhập khẩu gây ra lạm phát
nhập khẩu...
Đối
với Việt Nam, việc phá giá đồng tiền chưa phải là sự lựa chọn tối ưu
trong
điều
kiện hiện tại đặc biệt về khả năng kiểm soát tình hình giao dịch thương mại và đầu tư
quốc tế sau khi phá giá
của
Việt
Nam còn rất hạn chế, các công cụ điều chỉnh tỷ giá
chưa được thực tế khẳng định độ tin cậy và các giao dịch
ngầm
trong nền kinh tế còn
rất lớn, tình trạng đô- la hoá còn nặng và khả năng kiểm soát khu vực tư nhân còn
chưa
cao...
-Ảnh hưởng của thu nhập quốc dân: các yếu tố cấu thành tổng sản phẩm quốc nội
(GDP).
Công thức xác định GDP được thể hiện như
sau:
Y = C + I + G + X – M
(1)
Trong đó Y là GDP, C là tiêu dùng của dân cư, I là đầu tư, G là chỉ tiêu của chính phủ, X-
M là cán cân thương
mại.
Vì Y = C+S + T (2) và S là tiết kiệm, T là khoản thu thuế của chính
phủ
Kết hợp công thức (1) và (2) thu được:
(S – I) + (T
-
G) = X - M
Cán cân thương mại được đo lường bằng tổng mức tiết kiệm ròng của tư nhân và mức
tiết
kiệm ròng của chính phủ. Công thức trên còn cho thấy mối quan hệ giữa các cân đối
trong nước và cân đối đối
ngoại.
Những mất cân đối đối ngoại đặc biệt là cân đối cán
cân thương mại có thể được sửa chữa bằng các tác động của các
cân
đối đối nội. Biện
pháp để cải thiện cán cân thương mại từ cách tiếp cận này cho thấy cần tăng mức tiết
kiệm trong dân cư
và
tiết kiệm trong chi tiêu của chính phủ hoặc cố gắng để cải thiện
tình hình thu thuế...Trong các biện pháp được đề xuất
từ
góc độ tiếp cận này có thể
thấy việc cắt giảm chi tiêu của chính phủ và cắt giảm chi tiêu của tư nhân là biện pháp
có
tác
động tới việc cải thiện cán cân thương mại. Các khoản chi tiêu lớn chưa thật cần
thiết có thể điều chỉnh lại tiến độ giải
ngân,
hạn chế việc nhập khẩu càng hàng hoá tiêu
dùng tư nhân xa xỉ...bằng các biện pháp tăng
thuế h
oặc hạn chế định lượng song phải cố
gắng tuân thủ các cam kết trong WTO. Biện pháp điều chỉnh thâm hụt thương mại
từ
việc
điều chỉnh các yếu tố cầu thành GDP tạo ra được sự ổn định dài hạn hơn so với các giải
pháp điều chỉnh tỷ giá hối
đoái.
Nếu kết hợp cả hai cách tiếp cận trên sẽ tạo ra được một hệ thống các giải pháp đồng
bộ
và đa dạng nhằm giải quyết tình trạng thâm hụt cán cân thương mại.
Đ
iều
đó cho thấy
vấn đề thâm hụt cán cân thương
mại
không đơn thuần chỉ giải quyết bằng một biện
pháp mà cần thực hiện trong một hệ thống các giải pháp đồng
bộ.
1.1. Cán cân thương mại và dịch vụ
1.1.1. Năm 2008
Ta thấy được rằng có thâm hụt tài khoản văng lai cũng như cán cân thương mại lớn nhất
trong những năm gần đây nhất là năm 2008, mức thâm hụt tài khoản văng lai là 10.787 tỷ
USD, thâm hụt cán cân
thương
mại lên tới gần 12.782 tỷ USD.
Nguyên nhân:
Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008: tình trạng bất ổn định tài chính như đói tín
dụng và thu hồi nợ, mất giá tiền tệ, sụt giá chứng khoán diễn ra đồng thời nhiều nơi trên
thế giới từ tháng 8 năm 2008. Cuộc khủng hoảng này là sự phát triển và lan tỏa của cuộc
Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ năm 2007 và nó tiếp tục diễn ra cho đến năm 2009. Cuộc
khủng hoảng tài chính đă ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế các nước, khởi đầu từ thị
trường tín dụng dưới chuẩn (cho vay thế chấp rủi ro cao) tại Mỹ, sau đó tiếp tục từ lĩnh vực
tài chính-tiền tệ lan sang các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác, gây ra suy thoái kinh tế ở
nhiều nơi và tăng trưởng kinh tế chậm lại ở hầu hết các nước khác.
Khủng hoảng tài chính bắt đầu ở Mỹ lan rộng thành khủng hoảng toàn cầu:
Ngày 15/9/2008, ngân hàng đầu tư lớn thứ 4 của Mỹ Lehman Brothers nộp đơn bảo hộ phá
sản, cùng ngày hôm đó ngân hàng lớn thứ ba Merrill Lynch cũng bị ngân hàng Mỹ mua lại.
Ngày 16/9, công ty Tập đoàn Tài chính Bảo hiểm Quốc tế Mỹ AIG đă bị chính phủ Mỹ tiếp
quản.
Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ lan rộng ra trên khắp các thị trường tài chính
phát triển. Hàng loạt các ngân hàng lớn nhỏ bị sụp đổ, bị sáp nhập hoặc quốc hữu hóa. Tín
dụng toàn cầu bị co rút lại. Có rất nhiều ngân hàng từ châu Á sang châu Âucho Lehman
Brothers và các ngân hàng Mỹ phá sản vay những số tiền rất lớn. Ngoài ra, có nhiều ngân
hàng quốc tế đă bị “nhiễm độc” với trái phiếu MBS và các hợp đồng CDS.
Trong thời đại toàn cầu hóa, khi các ngân hàng toàn cầu có mối quan hệ tín dụng đan xen
nhau nhằng nhịt, cuộc khủng hoảng tài chính của nền kinh tế lớn nhất là Mỹ đă nhanh
chóng lây lan sang các nước khác như hiệu ứng đô-mi-nô.
Cuộc khủng hoảng kinh tế lan rộng: bắt đầu từ địa ốc, ảnh hưởng đến tín dụng, lan dần
sang nhiều ngành nghề công nghiệp: hàng không, sản xuất xe hơi, điện tử, …. Đối với từng
khu vực, từng lĩnh vực, tác động sẽ khác nhau vì nó phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế
thực tế trong lĩnh vực vay trả nợ, xuất nhập khẩu, đầu tư kỹ thuật, công nghệ, những nước
nào hoặc những khu vực nào phụ thuộc hoàn toàn vào Mỹ sẽ chịu ảnh hưởng lớn và bị tác
động trực tiếp.
Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ là tác động mang tính hai chiều, song chủ
yếu là tác động tiêu cực tới nền kinh tế toàn cầu cũng như của Việt Nam. Do sự hội nhập
ngày càng sâu và rộng của nền kinh tế Việt Nam vào thế giới nên Việt Nam chịu những tác
động nhất định, tuy không trực tiếp.
Năm 2008, kinh tế Việt Nam đă gặp phải hai cú sốc:
Thứ nhất : là luồng vốn ồ ạt đổ vào Việt Nam cuối năm 2007 dẫn đến tình trạng bong
bóng giá cả trên thị trường bất động sản và nhập siêu
Thứ hai là kinh tế thế giới suy thoái vào cuối năm 2008 kèm theo khủng hoảng tài chính,
giá cả hàng hóa biến động mạnh và thương mại thế giới sụt giảm.
1.1.1.1. Tình hình xuất khẩu:
Để đánh giá tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến tình hình xuất khẩu của
Việt Nam, trước tiên ta hăy xem một số ngành xuất khẩu chủ lực như dệt may,dầu thô
,nông sản, thủy sản…đă bị tác động như thế nào ,và từ đó,nó lại tác động trở lại đến tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra sao?
- Dệt may:
Tác động lan truyền từ cuộc khủng hoảng toàn cầu đến nền kinh tế Việt Nam trở nên rõ
ràng từ tháng 10 năm 2008. Tình hình xuất khẩu dệt may của các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam giảm rõ rệt. Số lượng đơn hàng, giá gia công đă giảm bình quân 20%-30%. Chỉ
trong quý 4/2008, mức đơn hàng đă giảm khoảng 20% so với quý 4/2007. Điều này dẫn tới
kết quả xuất khẩu dệt may của Việt Nam năm 2008 chỉ đạt 9,1 tỷ USD.
Tới tận đầu năm 2009, Trước những tác động của sự suy giảm kinh tế toàn cầu, tình hình
vẫn gặp nhiều khó khăn, khi kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp trong đó có
dệt may... giảm mạnh do nhu cầu nhập khẩu từ các thị trường lớn đều giảm từ 30-40%.
Kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam chỉ đạt mức 550 triệu USD, giảm 33% so với cùng
kỳ năm 2008, giảm 24% so với tháng 12/2008.Đây là lần đầu tiên trong vòng bảy năm gần
đây, ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam gặp khó khăn ngay từ quý đầu tiên của năm.
Rõ ràng, cuộc khủng hoảng này đă ảnh hưởng một cách trực tiếp và mạnh mẽ đến tình hình
xuất khẩu của nước ta, nhóm hàng dệt may vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong kim ngạch
xuất khẩu cả nước trong năm 2008 và đầu năm 2009 đã giảm đáng kể.
Thực trạng chung của nhiều doanh nghiệp dệt may do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn
cầu là có đơn hàng cũng không dám ký vì tình trạng thiếu hụt vốn, giá nguyên liệu đầu vào
lại biến động thất thường. Một số doanh nghiệp ký được đơn hàng phải chịu cảnh giảm giá
hoặc đơn hàng bị sụt giảm nghiêm cảnh giảm giá nghiêm trọng.
- Dầu thô:
Trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, dầu thô luôn được coi là một trong những
nhóm hàng xuất khẩu chủ lực và có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Bên
cạnh đó, nguồn thu ngân sách quốc gia Việt Nam cũng phụ thuộc phần lớn vào xuất khẩu
dầu thô và tài nguyên khoáng sản. Chính vì thế, mỗi sự biến động của sản lượng hay giá
xuất khẩu của mặt hàng này, đều ảnh hưởng lớn đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Và năm 2008 chính là một điển hình cho sự biến động của giá dầu.
Theo số liệu thống kê cho biết, trong quý 1-2008, lượng dầu thô xuất khẩu của Việt Nam là
là 3,67 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 2.757 triệu USD; bằng 149% so cùng kỳ 2007 và
chiếm 21,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Đạt được mức tăng trưởng trên cũng
nhờ sự đóng góp quan trọng của việc giá xuất khẩu dầu tăng.
Tuy nhiên đang từ ngưỡng đỉnh cao 147USD/thùng hồi tháng 7.2008, giá dầu thô thế giới
đột ngột giảm thấp thủng đáy 50USD/thùng. Đối với DN xuất khẩu dầu thô thì việc dầu
giảm giá lại là một tín hiệu không vui. Giá dầu sụt giảm vì những lo ngại là cuộc khủng
hoảng tài chính năm 2008 sẽ làm chậm lại nền kinh tế toàn cầu và giảm bớt mức cầu nhiên
liệu, đặc biệt những nước có nguồn cầu số 1 thế giới phải cắt giảm dự trữ và tiêu thụ như
Mỹ, Trung Quốc khiến dầu tuột dốc không phanh. Giá dầu giảm đương nhiên sẽ tác động
đến nguồn thu từ xuất khẩu dầu mỏ của VN. Ngày 18/12/2008 giá dầu thô đứng ở mức
39,9USD/thùng. Sự sụt giảm giá dầu thô là nguyên nhân chủ yếu khiến xuất khẩu Việt
Nam sụt mạnh trong những tháng cuối năm.
Biểu đồ thể hiện sự biến động của giá dầu thô trên thế giới năm 2008 & đầu 2009.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
đă tác động làm giá dầu thô giảm
mạnh
- Nông sản:
Trong 6 tháng đầu năm 2008, xuất khẩu nông lâm thuỷ sản gặp thuận lợi về giá cả và thị
trường do thị trường thế giới về các mặt hàng nông sản luôn trong tình trạng cung thấp hơn
cầu. Tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt trên 4,2 tỉ USD, tăng 31%; giá
là yếu tố chính làm tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản.Với tốc độ phát triển đạt được, hơn
nửa đầu năm 2008, xuất khẩu nông sản của Việt Nam tăng trưởng trên 100% so với cùng
kỳ năm trước. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, xuất khẩu
nông sản cuối năm 2008 và đầu năm 2009 gặp nhiều khó khăn.
Cuộc khủng hoảng tài chính nặng nề tại các thị trường chủ chốt như Hoa Kỳ, EU, Trung
Quốc, Nhật Bản..chính là nguyên nhân khiến sức cầu sụt giảm mạnh. Rắc rối của hệ thống
ngân hàng tại những thị trường lớn làm hạn chế khả năng thanh khoản của các doanh
nghiệp nhập khẩu hàng từ Việt Nam. Những tháng cuối năm 2008, hàng nông sản bắt đầu
có dấu hiệu tồn đọng ở các hải cảng của Hoa Kỳ và một số nước do các đối tác không mở
được thư tín dụng .Chỉ tính riêng hai thị trường Hoa Kỳ và EU, các doanh nghiệp nhập
khẩu gỗ vẫn tồn kho khoảng 30% số hàng nhập từ năm 2007. Một lượng lớn hàng nhập
năm 2008 bị ế ẩm.
Một đặc điểm chính của thị trường nông sản và cũng là thách thức lớn nhất cho xuất khẩu
Việt Nam là tính biến động cao của giá cả. Những biến động trong năm 2008 đă là những
minh chứng cụ thể cho đặc điểm này.Trong vòng chưa đầy hai tháng, từ tháng 8 đến tháng
10/2008, nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như: cà phê, cao su, hạt
điều, hồ tiêu… đang choáng váng trước ảnh hưởng của cuộc khủng kinh tế toàn cầu.
Đầu tiên là sự xuống dốc "không phanh" của giá xuất khẩu mủ cao su. Mặc dù 60% thị
trường xuất khẩu cao su của Việt Nam là Trung Quốc, hơn 15% là Nhật Bản - những quốc
gia nằm ngoài tâm cơn băo tài chính. Tuy nhiên, những nước này nhập cao su chủ yếu để
sản xuất lốp ô tô cho thị trường Mỹ và EU nên giá mủ cao su đă sụt giảm nhanh chóng. Chỉ
trong vòng 2 tháng từ 12.8 đến 12.10 giá mủ cao su chưa chế biến đă giảm từ 50 triệu đồng
/tấn xuống còn 19, 3 triệu đồng/tấn.Nguyên nhân, theo Hiệp hội Cao su Việt Nam, giá dầu
thô thế giới giảm gần 50% khiến xu hướng sử dụng cao su tổng hợp từ dầu (chiếm khoảng
50%) trở lại, đă làm giảm một phần nhu cầu cao su thiên nhiên. Quan trọng hơn, cuộc
khủng hoảng tài chính đă làm chậm tốc độ phát triển kinh tế, lượng mua sắm ôtô và săm
lốp ở các nước phát triển chững lại.
Không xuống dốc nhanh như giá cao su, song cà phê cũng là một trong những mặt hàng
xuất khẩu chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Vào dịp tháng
2.2008 giá cà phê ở vào thời kỳ hoàng kim 40.000 - 42.000 đồng /kg; thì đến cuối năm giá
cà phê trong nước chỉ còn 26.000 - 27.000 đồng /kg
Qua tình hình biến động như trên, ta có thể thấy trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, giá cả
nông sản ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào các yếu tố kinh tế vĩ mô như chính sách tiền
tệ, sự cân bằng ngân sách quốc gia, tỉ giá, các chính sách thương mại quốc tế và cả đầu tư
nước ngoài. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu sẽ khiến cho tất cả các quốc gia xem xét, điều
chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô và điều này sẽ lại làm cho giá cả xuất nhập khẩu trở nên
khó lường. Bên cạnh đó, nhiều quỹ đầu tư đồng loạt rút vốn ra khỏi hoạt động đầu tư nông
sản dẫn tới sự giảm cầu trên các thị trường kỳ hạn, cũng tác động làm giá nông sản giảm
đột ngột. Nhìn lại những diễn biến của thị trường nông sản năm 2008, các chuyên gia đều
đánh giá “nhiều mặt hàng nông sản đă lên rồi xuống giá theo sóng hình sin, với biên độ
doăng ra rất rộng, ngoài khả năng ứng phó của các cơ quan quản lý, DN và nông dân”.
Năm 2009, tình hình vẫn chưa thể chuyển biến theo chiều hướng lạc quan, khi mà các mặt
hàng nông sản xuất khẩu đang là thế mạnh của VN đều bị suy giảm cả về giá và khối
lượng, trong khi sức mua của thế giới vẫn giảm.
Bên cạnh việc xem xét tình hình xuất khẩu nông sản nói chung, chúng ta hăy xem tình hình
xuất khẩu gạo-một mặt hàng nông sản chính và cũng gặp phải nhiều biến động trong năm
qua. Một điều đáng lưu ý là do tác động của khủng hoảng, kim ngạch xuất khẩu của các
mặt hàng nông sản khác sụt giảm nghiêm trọng nhưng gạo lại đạt được sự tăng trưởng
trong kim ngạch của mình.
- Gạo:
Nhìn tổng quan về tình hình phát triển trong năm,có thể đưa ra nhận xét chung rằng thị
trường gạo năm 2008 có nhiều biến động lớn.
Trước hết, lo ngại khủng hoảng lương thực toàn cầu lan rộng từ giữa tháng 4 đến đầu tháng
5 đă khiến giá cả lương thực tăng vọt. Nguyên nhân là do các nước sản xuất gạo chính trên
thế giới như Việt Nam, Ấn Độ áp lệnh cấm xuất khẩu gạo khiến nguồn cung trên thị trường
bị thu hẹp, Philippin, quốc gia nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới, đă gia tăng khối lượng
nhập khẩu gạo lên gấp 1,5 lần so với năm ngoái do lo ngại khan hiếm lương thực. Đến cuối
năm, giá cả hàng hoá lại một lần nữa chịu ảnh hưởng, đồng loạt sụt giảm mạnh khi nền
kinh tế Mỹ có dấu hiệu đi xuống, so với tháng 9, giá lúa gạo trên thị trường trong nước
tháng 10 tiếp tục giảm do nguồn cung dồi dào vì lúa hè thu đă có mặt đầy đủ trên thị
trường.
- Thủy sản:
Nhìn chung tình hình trong năm 2008, có thể nhận thấy năm 2008 là một năm thiên nhiên
khá ưu đăi cho toàn ngành thủy sản Việt Nam .Tuy nhiên do tác động của suy giảm kinh tế
ảnh hưởng tới sự ổn định thị trường xuất khẩu cùng với việc phá vỡ quy hoạch trong nuôi
trồng thủy sản ở các địa phương, dẫn đến sản phẩm thủy sản bị ứ đọng. Do vậy, sản phẩm
thủy sản vẫn trong cơn khó khăn của việc "được mùa mất giá".
Theo số liệu của Tổng Cục Hải quan Việt Nam, năm 2008 xuất khẩu thủy sản của Việt
Nam đạt 1,236 nghìn tấn, trị giá 4,509 tỷ USD, tăng 33,7% về khối lượng và 19,8% về giá
trị so với cùng kỳ năm trước.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới khiến xuất khẩu thủy sản cả nước tụt giảm mạnh cả về
khối lượng và giá trị. Nhiều doanh nghiệp đang lỗ lă kéo dài do không thể cạnh tranh nổi.
Các DN thủy sản đang đứng trước nhiều áp lực: thị trường thu hẹp, tiêu chuẩn nhập khẩu
ngày càng khó, biên độ tỷ giá của đồng tiền các nước nhập khẩu so với đồng USD lớn hơn
biên độ của tiền đồng so với USD...
Qua xem xét tình hình xuất khẩu những mặt hàng chủ lực của Việt Nam trong năm 2008 và
những tháng đầu 2009, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy tình hình xuất khẩu của Việt
Nam đă chịu tác động mạnh mẽ từ cuộc khủng hoảng tài chính.
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới nên khó có thể
tránh khỏi những tác động không thuận cho sự ổn định và phát triển. Trước hết đó là ảnh
hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam vì Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của nước ta
hiện nay,suy giảm kinh tế và khủng hoảng tài chính làm cho sức mua của người tiêu dùng
Hoa Kỳ giảm đáng kể kéo theo số lượng các hợp đồng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa
Kỳ cũng giảm theo. Mặt khác, suy thoái của nền kinh tế Mỹ đă tác động gián tiếp tới các
nền kinh tế khác như EU, Nhật Bản... đây cũng là thị trường xuất khẩu chính của Việt
Nam.
Tác động lan truyền từ cuộc khủng hoảng toàn cầu đă trở nên rõ ràng hơn kể từ tháng 10
năm 2008, xuất khẩu hàng hoá Việt Nam trong tháng đă sụt giảm rất mạnh. Hầu hết các
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dệt may, dầu thô, gạo, thủy sản... đều có
mức tăng trưởng rất thấp và đang đi xuống. Các doanh nghiệp phải đối mặt với giá giảm,
thị trường bị thu hẹp do tổng cầu thế giới giảm và cạnh tranh trên các thị trường sẽ khó
khăn. . Rõ nhất là nhu cầu tiêu dùng những mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao của Việt Nam
ở nhiều thị trường lớn như Mỹ, EU giảm sút. Đối với những mặt hàng nhu cầu tiêu dùng
không giảm cũng khó khăn do những nhà nhập khẩu ở các thị trường này không vay được
vốn ngân hàng để nhập hàng. Bên cạnh đó, khó khăn lớn khác hiện nay đe doạ khả năng
xuất khẩu của các doanh nghiệp được các chuyên gia chỉ ra là do các đối tác nước ngoài
không thể mở L/C. Đơn giản vì các nước đang siết chặt tín dụng nên các ngân hàng sẽ
ngưng cho vay khiến cho nhiều nhà nhập khẩu không mở được L/C, theo đó phía Việt Nam
sẽ không giao được hàng. Biểu hiện rõ nhất là trong tháng 10, kim ngạch xuất khẩu dự
tính sẽ giảm nhẹ so với mức bình quân từ đầu năm đến nay là 5,4 tỷ USD/tháng, đạt 5,1 tỷ
USD nhưng kết quả thực tế đă giảm khá mạnh chỉ đạt 4,7 tỷ USD, giảm tới 700 triệu USD
so với tháng trước.
Quả thực, kinh tế thế giới suy giảm đă ảnh hưởng rõ nét đến kim ngạch xuất khẩu Việt
Nam trong những tháng cuối năm 2008 và sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến xuất khẩu những
tháng đầu 2009. Trong 13 mặt hàng xuất khẩu chủ lực gồm giầy dép, thủy sản, cà phê, hạt
điều, dệt may, điện tử và linh kiện máy tính thì có đến 12 mặt hàng giảm từ 10-20%.
1.1.1.2. Tình hình nhập khẩu
Tình hình nhập khẩu trong năm 2008.
Do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu khiến giá hàng hoá,
vật tư, máy móc, thiết bị giảm mạnh. Vì vậy, các doanh nghiệp ở trong nước sẽ tranh thủ
cơ hội này để gia tăng lượng hàng nhập về với giá rẻ. Điều này sẽ khiến khối lượng nhập
khẩu ở một số mặt hàng tăng cao, nhất là ở nhóm hàng máy móc, thiết bị.
Năm 2008, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu đạt khoảng 80,4 tỷ USD, tăng 28,3% so với năm
2007, bao gồm khu vực kinh tế trong đạt khoảng 51,8 tỷ USD, tăng 26,5%; khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài đạt 28,6 tỷ USD, tăng 31,7%. Trong tổng kim ngạch hàng hoá nhập khẩu
năm 2008, tư liệu sản xuất chiếm 88,8%; hàng tiêu dùng chiếm 7,8%; vàng chiếm 3,4% (năm
2007 tỷ trọng của 03 nhóm hàng này týõng ứng là: 90,4%; 7,5%; 2,1%). Nếu loại trừ yếu tố
tăng giá của một số mặt hàng thì kim ngạch nhập khẩu năm nay chỉ tăng 21,4% so với năm
2007.
Nhập siêu năm 2008 đạt khoảng17,5 tỷ USD, tăng 24,1 % so với năm 2007, bằng 27,8%
tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhập siêu đă giảm nhiều so với dự báo những tháng trýớc
đây nhýng mức nhập siêu năm nay vẫn khá cao, trong đó châu Á có mức nhập siêu lớn
nhất, đứng đầu là thị trýờng Trung Quốc với 10,8 tỷ USD, cao hõn 1,7 tỷ USD so với năm
2007.
Tổng trị giá nhập khẩu dịch vụ năm 2008 đạt khoảng 7,9 tỷ USD, tăng 10,3% so với năm
2007, trong đó dịch vụ du lịch 1,3 tỷ USD, tăng 6,6%; dịch vụ vận tải hàng không 800 triệu
USD, giảm 2,4%; dịch vụ hàng hải 300 triệu USD, tăng 20%
1.1.2. Năm 2009
Tình hình xuất nhập khẩu khẩu của Việt Nam gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế
toàn cầu dẫn đến sự đình trệ sản xuất và hạn chế tiêu dùng ở những nước vốn là thị trường
xuất khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ, Nhật Bản, EU... Tổng kim ngạch xuất khẩu năm
2009 đạt khoảng 56,5 tỷ USD, giảm 9,9% so với năm 2008. Tình hình xuất khẩu như vậy
không đến nỗi quá xấu nếu chúng ta nhìn vào nguyên nhân của nó. Kim ngạch xuất khẩu
giảm là do giá cả thế giới giảm (riêng yếu tố giảm giá trong 9 tháng đầu năm làm kim
ngạch xuất khẩu giảm trên 6 tỷ USD) - một yếu tố ngoài tầm kiểm soát của chúng ta; trong
khi đó khối lượng hàng hoá xuất khẩu có sự tăng đáng kể giúp chúng ta giảm thiểu được
đáng kể đến tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu và xa hơn là giảm thiểu được tác động tiêu
cực đến việc làm và thu nhập của người lao động. Vấn đề tồn tại lớn nhất của xuất khẩu
bộc lộ trong nhiều năm qua là việc vẫn phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng khoáng sản,
nông, lâm, thuỷ, hải sản. Các mặt hàng công nghiệp chế biến vẫn mang tính chất gia công.
Như vậy, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa xây
dựng được các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi
giá trị gia tăng xuất khẩu. Trong thời gian tới, xuất khẩu của Việt Nam sẽ chịu thách thức
lớn hơn, nhất là trong bối cảnh tác động của khủng hoảng những rào cản thương mại mới
ngày càng nhiều với các hành vi bảo hộ thương mại tinh vi tại các thị trường lớn sẽ dành
cho các mặt hàng xuất khẩu, nhất là các mặt hàng chủ lực của Việt Nam như khoáng sản,
nông, lâm, hải sản.
Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2009 đạt 67,5 tỷ USD, giảm 16,4% so với năm 2008. Điều
này phản ánh những khó khăn của sản xuất trong nước do suy giảm kinh tế. Tuy nhiên,
trong các tháng cuối năm, nhu cầu nhập khẩu có thể tăng lên khi các biện pháp hỗ trợ sản