Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Về kinh tế Trung Quốc trong thập niên tới và một số vấn đề đối với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (945.6 KB, 7 trang )

Về kinh tế trung quốc trong thập niên tới
và một số vấn đề đối với Việt Nam
Phạm sĩ thành (*)
Nhờ vào việc áp dụng các biện pháp tài chính có hiệu quả và chính
sách tiền tệ mở rộng, Trung Quốc đã dẫn đầu thế giới trong việc đa
nền kinh tế thoát khỏi tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính
tiền tệ năm 2008. Với Trung Quốc, khủng hoảng tài chính vừa là
nguy cơ nhng đồng thời cũng là cơ hội để quốc gia này thực hiện các
chuyển đổi quan trọng nhằm tái cấu trúc nền kinh tế. Vì vậy, năm
2010 đợc coi là một năm bản lề. Trên cơ sở phân tích về kinh tế
Trung Quốc giai đoạn 2000 2010, bài viết đa ra một số nhận định
về các xu thế lớn của kinh tế Trung Quốc trong thập niên tới và tìm
hiểu một số liên hệ tới Việt Nam.
1. Những thay đổi về động lực tăng trởng của kinh
tế Trung Quốc (2010 2020) - Tăng trởng dựa vào
đầu t và tiêu dùng trong nớc mạnh hơn

Tổng kết về tăng trởng kinh tế
Trung Quốc giai đoạn 1978 2008, hầu
hết các nghiên cứu của các học giả trong
và ngoài Trung Quốc đều đi đến kết
luận rằng tăng trởng của quốc gia 1,3
tỷ dân trong giai đoạn này chủ yếu đợc
hình thành bởi hai động lực quan trọng
là xuất khẩu và không ngừng mở rộng
quy mô đầu t trong nớc. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, trong giai đoạn
1980 2000, xuất khẩu tăng trởng
10% sẽ góp phần giúp kinh tế Trung
Quốc tăng trởng 1%. Tuy nhiên, cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ quốc tế và


sự tăng trởng mạnh mẽ của kinh tế
Trung Quốc đã tạo ra những thay đổi
nhất định về động lực tăng trởng.

Khủng hoảng thu hẹp thị trờng bên
ngoài,(*)làm giảm mức đóng góp của
xuất khẩu ròng (net export)(**). Thu
nhập bình quân theo đầu ngời của
Trung Quốc đã đạt 3800 USD, phát đi
một tín hiệu tích cực về sự trỗi dậy của
tiêu dùng trong nớc. Vì thế, có thể cho
rằng, đối với Trung Quốc, tơng quan về
tỉ lệ đóng góp cho tăng trởng kinh tế
của một số chỉ số kinh tế vĩ mô nh xuất
khẩu đầu t tiêu dùng sẽ xuất hiện
những thay đổi trong thập niên tới dù
quá trình này không diễn ra một cách
nhanh chóng.
(*)
(**)

TS. Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Xuất khẩu ròng: mức chênh lệch giá trị giữa
tổng giá trị sản phẩm xuất khẩu và tổng giá trị
sản phẩm nhập khẩu. Xuất khẩu ròng có thể là
xuất siêu nếu giá trị xuất khẩu lớn hơn giá trị
nhập khẩu và có thể là nhập siêu nếu ngợc lại.



Thông tin Khoa học xã hội, số 10.2010

24
Về xuất khẩu. Dựa vào các số liệu
thống kê, có thể nhận thấy một cách rõ
nét rằng, đóng góp của xuất khẩu cho
tăng trởng kinh tế kể không còn ấn
tợng nh thập niên 1990. Mặc dù, xét
về quy mô, xuất khẩu của Trung Quốc
trong 10 năm đầu thế kỉ XXI đã đạt
đợc mức tăng ngoạn mục (biểu đồ 1a),
nhng tỉ lệ tăng trởng xuất khẩu lại
không ổn định (biểu đồ 1b).

đầu của thế kỉ XXI đã giảm so với thập
niên 1990 (biểu đồ 2).
Kể từ năm 2003, đóng góp của xuất
khẩu ròng cho tăng trởng kinh tế
Trung Quốc cha đến 5%. Năm 2009,
lần đầu tiên sau nhiều năm, đóng góp
này mang giá trị âm (-4,8%), cụ thể mức
đóng góp của xuất khẩu cho tăng trởng
kinh tế là -10,4% và của nhập khẩu là
4,3%. Trong khi đó, đóng góp của đầu t
cho
tăng
trởng kinh tế
năm 2009 là
18,3% và của
tiêu dùng là

9,7%
(xem
thêm: 8).
Xét trong
trung
hạn
(2010 2015),
với đà tăng
trởng
của
kinh tế Trung
Quốc và nhu cầu chuyển dịch
nâng cấp kết cấu ngành
(
), tốc độ tăng
trởng của xuất khẩu khó có
thể vợt qua đợc nhập khẩu
(xem thêm: 8).

Điều này cộng thêm những bất lợi
từ giá nguyên vật liệu thế giới tăng cao
tác động mạnh đến ngành gia công
chế tạo của Trung Quốc nên đóng góp
của xuất khẩu ròng vào tăng trởng
kinh tế của Trung Quốc trong 10 năm

Dấu hiệu mới nhất cho
phép dự đoán rằng đóng góp
của xuất khẩu cho tăng
trởng kinh tế Trung Quốc

sẽ tiếp tục giảm là sự điều
chỉnh về mặt chính sách đối
với các doanh nghiệp vốn
FDI. Trong văn bản mới
nhất về Mục lục chỉ định ngành đầu t
đối với doanh nghiệp nớc ngoài (bản
năm 2010)(), sau khi đã lấy ý kiến của
()

Mục lục đợc ban hành và sửa đổi vào các
năm: 1995, 1997, 2001, 2004, 2007, 2010.


Về kinh tế Trung Quốc

các tỉnh thành trong cả nớc và bắt đầu
thực hiện từ 1/12/2010, Trung Quốc đã
tiến hành hai sự điều chỉnh nổi bật:
Không tiếp tục thực hiện chính
sách hớng ra xuất khẩu đơn thuần
nh trớc.
Khuyến khích doanh nghiệp
nớc ngoài đầu t vào các ngành: Chế
tạo chế biến hàng hóa chất lợng cao
(
); Ngành kĩ thuật cao và kĩ thuật
mới (
); Các ngành dịch vụ hiện
đại (
) nh tài chính tiền tệ, bảo

hiểm; Các ngành năng lợng mới và
ngành tiết kiệm năng lợng, bảo vệ môi
trờng (
);
Các doanh nghiệp vốn FDI luôn
chiếm tỉ trọng lớn cả trong xuất khẩu
thơng mại thông thờng
và thơng mại gia công
chế biến của Trung Quốc
(biểu đồ 3), nên khi thành
phần kinh tế này không
còn đợc khuyến khích
hớng ra xuất khẩu, tất
yếu sẽ ảnh hởng đến
mức xuất khẩu của quốc
gia đông dân này.
Mặc dù đóng góp của
xuất khẩu đối với tăng
trởng kinh tế có thể suy
giảm, nhng Trung Quốc sẽ vẫn duy trì
đợc đà tăng trởng mạnh về xuất khẩu
trên thế giới nhờ dựa vào lợi thế cạnh
tranh. Bởi những bằng chứng từ quá
khứ và hiện tại đều cho thấy, các lần
suy thoái kinh tế thế giới thờng là thời
điểm Trung Quốc tăng đợc thị phần
hàng xuất khẩu của mình. Trong quá
khứ, khủng hoảng tài chính tiền tệ châu
á năm 1997 và khủng hoảng dotcom
năm 2001 đều chứng kiến sự tăng lên về

thị phần của hàng xuất khẩu Trung

25
Quốc. Năm 1998, tăng trởng xuất
khẩu của Trung Quốc đạt mức 7,1%,
năm 2001 thậm chí tỉ lệ này còn đạt
9,6% là điều khiến thế giới phải kinh
ngạc (theo: 5). ở hiện tại, 6 tháng đầu
năm 2010, xuất khẩu của Trung Quốc
đã có sự hồi phục mạnh mẽ với tỉ lệ tăng
trởng vợt qua mức tăng trởng nhập
khẩu của toàn thế giới (không tính nhập
khẩu của Trung Quốc), bất chấp điều
kiện thơng mại của Trung Quốc 6
tháng đầu năm nay đã xấu đi do tác
động của sự tăng giá các nguyên liệu
đầu vào. Dự báo cho thấy, Trung Quốc
sẽ duy trì đợc đà tăng trởng xuất
khẩu lớn hơn tỉ lệ tăng trởng nhập
khẩu của toàn thế giới (không tính nhập
khẩu của Trung Quốc) (xem thêm: 3).

Về đầu t. Kể từ những năm 1990,
doanh nghiệp luôn đóng vai trò là thành
phần chủ chốt trong hoạt động đầu t
vào nền kinh tế Trung Quốc với mức
đầu t đỉnh cao là khoảng 35% GDP
(năm 1993), trong khi đó tỉ trọng đầu t
của chính phủ và c dân trong GDP giữ
một vai trò khiêm tốn hơn nhiều. Bất kể

là đầu t vào tài sản cố định (TSCĐ)
hay đầu t nói chung, thì tỉ lệ tăng
trởng đầu t của chính phủ Trung
Quốc mới chỉ tăng lên kể từ năm 2008
(tức năm xảy ra khủng hoảng tài chính


26
tiền tệ) và đạt đến đỉnh điểm vào năm
2009, sau khi đã duy trì đà đi xuống kể
từ năm 2005.
Nguyên nhân của xu thế này là do
các gói tài chính và các chơng trình chi
tiêu của chính phủ Trung Quốc trị giá
4000 tỉ NDT đợc đa ra nhằm đối phó
với khủng hoảng tài chính tiền tệ.
Điều này khiến tỉ lệ tăng trởng về đầu
t tài sản cố định của chính phủ tăng
vọt và chính phủ trở thành chủ thể giữ
vai trò chủ đạo trong việc tạo ra động lực
mới cho tăng trởng về đầu t. Trong các
khoản đầu t do chính phủ chỉ đạo, một
phần đợc lấy từ ngân sách quốc gia,
một phần lấy từ các khoản chi vay tín
dụng của ngân hàng thơng mại và ngân
hàng mang tính chính sách. Trong thời
gian ứng phó với khủng hoảng kinh tế
thế giới, khoản đầu t này chiếm khoảng
1/3 tổng mức đầu t. Đi kèm với các
khoản đầu t này, chi tiêu của chính phủ

Trung Quốc cũng đã mở rộng nhằm hỗ
trợ cho tiêu dùng chung.
Về tiêu dùng. Biểu đồ 2 cho thấy
xu thế tăng trởng của đóng góp từ tiêu
dùng trong nớc đối với tăng trởng.
Trong thời gian 10
năm tới, mức đóng góp
này theo chúng tôi sẽ
tiếp tục tăng bởi các
nguyên do sau:
- Tăng trởng kinh
tế, tăng tỉ giá thực và
những yêu cầu về tăng
lơng của công nhân
làm tăng thu nhập khả
dụng của ngời dân.
Điều này ở một ý nghĩa nhất định sẽ
khuyến khích tiêu dùng.
- Thay đổi về mặt quan niệm của
giới trẻ khi họ tiêu dùng nhiều hơn cho
hiện tại vì cảm thấy tơng lai đợc bảo

Thông tin Khoa học xã hội, số 10.2010

đảm hơn khi nhìn thấy triển vọng tăng
trởng kinh tế cao của Trung Quốc còn
kéo dài ít nhất 15 năm nữa.
- Chính phủ tranh thủ sử dụng
khoản chi 4000 tỉ NDT cho các mục tiêu
an sinh xã hội, đặc biệt là việc Trung

Quốc bắt đầu khởi động xây dựng mạng
lới bảo hiểm xã hội ở nông thôn góp
phần giảm nhẹ gánh nặng cho ngời
dân trong việc phòng tránh rủi ro, từ đó
tạo hiệu ứng mạnh mẽ trong việc kích
thích tiêu dùng, giảm bớt khuynh hớng
tiết kiệm của c dân.
Dựa vào phân tích này, dự tính tiêu
dùng sẽ có tỉ lệ tăng trởng và duy trì
đợc tỉ trọng lớn hơn đầu t trong GDP
(theo: 3).
Sau khi xét đến vai trò của từng yếu
tố nêu trên đối với tăng trởng trong
tơng lai, có thể nhận định, cùng với sự
giảm nhiệt về xuất khẩu và quy mô
kinh tế đã tăng mạnh trong suốt 30 năm
qua, tỉ lệ tăng trởng kinh tế của Trung
Quốc giai đoạn tới (2010 2020) sẽ ở một
mức thấp hơn hơn so với trớc đó (bảng
1). Nhận định, tỉ lệ tăng trởng tiềm
năng của Trung Quốc trong giai đoạn
này sẽ ở mức 7% (xem thêm: 8).

2. Một số suy ngẫm về kinh tế Việt Nam

Khủng hoảng tài chính tiền tệ năm
2008 mở ra một cơ hội lớn cho Trung
Quốc trong việc tái cấu trúc nền kinh tế.
Hàng loạt chơng trình an sinh xã hội ở



Về kinh tế Trung Quốc

thành thị và nông thôn đã nhận đợc sự
đầu t lớn, hệ thống cơ sở hạ tầng ở
nông thôn cũng đợc cải thiện. Quá
trình tái cấu trúc tạo ra những tác động
mạnh mẽ lên năng lực sản xuất và cạnh
tranh của hàng hóa Made in China
cũng nh mức tiêu dùng trong nớc.
Điều này, ở một mức độ nhất định, gợi
mở cho chúng ta những suy ngẫm về sự
phát triển của kinh tế Việt Nam trong
tơng lai gần.
Về thơng mại. Việt Nam hiện vẫn
chủ yếu xuất khẩu các hàng hóa có giá
trị gia tăng thấp. Mặc dù mức độ nội địa
hóa trong mỗi sản phẩm ngành công
nghiệp chế tạo đã đợc cải thiện nhng
công nghiệp chế tạo của Việt Nam đa
phần vẫn duy trì ở mức khiêm tốn là
lắp ráp. Trong bối cảnh Trung Quốc
điều chỉnh kết cấu ngành theo hớng
sản xuất các hàng hóa chất lợng cao,
hàm lợng khoa học công nghệ nhiều và
giảm dần sản xuất hàng hóa sử dụng
nhiều lao động (phổ thông, đơn giản)
điều này hàm ý rằng trong quan hệ
thơng mại với Trung Quốc, chúng ta có
thể sẽ xuất khẩu nhiều hơn nữa nguyên

vật liệu, năng lợng, hàng hóa sử dụng
nhiều lao động (giày dép, dệt may), dẫu
rằng trong thực tế hiện nay, các hàng
hóa này của Trung Quốc đang tràn
ngập thị trờng Việt Nam, và nhập
khẩu các hàng hóa sử dụng nhiều kĩ
thuật công nghệ. Nhập siêu thơng
mại Việt Trung sẽ vẫn là một thực tế
tồn tại lâu dài.
Về vai trò của doanh nghiệp vốn
FDI căn bệnh Hà Lan (). Cũng

()

"Căn bệnh Hà Lan" là một thuật ngữ trong
kinh tế học ra đời năm 1977 để mô tả sự suy
giảm của khu vực sản xuất Hà Lan sau khi nớc
này tìm ra mỏ khí gas lớn. Từ đó về sau, thuật
ngữ này đợc sử dụng để nói về mối quan hệ giữa
việc phát hiện những nguồn tài nguyên thiên

27
giống với trờng hợp Trung Quốc, các
doanh nghiệp vốn FDI có mức đóng góp
lớn hơn nhiều so với doanh nghiệp bản
địa (gồm cả doanh nghiệp nhà nớc và
doanh nghiệp t nhân) cho xuất khẩu.
Năm 2001, xuất khẩu của khối doanh
nghiệp vốn FDI trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam là 24,4%, con

số này lần lợt tăng lên 34,5% (năm
2005), 42,3% (năm 2009) và 46,2% (7
tháng đầu năm 2010) (10, tr.1). Tuy
nhiên, khác với Trung Quốc, các doanh
nghiệp vốn FDI Việt Nam chủ yếu hoạt
động trong các ngành chế biến (thủy
sản, giày dép, dệt may), lắp ráp và bất
động sản. Hơn nữa, vốn FDI đổ vào lĩnh
vực này còn có dấu hiệu chững lại trong
năm 2010. James Riedels - chuyên gia
kinh tế Dự án USAID/STAR Việt Nam
cho rằng: dấu hiệu chững lại trong đầu
t vào công nghiệp chế tác đã đợc nhìn
thấy từ vài năm trớc đó (2006 2007).
Có thể sự chuyển ra khỏi công nghiệp
chế tác của vốn FDI không hoàn toàn do
nhu cầu thị trờng, mà còn do những
tác động của chính sách phát triển
ngành công nghiệp của Việt Nam các
ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu
đợc u tiên thu hút vốn FDI hơn các
ngành hớng ra xuất khẩu (11, tr.14).
Ngoài ra, trong thời gian mấy năm qua,
nhập khẩu vốn (capital) của Việt Nam
dới dạng các dòng đầu t gián tiếp
cũng đang tăng mạnh. Điều này có thể
tiềm ẩn những nguy hiểm bởi nguồn
vốn mang tính ngắn hạn này chủ yếu
mang tính đầu cơ và khó có thể trông
chờ vào việc chúng sẽ tạo ra hiệu ứng

lan tỏa kĩ thuật (Technology Spillover
Effect) cho nền kinh tế. Trong khi đó,
trong 15 ngành thu hút nhiều FDI nhất
của Trung Quốc năm 2009, có 9767
nhiên mới với sự tụt hậu của sản xuất trong nớc
của một quốc gia.


28
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
chế tạo chế biến, với tổng vốn đầu t
46,77 tỉ USD (trên tổng số 55,58 tỉ USD
của nhóm ngành công nghiệp) (Cục
Thống kê quốc gia Trung Quốc, 2009).
Sự khác biệt này khiến mục đích thu
hút chuyển giao công nghệ từ doanh
nghiệp vốn FDI của Việt Nam kém hiệu
quả hơn so với Trung Quốc, từ đó hạn
chế rất nhiều việc nâng cấp ngành trong
nớc và nâng cao sức cạnh tranh của
doanh nghiệp trong ngành đó.
Nếu thực tế thu hút FDI này duy trì
quá lâu, về cơ bản kinh tế Việt Nam sẽ
mắc căn bệnh Hà Lan nghĩa là
ngành công nghiệp chế tạo, xơng
sống của nền kinh tế, không đợc phát
triển đúng mức.
Về đóng góp của các yếu tố vào
tăng trởng kinh tế. Từ trong khủng
hoảng, Trung Quốc đã nắm bắt một cơ

hội để tiến hành chuyển đổi phơng
thức tăng trởng. Sự chuyển đổi này
khác với việc nâng cao
chất lợng tăng trởng
(tăng trởng sạnh hơn,
bền vững hơn) bởi nó thể
hiện sự đóng góp ở các
mức độ khác nhau của các
hoạt động tiết kiệm (tích
lũy) và tiêu dùng (gồm cả
tiêu dùng trong nớc và
tiêu dùng của thị trờng
nớc ngoài xuất khẩu).
Nh đã phân tích ở trên,
phơng
hớng
tăng
trởng của Trung Quốc
trong thập niên tới sẽ chú trọng hơn đến
vai trò của tiêu dùng nội địa (nâng cao
nhu cầu nội địa), giảm dần sự lệ thuộc
của tăng trởng kinh tế vào xuất khẩu.
Các nền kinh tế Đông á theo đuổi chiến
lợc hớng ra xuất khẩu cũng sớm nhận
ra những hạn chế của chiến lợc này

Thông tin Khoa học xã hội, số 10.2010

nếu đợc thực hiện quá lâu. Đó là: (1)
Thặng d cán cân thơng mại dẫn đến

những áp lực tăng giá đồng bản tệ; (2)
Va chạm thơng mại với các quốc gia
nhập siêu; (3) Các ngành không tham
gia xuất khẩu thờng bị xem nhẹ v.v...
Trung Quốc hiện đang vấp phải áp lực
buộc tăng giá đồng NDT mạnh mẽ từ cả
Mỹ (nớc có thâm hụt cán cân thơng
mại lớn nhất với Trung Quốc), châu Âu
và IMF là một trong những hệ quả có thể
tiên liệu trớc của chiến lợc phát triển
kinh tế này. Đối với Việt Nam, mặc dù
theo đuổi chiến lợc hớng ra xuất khẩu
nhng có một nghịch lý là Việt Nam
thờng xuyên rơi vào tình trạng thâm
hụt cán cân thơng mại.
Mặc dù cha phải đối mặt với áp lực
tăng giá đồng bản tệ (vì thực tế chúng
ta bị thâm hụt cán cân thơng mại, và
đồng VND trên thực tế đang đợc định
giá cao hơn khoảng 15% so với đồng
USD) (dẫn theo: 12), nhng việc không

đánh giá và quan tâm đúng mức thị
trờng trong nớc, trong khi thực hiện
chiến lợc hớng ra xuất khẩu quá lâu
khiến tăng trởng kinh tế của Việt Nam
về lâu dài sẽ chịu nhiều cú shock hơn từ
bên ngoài. Mặt khác, do thâm hụt cán
cân thơng mại và cán cân vãng lai quá



Về kinh tế Trung Quốc

cao khiến cầu trong nớc của Việt Nam
bị giảm sút (13, tr.5). Nếu không khai
thác đợc hết năng lực sản xuất thì
thâm hụt kép còn bào mòn nhu cầu nội
địa và hạn chế sản xuất cũng nh thu
nhập trong nớc.
Cần một chính sách công nghiệp
hợp lý hơn. Nguyên nhân của tình
trạng thâm hụt cán cân thơng mại
không phải là bài toán tỉ giá. Mặc dù, ở
thời điểm hiện tại, đồng VND đang đợc
định giá cao hơn 15% so với đồng USD,
nhng đó không phải là nguyên nhân
chính gây nên tình trạng nhập siêu
triền miên của Việt Nam. Căn bệnh Hà
Lan nh chúng tôi đề cập ở trên mới là
nguyên nhân chính yếu của tình trạng
này. Vì thế, giảm nhập siêu bằng cách
phá giá đồng VND không phải là giải
pháp lâu dài. Nhiều chuyên gia kinh tế
trong và ngoài nớc cũng đã chỉ ra vấn
đề của kinh tế Việt Nam là kết cấu sản
xuất bất hợp lý trong đó nổi cộm nhất
là năng lực sản xuất yếu kém của ngành
công nghiệp chế tạo bản địa. Chính tình
trạng xuất khẩu nguyên nhiên liệu, sản
phẩm sơ chế, nhập khẩu sản phẩm tinh

chế, hàng hóa có hàm lợng khoa học
công nghệ cao khiến thâm hụt cán cân
thơng mại của Việt Nam ngày một dày
thêm. Để giải quyết dứt điểm tình trạng
thâm hụt cán cân thơng mại, tạo điều
kiện tốt cho cầu và tiêu dùng trong nớc
tăng mạnh, thì trong 10 năm tới, Việt
Nam cần cấu trúc lại các ngành sản
xuất công nghiệp của mình theo hớng
giảm dần các ngành sản xuất sử dung
nhiều lao động và năng lợng thô. Bài
bình luận trên tờ Time (Mỹ) về căng
thẳng trong quan hệ thơng mại Mỹ Trung đã chỉ ra rằng, không phải là
hàng hóa giá rẻ Trung Quốc mà ngợc
lại, chính hàng hóa Trung Quốc ở các
phân khúc trung bình và cao cấp mới là

29
mối đe dọa thực sự đối với nền kinh tế
Mỹ (xem thêm: 9).
TàI LIệU THAM KHảO
1. Jianwu
He,
Louis
Kuijs.
Rebalancing Chinas Economy
Modeling a Policy Package, World
Bank China Research Paper, No. 7,
September, 2007.
2. Louis Kuijs. Investment and Saving

in China. World Bank Research
Working Paper, No.1, May, 2005.
3. Louis Kuijs. China through 2020 a
macroeconomic
scenario.
World
Bank Research Working Paper, No.
9, June, 2010.
4. Ngân hàng Thế giới. Tái định dạng
địa kinh tế. H.: Văn hóa - Thông tin,
2008.
5. Ngân hàng Thế giới. Báo cáo theo
quý về kinh tế Trung Quốc, 11/2008.
6. Ngân hàng Thế giới. Báo cáo theo
quý về kinh tế Trung Quốc, 6/2009.
7. Ngân hàng Thế giới (a): Báo cáo theo
quý về kinh tế Trung Quốc, 3/2010.
8. Ngân hàng Thế giới (b): Báo cáo theo
quý về kinh tế Trung Quốc, 6/2010.
9. Ôn Gia Bảo lần đầu tiên lên trang
bìa
Time
(tiếng
Trung)
www.bbc.co.uk/chinese/
10. Biểu đồ xuất khẩu khối doanh
nghiệp FDI. Thời báo Kinh tế Việt
Nam, số 215, 8/9/2010.
11. Đổi dòng nguồn vốn FDI. Báo Đầu
t, số 103, 27/8/2010.

12. vneconomy.vn/20100930055023389
P0C6/ty-gia-diem-yeu-cua-nen-kinhte-viet-nam.htm
13. 3 điểm yếu và 4 định hớng Chiến
lợc kinh tế đối ngoại. Thời báo kinh
tế Việt Nam, số 208, 31/8/2010.



×