BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
____________________
LÊ QUANG CẦN
CHỢ Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2010
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62.22.03.13
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
NGHỆ AN 2018
Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Vinh
Người hướng dẫn khoa học: 1. PG.TS. Nguyễn Quang Hồng
2. PGS.TS. Hồ Sơn Đài
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường, họp tại
Trường Đại học Vinh
Vào hồi ….... giờ …... ngày …… tháng ……. năm 2018
Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện Quốc gia Việt Nam
Thư viện Trường Đại học Vinh
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chợ truyền thống Việt Nam ở miền Đông Nam Bộ là một bộ phận quan trọng cấu
thành mạng lưới giao thương hàng hóa, thúc đẩy sản xuất kinh tế, mở rộng phát triển thị
trường trao đổi mua bán nhằm phục vụ đời sống vật chất người dân và góp phần tạo nguồn
thu ngân sách địa phương.
Vùng Đông Nam Bộ có lịch sử hình thành, phát triển từ nhiều thế kỷ trước, nhưng
việc nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển, diện mạo, vai trò,... của chợ truyền
thống trong không gian địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa,... còn bỏ ngỏ. Đặc biệt, chưa có
luận án Tiến sĩ sử học nào nghiên cứu về chợ ở miền Đông Nam Bộ trước, trong khoảng
thời gian đề tài xác định. Do đó, lựa chọn hướng nghiên cứu về chợ ở miền Đông Nam Bộ
từ năm 1975 đến năm 2010 với hy vọng của chúng tôi, góp phần nhỏ bé nhằm khỏa lấp
khoảng trống trong nghiên cứu lịch sử miền Đông Nam Bộ nói riêng, cả nước nói chung.
Năm 1975, đất nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, từng bước cải cách kinh tế,
hội nhập khu vực và thế giới. Trong bối cảnh chung đó, hầu hết các chợ truyền thống
làng xã, huyện, tỉnh, thành phố,... đều có những thay đổi về quy mô, số lượng, hàng hóa
trao đổi, phương thức thanh toán,... Sự chuyển biến của hệ thống chợ truyền thống
miền Đông Nam Bộ (19752010) đã tác động đến nhiều mặt của đời sống vật chất và
tinh thần người dân. Do đó, chọn đề tài nghiên cứu về chợ ở miền Đông Nam Bộ trong
khoảng thời gian xác định, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần tái hiện một cách khá sinh
động, toàn diện hoạt động của chợ truyền thống.
Trước những biến động của điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong nước,
khu vực và quốc tế những năm 90 của thế kỷ trước và thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, chợ
truyền thống ở miền Đông Nam Bộ có nhiều thay đổi về số lượng, quy mô, hàng hóa,...
Quá trình hoạt động, phát triển chợ truyền thống miền Đông Nam Bộ trong thời gian này
góp phần tăng thêm tầng lớp tiểu thương, những người buôn bán nhỏ, giải quyết công ăn
việc làm, phát triển du lịch, tăng nguồn thu ngân sách địa phương,...
Từ những lý do cơ bản đó, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Chợ ở miền Đông
Nam Bộ từ năm 1975 đến năm 2010” làm đề tài luận án Tiến sĩ sử học với hy vọng góp
phần vào việc giải quyết những yêu cầu cấp thiết về khoa học và thực tiễn mà đề tài
đặt ra.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm giải quyết các yêu cầu cấp thiết về khoa học và thực tiễn mà đề tài đặt ra,
luận án xác định rõ mục tiêu nghiên cứu là: Tái hiện một cách sinh động, toàn diện, có hệ
5
thống sự hoạt động chợ truyền thống ở miền Đông Nam Bộ từ năm 1975 đến năm 2010.
Không chỉ dừng lại ở mức độ trình bày diện mạo, hoạt động của chợ ở miền Đông Nam
Bộ mà chúng tôi còn hướng đến mục tiêu phân tích, đánh giá sự tác động của chợ truyền
thống đối với đời sống kinh tế xã hội của các tầng lớp nhân dân trong không gian và thời
gian đề tài xác định.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận án tập trung giải quyết một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nêu các nhân tố tác động đến sự hình thành, phân bố, diện mạo, hoạt
động,... của chợ truyền thống ở miền Đông Nam Bộ.
Thứ hai, trình bày một cách khá toàn diện về quy mô, hoạt động, phương thức quản
lý, đối tượng và hàng hóa trao đổi mua bán,... tại chợ truyền thống ở miền Đông Nam Bộ
trong khoảng thời gian đề tài xác định.
Thứ ba, từ góc độ tiếp cận liên ngành, chúng tôi tập trung phân tích, đánh giá vai trò và
tác động của chợ truyền thống đối với đời sống kinh tế, văn hóa xã hội ở miền Đông Nam
Bộ từ năm 1975 đến năm 2010, nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, hội
nhập khu vực và quốc tế.
Thứ tư, từ góc độ nghiên cứu lịch sử, chúng tôi chỉ rõ một số tồn tại, hạn chế trong quá
trình đầu tư xây dựng chợ mới, mở rộng quy mô chợ cũ,... quản lý điều hành chợ ở miền
Đông Nam Bộ trong thời gian qua. Chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với các
cấp chính quyền địa phương, nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, phát huy vai trò của
chợ truyền thống đối với mọi mặt của đời sống nhân dân ở miền Đông Nam Bộ trong bối
cảnh hội nhập khu vực và thế giới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án được xác định cụ thể “Chợ ở miền Đông Nam Bộ
từ năm 1975 đến năm 2010”. Sau năm 1975, bên cạnh chợ truyền thống, hệ thống cửa hàng
lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm, hợp tác xã thương nghiệp,... quốc doanh được thành
lập ở miền Đông Nam Bộ từ thành thị đến nông thôn. Sau năm 1986, siêu thị, trung tâm
thương mại và cửa hàng tiện ích ra đời và phát triển mạnh mẽ ở miền Đông Nam Bộ đáp
ứng nhu cầu phục vụ người dân. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi trong luận
án này là chợ truyền thống theo thời gian và không gian địa lý đề tài xác định. Các vấn đề
cửa hàng lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm, hợp tác xã thương nghiệp,... quốc doanh,
siêu thị, trung tâm thương mại và cửa hàng tiện ích không thuộc đối tượng nghiên cứu của
luận án.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
6
3.2.1. Về thời gian, luận án giới hạn nghiên cứu “Chợ ở miền Đông Nam Bộ từ năm
1975 đến năm 2010”.
3.2.2. Về không gian địa lý, luận án xác định phạm vi nghiên cứu là miền Đông Nam
Bộ theo địa giới hành chính hiện hành gồm: TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng
Tàu, Bình Dương, Bình Phước và Tây Ninh.
3.2.3. Về nội dung, luận án tập trung nghiên cứu, phục dựng lại diện mạo hoạt động
chợ truyền thống ở miền Đông Nam Bộ trên các mặt:
Trình bày một số nhân tố tác động đến quá trình hình thành, phát triển chợ ở miền
Đông Nam Bộ.
Tập trung trình bày sự chuyển biến chợ ở miền Đông Nam Bộ từ năm 1975 đến
năm 1985 và từ năm 1986 đến năm 2010 trên các phương diện quy mô, số lượng, nguồn vốn
đầu tư mở rộng, xây dựng chợ mới, hình thức hoạt động, hàng hóa trao đổi chủ yếu,
phương thức quản lý, điều hành, đối tượng tham gia buôn bán trao đổi chủ yếu ở chợ,...
Phân tích, đánh giá vai trò và tác động của chợ truyền thống đối với đời sống
kinh tế, văn hóa xã hội ở miền Đông Nam Bộ. Chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến
nghị, đề xuất nhằm phát huy vai trò của chợ truyền thống, khắc phục sự tồn tại, hạn
chế trong quá trình khảo sát, đầu tư xây dựng, quản lý chợ ở miền Đông Nam Bộ.
Những nội dung khác không nằm trong phạm vi nghiên cứu của luận án.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Để hoàn thành luận án, chúng tôi dựa trên các nguồn tài liệu chủ yếu sau:
Tài liệu lưu trữ: Chúng tôi đã tiếp cận và khai thác nguồn tư liệu là văn bản pháp
lý về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến sự phát triển chợ ở
miền Đông Nam Bộ và cả nước. Chúng tôi chủ yếu tiếp cận và khai thác nguồn tư liệu
từ Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, các Nghị quyết của Trung ương Đảng, Luật của Quốc
hội, Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ; Quyết định, Quy định, Thông tư của Bộ
thương mại (Bộ Công thương) về chính sách phát triển kinh tế, thương nghiệp, quản lý
chợ của Việt Nam và miền Đông Nam Bộ. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần VI,
VIII và Nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng bộ ở các địa phương miền Đông Nam Bộ về
chiến lược phát triển kinh tế, xã hội. Tài liệu từ Cục thống kê quốc gia và các địa
phương hàng năm, 5 năm, 10 năm về số lượng chợ, tổng mức mua bán hàng hóa, sự gia
tăng dân cư ở mỗi địa phương miền Đông Nam Bộ. Kế hoạch, chiến lược phát triển
thương nghiệp, mạng lưới chợ của các tỉnh, thành miền Đông Nam Bộ. Các báo cáo về
hoạt động chợ của Sở Thương mại (Sở Công thương) các địa phương trở thành nguồn
tài liệu so sánh, đối chiếu sự hoạt động của hệ thống chợ truyền thống trong phạm vi
không gian và thời gian đề tài xác định.
Tài liệu là các công trình chuyên khảo: Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi đã
tiếp cận các công trình chuyên khảo của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước có nội dung
liên quan trực tiếp đến đề tài. Đồng thời, chúng tôi tiếp cận những bài viết đăng trên tạp chí
chuyên ngành như tạp chí nghiên cứu lịch sử, tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, tạp chí khoa
7
học xã hội TP. Hồ Chí Minh,... Chúng tôi sử dụng các bộ sách khảo cứu về điều kiện tự
nhiên, kinh tế, dân cư, xã hội Nam Bộ nói chung, miền Đông Nam Bộ nói riêng. Đồng thời,
chúng tôi đã tiếp cận các công trình nghiên cứu từ kỷ yếu hội thảo khoa học do các Viện,
trường Đại học,... tổ chức. Các luận văn thạc sĩ hành chính công, lịch sử, địa lý học, nhân
học,... Các luận án Tiến sĩ sử học, kinh tế học, xã hội học,... có nội dung liên quan đến đề tài
luận án.
Tài liệu điền dã: Để bổ sung nguồn tư liệu thực hiện luận án, chúng tôi đã tiến
hành điền dã, khảo cứu thực tế hệ thống chợ cũ, chợ mới từng tỉnh, thành ở miền Đông
Nam Bộ, đặc biệt phỏng vấn những tiểu thương gắn bó nghề buôn bán ở chợ từ năm 1975
đến năm 2010. Chúng tôi tiến hành điều tra xã hội học với bảng hỏi về nhận xét của giới
tiểu thương buôn bán ở chợ truyền thống qua hai giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1985 với
20 câu hỏi và từ năm 1986 đến năm 2010 là 20 câu hỏi. Việc thực hiện điều tra này, đều có
sự xác nhận của Ban quản lý chợ hoặc chính quyền địa phương, đảm bảo độ tinh cậy khi
sử dụng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ khoa học đặt ra, chúng tôi sử dụng phương pháp
nghiên cứu chuyên ngành là phương pháp lịch sử và logic. Ngoài ra, chúng tôi còn sử
dụng các phương pháp liên ngành như phỏng vấn, hồi cố lịch sử, thống kê, so sánh, phân
tích phần mềm SWOOT, đặc biệt là phương pháp điền dã,… Bên cạnh đó, chúng tôi còn
sử dụng phương pháp tham khảo ý kiến một số chuyên gia có nhiều kinh nghiệm, hiểu
biết và có các công trình nghiên cứu lịch sử, văn hóa, kinh tế,.... về miền Đông Nam Bộ
đã công bố.
5. Đóng góp của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên có hệ thống và tương đối toàn diện về
“Chợ ở miền Đông Nam Bộ từ năm 1975 đến năm 2010” . Kết quả nghiên cứu của luận
án sẽ góp phần thiết thực khỏa lấp khoảng trống trong nghiên cứu lịch sử ở miền Đông
Nam Bộ nói riêng và nghiên cứu về chợ trên phạm vi cả nước nói chung.
Từ góc độ Sử học, đây là công trình nghiên cứu đầu tiên đánh giá sự tác động của
chợ truyền thống đối với đời sống vật chất, tinh thần, giao lưu văn hóa trong nước, quốc
tế,... theo thời gian và không gian đề tài xác định
Tập hợp nguồn tài liệu tham khảo phong phú, nội dung liên quan thực hiện đề tài,
làm cơ sở nghiên cứu, đối chiếu khi mở rộng vấn đề nghiên cứu.
Luận án là tài liệu hữu ích trong biên soạn, giảng dạy Lịch sử địa phương, xây dựng
đề án, kế hoạch phát triển hiệu quả hệ thống chợ truyền thống ở miền Đông Nam Bộ thời
kỳ hội nhập khu vực và thế giới trong thế kỷ XXI.
6. Bố cục của luận án
8
Ngoài phần phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính
của luận án được kết cấu trong 4 chương sau:
Chương 1: Tổng quan
Chương 2:
hình nghiên cứu đề tài
tình
Chợ ở miền Đông Nam Bộ trong cơ chế quản lý bao cấp (19751985)
Chương 3: Chợ
2010)
ở miền Đông Nam Bộ trong thời kỳ đổi mới và hội nhập (1986
Chương 4: Vai trò tác động của chợ ở miền Đông Nam Bộ đối với đời sống kinh
tế xã hội
NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm về chợ sử dụng trong luận án
Khái niệm chợ
Định nghĩa về chợ có khá nhiều từ điển trong và ngoài nước định danh. Bộ Thương
mại (Bộ Công thương), Nghị định của Chính phủ đều có định nghĩa khá cụ thể về chợ. Từ
nhiều cách lý giải khác nhau về chợ, có thể thống nhất: Chợ là loại hình kinh doanh thương
mại được hình thành và phát triển mang tính truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm
công cộng, tập trung đông người mua bán, trao đổi hàng hoá dịch vụ với nhau, hình thành do
yêu cầu của sản xuất, lưu thông, đời sống tiêu dùng xã hội và hoạt động theo các chu kỳ
thời gian nhất định, phù hợp với nhu cầu của mọi tầng lớp nhân dân trong vùng. Trong “chợ
truyền thống”, có thể phân chia thành các tiểu loại khác. Theo địa bàn, có chợ làng xã, chợ
đô thị, chợ vùng biên, chợ ven biển, chợ ven sông rạch; theo thời gian, có chợ phiên, chợ
sáng, chợ chiều, chợ đêm; theo loại hàng hóa, có chợ hoa quả, chợ trâu bò, chợ cá, chợ
lao động; theo quy mô, có chợ tỉnh, chợ huyện, chợ làng, chợ cóc; theo chức năng, có chợ
đầu mối, chợ chuyên doanh,... Theo Nghị định 2003 của Chính Phủ, chợ được phân thành
3 loại: Chợ loại 1 là chợ có trên 400 hộ kinh doanh lập cửa hàng, cửa hiệu, sạp hàng
buôn bán cố định, thường xuyên. Chợ loại 2 là chợ có từ 100 đến dưới 400 hộ buôn bán
cố định, thường xuyên. Chợ loại 3 là những chợ còn lại.
1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về chợ ở Việt Nam
1.2.1. Những nghiên cứu về chợ ở Việt Nam của tác giả trong nước
Nội dung này bao gồm những công trình nghiên cứu với nhiều tác giả tên tuổi như
Trịnh Hoài Đức có tác phẩm “Gia Định thành thông chí”, công trình “Hoàng Việt nhất
9
thống dư địa chí” của Lê Quang Định, Giáo sư Huỳnh Lứa với công trình “Lịch sử khai
phá vùng đất Nam Bộ”, tác phẩm “Một số vấn đề về lịch sử kinh tế Việt Nam” của Lê
Quốc Sử, công trình “Tự vị tiếng nói miền Nam” của Vương Hồng Sển, Trần Gia Linh
với tác phẩm “Chợ quê Việt Nam”, “Chợ nổi đồng bằng sông Cửu Long” của tác giả
Nhâm Hùng, công trình “Chợ Việt” của tác giả Huỳnh Thị Dung, “Chợ truyền thống
Việt Nam qua tư liệu văn bia” của Trịnh Khắc Mạnh , Đặng Phong với công trình “Phá
rào trong kinh tế vào đêm trước đổi mới” và “Tư duy kinh tế Việt Nam (19751989)”,...
Các công trình nghiên cứu này đã giới thiệu khái lược về diện mạo, hiện trạng, vai trò,
đóng góp, đặc điểm của chợ truyền thống Việt Nam từ xưa đến nay; tạo cơ sở lý luận
và nguồn tư liệu tổng quát để tác giả luận án đi sâu nghiên cứu đề tài.
1.2.2. Những nghiên cứu về chợ ở Việt Nam của tác giả nước ngoài
Chợ truyền thống là một trong số ít nội dung được giới nghiên cứu người nước ngoài
đề cập qua một số công trình nghiên cứu như tác gải Jean Pierre Aumiphin với tác phẩm
“Sự hiện tài chính và kinh tế của Pháp ở Đông Dương từ năm 1858 đến năm 1939” được
GS. Đinh Xuân Lâm biên dịch. Tác giả John Barrow với “Một chuyến du hành đến xứ
Nam Hà (17921793)” được Nguyễn Thừa Hỷ biên dịch, Litana với “Xứ đàng trong, lịch
sử kinh tếxã hội Việt Nam thế kỷ 1718” Nguyễn Nghị dịch, Kirstenw. Endres với bài
viết “Kinh doanh quy mô nhỏ, chuyển đổi đô thị và cơ cấu lại không gian trong thời kỳ
hậu cải cách ở Việt Nam”, do Nguyễn Thị Hồng Nhị và Nguyễn Thùy Trang biên dịch;
Caroline Grillot nghiên cứu bài viết “Làm kinh doanh không dễ: Những thay đổi thất
thường của buôn bán ở vùng biên giới theo cách nhìn của người bán buôn Trung Quốc” ,
do Nguyễn Văn Thắng dịch,... Mặc dù các tác giả này bước đầu đề cập đến một số góc
nhìn về vai trò của chợ truyền thống nhưng đó là cơ sở lý luận, giúp nghiên cứu thực
tiễn đối với chợ truyền thống ở miền Đông Nam Bộ được thuận lợi.
1.3. Nhóm công trình nghiên cứu riêng về chợ ở miền Đông Nam Bộ
1.3.1. Những nghiên cứu về chợ ở miền Đông Nam Bộ của tác giả trong nước
Đối với nội dung này đượ c chính quyền đươ ng thời, tác giả nghiên cứu đề cập
tươ ng đối nhiều vấn đề về chợ truyền thống. Theo đó, có các tác phẩ m “Địa
phươ ng chí tỉnh Phướ c Tuy năm 1961”, “địa phươ ng chí Gia Định năm 1971”; “Chợ
trời biên giới Việt Nam Cao Miên” của Lê Hương; Lươ ng Văn Lựu với “ Biên Hòa sử
lượ c toàn biên”; công trình nghiên cứu “Địa bạ triều Nguyễn Biên Hòa” của Nguyễn
Đình Đầu; bộ “Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh” do Nxb TP. Hồ Chí Minh phát
hành; bộ “Địa chí Đồng Nai” do Nxb Đồng Nai phát hành; “Chợ và siêu thị trong đời
sống văn hóa” của Nguyễn Hoàng Tố Uyên; “Chợ Bến Thành qua cuộc trăm năm” của
Nguyễn Cát Ngọc,... Những nội dung về chợ được nghiên cứu, ghi chép trong các tác
phẩm này là tài liệu có giá trị lý luận và thực tiễn đối với nghiên cứu chợ truyền thống ở
miền Đông Nam Bộ từ năm 19752010.
1.3.2. Những nghiên cứu về chợ ở miền Đông Nam Bộ của tác giả nước ngoài
10
Người nước ngoài nghiên cứu về miền Đông Nam Bộ còn khá khiêm tốn, tuy nhiên,
chợ truyền thống là một trong nhiều vấn đề được các tác giả, nhà cầm quyền đề cập,
nghiên cứu với bộ sách “Monographie de la province de Thu Dau Mot (chuyên khảo Thủ
Dầu Một) của Bulletin de la Société des Études Indochinoise de SaiGon; t ác phẩm
“Monographie de la Province de Baria” (Chuyên khảo của tỉnh Bà Rịa) và Vilie du cap Saint
Acques (thành phố Vũng Tàu) của tác giả Fasgigule, SaiGon Imprimerie L. Ménard; sách
“Monographie de la Province de Gia Dinh” (Chuyên khảo của tỉnh Gia Định), SaiGon
Imprimerie L. Ménard (xuất bản năm 1902 tại nhà in L.Ménard Sài Gòn); s ách
“Monographie de la province de Biên Hòa 1923” (Chuyên khảo về tỉnh Biên Hòa) của tác
giả M.Robert,... Những nội dung nghiên cứu, ghi chép về chợ thời thuộc Pháp là tài liệu
quan trọng trong nghiên cứu khái quát chợ truyền thống ở miền Đông Nam Bộ trước năm
1975.
1.4. Nhận xét tình hình nghiên cứu và nhiệm vụ khoa học của luận án
1.4.1. Một số nhận xét về tình hình nghiên cứu của đề tài
Trước hết, đối với các công trình nghiên cứu của tác giả người nước ngoài: Có
nhiều công trình, chuyên khảo, bài viết nghiên cứu về Việt Nam, Nam Bộ, miền Đông
Nam Bộ xuyên suốt lịch sử hơn ba trăm năm hình thành, phát triển trên nhiều phương
diện: Địa lý, lịch sử, dân cư, kinh tế, hành chính, xã hội, chủ quyền, ngoại giao; trong đó,
chợ ở miền Đông Nam Bộ ít nhiều được đề cập. Trong khả năng có hạn, chúng tôi chỉ
tiếp cận được những công trình của tác giả người Pháp, một số ít luận án Tiến sĩ của
người nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam. Những nghiên cứu của người Pháp ở miền
Đông Nam Bộ có liên quan đến giai đoạn đầu của đề tài nhưng sơ lược, riêng lẻ, chưa
có sự thống kê toàn diện đầy đủ chợ nơi này.
Thứ hai, đối với tài liệu chữ Hán, chữ Nôm thời phong kiến đến nay, có khá nhiều
công trình nghiên cứu của Quốc sử quán nhà Nguyễn, một số tác phẩm của các nhà khoa
bảng, từng giữ các chức vụ trong bộ máy chính quyền nhà Nguyễn đã được xuất bản và
dịch sang tiếng Việt. Những công trình nghiên cứu này khá toàn diện, đầy đủ các mặt
của vùng đất miền Đông Nam Bộ. Chợ là một trong những nội dung được đề cập ít
nhiều, với mức độ đậm nhạt khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình chuyên khảo nào
nghiên cứu về chợ ở miền Đông Nam Bộ xuyên suốt trong lịch sử hình thành và phát
triển trong không gian địa lý, lịch sử văn hóa ấy.
Thứ ba, tài liệu tiếng Việt nghiên cứu về Nam Bộ, miền Đông Nam Bộ rất phong
phú, đa dạng về số lượng công trình, công phu về nghiên cứu, toàn diện về khảo sát, đối
chiếu, so sánh trên tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, quốc
phòng, an ninh,... Trong bối cảnh chung đó, hướng tiếp cận, nghiên cứu về chợ ở miền
Đông Nam Bộ từ năm 1975 đến năm 2010 chỉ được đề cập sơ lược, chung chung, chưa
cụ thể. Tuy nhiên, thành quả nghiên cứu khoa học của người đi trước thực sự là nguồn
tài liệu hữu ích để chúng tôi đối chiếu, so sánh khi thực hiện đề tài Luận án Tiến sĩ “Chợ
11
ở miền Đông Nam Bộ từ năm 1975 đến năm 2010”. Chúng tôi khẳng định vấn đề nghiên
cứu “Chợ ở miền Đông Nam Bộ từ năm 1975 đến năm 2010” là một đề tài hoàn toàn mới,
có sự kế thừa kết quả nghiên cứu của người đi trước nhưng không trùng lập bất cứ công
trình nào đã được công bố ở trong và ngoài nước đến thời điểm năm 2017.
1.4.2. Những vấn đề cần giải quyết của luận án
Nhằm giải quyết những yêu cầu cấp thiết về mặt khoa học và thực tiễn mà đề tài
đặt ra, chúng tôi đặt nhiệm vụ khoa học trong quá trình thực hiện luận án với những nội
dung cụ thể như sau:
Trước hết, chúng tôi tiếp tục kế thừa và sử dụng kết quả nghiên cứu của những nhà
khoa học đi trước nhất là những công trình có nội dung liên quan trực tiếp đến đề tài chợ ở
miền Đông Nam Bộ trước và sau năm 1975. Trên cơ sở nguồn tài liệu đó, chúng tôi lần lượt
trình bày các nội dung cụ thể của đề tài nhằm phục dựng lại một cách chân thực, khách
quan về chợ truyền thống trong không gian địa lý hành chính hiện nay của miền Đông Nam
Bộ.
Thứ hai, trong khoảng thời gian đề tài xác định, ở miền Đông Nam Bộ cùng lúc tồn
tại chợ truyền thống cũ và mới (chợ làng xã, huyện, tỉnh, thành), chợ biên giới được Nhà
nước đầu tư phát triển. Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi căn cứ vào Từ điển, văn bản
pháp quy của Nhà nước làm rõ các khái niệm, thuật ngữ trước khi đi vào trình bày cụ thể
các loại chợ truyền thống.
Thứ ba, một nhiệm vụ trọng tâm của luận án là tập trung trình bày những chuyển
biến của chợ ở miền Đông Nam Bộ từ năm 1975 đến năm 2010. Trong khoảng thời
gian đề tài xác định liên quan đến nhiều lĩnh vực như: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, an ninh, an toàn xã hội,...vấn đề quy hoạch thành phố, đô thị, xây dựng các khu
công nghiệp, thương mại, dịch v ụ, môi sinh, môi trườ ng, an sinh xã hội,...
Thứ tư, trên cơ sở đối sánh nhiều nguồn tư liệu khác nhau, luận án hướng tới nội
dung quan trọng khác là nghiên cứu, đánh giá vai trò, vị trí và những tác động trực tiếp,
hoặc gián tiếp của chợ truyền thống ở miền Đông Nam Bộ đối với đời sống vật chất và
tinh thần các tầng lớp nhân dân ở trên địa bàn. Đồng thời, sự hoạt động và phát triển của
hàng ngàn chợ lớn nhỏ ở nơi này góp phần tăng nguồn thu ngân sách đối với các địa
phương. Qua đó, chúng tôi nhấn mạnh vai trò thúc đẩy kinh tế, buôn bán hàng hóa, giao
lưu văn hóa, phát triển các ngành nghề mới như du lịch, dịch vụ vận chuyển hàng hóa,...
trong phạm vi không gian miền Đông Nam Bộ và các vùng miền khác trong cả nước. Từ
góc độ tiếp cận liên ngành, chúng tôi chỉ ra một số tồn tại, hạn chế khi quy hoạch xây
dựng, nâng cấp, quản lý, điều hành hoạt động chợ truyền thống trên địa bàn Đông Nam
Bộ trong thời gian qua ở phần cuối của luận án.
Chương 2
12
CHỢ Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ TRONG CƠ CHẾ QUẢN LÝ
HÀNH CHÍNH, QUAN LIÊU BAO CẤP (19751985)
2.1. Các nhân tố tác động đến hoạt động của chợ ở miền Đông Nam Bộ
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và dân cư
* Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý
Miền Đông Nam Bộ thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, với diện tích
23590.8 km2, dân số 15.459.6 nghìn người, mật độ dân số 655.0 người/km2 vào thời điểm
năm 2013. Miền Đông Nam Bộ có 6 tỉnh thành: TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng
Tàu, Bình Dương, Bình Phước và Tây Ninh. Miền Đông Nam Bộ tiếp giáp: Phía Bắc Tây
Bắc giáp Campuchia, phía Nam giáp biển Đông, phía Tây giáp đồng bằng sông Cửu Long,
phía Đông Đông Nam giáp Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ.
Đông Nam Bộ có cửa ngõ phía Tây Bắc liên hệ với Campuchia và các nước
ASEAN qua đường bộ xuyên Á, cửa ngõ phía Đông liên hệ với các nước trên thế giới qua
hệ thống cảng Sài Gòn, Bà Rịa Vũng Tàu, Thị Vải, ...đường hàng không với sân bay quốc
tế Tân Sơn Nhất. Việc hình thành cửa ngõ phía Đông và phía Tây đã tạo lập hành lang kinh
tế Đông Tây, nơi diễn ra hoạt động sản xuất kinh tế sôi động nhất vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam, đồng thời tạo nên sức hút mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư trong và ngoài
nước tham gia kinh doanh lĩnh vực thương nghiệp với hệ thống chợ truyền thống tăng thêm
về số lượng và quy mô.
Địa hình
Đông Nam Bộ nằm trên vùng đồng bằng và bình nguyên rộng, chuyển tiếp từ cao
nguyên Nam Trung Bộ đến đồng bằng sông Cửu Long. Độ cao địa hình thay đổi từ 100
200 mét. Địa hình của vùng tạo điều kiện thuận lợi phát triển nông lâm ngư nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp, đô thị và thương nghiệp. Vì vậy, hệ thống chợ
truyền thống ở miền Đông Nam Bộ ra đời đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa
địa phương và các vùng phụ cận.
Khí hậu
Nằm trong miền khí hậu phía Nam nóng ẩm gió mùa, Đông Nam Bộ có đặc điểm
vùng khí hậu cận xích đạo với nền nhiệt độ khá cao và không thay đổi trong năm. Sự phân
hoá sâu sắc theo mùa với chu kỳ hoạt động của gió mùa Tây Nam, lượng mưa dồi dào
trung bình hàng năm khoảng từ (1.500 2.000) mm. Khí hậu của vùng tương đối ôn hoà, ít
thiên tai, chu kỳ thủy triều trên các sông khá ổn định, thuận lợi giao thương bán buôn hàng
hóa bằng đường biển, đường sông. Hệ thống chợ truyền thống miền Đông Nam Bộ hình
thành chủ yếu ven sông, kênh rạch thuận lợi kết nối mua bán, trao đổi hàng hóa trong
vùng.
Đất đai
Miền Đông Nam Bộ có lợi thế về đất sản xuất nông nghiệp, chiếm tỷ lệ 27,1%
tổng diện tích đất canh tác. Toàn vùng có 12 nhóm đất, trong đó quan trọng nhất là đất
13
nâu đỏ trên nền bazan, đất nâu vàng trên nền bazan và đất xám trên nền phù sa cổ. Ba
nhóm đất này có diện tích lớn và chất lượng tốt, thuận lợi sinh trưởng nhiều loại cây
trồng có giá trị kinh tế cao như cao su, cà phê, hồ tiêu, điều, lạc, mía, đỗ tương và nhiều
loại cây lương thực khác. Kinh tế nông nghiệp miền Đông Nam Bộ phát triển, tạo sự đa
dạng hàng hóa nông nghiệp đối với trao đổi, mua bán ở hệ thống chợ. Hệ thống chợ
truyền thống ở đây trở thành cầu nối trung gian luân chuyển hàng hóa nông nghiệp giữa
người sản xuất, người tiêu dùng và xuất khẩu.
Tài nguyên rừng
Diện tích rừng miền Đông Nam Bộ tương đối nhỏ, hiện còn khoảng 532.200 ha,
chiếm 2,8% diện tích rừng cả nước và phân bố không đều ở các tỉnh, thành. Rừng trồng
tập trung ở Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa Vũng Tàu, Đồng Nai, Tây Ninh, TP. Hồ
Chí Minh. Rừng Đông Nam Bộ có ý nghĩa quan trọng đối với cung cấp gỗ dân dụng,
phòng hộ cây công nghiệp, giữ nước, cân bằng sinh thái vùng hạ du. Sự đa dạng hệ sinh
thái rừng đã cung cấp phong phú sản vật như mật ong, măng, thuốc dược liệu,...đối với
hệ thống chợ truyền thống tiếp giáp rừng ở miền Đông Nam Bộ, góp phần thúc đẩy
hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa nhộn nhịp.
Tài nguyên nước
Nguồn nước mặt của miền Đông Nam Bộ khá đa dạng với hệ thống sông Đồng
Nai là 1 trong 3 sông lớn nhất Việt Nam. Lượng mưa trung bình từ 1.500 2.000
mm/năm, tương ứng khoảng 183 tỉ m 3. Ngoài ra, vùng còn có các hồ nước nhân tạo như
Trị An, Dầu Tiếng, Thác Mơ,…với tổng dung tích thiết kế khoảng 300 triệu m3. Với hệ
thống sông khá dài, hồ nhân tạo lớn thuận lợi đánh bắt, nuôi trồng thủy sản nước ngọt
cung cấp nguồn tôm, cua, cá,...đối với hệ thống chợ truyền thống miền Đông Nam Bộ,
góp phần đa dạng hàng hóa trao đổi, mua bán giữa hệ thống chợ trong vùng.
Tài nguyên biển
Miền Đông Nam Bộ với bờ biển dài 350 km từ cuối phía Nam Bình Thuận đến TP.
Hồ Chí Minh. Vùng biển này được đánh giá là một trong bốn ngư trường trọng điểm của
cả nước với trữ lượng cá khoảng từ (290704) nghìn tấn, chiếm khoảng 40% trữ lượng cá
của vùng biển Nam Bộ. Ven biển Bà Rịa Vũng Tàu và TP. Hồ Chí Minh với nhiều vũng,
vịnh thuận lợi nuôi trồng thuỷ sản nước lợ có diện tích khoảng 11,7 nghìn ha. Vì vậy, hệ
thống chợ ven biển như chợ Bến Đình, Bến Đá, Vũng Tàu, Bà Rịa, Long Hải,...của Bà Rịa
Vũng Tàu; chợ Cần Giờ, Hàng Dương, Nhà Bè,...của TP. Hồ Chí Minh trở thành cầu nối
trung gian tiêu thụ hải sản từ biển đối với ngư dân sinh kế đánh bắt cá và người tiêu thụ
đối với chợ đô thị, chợ miền cao Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh,... Vì vậy, nguồn lợi
thủy sản phong phú biển miền Đông Nam Bộ góp phần cung cấp thực phẩm đa dạng cá,
tôm, cua,...đối với hoạt động nhộn nhịp của hệ thống chợ trong vùng.
* Dân cư
Trải qua bao thăng trầm lịch sử, miền Đông Nam Bộ trở thành “vùng đất hứa” đối
với bao thế hệ người Việt, các tộc người thiểu số di cư tiếp nối từ Bắc vào Nam. Trong
thời gian Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất (18971914), lần
14
thứ hai (19191929), người dân từ miền Bắc, miền Trung vào miền Đông Nam Bộ lao
động và định cư ngày một nhiều. Dân số nơi này tăng nhanh và chợ dân sinh không
ngừng ra đời. Số lượng đồn điền cao su do người Pháp làm chủ ngày một tăng, đáp ứng
nhu cầu phục vụ dân sinh, chợ trong đồn điền cao su lần lượt ra đời “vào khoảng những
năm 20, chợ được lập ở vùng đồn điền cao su, trước tiên là chợ Dầu Giây”.
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc. Trong bối cảnh đất nước bị phân
chia hai miền với hai chế độ chính trị, xã hội khác nhau, chính quyền Sài Gòn (19551956)
đã lôi kéo đông đảo tín đồ Ky tô giáo di cư từ miền Bắc vào miền Nam. Người dân di cư
từ Bắc vào Nam thời kỳ này gọi là “Bắc 1954” với số lượng gần một triệu người. Trong
đó, phần lớn người dân cư trú chủ yếu ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Vì vậy, hệ thống
chợ dân sinh nơi này thời kỳ (19541975) tăng nhanh về số lượng nhằm đáp ứng nhu cầu
phục vụ người dân. Nhiều chợ dân sinh ra đời gắn liền tên làng, xã miền Bắc như chợ
Sặt, chợ Phúc Hải, chợ Thái Bình, chợ Tân Mai,... (Biên Hòa), chợ Bắc Sơn, chợ Quảng
Biên,...(Trảng Bom).
Năm 1975, đất nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Miền Đông Nam Bộ trở
thành điểm đến hấp dẫn dân cư các địa phương Bắc Bộ, Trung Bộ và Tây Nam Bộ xây
dựng “kinh tế mới”. Năm 1998, Nhà nước xác định tầm quan trọng của miền Đông Nam
Bộ với quyết định phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội Vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam đến năm 2020. Cuộc nhập cư lớn về lao động đã diễn ra liên tục
trong thời gian dài nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực phục vụ sản xuất vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam. Căn cứ vào “Số liệu tổng điều tra dân số (TĐTDS) năm 2009,
vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ người nhập cư cao nhất, đặc biệt là nhóm người di cư giữa
các tỉnh. Dân số di cư giữa các tỉnh chiếm trên 14% tổng dân số của vùng Đông Nam Bộ
năm 2009, trong khi tỷ lệ này chỉ nằm ở mức dưới 5% ở tất cả các vùng khác. Kết quả
này cũng không nằm ngoài dự đoán, khi 4 trong số 6 tỉnh của vùng Đông Nam Bộ (bao
gồm Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu và TP. Hồ Chí Minh) có mức độ tập
trung cao của các khu công nghiệp và phát triển kinh tế nói chung với nhu cầu lớn về lao
động mà lực lượng lao động địa phương không đáp ứng được”. So với nhiều vùng trong
cả nước, miền Đông Nam Bộ là địa phương có nhiều lợi thế về lao động nhập cư trẻ,
phục vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa
2.1.2. Điều kiện kinh tếxã hội
Gắn liền tiến trình di cư của lưu dân Việt và các tộc người thiểu số đến miền
Đông Nam Bộ thế kỷ XVIXVII, kinh tếxã hội từng bước được định hình thời chúa
Nguyễn, mở rộng thời nhà Nguyễn và thuộc Pháp.
Thời Việt Nam Cộng hòa (19541975), miền Đông Nam Bộ đứng đầu là Sài Gòn
trở thành trung tâm kinh tế tài chính lớn nhất miền Nam. Theo giới nghiên cứu khoa
học, thương nghiệp miền Đông Nam Bộ với đội ngũ tiểu thương đông đúc, len lỏi đến
các vùng, họ từ nông thôn ra thành thị tránh chiến tranh và mưu sinh, trong 6 triệu người
sống ở các đô thị miền Nam với hơn nửa tham gia buôn bán. Thương nghiệp gắn với sự
viện trợ ồ ạt hàng tiêu dùng của Mỹ đã được sản xuất sẵn ở nước ngoài. Nội thương
chủ yếu là cầu nối để vận chuyển tiêu thụ hàng hóa viện trợ nhập khẩu. Thị trường nội
15
thương sầm uất ở các thành phố, trong đó Sài Gòn chiếm đến phân nửa doanh số, số
người buôn bán có môn bài ở mức 100.000 đồng trên toàn miền Nam là 471 sổ, riêng Sài
Gòn Gia Định là 453 sổ, tiếp đến Vũng Tàu là 15 sổ, điều đó không khó hiểu, bởi thời
chiến, dân số đô thị miền Nam chiếm tới 50%. Thương nhân người Hoa chiếm vị trí quan
trọng trong hệ thống thương nghiệp, đặc biệt trong buôn bán lúa gạo, hàng khô, thực
phẩm chế biến,...thì họ gần như độc quyền với mạng lưới thương nghiệp cổ truyền từ
nhiều thế kỷ, có mối quan hệ khăng khít với người Hoa ở nhiều nước.
Giai đoạn (19751985), hệ thống chợ ở miền Đông Nam Bộ giảm số lượng nhanh
chóng bởi cơ chế quản lý Nhà nước mới “ngăn sông cấm chợ”, thay thế vai trò thương
nghiệp chợ truyền thống bởi hệ thống cửa hàng hợp tác xã lương thực, thực phẩm
thương nghiệp quốc doanh do Nhà nước độc quyền phân phối mọi nhu yếu phẩm. Hệ
quả cơ chế quản lý kinh tế thương nghiệp “ngăn sông cấm chợ”, nước ta lâm vào khủng
hoảng toàn diện và nghiêm trọng. Tình hình chính trị, xã hội bất ổn, niềm tin người dân
đối với chế độ suy giảm nghiêm trọng, đòi hỏi công cuộc đổi mới tất yếu tiến hành.
Năm 1986, Đảng, Nhà nước thực hiện cải cách mở cửa toàn diện kinh tế. Năm 1995,
Việt Nam gia nhập tổ chức ASEAN và bình thường hóa với Hoa Kỳ. Năm 1996, Việt
Nam tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Á Âu (ASEM). Cuối năm 1998, Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương
(APEC), đánh dấu bước đi quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam. Năm 2007, nước ta gia nhập tổ chức thương mại th ế gi ới (WTO), tham gia chu ỗi
thương mại toàn cầu. Sự chủ động gia nhập các tổ chức thương mại khu vực và thế giới
thúc đẩy hội nhập thương mại hiện đại vào Việt Nam với sự cung ứng hàng hóa đa
dạng của nhiều quốc gia trên thế giới đối với hệ thống chợ truyền thống ở miền Đông
Nam Bộ nói riêng, cả nước nói chung.
2.2. Chợ ở miền Đông Nam Bộ giai đoạn 19751985
2.2.1. Quá trình thành lập chợ ở miền Đông Nam Bộ
Trong giai đoạn cuối thế kỷ XVII đến năm 1945, chúa Nguyễn và tiếp nối là
vương triều nhà Nguyễn đã hoàn thành công cuộc khai hoang, phục hóa miền Đông Nam
Bộ. Với điều kiện tự nhiên khá thuận lợi, miền Đông Nam Bộ trở thành nơi “đất lành
chim đậu” đối với đông đảo lưu dân Việt và các tộc người thiểu số đến định cư, lập
nghiệp xây dựng quê hương mới. Gắn liền quá trình sản xuất kinh tế, hệ thống chợ
truyền thống miền Đông Nam Bộ lần lượt ra đời trên bến dưới thuyền đáp ứng nhu cầu
trao đổi, mua bán hàng hóa của người dân địa phương. Số lượng chợ truyền thống ở
miền Đông Nam Bộ tăng dần gắn liền sự gia tăng dân cư và phát triển kinh tế của miền
Đông Nam Bộ. Theo nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn của Nguyễn Đình Đầu, đến năm
1945, miền Đông Nam Bộ có hơn 90 chợ như chợ Bến Thành, Chợ Lớn, Thủ Đức, Tân
Kiểng, Biên Hòa, chợ Đồn, Thủ Dầu Một, Lái Thiêu, chợ Búng, Vũng Tàu, Bà Rịa,...
Giai đoạn 19541975, miền Đông Nam Bộ trở thành nơi tiếp nhận số lượng đông
đảo người dân di cư từ miền Bắc vào định cư. Gắn liền tiến trình di cư, người dân mở
16
rộng diện tích sản xuất kinh tế và định cư ở miền Đông Nam Bộ. Theo số liệu thống kê,
tổng số người di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 gần một triệu người, trong đó, phần lớn
định cư ở miền Đông Nam Bộ. Khi dân cư tăng, diện tích đất đai được mở rộng đáp ứng
nhu cầu sản xuất kinh tế, hệ thống chợ truyền th ống m ới l ần l ượt ra đời đáp ứng nhu
cầu trao đổi hàng hóa của người dân địa phương. Theo đó, hàng trăm chợ truyền thống
mới ra đời rải rác khắp các địa phương miền Đông Nam Bộ. Nhiều chợ truyền thống
mới trong giai đoạn này ra đời gắn liền tên gọi các làng xã miền Bắc. Khi đến vùng đất
Đồng Nai, những người dân di cư này cùng chung lưng đấu cật xây dựng làng xóm mới.
Phần lớn người dân di cư đặt tên làng xóm mới mang tên làng, tên xóm từ các địa
phương miền Bắc nhằm tưởng nhớ quê hương. Vì vậy, các chợ truyền thống mới ra đời
ở Đồng Nai sau năm 1954 phần lớn gắn liền tên gọi của các làng xóm Bắc Bộ. Chợ Sặt
tọa lạc trên quốc lộ 1A, phường Tân Biên, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ra đời bởi người
dân làng Kẻ Sặt huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương đến định cư; chợ Sặt nổi tiếng
người dân trong Nam, ngoài Bắc với hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa sầm uất,
nhộn nhịp.
2.2.2. Bối cảnh lịch sử và hệ thống chợ ở miền Đông Nam Bộ sau năm 1975
Năm 1975, đất nước thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Mọi hoạt động kinh tế,
xã hội sau năm 1975 ở miền Đông Nam Bộ nói riêng, Nam Bộ nói chung diễn ra bình
thường, “hòa bình trở lại, nhân dân tiếp tục sản xuất để cung cấp cho thị trường, cho xã
hội, cho cả miền Bắc. Các luồng lưu thông hàng hóa cũng như sản xuất được nối lại và
bình thường hóa. Những ghe thuyền trước đây đi về bị kiểm soát ngặt nghèo, từ nay liên
thông tự do”. Các hoạt động sản xuất kinh tế, trao đổi hàng hóa ở chợ búa của người dân
không có sự xáo trộn lớn. Một không khí lạc quan, phấn khởi của đất nước sau giải
phóng bao trùm ở miền Đông Nam Bộ nói riêng, cả Nam Bộ nói chung. Tuy nhiên, cơ
chế quản lý hành chính, quan liêu bao cấp của Nhà nước được áp dụng đối với hệ thống
chợ thống ở miền Đông Nam Bộ, làm cho hệ thống chợ truyền thống ở đây giảm số
lượng và hoạt động nhanh chóng.
2.2.3. Hoạt động của chợ ở miền Đông Nam Bộ
Suốt 10 năm sau thống nhất đất nước (19751985), chợ làng xã ở miền Đông Nam
Bộ bị hạn chế hoạt động đến mức thấp nhất bởi cơ chế quản lý quan liêu bao cấp của
Nhà nước về thương nghiệp “ngăn sông, cấm chợ” trên phạm vi cả nước . Theo đó, ở
các làng xã nông thôn tồn tại một chợ (hoặc không có chợ) với quy mô nhỏ dưới hình
thức trao đổi hàng hóa rau quả của địa phương. Nguồn hàng hóa nhu yếu phẩm thiết yếu
như gạo, thực phẩm, cá tôm, thịt, vải vóc, chất đốt,... bị hạn chế thấp nhất mua bán ở
chợ làng xã. Hầu hết hàng hóa nhu yếu phẩm được buôn bán chủ yếu ở cửa hàng bách
hóa tổng hợp cấp xã do Nhà nước quản lý. Phần lớn người dân ở nông thôn mua hàng
hóa, nhu yếu phẩm ở cửa hàng bách hóa của Nhà nước với chất lượng khá kém và luôn
thiếu hụt, không đáp ứng đủ nhu cầu của người dân. Hệ thống chợ làng xã đã hình thành
trước năm 1975 ở miền Đông Nam Bộ vẫn tồn tại nhưng hoạt động trao đổi hàng hóa
giảm đi rõ rệt, hàng hóa nhu yếu phẩm ngày một trở nên khan hiếm, giá cả đắt đỏ.
Nhằm hạn chế trao đổi, mua bán hàng hóa nhu yếu phẩm ở chợ làng xã, chính quyền cơ
17
sở các địa phương miền Đông Nam Bộ thi hành nhiều biện pháp ngăn chặn luân chuyển
hàng hóa với hệ thống trạm kiểm soát cố định và di động giữa các địa phương quận,
huyện, xã, phường,... Mặc dù, chính quyền các địa phương miền Đông Nam Bộ thực
hiện chủ trương của Nhà nước hạn chế đến mức thấp nhất hoạt động của chợ truyền
thống làng xã nhằm tạo điều kiện cho hệ thống cửa hàng hợp tác xã thương nghiệp, cửa
hàng thực phẩm, cửa hàng vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp,... quốc doanh hoạt
động. Tuy nhiên, theo thống kê của chúng tôi, sau năm 1975 số lượng chợ làng xã ở miền
Đông Nam Bộ hơn 100 chợ; trong đó, hơn 50% chợ làng xã mới thành lập mang tính tự
phát đáp ứng nhu cầu trao đổi hàng hóa của người dân, mặc dù bị hạn chế cao nhất sự
hoạt động. Theo đó, Nhà nước thực thi nhiều giải pháp hạn chế sự hoạt động của chợ
truyền thống (chợ tự phát) ở miền Đông Nam Bộ giai đoạn 19751985, nhưng chợ truyền
thống làng xã vẫn tồn tại mà không bị loại bỏ hoàn toàn, chứng tỏ sức sống mãnh liệt của
loại hình giao thương hàng hóa gắn liền phong tục, tập quán của người dân nông thôn trải
qua nhiều thế kỷ.
Tiểu kết chương 2
Cùng với quá trình khai hoang phục hóa, từng bước ổn định đời sống văn hóa vật
chất và tinh thần, người dân ở miền Đông Nam Bộ thành lập các chợ với quy mô lớn nhỏ
khác nhau ở hầu khắp địa bàn cư trú. Hệ thống chợ miền Đông Nam Bộ ra đời trên bến
dưới thuyền dọc theo sông Sài Gòn, sông Đồng Nai, ven đường thiên lý Bắc Nam như chợ
Bến Thành, Chợ Lớn, chợ Biên Hòa, chợ Thủ Dầu Một, chợ Bà Rịa,... Tên gọi, quy mô,
hàng hóa, đối tượng tham gia trao đổi buôn bán, cách thức tổ chức, quản lý các chợ,...trong
các thời kỳ lịch sử khác nhau, song từ khi thành lập đến năm 1975, hệ thống chợ ở miền
Đông Nam Bộ luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế, văn hóa, xã hội, phát
triển.
Giống như nhiều vùng miền khác của cả nước, giai đoạn (19751980), hệ thống
chợ truyền thống miền Đông Nam Bộ chuyển từ tự do hóa hoạt động theo quy luật kinh
tế thị trường sang hình thức quản lý bao cấp của Nhà nước. Mặc dù hệ thống (HTX)
mua bán, cửa hàng thương nghiệp,... được thành lập và đi vào hoạt động, nhưng chợ ở
miền Đông Nam Bộ vẫn tồn tại, hoạt động và góp phần không nhỏ trong việc đáp ứng
nhu cầu mua bán trao đổi hàng hóa của nhân dân trong vùng.
Trong giai đoạn (19811985), cơ chế quản lý thương nghiệp quan liêu bao cấp
“ngăn sông, cấm chợ” của hệ thống chợ ở miền Đông Nam Bộ nói riêng, cả nước nói
chung từng bước được xóa bỏ bởi Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 (khóa IV) năm 1979 và
Quyết định số 188 HĐBT năm 1982 về tăng cường thương nghiệp xã hội chủ nghĩa và
quản lý thị trường. Theo đó, số lượng chợ truyền thống miền Đông Nam Bộ tăng dần,
hàng hóa trao đổi từng bước dồi dào đáp ứng nhu cầu người dân, tái sản xuất kinh tế và
chuẩn bị bước vào công cuộc đổi mới đất nước, mở cửa thương nghiệp năm 1986.
Chương 3
CHỢ Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP
18
3.1. Chợ ở miền Đông Nam Bộ trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới (1986
1995)
3.1.1. Đại hội Đảng lần thứ VI và đường lối đổi mới về kinh tế thương mại
Cuối năm 1985, kinh tế nước ta ngày càng ẩn chứa những biến động phức tạp.
Những hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế trải qua 10 năm (19751985) đã tích tụ,
dồn nén gần như bùng nổ bất cứ lúc nào. Trong đó, lĩnh vực nóng bỏng nhất là phân phối
lưu thông, giá cả, lương, tiền,... Theo đó, “hàng hóa đâu đâu cũng khang hiếm. Ngân hàng
thiếu tiền. Thương nghiệp thiếu hàng. Công nghiệp thiếu vật tư. Nông dân “kêu trời” vì
giá bán lương thực không bù đắp được chi phí, dù giá bán nông sản đã được nâng lên 10
lần...”. Vì vậy, hệ thống chợ truyền thống cả nước nói chung, miền Đông Nam Bộ nói
riêng luôn trong tình trạng thiếu hàng hóa trao đổi, mua bán đáp ứng nhu cầu người dân
từ thành thị đến nông thôn.
3.1.2. Cơ chế quản lý và sự phát triển hệ thống chợ ở miền Đông Nam Bộ
Mi ền Đông Nam B ộ v ới TP. H ồ Chí Minh là đị a phươ ng đầ u tiên cả n ướ c
thự c hi ện “xé rào” trong l ưu thông hàng hóa. Vì v ậy, sau Đ ại h ội Đả ng lần th ứ VI,
cùng các Ngh ị quy ết, Ch ỉ th ị c ủa Đảng, Nhà nướ c về gi ải quy ết nh ững v ấn đ ề cấp
bách phân ph ối, l ưu thông đã t ạo đi ều kiện thu ận l ợi đố i vớ i hệ th ống chợ truy ền
th ống mi ền Đông Nam B ộ ph ục h ồi ho ạt độ ng theo quy lu ật v ốn có củ a nó.
Thực trạng thương nghiệp và hoạt động buôn bán ở Đông Nam Bộ trong thời gian
này tương tự các địa phương khác của cả nước. Theo đó, Tỉnh ủy Sông Bé có nhiều nổ
lực cố gắng “về thương nghiệp phải làm được nhiệm vụ thúc đẩy sản xuất phát triển,
tạo nguồn hàng tại chỗ để phục vụ đời sống nhân dân, công khai hóa được tiêu chuẩn
định lượng, phân phối đúng đối tượng, đến tận người tiêu dùng thật công bằng và hợp
lý. Phấn đấu đảm bảo định lượng cho cán bộ, công nhân viên chức 17 đồng/người/tháng
bao gồm lương thực và thực phẩm, nhân dân lao động thành thị 12 đến 15 đồng, nhân dân
lao động nông thôn 5 đến 6 đồng thực phẩm/hộ/tháng”. Để đồng hành cùng hoạt động
của hệ thống chợ truyền thống trên toàn tỉnh, Tỉnh ủy Sông Bé đã yêu cầu “về phân phối
lưu thông, vấn đề quyết định là từng bước cũng cố và phát triển lực lượng thương
nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán, vươn lên cho được nắm những mặt hàng chủ
lực về lương thực, nông sản và thủ công mỹ nghệ có thế mạnh địa phương, bảo đảm
nguyên liệu cho sản xuất, phục vụ tiêu dùng, trao đổi với các tỉnh bạn và tăng cường
xuất khẩu.
3.1.3. Hoạt động của chợ ở miền Đông Nam Bộ trong giai đoạn 19861995
Giai đoạn 19861995 đã mở ra nhiều vận hội đối với sự hoạt động của chợ truyền
thống ở miền Đông Nam Bộ sau công cuộc đổi mới toàn diện cơ chế quản lý Nhà nước
về lưu thông hàng hóa. Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đi đầu cả nước trong tiến
trình phát triển nền sản xuất hàng hóa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế,
giảm bao cấp đối với hoạt động lưu thông hành hóa. Vì vậy, “số lượng doanh nhiệp tăng
nhanh, năm 1990 thành phố đã có trên 30% số lượng doanh nhiệp so với cả nước và 30%
số vốn đầu tư của khu vực doanh nghiệp so với cả nước. Hoạt động sản xuất công
nghiệp đã bắt đầu có những bước tiến tích cực về sản lượng, chất lượng hàng hóa, đem
19
lại làng gió mới cho lực lượng lao động và nhu cầu lao động cũng tăng, bắt đầu tiếp
nhận lao động từ các địa phương khác vào các khu công nghiệp, khu chế xuất của thành
phố”. Khi công nghiệp TP. Hồ Chí Minh phát triển, từng bước thu hút nhà đầu tư trong
và ngoài nước đến kinh doanh. Qua đó, hàng hóa được sản xuất ở TP. Hồ Chí Minh ngày
một phong phú về chủng loại, đa dạng về mẫu mã đáp ứng nhu cầu thị trường ngày càng
tăng qua kênh phân phối chủ yếu của hệ thống chợ thành phố. Đồng thời, sự phát triển
các khu công nghiệp, khu chế xuất, gắn liền nhu cầu lao động nhập cư từ các địa
phương trên cả nước. Vì vậy, số lượng chợ truyền thống mới lần lượt hình thành nhằm
đáp ứng nhu cầu phục vụ người dân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất,... Trong giai
đoạn này, để thúc đẩy hoạt động của hệ thống chợ, chính quyền TP. Hồ Chí Minh đã
ban hành Quyết định số 111/QĐUBTM ngày 22/7/1993 của UBND TP. HCM với chợ là
một địa điểm cố định có địa giới được quy định trên địa bàn dân cư có hay không có nhà
lồng, được thành lập theo quyết định của UBNDTP. Tập trung việc mua bán của các
thành phần kinh tế với một hay nhiều ngành hàng, với nhiều phương thức kinh doanh
khác nhau được luật pháp cho phép, là nơi lưu thông hàng hóa giữa người bán và người
mua theo nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống người dân. Theo nhu cầu thực tiễn lưu
thông hàng hóa đối với địa phương và cả miền Đông Nam Bộ, chính quyền TP. Hồ Chí
Minh đã xây dựng hành lang pháp lý nhằm tạo điều kiện hệ thống chợ TP. Hồ Chí Minh
phát triển về số lượng và quy mô. Theo đó, hệ thống chợ chuyên doanh, chợ bán sỉ với
số lượng hơn 150 chợ như chợ Bình Tây, An Đông, Kim Biên, Trần Chánh Chiếu, Phú
Lâm, Phú Thọ, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Hoa Thám, Phạm Văn Hai, Văn Thánh, Bà
Chiểu, Thủ Đức, Hóc Môn, Gò Vấp, Tân Sơn Nhất, Phú Nhuận, Bến Thành, Thái Bình...
cung cấp hàng hóa đối với hệ thống chợ xã, phường toàn thành phố đáp ứng nhu cầu
phục vụ người dân.
3.2. Chợ ở miền Đông Nam Bộ trong thời kỳ hội nhập (19952010)
3.2.1. Hệ thống chợ ở miền Đông Nam Bộ từ năm 1995 đến năm 2010
* Cơ chế quản lý Nhà nước về chợ
Năm 1995, Việt Nam bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ và trở thành
thành viên của ASEAN. Quan hệ thương mại quốc tế từng bước được xác lập giữa Việt
Nam và các đối tác, góp phần thúc đẩy hệ thống chợ Việt Nam nói chung, miền Đông
Nam Bộ nói riêng phát triển theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập. Việc xây dựng cơ sở pháp lý tổ chức và quản lý chợ truyền thống trở nên cấp
thiết đối với Nhà nước. Ngày 16/10/1996, Bộ Thương mại ban hành Thông tư số 15
TM/CSTTTN về Hướng dẫn tổ chức và quản lý chợ. Đối với Ban quản lý chợ: Lập Ban
quản lý đối với chợ loại 1 và loại 2. Chợ loại 3 do UBND địa phương căn cứ tình hình
cụ thể để chọn hình thức quản lý. Theo đó, những chợ họp thường xuyên có từ 50 đến
100 hộ kinh doanh cố định hoạt động trong phạm vi liên phường, liên xã có thể lập Ban
quản lý chợ trực thuộc huyện, quận, thị xã. Những chợ nhỏ có dưới 50 hộ kinh doanh cố
định, chợ mang tính nội bộ phường, xã, họp không thường xuyên, lập tổ quản lý chợ.
Đối với một số chợ nhỏ hoạt động trong phạm vi thôn, ấp, làng, bản có thể đấu thầu
quản lý theo nguyên tắc: Nhà nước ban hành các quy định về chức năng, nhiệm vụ của tổ
quản lý chợ. Theo quy định Bộ Thương mại (Bộ Công thương), Ban quản lý chợ là đơn vị
20
sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản giao dịch tại Kho bạc Nhà
nước. Ban quản lý chợ chịu sự hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn của Phòng Tài chính
Thương nghiệp. Ban quản lý chợ với chức năng, quyền hạn xem xét và quyết định việc
chấp thuận hay không chấp thuận đơn xin đặt cửa hàng, cửa hiệu, sạp hàng...buôn bán tại
chợ của các tổ chức, cá nhân có nhu cầu kinh doanh tại chợ,...
* Nguồn cung cấp hàng hóa, phương thức vận chuyển, thanh toán: Hàng hóa
sản xuất trong nước ngày một phong phú, đa dạng. Hàng hóa s ả n xu ấ t ở n ướ c
ngoài đ ượ c đ ư a vào c ả n ướ c nói chung, ch ợ truy ền th ống ở mi ền Đông
Nam B ộ nói riêng ngày càng nhi ề u đáp ứ ng nhu c ầ u ng ườ i dân và ph ụ c vụ
phát tri ển s ản xu ất. Đ ồ ng th ờ i, p hương thức vận chuyển hàng hóa đối với
chợ truyền thống có sự thay đổi theo hướng chuyên môn hóa hiện đại như xe
chuyên dụng chở thủy hải sản tươi sống, chở rau củ quả tươi xanh,... Đáp ứng
yêu cầu hội nhập với phương thanh toán có sự linh hoạt bằng tiền mặt và
chuyển khoản séc,...
3.2.2. Hoạt động của chợ ở miền Đông Nam Bộ trong thời kỳ hội nhập
* Chợ ở thành phố Hồ Chí Minh
Trong giai đoạn (19862010), hệ thống chợ TP. Hồ Chí minh khôi phục và phát
triển mạnh mẽ gắn liền sự phục hồi kinh tế, gia tăng đầu tư nước ngoài và dân số cơ
học tăng nhanh liên tục. Các chợ đầu mối của thành phố ngày một giữ vai trò quan trọng
đối với luân chuyển hàng hóa từ các địa phương miền Đông Nam Bộ đến hệ thống chợ
nội và ngoại thành. Thành phố có nhiều chợ nổi tiếng trong Nam ngoài Bắc. Chợ Bình
Tây là chợ đầu mối cung cấp các loại hàng hóa đối với người dân thành phố, các địa
phương xung quanh miền Đông Nam Bộ, miền Trung, Tây Nguyên, miền Tây Nam Bộ,
miền Bắc và Campuchia. Chợ này kinh doanh nhiều loại hàng hóa đa dạng phục vụ tiêu
dùng như vải, quần áo, giày dép, đồ nhựa, đồ nhôm... Bên cạnh đó, một số chợ chuyên
doanh với hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa sôi động như chợ Soái Kình Lâm kinh
doanh vải; chợ An Đông chuyên doanh buôn bán hàng may mặc; chợ Kim Biên chuyên
doanh bán buôn hàng hóa mỹ phẩm, dược phẩm, phẩm chất các loại; chợ Bến Thành trở
thành biểu tượng mua sắm tiêu biểu của TP. Hồ Chí Minh đối với du khách trong và
ngoài nước mỗi khi đến thành phố mang tên Bác; chợ đầu mối thủy hải sản Bình Điền,
chợ đầu mối nông sản Thủ Đức và Hóc Môn hoạt động rất nhộn nhịp,... Ngoài các chợ
đầu mối, hệ thống chợ truyền thống TP. Hồ Chí Minh không ngừng tăng lên về số
lượng cùng với dân số tăng, kinh tế phát triển, tốc độ đô thị hóa của thành phố nhanh
nhất nước. Vì vậy, hệ thống chợ truyền thống nội và ngoại thành nhanh chóng phát triển
về số lượng, mở rộng về quy mô, đa dạng chủng loại hàng hóa đáp ứng nhu cầu phục
vụ người dân. Trong giai đoạn (19952010), hệ thống chợ cũ, chợ mới thành lập trên địa
bàn thành phố hoạt động rất nhộn nhịp đã góp phần tăng nhanh nguồn thu ngân sách cho
thành phố, giúp địa phương này có nguồn lực tái đầu tư hạ tầng cơ sở đối với chợ cũ và
xây dựng thêm chợ mới.
21
* Chợ ở tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn 19952010, phục hồi, phát triển nhanh về
số lượng đáp ứng nhu cầu người dân và phát triển kinh tế.
* Chợ ở tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu ở vị trí cửa ngõ ra biển Đông của các tỉnh miền
Đông Nam Bộ, Bà Rịa Vũng Tàu kết nối thuận lợi với Đồng Nai, Bình Dươ ng, TP.
Hồ Chí Minh nên số lượng chợ truyền th ống đượ c chính quyền, doanh nghiệp quan
tâm đầu tư phát triển về số lượng và mở rộng về quy mô đáp ứng nhu cầu phục vụ
người dân và phát triển kinh tế.
* Chợ ở tỉnh Bình Dương có đi ều ki ện phát tri ển từ ng b ướ c h ội nh ập khu v ực
và thế giới, góp ph ần quan tr ọng đối với phát tri ển kinh tế đị a phươ ng củ a vùng
kinh t ế tr ọng đi ểm phía Nam.
* Chợ ở tỉnh Bình Phước được nhà nước, doanh nghiệp thực hiện nhiều giải pháp
phát triển về số lượng, mở rộng về quy mô đáp ứng nhu cầu phục vụ người dân, phát triển
kinh tế và giao thương hàng hóa đối với các địa phương nước bạn Campuchia.
* Chợ ở tỉnh Tây Ninh được phục hồi và phát triển sau chiến tranh biên giới Tây
Nam kết thúc hoàn toàn những năm 90 của thế kỷ XX nhằm đáp ứng nhu cầu phục vụ
người dân và phát triển kinh tế xã hội địa phương, giao thương kinh tế đối với các địa
phương nước bạn Campuchia.
Tiểu kết chương 3
Thực hiện chủ trương đổi mới đất nước của Đảng năm 1986, kinh tế cả nước nói
chung, miền Đông Nam Bộ nói riêng từng bước được phục hồi. Hoạt động lưu thông,
trao đổi hàng hóa ở miền Đông Nam Bộ dần dần có sự chuyển biến theo cơ chế thị
trường. Trong giai đoạn 19861995, các địa phương này đã chủ động xây dựng cơ chế,
tạo điều kiện phục hồi và phát triển chợ truyền thống. Vì vậy, bên cạnh hệ thống chợ
truyền thống cũ, khá nhiều chợ mới được thành lập trong không gian địa lý Đông Nam
Bộ đáp ứng nhu cầu của người dân trao đổi hàng hóa, phục vụ sản xuất.
Trong giai đoạn 19952010, nhằm tạo hành lang pháp lý đối với hoạt động của
chợ truyền thống các bộ ngành như Quốc hội, Bộ Thương mại (Bộ Công thương),
Chính phủ đã ban hành nhiều Thông tư, Nghị định,... về quản lý, chiến lược phát triển,
hoạt động của chợ truyền thống trên phạm vi cả nước. Đối với các địa phương miền
Đông Nam Bộ đã chủ động xây dựng đề án, kế hoạch, chiến lược phát triển chợ
truyền thống theo từng thời kỳ nh ất định đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội
của địa phương. Trong giai đoạn này, nguồn cung cấp hàng hóa, phương thức vận
chuyển, thanh toán đã có nhiều chuyển biến mới, thúc đẩy hoạt động, trao đổi hàng hóa
của hệ thống chợ truyền thống miền Đông Nam Bộ. Qua đó, chợ truyền thống miền
Đông Nam Bộ tăng nhanh về số lượng, mở rộng về quy mô, đa dạng hình thức hoạt
động, phong phú về chủng loại hàng hóa trao đổi của nhiều nước châu Á, Âu, Mỹ,...
tạo nên một bức tranh đa màu trong hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa của các tầng
lớp nhân dân, đồng thời, đặt ra nhiều vấn đề cần được giải quyết.
Bước vào thời kỳ hội nhập, xu thế toàn cầu hóa thương mại tác động mạnh mẽ đến
miền Đông Nam Bộ nói riêng, cả nước nói chung. Vì vậy, hệ thống siêu thị, trung tâm thương
mại ra đời và cạnh tranh quyết liệt đối với hệ thống chợ truyền thống. Do đó, hệ thống chợ
truyền thống miền Đông Nam Bộ muốn tồn tại và phát triển hỏi cần có sự đổi mới về quản
22
lý (giới tư nhân kinh doanh chợ dưới hình thức công ty TNHH), cải tạo và xây dựng mới hạ
tầng cơ sở vật chất, thay đổi thái độ phục vụ của giới tiểu thương đối với khách hàng,...
Chương 4
VAI TRÒ TÁC ĐỘNG CỦA CHỢ Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG KINH TẾ XÃ HỘI
4.1. Tác đ ộ ng c ủa ch ợ đ ố i v ới đ ờ i s ố ng kinh t ế
4.1.1. Trên lĩnh v ự c nông nghi ệ p
Trong nông nghi ệp, lĩnh v ự c chăn nuôi bò đ ạ t k ết qu ả đáng khích l ệ so v ớ i
ngành chăn nuôi c ả n ướ c. S ản l ượ ng đàn bò mi ề n Đông Nam B ộ tăng nhanh th ờ i
k ỳ kinh t ế h ội nh ập khu v ực và th ế gi ớ i góp ph ầ n cung c ấp ngu ồn hàng hóa trao
đ ổ i mua bán th ị t, s ữ a đ ố i v ớ i ch ợ truy ền th ống, siêu th ị , trung tâm th ươ ng m ạ i
mi ền Đông Nam B ộ đáp ứ ng nhu c ầu tiêu dùng ng ườ i dân. S ự phát tri ể n h ệ th ống
ch ợ truy ề n th ống, siêu th ị và trung tâm th ươ ng m ạ i mi ề n Đông Nam B ộ đã thúc
đ ẩ y ng ườ i dân m ở r ộ ng s ố l ượ ng đàn bò trong chăn nuôi góp ph ầ n c ả i thi ệ n sinh
k ế ng ườ i nông dân.
4.1.2. Trên lĩnh vực công nghiệp
Thời kỳ đổi mới kinh tế và hội nhập quốc tế, miền Đông Nam Bộ dẫn đầu cả
nướ c thu hút vốn đầu tư nướ c ngoài. Giá trị sản xuất công nghiệp không ngừ ng
tăng, kết n ối xu ất nh ập kh ẩu thu ận l ợi các nướ c ASEAN và thế giới. Với đị a thế
thuận lợi h ạ t ầng giao thông thủy bộ, hàng không, miền Đông Nam Bộ luôn luôn
hấp dẫn nhà đầu tư phát tri ển công nghiệp trong và ngoài nướ c. Hàng hóa công
nghiệp ngày một dồi dào đáp ứng nhu cầu tiêu dùng địa phươ ng qua vai trò phân
phối bán lẻ của h ệ th ống ch ợ. H ệ th ống ch ợ truy ền th ống, siêu thị, trung tâm
thươ ng mại mi ền Đông Nam Bộ trở thành cầu nối trung gian thúc đẩ y tiêu dùng sản
phẩm công nghiệp địa phươ ng phát triển.
4.1.3. Trên lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp
Ngành thủ công nghiệp miền Đông Nam Bộ hưng khởi sau thời gian trầm lắng từ
1975 đến năm 1985. Sự hồi phục hoạt động hệ thống chợ truyền thống miền Đông Nam
Bộ (19862010) đã thúc đẩy các ngành nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ phát triển
trở lại đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường. Sản phẩm gốm sứ ở miền Đông Nam
Bộ đã có từ lâu đời với các địa điểm nổi tiếng như Sài Gòn, Lái Thiêu (Bình Dương),
Biên Hoà (Đồng Nai),... Sau khi hệ thống chợ nơi này phát triển trở lại, nhu cầu tiêu
dùng của người dân đối với sản phẩm gốm tăng dần.
4.1.4. Trên lĩnh vực thương nghiệp
Trong thời kỳ đổi mới kinh tế, miền Đông Nam Bộ đạt được những thành tựu vượt
trội trên lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp. Trong nông nghiệp, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, miền Đông Nam Bộ thực hiện tăng sản
xuất cây lương thực, thực phẩm, chăn nuôi, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản nhằm đáp ứng
nhu cầu người dân về lương thực, thực phẩm qua kênh phân phối bán lẻ từ hệ thống chợ.
Trong công nghiệp, hàng hóa ngày một dồi dào qua kênh phân phối bán lẻ ở hệ thống chợ,
23
siêu thị, trung tâm thương mại đáp ứng nhu cầu phục vụ người dân. Vì vậy, tổng mức bán
lẻ ở miền Đông Nam Bộ tăng liên tục từ năm 2000 2010.
4.1.5. Đóng góp đối với nguồn thu ngân sách địa phương
Trong giai đoạn (19751985), hệ thống chợ truyền thống miền Đông Nam Bộ
trước năm 1975 được thay thế vai trò bởi hệ thống cửa hàng hợp tác xã thương nghiệp
quốc doanh. Vì vậy, hệ thống cửa hàng hợp tác xã thương nghiệp miền Đông Nam Bộ
không có sự đóng góp đối với ngân sách địa phương bởi cơ chế bao cấp của Nhà nước
đối về thương nghiệp. Bước vào thời kỳ mở cửa và hội nhập kinh tế, Đảng, Nhà nước
chủ trương phát triển chợ truyền thống trên phạm vi cả nước nói chung, ở miền Đông
Nam Bộ nói riêng nhằm đáp ứng nhu cầu phục vụ người dân và phát triển kinh tế. Theo
đó, ngoài nguồn vốn đầu tư nâng cấp, xây dựng mới hệ thống chợ truyền thống của nhà
nước; các cá nhân, tổ chức đầu tư vốn kinh doanh chợ truyền thống dưới hình thức
doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ ngày càng
phát triển về số lượng và quy mô. Sự phục hồi và phát triển hệ thống chợ truyền thống
ở miền Đông Nam Bộ (19752010) đã góp phần phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam.
4.2. Tác động của chợ đối với đời sống văn hóaxã hội
4.2.1. Giải quyết sinh kế người dân
Theo các nhà khoa học, khái niệm sinh kế theo nghĩa chung nhất bao gồm các khả
năng, tài sản (bao gồm cả các nguồn lực vật chất, xã hội) và các hoạt động cần thiết để
kiếm sống. Ở Việt Nam, khái niệm về sinh kế của hộ hay một cộng đồng được hiểu là
một tập hợp các nguồn lực và khả năng của con người kết hợp với những quyết định và
những hoạt động mà họ sẽ thực hiện để kiếm sống đồng thời đạt được những mục tiêu
đa dạng hơn. Một cách đơn giản và dễ hiểu sinh kế của một hộ gia đình hay một cộng
đồng chính là kế sinh nhai của hộ hay cộng đồng đó. Theo đó, sự phát triển của hệ thống
chợ truyền thống đã hình thành hàng loạt dịch vụ đi kèm, giải quyết sinh kế đảo người
dân như dịch vụ vận chuyển hàng hóa; sơ chế, đóng gói hàng hóa; dịch vụ vệ sinh môi
trường, góp phần phát triển du lịch.
4.2.2. Góp phần phát triển tầng lớp tiểu thương mới ở nông thôn và thành thị
Nguồn nhân lực quyết định sự phát triển hệ thống chợ truyền thống là nữ tiểu
thương. Vì vậy, từ năm 1998, Hội liên hiệp phụ nữ phối hợp với Sở Thương mại (Sở
Công thương) TP. Hồ Chí Minh phát động phong trào “Người kinh doanh mới” gồm 5
tiêu chuẩn [201] nhằm thúc đẩy hoạt động thương nghiệp của thành phố theo định
hướng hiện đại hóa ngành Thương mại Dịch vụ, tạo sự chuyển biến tích cực để xây
dựng chợ văn minh thương nghiệp trong thời kỳ mở cửa, hội nhập khu vực và thế giới.
4.2.3. Góp phần tạo ra bộ mặt xã hội mới ở các địa phương miền Đông Nam Bộ
Đối với văn hóa vật chất, sự ho ạt động và phát triển hệ thống ch ợ truy ền
thống đáp ứng nhu cầu trao đổi hàng hóa của ngườ i dân và góp phần thúc đẩy sản
xuất kinh t ế mi ền Đông Nam Bộ. Sự phát tri ển hệ thống chợ truy ền th ống t ừ thành
thị đến nông thôn đã góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, tiểu th ủ
24
công nghiệp phát triển thời mở c ửa, h ội nh ập khu v ực và thế giới, nâng cao đờ i
sống vật ch ất ngườ i dân miền Đông Nam Bộ.
4.2.4. Một số đặc điểm
Về thời gian, địa điểm ra đời và hoạt động của chợ: Hệ thống chợ truyền thống
miền Đông Nam Bộ ra đời muộn hơn so với nhiều chợ ở miền Bắc và miền Trung. So
với vùng Tây Nguyên, Tây Bắc Bộ một số chợ truyền thống miền Đông Nam Bộ ra đời
và phát triển gắn liền miền biển giàu nguồn thủy hải sản, tài nguyên biển (muối, tảo,
san hô...) đáp ứng nhu cầu phục vụ người dân. Đối với hệ thống chợ vùng núi, đồng
bằng, ven biển Bắc Bộ diễn ra hoạt động dưới hình chức chợ phiên từ thứ hai đến chủ
nhật; hoặc chợ họp phiên chẵn, phiên lẽ; hoặc mỗi năm họp một phiên, đặc biệt nhất là
chợ tình Sapa, Lào Cai họp mỗi tuần một phiên vào sáng chủ nhật,... Đối với hệ thống
chợ truyền thống vùng núi, đồng bằng, ven biển miền Đông Nam Bộ không diễn ra hoạt
động của chợ phiên (chợ luân phiên) các ngày trong tuần, trong tháng, trong năm mà hệ
thống chợ ở đây diễn ra hoạt động chủ yếu phiên sáng và phiên chiều. Đối với chợ vùng
quê, vùng sâu, vùng xa của một số xã, huyện của Đồng Nai, Bình Phước, Tây Ninh,...
họp phiên sáng từ 5 6 giờ đến khoảng 11 12 giờ chấm dứt. Đối với hệ thống chợ có
quy mô nhỏ, chợ tự phát... tọa lạc gần các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế
xuất ở TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bình Phước chỉ họp phiên chiều từ 16
giờ đến 20 giờ mỗi ngày trong tuần nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng đối với công nhân
và người lao động. Đối với các chợ có quy mô lớn, cố định thời gian hoạt động suốt cả
ngày, thậm chí từ khoảng 3 giờ sáng đến 21 giờ đêm như ở TP. Hồ Chí Minh với chợ
đầu mối nông sản Thủ Đức, Hóc Môn, chợ đầu mối thủy sản Bình Điền lớn nhất Đông
Nam Bộ nói riêng, cả nước nói chung, chợ đầu mối nông sản Phước Hòa (Bình Dương),
chợ đầu mối hải sản Vũng Tàu (Bà Rịa Vũng Tàu).
Về quy mô và mật độ, hệ thống chợ miền Đông Nam Bộ chiếm số lượng và mật
độ lớn nhất cả nước. Sự phát triển kinh tế, xã hội miền Đông Nam Bộ gắn liền sự gia
tăng dân cư cơ học, hệ thống chợ dân sinh, chợ tự phát tăng lên nhanh, đến năm 1998 với
“mạng lưới chợ trong vùng có 1.050 chợ các loại, chiếm 13% số chợ cả nước với mật
độ 29,7km2/chợ và 13.500 người/chợ (cả nước là 41.4km2/chợ và 10.600 người/chợ)”.
Riêng chợ đầu mối hình thành, hoạt động ngày càng hiệu quả như: Chợ Bình Điền, Thủ
Đức và Hóc Môn thực sự là một nét riêng và có thể là một gợi ý cho các địa phương ở
Nam Trung Bộ hay Bắc Trung Bộ, một số vùng miền khác khi quy hoạch, đầu tư phát
triển chợ đầu mối trước mắt và lâu dài.
Về đặt tên chợ theo tên làng Bắc Bộ, Trung Bộ, sau năm 1954 gần một triệu người
dân miền Bắc vào định cư phần lớn trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, trong đó nhiều
nhất là ở Đồng Nai. Các chợ được đặt tên như: Chợ Sặt, chợ Bùi Chu, chợ Phúc Hải,
chợ Quảng Biên, chợ Thái Bình,...
Về chợ mang tính tôn giáo, theo khảo sát của chúng tôi, chợ Long Hoa, huyện Hòa
Thành, tỉnh Tây Ninh là ngôi chợ duy nhất của Việt Nam với kết cấu xây dựng, tôn chỉ
hoạt động, hàng hóa trao đổi mang màu sắc tôn giáo Cao Đài. Theo tín ngưỡng tôn giáo
Cao Đài, Long Hoa có ý nghĩa là chỉ khai mở hội Long Hoa do đức Di lạc vương làm chủ
khảo, là kỳ thi phán xét cuối cùng trong kỳ Hạ Ngươn để tuyển phong phật vị. Đối với
hàng hóa trao đổi ở chợ Long Hoa khá đặc biệt so với nhiều chợ trên cả nước. Theo quy
25
định, người tín đồ đạo Cao Đài trong 1 tháng ăn chay 10 ngày cụ thể mùng 1, 8, 14, 15,
18, 23, 24, 28, 29 và 30, nếu tháng thiếu không có ngày 30 thì thay thế bằng ngày 27. Chợ
Long Hoa được ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu phục vụ người dân theo tín đồ đạo
Cao Đài nên vào các ngày ăn chay trong tháng, giới tiểu thương của chợ này chỉ bán các
mặt hàng phục vụ tín ngưỡng tôn giáo. Hàng hóa phục vụ ăn chay ở chợ Long Hoa ngoài
các loại rau cải, củ, đậu,…
Về phương thức đặt tên chợ, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Lợi, trên địa bàn
TP. Hồ Chí Minh với hệ thống chợ có nhiều tên gọi khác nhau và độc đáo. Theo đó, đặt
tên chợ theo địa phương nơi tọa lạc chiếm tỉ lệ cao nhất với 170/362 chiếm tỷ l ệ
(46,96%) (chợ Bà Quẹo, chợ Giồng Ông Tố...), tên chợ lấy từ tên ấp, khóm có Ấp Đình,
Cây Dầu... Chợ mang tên quận, huyện: Chợ Phú Nhuận, chợ Thủ Đức, chợ Gò Vấp...
Tên chợ theo họ đạo có 44 chợ: Chợ Thạch Đà, Lạng Sơn, Bùi Phát... Tên chợ gắn liền
tên kênh, rạch: Kinh chợ Lớn, cầu Chợ Cầu, sông Chợ Đệm... Đặt tên chợ theo đường
chạy qua với 59/362 chợ chiếm tỷ lệ (16,29%) như chợ Hoàng Hoa Thám, chợ Hàm
Nghi, Tôn Thất Đạm... trong khi đó ở Hà Nội cách đặt tên này khá ít có 9 trường hợp
(chợ Cầu Giấy, chợ Đông Thành...). Đặt tên chợ kết hợp giữa địa danh và số thứ tự có
8/362 chợ chiếm tỷ lệ (2,20%) như chợ 200, chợ Hẻm 289, chợ H ẻm 33... Đặt tên chợ
theo địa điểm gần chợ có 36/362 chợ chiếm tỷ lệ (17,95) như chợ Kinh, chợ Cầu, chợ
Cây Da Còm, chợ Cây Gõ, chợ Vườn Chuối, chợ Lò Heo, chợ Lò Than, chợ Miễu, chợ
Đình, chợ Bồn Nước, chợ Thùng Phuy... Đặt tên chợ theo tên người nổi tiếng ở địa
phương có 7/362 chợ chiếm tỷ lệ (1,93%) như chợ Thị Nghè, chợ Bà Chiểu...
Về chợ đặt theo tên của nữ giới, so v ới hệ th ống chợ truy ền th ống c ả n ước,
chợ ở miền Đông Nam B ộ có tên gọi gắn liền ngườ i ph ụ n ữ là nhiều nhất. Mặc dù
tên gọi những ng ườ i ph ụ n ữ g ắn li ền v ới tên chợ có nhiều lý giải khác nhau, độ
chính xác khác nhau của gi ới nghiên cứu, nhưng nh ững tên chợ gắn liền ng ườ i ph ụ
nữ đã đi vào tên gọi dân gian bao th ế h ệ ng ười dân miền Đông Nam Bộ với chợ Bà
Chi ểu, chợ Bà Điểm, Bà Quẹo, Bà Hạt, Bà Hoa, Bà Rịa, Thị Nghè,...
Chợ đậm nét dấu ấn người Hoa, chợ Bình Tây tọa lạc quận 6 TP. Hồ Chí Minh là
một trong những ngôi chợ mang đậm dấu ấn văn hóa người Hoa lớn nhất Việt Nam. Sự
hình thành, hoạt động và phát triển chợ Bình Tây vào cuối thế kỷ XVIII gắn liền tiến
trình di cư “tha phương cầu thực” của người Hoa xuôi về phương Nam xây dựng quê
hương mới. Theo phong tục tập quán, người Hoa thường lập chợ khi đến nơi định cư
mới nhằm xây dựng địa điểm để trao đổi, mua bán hàng hoá thúc đẩy kinh kế địa
phương phát triển. Chợ Bình Tây với kiến trúc độc đáo nhất Việt Nam được kết hợp hài
hòa giữa kiến trúc Trung Hoa cổ kính và Pháp hiện đại. Chợ được xây dựng bằng
nguyên liệu xi măng, cốt sắt với hình chữ nhật theo kỹ thuật phương Tây. Điều đặc biệt
kiến trúc hình chữ nhật của chợ Bình Tây với cửa chính vào chợ là cột tháp vươn cao có
4 mặt đồng hồ, có lưỡi long chầu châu, 4 góc với 4 chòi nhỏ mang triết lý âm dương,
mái lợp hoàn toàn bằng ngói âm dương theo kiểu xếp chồng lên nhau tạo sự thông
thoáng, mát mẻ đối với trong nhà lồng chợ. Đối với các góc của mái, vòm chợ được thiết
kế uốn lượn mềm mại theo kiểu chùa chiền phương Đông. Nét nổi bật của chợ Bình
Tây không chợ nơi nào ở Việt Nam có được là chính giữa chợ với khoảng sân rộng rãi,
thoáng mát, trồng cây xanh.
Tiểu kết chương 4