Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Tóm tắt luận án Tiến sĩ Lịch sử: Chợ ở miền Đông Nam Bộ từ năm 1975 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.18 KB, 31 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
        ____________________

LÊ QUANG CẦN

CHỢ Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ 
TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2010

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62.22.03.13

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ


NGHỆ AN ­ 2018
Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Vinh

Người hướng dẫn khoa học: 1. PG.TS. Nguyễn Quang Hồng
               2. PGS.TS. Hồ Sơn Đài

Phản biện 1:
 

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án sẽ  được bảo vệ  trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường, họp tại  
Trường Đại học Vinh
Vào hồi ….... giờ …... ngày …… tháng ……. năm 2018




Có thể tìm hiểu luận án tại:
­ Thư viện Quốc gia Việt Nam
­ Thư viện Trường Đại học Vinh 


4

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chợ truyền thống Việt Nam  ở miền Đông Nam Bộ là một bộ phận quan trọng cấu 
thành mạng lưới giao thương hàng hóa, thúc đẩy sản xuất kinh tế, mở rộng phát triển thị 
trường trao đổi mua bán nhằm phục vụ đời sống vật chất người dân và góp phần tạo nguồn 
thu ngân sách địa phương. 
Vùng Đông Nam Bộ có lịch sử hình thành, phát triển từ nhiều thế kỷ trước, nhưng 
việc nghiên cứu về  quá trình hình thành, phát triển, diện mạo, vai trò,... của chợ  truyền  
thống trong không gian địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa,... còn bỏ  ngỏ. Đặc biệt, chưa có 
luận án Tiến sĩ sử học nào nghiên cứu về chợ ở miền Đông Nam Bộ trước, trong khoảng  
thời gian đề tài xác định. Do đó, lựa chọn hướng nghiên cứu về chợ ở miền Đông Nam Bộ 
từ  năm 1975 đến năm 2010 với hy vọng của chúng tôi, góp phần nhỏ bé nhằm khỏa lấp 
khoảng trống trong nghiên cứu lịch sử miền Đông Nam Bộ nói riêng, cả nước nói chung. 
Năm 1975, đất nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, từng bước cải cách kinh tế, 
hội nhập khu vực và thế  giới. Trong bối cảnh chung đó, hầu hết các chợ  truyền thống  
làng xã, huyện, tỉnh, thành phố,... đều có những thay đổi về quy mô, số lượng, hàng hóa  
trao đổi, phương thức thanh toán,... Sự  chuyển biến của hệ  thống chợ  truyền thống  
miền Đông Nam Bộ  (1975­2010) đã tác động đến nhiều mặt của đời sống vật chất và 
tinh thần người dân. Do đó, chọn đề tài nghiên cứu về chợ ở miền Đông Nam Bộ trong  
khoảng thời gian xác định, chúng tôi hy vọng sẽ  góp phần tái hiện một cách khá sinh  
động, toàn diện hoạt động của chợ truyền thống. 

  Trước những biến động của điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong nước,  
khu vực và quốc tế những năm 90 của thế kỷ trước và thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, chợ 
truyền thống  ở  miền Đông Nam Bộ  có nhiều thay đổi về  số  lượng, quy mô, hàng hóa,... 
Quá trình hoạt động, phát triển chợ truyền thống miền Đông Nam Bộ  trong thời gian này 
góp phần tăng thêm tầng lớp tiểu thương, những người buôn bán nhỏ, giải quyết công ăn  
việc làm, phát triển du lịch, tăng nguồn thu ngân sách địa phương,... 
  Từ những lý do cơ bản đó, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Chợ ở miền Đông  
Nam Bộ từ năm 1975 đến năm 2010” làm đề tài luận án Tiến sĩ sử học với hy vọng góp 
phần vào việc giải quyết những yêu cầu cấp thiết về  khoa học và thực tiễn mà đề  tài  
đặt ra.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm giải quyết các yêu cầu cấp thiết về khoa học và thực tiễn mà đề  tài đặt ra, 
luận án xác định rõ mục tiêu nghiên cứu là: Tái hiện một cách sinh động, toàn diện, có hệ 


5

thống sự hoạt động chợ  truyền thống  ở miền Đông Nam Bộ  từ năm 1975 đến năm 2010. 
Không chỉ dừng lại  ở mức độ trình bày diện mạo, hoạt động của chợ  ở  miền Đông Nam 
Bộ mà chúng tôi còn hướng đến mục tiêu phân tích, đánh giá sự tác động của chợ truyền  
thống đối với đời sống kinh tế ­ xã hội của các tầng lớp nhân dân trong không gian và thời  
gian đề tài xác định. 
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận án tập trung giải quyết một số nhiệm vụ sau:
Thứ  nhất, nêu các nhân tố  tác động đến sự  hình thành, phân bố, diện mạo, hoạt  
động,... của chợ truyền thống ở miền Đông Nam Bộ.
Thứ hai, trình bày một cách khá toàn diện về quy mô, hoạt động, phương thức quản  
lý, đối tượng và hàng hóa trao đổi mua bán,... tại chợ truyền thống ở miền Đông Nam Bộ 
trong khoảng thời gian đề tài xác định. 

 Thứ ba, từ góc độ tiếp cận liên ngành, chúng tôi tập trung phân tích, đánh giá vai trò và 
tác động của chợ truyền thống đối với đời sống kinh tế, văn hóa xã hội ở miền Đông Nam  
Bộ từ năm 1975 đến năm 2010, nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, hội 
nhập khu vực và quốc tế.
Thứ tư, từ góc độ nghiên cứu lịch sử, chúng tôi chỉ rõ một số tồn tại, hạn chế trong quá  
trình đầu tư xây dựng chợ mới, mở rộng quy mô chợ cũ,... quản lý điều hành chợ ở miền  
Đông Nam Bộ trong thời gian qua. Chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với các  
cấp chính quyền địa phương, nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, phát huy vai trò của  
chợ truyền thống đối với mọi mặt của đời sống nhân dân ở miền Đông Nam Bộ trong bối  
cảnh hội nhập khu vực và thế giới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án được xác định cụ thể “Chợ ở miền Đông Nam Bộ  
từ năm 1975 đến năm 2010”. Sau năm 1975, bên cạnh chợ truyền thống, hệ thống cửa hàng  
lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm, hợp tác xã thương nghiệp,... quốc doanh được thành 
lập  ở  miền Đông Nam Bộ  từ  thành thị  đến nông thôn. Sau năm 1986, siêu thị, trung tâm 
thương mại và cửa hàng tiện ích ra đời và phát triển mạnh mẽ ở miền Đông Nam Bộ đáp 
ứng nhu cầu phục vụ người dân. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi trong luận  
án này là chợ truyền thống theo thời gian và không gian địa lý đề tài xác định. Các vấn đề 
cửa hàng lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm, hợp tác xã thương nghiệp,... quốc doanh,  
siêu thị, trung tâm thương mại và cửa hàng tiện ích không thuộc đối tượng nghiên cứu của  
luận án.
3.2. Phạm vi nghiên cứu


6

3.2.1. Về thời gian, luận án giới hạn nghiên cứu “Chợ ở miền Đông Nam Bộ từ năm  
1975 đến năm 2010”.
 3.2.2. Về không gian địa lý, luận án xác định phạm vi nghiên cứu là miền Đông Nam 

Bộ  theo địa giới hành chính hiện hành gồm: TP. Hồ  Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa ­ Vũng  
Tàu, Bình Dương, Bình Phước và Tây Ninh.  
3.2.3. Về nội dung, luận án tập trung nghiên cứu, phục dựng lại diện mạo hoạt động  
chợ truyền thống ở miền Đông Nam Bộ trên các mặt:
­ Trình bày một số nhân tố tác động đến quá trình hình thành, phát triển chợ ở miền  
Đông Nam Bộ.
­ Tập trung trình bày sự  chuyển biến chợ   ở miền Đông Nam Bộ  từ  năm 1975 đến  
năm 1985 và từ năm 1986 đến năm 2010 trên các phương diện quy mô, số lượng, nguồn vốn  
đầu tư  mở  rộng, xây dựng chợ  mới, hình thức hoạt động, hàng hóa trao đổi chủ  yếu,  
phương thức quản lý, điều hành, đối tượng tham gia buôn bán trao đổi chủ yếu ở chợ,... 
­ Phân tích, đánh giá vai trò và tác động của chợ  truyền thống đối với đời sống  
kinh tế, văn hóa xã hội ở miền Đông Nam Bộ. Chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến  
nghị, đề  xuất nhằm phát huy vai trò của chợ  truyền thống, khắc phục sự  tồn tại, hạn  
chế  trong quá trình khảo sát, đầu tư  xây dựng, quản lý chợ   ở  miền Đông Nam Bộ. 
Những nội dung khác không nằm trong phạm vi nghiên cứu của luận án.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Để hoàn thành luận án, chúng tôi dựa trên các nguồn tài liệu chủ yếu sau:
­ Tài liệu lưu trữ: Chúng tôi đã tiếp cận và khai thác nguồn tư liệu là văn bản pháp 
lý về  chủ  trương, chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến sự  phát triển chợ   ở 
miền Đông Nam Bộ và cả nước. Chúng tôi chủ yếu tiếp cận và khai thác nguồn tư liệu 
từ Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, các Nghị quyết của Trung ương Đảng, Luật của Quốc  
hội, Nghị  quyết, Nghị  định của Chính phủ; Quyết định, Quy định, Thông tư  của Bộ 
thương mại (Bộ Công thương) về chính sách phát triển kinh tế, thương nghiệp, quản lý 
chợ của Việt Nam và miền Đông Nam Bộ. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần VI,  
VIII và Nghị  quyết các kỳ  Đại hội Đảng bộ  ở  các địa phương miền Đông Nam Bộ  về 
chiến lược phát triển kinh tế, xã hội. Tài liệu từ  Cục thống kê quốc gia và các địa 
phương hàng năm, 5 năm, 10 năm về số lượng chợ, tổng mức mua bán hàng hóa, sự  gia  
tăng dân cư   ở  mỗi địa phương miền Đông Nam Bộ. Kế  hoạch, chiến lược phát triển  
thương nghiệp, mạng lưới chợ của các tỉnh, thành miền Đông Nam Bộ. Các báo cáo về 

hoạt động chợ  của Sở Thương mại (Sở Công thương) các địa phương trở  thành nguồn 
tài liệu so sánh, đối chiếu sự hoạt động của hệ  thống chợ  truyền thống trong phạm vi  
không gian và thời gian đề tài xác định.
­ Tài liệu là các công trình chuyên khảo: Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi đã 
tiếp cận các công trình chuyên khảo của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước có nội dung  
liên quan trực tiếp đến đề tài. Đồng thời, chúng tôi tiếp cận những bài viết đăng trên tạp chí  
chuyên ngành như tạp chí nghiên cứu lịch sử, tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, tạp chí khoa  


7

học xã hội TP. Hồ Chí Minh,... Chúng tôi sử  dụng các bộ sách khảo cứu về  điều kiện tự 
nhiên, kinh tế, dân cư, xã hội Nam Bộ nói chung, miền Đông Nam Bộ nói riêng. Đồng thời, 
chúng tôi đã tiếp cận các công trình nghiên cứu từ kỷ yếu hội thảo khoa học do các Viện, 
trường Đại học,... tổ chức. Các luận văn thạc sĩ hành chính công, lịch sử, địa lý học, nhân 
học,... Các luận án Tiến sĩ sử học, kinh tế học, xã hội học,... có nội dung liên quan đến đề tài  
luận án.
­ Tài liệu điền dã: Để  bổ  sung nguồn tư  liệu thực hiện luận án, chúng tôi đã tiến  
hành điền dã, khảo cứu thực tế hệ thống chợ cũ, chợ  mới từng tỉnh, thành ở  miền Đông 
Nam Bộ, đặc biệt phỏng vấn những tiểu thương gắn bó nghề buôn bán ở chợ từ năm 1975  
đến năm 2010. Chúng tôi tiến hành điều tra xã hội học với bảng hỏi về nhận xét của giới  
tiểu thương buôn bán ở chợ truyền thống qua hai giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1985 với  
20 câu hỏi và từ năm 1986 đến năm 2010 là 20 câu hỏi. Việc thực hiện điều tra này, đều có  
sự xác nhận của Ban quản lý chợ hoặc chính quyền địa phương, đảm bảo độ tinh cậy khi  
sử dụng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để  giải quyết các nhiệm vụ  khoa học đặt ra, chúng tôi sử  dụng phương pháp 
nghiên cứu chuyên ngành là phương pháp lịch sử  và logic. Ngoài ra, chúng tôi còn sử 
dụng các phương pháp liên ngành như phỏng vấn, hồi cố lịch sử, thống kê, so sánh, phân  
tích phần mềm SWOOT, đặc biệt là phương pháp điền dã,… Bên cạnh đó, chúng tôi còn  

sử dụng phương pháp tham khảo ý kiến một số chuyên gia có nhiều kinh nghiệm, hiểu  
biết và có các công trình nghiên cứu lịch sử, văn hóa, kinh tế,.... về miền Đông Nam Bộ 
đã công bố.
5. Đóng góp của luận án
­ Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên có hệ thống và tương đối toàn diện về 
“Chợ ở miền Đông Nam Bộ từ năm 1975 đến năm 2010” . Kết quả nghiên cứu của luận 
án sẽ góp phần thiết thực khỏa lấp khoảng trống trong nghiên cứu lịch sử ở miền Đông 
Nam Bộ nói riêng và nghiên cứu về chợ trên phạm vi cả nước nói chung. 
­ Từ góc độ Sử học, đây là công trình nghiên cứu đầu tiên đánh giá sự tác động của 
chợ truyền thống đối với đời sống vật chất, tinh thần, giao lưu văn hóa trong nước, quốc  
tế,... theo thời gian và không gian đề tài xác định
­ Tập hợp nguồn tài liệu tham khảo phong phú, nội dung liên quan thực hiện đề tài,  
làm cơ sở nghiên cứu, đối chiếu khi mở rộng vấn đề nghiên cứu.
­ Luận án là tài liệu hữu ích trong biên soạn, giảng dạy Lịch sử địa phương, xây dựng  
đề án, kế hoạch phát triển hiệu quả hệ thống chợ truyền thống ở miền Đông Nam Bộ thời 
kỳ hội nhập khu vực và thế giới trong thế kỷ XXI.
6. Bố cục của luận án


8

Ngoài phần phần Mở  đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ  lục, nội dung chính  

của luận án được kết cấu trong 4 chương sau:
Chương 1: Tổng quan 
Chương 2: 

 hình nghiên cứu đề tài
tình


Chợ ở miền Đông Nam Bộ trong cơ chế quản lý bao cấp (1975­1985)

Chương 3: Chợ
2010)

  ở  miền Đông Nam Bộ  trong thời kỳ đổi mới và hội nhập (1986­

Chương 4: Vai trò tác động của chợ ở miền Đông Nam Bộ đối với đời sống kinh  
tế ­ xã hội 

NỘI DUNG
Chương 1
 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm về chợ sử dụng trong luận án
Khái niệm chợ
Định nghĩa về  chợ  có khá nhiều từ điển trong và ngoài nước định danh. Bộ Thương 
mại (Bộ Công thương), Nghị định của Chính phủ đều có định nghĩa khá cụ thể về chợ. Từ 
nhiều cách lý giải khác nhau về chợ, có thể thống nhất:  Chợ là loại hình kinh doanh thương 
mại được hình thành và phát triển mang tính truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm  
công cộng, tập trung đông người mua bán, trao đổi hàng hoá dịch vụ với nhau, hình thành do  
yêu cầu của sản xuất, lưu thông, đời sống tiêu dùng xã hội và hoạt động theo các chu kỳ 
thời gian nhất định, phù hợp với nhu cầu của mọi tầng lớp nhân dân trong vùng. Trong “chợ 
truyền thống”, có thể phân chia thành các tiểu loại khác. Theo địa bàn, có chợ làng xã, chợ 
đô thị, chợ vùng biên, chợ ven biển, chợ ven sông rạch; theo thời gian, có chợ phiên, chợ 
sáng, chợ  chiều, chợ đêm; theo loại hàng hóa, có chợ  hoa quả, chợ trâu bò, chợ  cá, chợ 
lao động; theo quy mô, có chợ tỉnh, chợ huyện, chợ làng, chợ cóc; theo chức năng, có chợ 
đầu mối, chợ chuyên doanh,... Theo Nghị định 2003 của Chính Phủ, chợ được phân thành 
3 loại: Chợ  loại 1 là chợ  có trên 400 hộ  kinh doanh lập cửa hàng, cửa hiệu, sạp hàng 
buôn bán cố định, thường xuyên. Chợ loại 2 là chợ có từ 100 đến dưới 400 hộ buôn bán  
cố định, thường xuyên. Chợ loại 3 là những chợ còn lại. 

1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về chợ ở Việt Nam
1.2.1. Những nghiên cứu về chợ ở Việt Nam của tác giả trong nước
 
Nội dung này bao gồm những công trình nghiên cứu với nhiều tác giả tên tuổi như 
Trịnh Hoài Đức có tác phẩm “Gia Định thành thông chí”, công trình “Hoàng Việt nhất  


9

thống dư địa chí” của Lê Quang Định, Giáo sư Huỳnh Lứa với công trình “Lịch sử khai  
phá vùng đất Nam Bộ”, tác phẩm “Một số  vấn đề  về  lịch sử  kinh tế  Việt Nam” của Lê 
Quốc Sử, công trình “Tự  vị  tiếng nói miền Nam” của Vương Hồng Sển, Trần Gia Linh 
với tác phẩm  “Chợ  quê Việt Nam”,  “Chợ  nổi đồng bằng sông Cửu Long” của tác giả 
Nhâm Hùng,   công trình  “Chợ  Việt”  của tác giả  Huỳnh Thị  Dung,  “Chợ  truyền thống  
Việt Nam qua tư liệu văn bia” của Trịnh Khắc Mạnh , Đặng Phong với công trình “Phá  
rào trong kinh tế vào đêm trước đổi mới” và “Tư  duy kinh tế Việt Nam (1975­1989)”,... 
Các công trình nghiên cứu này đã giới thiệu khái lược về diện mạo, hiện trạng, vai trò, 
đóng góp, đặc điểm của chợ truyền thống Việt Nam từ xưa đến nay; tạo cơ sở lý luận 
và nguồn tư liệu tổng quát để tác giả luận án đi sâu nghiên cứu đề tài.
1.2.2. Những nghiên cứu về chợ ở Việt Nam của tác giả nước ngoài
Chợ truyền thống là một trong số ít nội dung được giới nghiên cứu người nước ngoài  
đề cập qua một số công trình nghiên cứu như tác gải Jean ­ Pierre Aumiphin với tác phẩm 
“Sự hiện tài chính và kinh tế của Pháp ở Đông Dương từ năm 1858 đến năm 1939”  được 
GS. Đinh Xuân Lâm biên dịch.  Tác giả  John Barrow với “Một chuyến du hành đến xứ  
Nam Hà (1792­1793)” được Nguyễn Thừa Hỷ biên dịch, Litana với “Xứ đàng trong, lịch  
sử  kinh tế­xã hội Việt Nam thế  kỷ  17­18”  Nguyễn Nghị  dịch, Kirstenw. Endres với bài 
viết “Kinh doanh quy mô nhỏ, chuyển đổi đô thị và cơ  cấu lại không gian trong thời kỳ  
hậu cải cách ở  Việt Nam”, do Nguyễn Thị Hồng Nhị và Nguyễn Thùy Trang biên dịch; 
Caroline Grillot nghiên cứu bài viết “Làm kinh doanh không dễ: Những thay đổi thất  
thường của buôn bán ở vùng biên giới theo cách nhìn của người bán buôn Trung Quốc” , 

do Nguyễn Văn Thắng dịch,... Mặc dù các tác giả này bước đầu đề cập đến một số góc 
nhìn về  vai trò của chợ  truyền thống nhưng đó là cơ  sở  lý luận, giúp nghiên cứu thực  
tiễn đối với chợ truyền thống ở miền Đông Nam Bộ được thuận lợi. 
1.3. Nhóm công trình nghiên cứu riêng về chợ ở miền Đông Nam Bộ
1.3.1. Những nghiên cứu về chợ ở miền Đông Nam Bộ của tác giả trong nước
Đối với nội dung này đượ c chính quyền đươ ng thời, tác giả  nghiên cứu đề  cập 
tươ ng   đối   nhiều   vấn   đề   về   chợ   truyền   thống.   Theo   đó,   có   các   tác   phẩ m   “Địa 
phươ ng chí tỉnh Phướ c Tuy năm 1961”, “địa phươ ng chí Gia Định năm 1971”;  “Chợ  
trời biên giới Việt Nam ­ Cao Miên” của Lê Hương; Lươ ng Văn Lựu với “ Biên Hòa sử  
lượ c toàn biên”; công trình nghiên cứu “Địa bạ  triều Nguyễn Biên Hòa” của Nguyễn 
Đình Đầu; bộ “Địa chí văn hóa thành phố  Hồ Chí Minh” do Nxb TP. Hồ Chí Minh phát 
hành; bộ  “Địa chí Đồng Nai”  do Nxb Đồng Nai phát hành; “Chợ  và siêu thị  trong đời  
sống văn hóa” của Nguyễn Hoàng Tố Uyên; “Chợ  Bến Thành qua cuộc trăm năm” của 
Nguyễn Cát Ngọc,... Những nội dung về  chợ  được nghiên cứu, ghi chép trong các tác 
phẩm này là tài liệu có giá trị lý luận và thực tiễn đối với nghiên cứu chợ truyền thống ở 
miền Đông Nam Bộ từ năm 1975­2010. 
1.3.2. Những nghiên cứu về chợ ở miền Đông Nam Bộ của tác giả nước ngoài


10

Người nước ngoài nghiên cứu về miền Đông Nam Bộ còn khá khiêm tốn, tuy nhiên, 
chợ  truyền thống là một trong nhiều vấn đề  được các tác giả, nhà cầm quyền đề  cập, 
nghiên cứu với bộ sách “Monographie de la province de Thu Dau Mot (chuyên khảo Thủ 
Dầu   Một)   của   Bulletin   de   la   Société   des   Études   Indochinoise   de   SaiGon;   t ác   phẩm 
“Monographie de la Province de Baria” (Chuyên khảo của tỉnh Bà Rịa) và Vilie du cap Saint  
­ Acques (thành phố Vũng Tàu) của tác giả Fasgigule, SaiGon Imprimerie L. Ménard; sách 
“Monographie de la Province de Gia Dinh”  (Chuyên khảo của tỉnh Gia Định), SaiGon 
Imprimerie   L.   Ménard   (xuất   bản   năm   1902   tại   nhà   in   L.Ménard   Sài   Gòn);   s ách 
“Monographie de la province de Biên Hòa 1923” (Chuyên khảo về tỉnh Biên Hòa) của tác 

giả M.Robert,... Những nội dung nghiên cứu, ghi chép về chợ thời thuộc Pháp là tài liệu  
quan trọng trong nghiên cứu khái quát chợ truyền thống ở miền Đông Nam Bộ trước năm 
1975.
1.4. Nhận xét tình hình nghiên cứu và nhiệm vụ khoa học của luận án
1.4.1. Một số nhận xét về tình hình nghiên cứu của đề tài
Trước hết, đối với các công trình nghiên cứu của tác giả  người nước ngoài: Có 
nhiều công trình, chuyên khảo, bài viết nghiên cứu về  Việt Nam, Nam Bộ, miền Đông 
Nam Bộ  xuyên suốt lịch sử  hơn ba trăm năm hình thành, phát triển trên nhiều phương 
diện: Địa lý, lịch sử, dân cư, kinh tế, hành chính, xã hội, chủ quyền, ngoại giao; trong đó, 
chợ   ở miền Đông Nam Bộ ít nhiều được đề  cập. Trong khả năng có hạn, chúng tôi chỉ 
tiếp cận được những công trình của tác giả  người Pháp, một số  ít luận án Tiến sĩ của 
người nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam. Những nghiên cứu của người Pháp ở  miền 
Đông Nam Bộ có liên quan đến giai đoạn đầu của đề  tài nhưng sơ  lược, riêng lẻ, chưa 
có sự thống kê toàn diện đầy đủ chợ nơi này. 
Thứ hai, đối với tài liệu chữ Hán, chữ Nôm thời phong kiến đến nay, có khá nhiều 
công trình nghiên cứu của Quốc sử quán nhà Nguyễn, một số tác phẩm của các nhà khoa 
bảng, từng giữ các chức vụ trong bộ máy chính quyền nhà Nguyễn đã được xuất bản và 
dịch sang tiếng Việt. Những công trình nghiên cứu này khá toàn diện, đầy đủ  các mặt 
của vùng đất miền Đông Nam Bộ. Chợ  là một trong những nội dung được đề  cập ít 
nhiều, với mức độ đậm nhạt khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình chuyên khảo nào 
nghiên cứu về  chợ   ở  miền Đông Nam Bộ  xuyên suốt trong lịch sử  hình thành và phát  
triển trong không gian địa lý, lịch sử văn hóa ấy. 
Thứ  ba, tài liệu tiếng Việt nghiên cứu về Nam Bộ, miền Đông Nam Bộ rất phong  
phú, đa dạng về số lượng công trình, công phu về nghiên cứu, toàn diện về khảo sát, đối  
chiếu, so sánh trên tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa ­ xã hội, quốc  
phòng, an ninh,... Trong bối cảnh chung đó, hướng tiếp cận, nghiên cứu về chợ  ở miền  
Đông Nam Bộ từ năm 1975 đến năm 2010 chỉ được đề  cập sơ lược, chung chung, chưa 
cụ thể. Tuy nhiên, thành quả nghiên cứu khoa học của người đi trước thực sự là nguồn  
tài liệu hữu ích để chúng tôi đối chiếu, so sánh khi thực hiện đề tài Luận án Tiến sĩ “Chợ 



11

ở miền Đông Nam Bộ từ năm 1975 đến năm 2010”. Chúng tôi khẳng định vấn đề nghiên 
cứu “Chợ ở miền Đông Nam Bộ từ năm 1975 đến năm 2010” là một đề tài hoàn toàn mới, 
có sự kế thừa kết quả nghiên cứu của người đi trước nhưng không trùng lập bất cứ công 
trình nào đã được công bố ở trong và ngoài nước đến thời điểm năm 2017.
1.4.2. Những vấn đề cần giải quyết của luận án
Nhằm giải quyết những yêu cầu cấp thiết về mặt khoa học và thực tiễn mà đề tài  
đặt ra, chúng tôi đặt nhiệm vụ khoa học trong quá trình thực hiện luận án với những nội 
dung cụ thể như sau:
Trước hết, chúng tôi tiếp tục kế thừa và sử dụng kết quả nghiên cứu của những nhà  
khoa học đi trước nhất là những công trình có nội dung liên quan trực tiếp đến đề tài chợ ở 
miền Đông Nam Bộ trước và sau năm 1975. Trên cơ sở nguồn tài liệu đó, chúng tôi lần lượt 
trình bày các nội dung cụ  thể của đề  tài nhằm phục dựng lại một cách chân thực, khách 
quan về chợ truyền thống trong không gian địa lý hành chính hiện nay của miền Đông Nam  
Bộ. 
Thứ hai, trong khoảng thời gian đề tài xác định, ở miền Đông Nam Bộ cùng lúc tồn 
tại chợ truyền thống cũ và mới (chợ làng xã, huyện, tỉnh, thành), chợ biên giới được Nhà  
nước đầu tư phát triển. Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi căn cứ vào Từ điển, văn bản 
pháp quy của Nhà nước làm rõ các khái niệm, thuật ngữ trước khi đi vào trình bày cụ thể 
các loại chợ truyền thống. 
Thứ ba, một nhiệm vụ trọng tâm của luận án là tập trung trình bày những chuyển 
biến của chợ   ở  miền Đông Nam Bộ  từ  năm 1975 đến năm 2010. Trong khoảng thời  
gian đề  tài xác định liên quan đến nhiều lĩnh vực như: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã  
hội, an ninh, an toàn xã hội,...vấn đề  quy hoạch thành phố, đô thị, xây dựng các khu  
công nghiệp, thương mại, dịch v ụ, môi sinh, môi trườ ng, an sinh xã hội,... 
 Thứ tư, trên cơ sở đối sánh nhiều nguồn tư liệu khác nhau, luận án hướng tới nội  
dung quan trọng khác là nghiên cứu, đánh giá vai trò, vị  trí và những tác động trực tiếp,  
hoặc gián tiếp của chợ truyền thống ở miền Đông Nam Bộ đối với đời sống vật chất và  

tinh thần các tầng lớp nhân dân ở trên địa bàn. Đồng thời, sự hoạt động và phát triển của 
hàng ngàn chợ  lớn nhỏ   ở  nơi này góp phần tăng nguồn thu ngân sách đối với các địa 
phương. Qua đó, chúng tôi nhấn mạnh vai trò thúc đẩy kinh tế, buôn bán hàng hóa, giao 
lưu văn hóa, phát triển các ngành nghề mới như du lịch, dịch vụ vận chuyển hàng hóa,... 
trong phạm vi không gian miền Đông Nam Bộ và các vùng miền khác trong cả nước. Từ 
góc độ  tiếp cận liên ngành, chúng tôi chỉ  ra một số tồn tại, hạn chế khi quy hoạch xây  
dựng, nâng cấp, quản lý, điều hành hoạt động chợ truyền thống trên địa bàn Đông Nam 
Bộ trong thời gian qua ở phần cuối của luận án. 
Chương 2


12

CHỢ Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ TRONG CƠ CHẾ  QUẢN LÝ 
HÀNH CHÍNH, QUAN LIÊU BAO CẤP (1975­1985)
2.1. Các nhân tố tác động đến hoạt động của chợ ở miền Đông Nam Bộ 
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và dân cư
* Điều kiện tự nhiên

           Vị trí địa lý 
Miền   Đông   Nam   Bộ   thuộc   vùng   kinh   tế   trọng   điểm   phía   Nam,   với  diện   tích 
23590.8 km2, dân số 15.459.6 nghìn người, mật độ dân số 655.0 người/km2 vào thời điểm 
năm 2013. Miền Đông Nam Bộ có 6 tỉnh thành: TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa ­ Vũng 
Tàu, Bình Dương, Bình Phước và Tây Ninh. Miền Đông Nam Bộ tiếp giáp: Phía Bắc ­ Tây 
Bắc giáp Campuchia, phía Nam giáp biển Đông, phía Tây giáp đồng bằng sông Cửu Long,  
phía Đông ­ Đông Nam giáp Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ. 
 Đông   Nam   Bộ   có   cửa   ngõ   phía   Tây   Bắc   liên   hệ   với   Campuchia   và   các   nước  
ASEAN qua đường bộ xuyên Á, cửa ngõ phía Đông liên hệ với các nước trên thế giới qua  
hệ thống cảng Sài Gòn, Bà Rịa ­ Vũng Tàu, Thị Vải, ...đường hàng không với sân bay quốc  
tế Tân Sơn Nhất. Việc hình thành cửa ngõ phía Đông và phía Tây đã tạo  lập hành lang kinh 

tế  Đông ­ Tây, nơi diễn ra hoạt động sản xuất kinh tế  sôi động nhất vùng kinh tế  trọng  
điểm phía Nam, đồng thời tạo nên sức hút mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư trong và ngoài  
nước tham gia kinh doanh lĩnh vực thương nghiệp với hệ thống chợ truyền thống tăng thêm 
về số lượng và quy mô. 
Địa hình
           Đông Nam Bộ nằm trên vùng đồng bằng và bình nguyên rộng, chuyển tiếp từ cao  
nguyên Nam Trung Bộ đến đồng bằng sông Cửu Long. Độ cao địa hình thay đổi từ 100 ­  
200 mét. Địa hình của vùng tạo điều kiện thuận lợi phát triển nông ­ lâm ­ ngư  nghiệp, 
tiểu thủ  công nghiệp, công nghiệp, đô thị  và thương nghiệp. Vì vậy, hệ  thống chợ 
truyền thống  ở miền Đông Nam Bộ ra đời đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa 
địa phương và các vùng phụ cận.
          Khí hậu
          Nằm trong miền khí hậu phía Nam nóng ẩm gió mùa, Đông Nam Bộ  có đặc điểm 
vùng khí hậu cận xích đạo với nền nhiệt độ khá cao và không thay đổi trong năm. Sự phân  
hoá sâu sắc theo mùa với chu kỳ  hoạt động của gió mùa Tây Nam, lượng mưa dồi dào  
trung bình hàng năm khoảng từ (1.500 ­ 2.000) mm. Khí hậu của vùng tương đối ôn hoà, ít 
thiên tai, chu kỳ thủy triều trên các sông khá ổn định, thuận lợi giao thương bán buôn hàng  
hóa bằng đường biển, đường sông. Hệ thống chợ truyền thống miền Đông Nam Bộ hình 
thành chủ  yếu ven sông, kênh rạch thuận lợi kết nối mua bán, trao đổi hàng hóa trong 
vùng. 
          Đất đai
         Miền Đông Nam Bộ  có lợi thế  về  đất sản xuất nông nghiệp, chiếm tỷ  lệ  27,1% 
tổng diện tích đất canh tác. Toàn vùng có 12 nhóm đất, trong đó quan trọng nhất là đất  


13

nâu đỏ  trên nền bazan, đất nâu vàng trên nền bazan và đất xám trên nền phù sa cổ. Ba  
nhóm đất này có diện tích lớn và chất lượng tốt, thuận lợi sinh trưởng nhiều loại cây  
trồng có giá trị kinh tế cao như cao su, cà phê, hồ tiêu, điều, lạc, mía, đỗ tương và nhiều  

loại cây lương thực khác. Kinh tế nông nghiệp miền Đông Nam Bộ phát triển, tạo sự đa 
dạng hàng hóa nông nghiệp đối với trao đổi, mua bán  ở  hệ  thống chợ. Hệ  thống chợ 
truyền thống ở đây trở thành cầu nối trung gian luân chuyển hàng hóa nông nghiệp giữa 
người sản xuất, người tiêu dùng và xuất khẩu.
          Tài nguyên rừng
          Diện tích rừng miền Đông Nam Bộ  tương đối nhỏ, hiện còn khoảng 532.200 ha,  
chiếm 2,8% diện tích rừng cả nước và phân bố không đều ở các tỉnh, thành. Rừng trồng  
tập trung ở Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa ­ Vũng Tàu, Đồng Nai, Tây Ninh, TP. Hồ 
Chí Minh. Rừng Đông Nam Bộ  có ý nghĩa quan trọng đối với cung cấp gỗ  dân dụng,  
phòng hộ cây công nghiệp, giữ nước, cân bằng sinh thái vùng hạ du. Sự đa dạng hệ sinh 
thái rừng đã cung cấp phong phú sản vật như mật ong, măng, thuốc dược liệu,...đối với 
hệ  thống chợ  truyền thống tiếp giáp rừng  ở  miền Đông Nam Bộ, góp phần thúc đẩy  
hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa nhộn nhịp.
           Tài nguyên nước
         Nguồn nước mặt của miền Đông Nam Bộ  khá đa dạng với hệ thống sông Đồng  
Nai   là   1   trong   3   sông   lớn   nhất   Việt   Nam.   Lượng   mưa   trung   bình   từ   1.500   ­   2.000  
mm/năm, tương ứng khoảng 183 tỉ m 3. Ngoài ra, vùng còn có các hồ nước nhân tạo như 
Trị An, Dầu Tiếng, Thác Mơ,…với tổng dung tích thiết kế khoảng 300 triệu m3. Với hệ 
thống sông khá dài, hồ nhân tạo lớn thuận lợi đánh bắt, nuôi trồng thủy sản nước ngọt  
cung cấp nguồn tôm, cua, cá,...đối với hệ thống chợ truyền thống miền Đông Nam Bộ, 
góp phần đa dạng hàng hóa trao đổi, mua bán giữa hệ thống chợ trong vùng.
         Tài nguyên biển
Miền Đông Nam Bộ với bờ biển dài 350 km từ cuối phía Nam Bình Thuận đến TP.  
Hồ Chí Minh. Vùng biển này được đánh giá là một trong bốn ngư trường trọng điểm của 
cả nước với trữ lượng cá khoảng từ (290­704) nghìn tấn, chiếm khoảng 40% trữ lượng cá 
của vùng biển Nam Bộ. Ven biển Bà Rịa ­ Vũng Tàu và TP. Hồ Chí Minh với nhiều vũng, 
vịnh thuận lợi nuôi trồng thuỷ sản nước lợ có diện tích khoảng 11,7 nghìn ha. Vì vậy, hệ 
thống chợ ven biển như chợ Bến Đình, Bến Đá, Vũng Tàu, Bà Rịa, Long Hải,...của Bà Rịa  
­ Vũng Tàu; chợ Cần Giờ, Hàng Dương, Nhà Bè,...của TP. Hồ Chí Minh trở thành cầu nối  
trung gian tiêu thụ hải sản từ biển đối với ngư dân sinh kế đánh bắt cá và người tiêu thụ 

đối với chợ đô thị, chợ  miền cao Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh,... Vì vậy, nguồn lợi  
thủy sản phong phú biển miền Đông Nam Bộ góp phần cung cấp thực phẩm đa dạng cá, 
tôm, cua,...đối với hoạt động nhộn nhịp của hệ thống chợ trong vùng.
* Dân cư
Trải qua bao thăng trầm lịch sử, miền Đông Nam Bộ trở thành “vùng đất hứa” đối 
với bao thế hệ người Việt, các tộc người thiểu số di cư tiếp nối từ Bắc vào Nam. Trong 
thời gian Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ  nhất (1897­1914), lần  


14

thứ  hai (1919­1929), người dân từ  miền Bắc, miền Trung vào miền Đông Nam Bộ  lao  
động và định cư  ngày một nhiều. Dân số  nơi này tăng nhanh và chợ  dân sinh không 
ngừng ra đời. Số lượng đồn điền cao su do người Pháp làm chủ ngày một tăng, đáp ứng 
nhu cầu phục vụ dân sinh, chợ trong đồn điền cao su lần lượt ra đời  “vào khoảng những 
năm 20, chợ được lập ở vùng đồn điền cao su, trước tiên là chợ Dầu Giây”. 
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc. Trong bối cảnh đất nước bị phân  
chia hai miền với hai chế độ chính trị, xã hội khác nhau, chính quyền Sài Gòn (1955­1956) 
đã lôi kéo đông đảo tín đồ Ky tô giáo di cư từ miền Bắc vào miền Nam. Người dân di cư 
từ Bắc vào Nam thời kỳ này gọi là “Bắc 1954” với số lượng gần một triệu người. Trong  
đó, phần lớn người dân cư trú chủ yếu ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Vì vậy, hệ thống 
chợ dân sinh nơi này thời kỳ (1954­1975) tăng nhanh về số lượng nhằm đáp ứng nhu cầu  
phục vụ  người dân. Nhiều chợ  dân sinh ra đời gắn liền tên làng, xã miền Bắc như  chợ 
Sặt, chợ  Phúc Hải, chợ Thái Bình, chợ Tân Mai,... (Biên Hòa), chợ  Bắc Sơn, chợ Quảng  
Biên,...(Trảng Bom).
Năm 1975, đất nước thống nhất đi lên chủ  nghĩa xã hội. Miền Đông Nam Bộ trở 
thành điểm đến hấp dẫn dân cư các địa phương Bắc Bộ, Trung Bộ và Tây Nam Bộ xây  
dựng “kinh tế mới”. Năm 1998, Nhà nước xác định tầm quan trọng của miền Đông Nam  
Bộ với quyết định phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế ­ xã hội Vùng kinh tế 
trọng điểm phía Nam đến năm 2020. Cuộc nhập cư lớn về lao động đã diễn ra liên tục 

trong thời gian dài nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực phục vụ sản xuất vùng kinh tế 
trọng điểm phía Nam. Căn cứ  vào “Số  liệu tổng điều tra dân số  (TĐTDS) năm 2009, 
vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ người nhập cư cao nhất, đặc biệt là nhóm người di cư giữa 
các tỉnh. Dân số di cư giữa các tỉnh chiếm trên 14% tổng dân số của vùng Đông Nam Bộ 
năm 2009, trong khi tỷ lệ này chỉ nằm ở mức dưới 5% ở tất cả các vùng khác. Kết quả 
này cũng không nằm ngoài dự  đoán, khi 4 trong số 6 tỉnh của vùng Đông Nam Bộ  (bao  
gồm Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa ­ Vũng Tàu và TP. Hồ  Chí Minh) có mức độ  tập 
trung cao của các khu công nghiệp và phát triển kinh tế nói chung với nhu cầu lớn về lao 
động mà lực lượng lao động địa phương không đáp ứng được”. So với nhiều vùng trong 
cả  nước, miền Đông Nam Bộ là địa phương có nhiều lợi thế về lao động nhập cư  trẻ, 
phục vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa
2.1.2. Điều kiện kinh tế­xã hội
Gắn liền tiến trình di cư  của lưu dân Việt và các tộc người thiểu số  đến miền 
Đông Nam Bộ  thế  kỷ  XVI­XVII, kinh tế­xã hội từng bước được định hình thời chúa 
Nguyễn, mở rộng thời nhà Nguyễn và thuộc Pháp.
Thời Việt Nam Cộng hòa (1954­1975), miền Đông Nam Bộ  đứng đầu là Sài Gòn 
trở  thành trung tâm kinh tế  ­ tài chính lớn nhất miền Nam. Theo giới nghiên cứu khoa  
học, thương nghiệp miền Đông Nam Bộ với đội ngũ tiểu thương đông đúc, len lỏi đến 
các vùng, họ từ nông thôn ra thành thị tránh chiến tranh và mưu sinh, trong 6 triệu người 
sống ở các đô thị miền Nam với hơn nửa tham gia buôn bán. Thương nghiệp gắn với sự 
viện trợ   ồ   ạt hàng tiêu dùng của Mỹ  đã được sản xuất sẵn  ở  nước ngoài. Nội thương 
chủ yếu là cầu nối để vận chuyển tiêu thụ hàng hóa viện trợ nhập khẩu. Thị trường nội  


15

thương sầm uất  ở  các thành phố, trong đó Sài Gòn chiếm đến phân nửa doanh số, số 
người buôn bán có môn bài  ở mức 100.000 đồng trên toàn miền Nam là 471 sổ, riêng Sài 
Gòn ­ Gia Định là 453 sổ, tiếp đến Vũng Tàu là 15 sổ, điều đó không khó hiểu, bởi thời  
chiến, dân số đô thị miền Nam chiếm tới 50%. Thương nhân người Hoa chiếm vị trí quan  

trọng trong hệ  thống thương nghiệp, đặc biệt trong buôn bán lúa gạo, hàng khô, thực 
phẩm chế biến,...thì họ gần như độc quyền với mạng lưới thương nghiệp cổ truyền từ 
nhiều thế kỷ, có mối quan hệ khăng khít với người Hoa ở nhiều nước. 
Giai đoạn (1975­1985), hệ thống chợ ở miền Đông Nam Bộ giảm số lượng nhanh 
chóng bởi cơ chế quản lý Nhà nước mới “ngăn sông cấm chợ”, thay thế vai trò thương 
nghiệp chợ  truyền thống bởi hệ  thống cửa hàng hợp tác xã lương thực, thực phẩm  
thương nghiệp quốc doanh do Nhà nước độc quyền phân phối mọi nhu yếu phẩm. Hệ 
quả cơ chế quản lý kinh tế thương nghiệp “ngăn sông cấm chợ”, nước ta lâm vào khủng  
hoảng toàn diện và nghiêm trọng. Tình hình chính trị, xã hội bất ổn, niềm tin người dân 
đối với chế  độ  suy giảm nghiêm trọng, đòi hỏi công cuộc đổi mới tất yếu tiến hành. 
Năm 1986, Đảng, Nhà nước thực hiện cải cách mở  cửa toàn diện kinh tế. Năm 1995, 
Việt Nam gia nhập tổ  chức ASEAN và bình thường hóa với Hoa Kỳ. Năm 1996, Việt  
Nam tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế  Á ­ Âu (ASEM). Cuối năm 1998, Việt Nam trở 
thành thành viên chính thức của diễn đàn hợp tác kinh tế  châu Á ­ Thái Bình Dương 
(APEC), đánh dấu bước đi quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt  
Nam. Năm 2007, nước ta gia nhập tổ chức thương mại th ế gi ới (WTO), tham gia chu ỗi  
thương mại toàn cầu. Sự chủ động gia nhập các tổ chức thương mại khu vực và thế giới 
thúc đẩy hội nhập thương mại hiện đại vào Việt Nam với sự  cung  ứng hàng hóa đa 
dạng của nhiều quốc gia trên thế giới đối với hệ thống chợ truyền thống  ở miền Đông 
Nam Bộ nói riêng, cả nước nói chung.
2.2. Chợ ở miền Đông Nam Bộ giai đoạn 1975­1985
2.2.1. Quá trình thành lập chợ ở miền Đông Nam Bộ 
Trong giai đoạn cuối thế  kỷ  XVII  đến năm 1945, chúa Nguyễn và tiếp nối là 
vương triều nhà Nguyễn đã hoàn thành công cuộc khai hoang, phục hóa miền Đông Nam  
Bộ. Với điều kiện tự  nhiên khá thuận lợi, miền Đông Nam Bộ  trở  thành nơi “đất lành 
chim đậu” đối với đông đảo lưu dân Việt và các tộc người thiểu số  đến định cư, lập  
nghiệp xây dựng quê hương mới. Gắn liền quá trình sản xuất kinh tế, hệ  thống chợ 
truyền thống miền Đông Nam Bộ lần lượt ra đời trên bến dưới thuyền đáp ứng nhu cầu  
trao đổi, mua bán hàng hóa của người dân địa phương. Số  lượng chợ  truyền thống  ở 
miền Đông Nam Bộ tăng dần gắn liền sự gia tăng dân cư và phát triển kinh tế của miền  

Đông Nam Bộ. Theo nghiên cứu địa bạ  triều Nguyễn của Nguyễn Đình Đầu, đến năm 
1945, miền Đông Nam Bộ có hơn 90 chợ như chợ Bến Thành, Chợ  Lớn, Thủ Đức, Tân  
Kiểng, Biên Hòa, chợ Đồn, Thủ Dầu Một, Lái Thiêu, chợ Búng, Vũng Tàu, Bà Rịa,...
Giai đoạn 1954­1975, miền Đông Nam Bộ trở thành nơi tiếp nhận số lượng đông 
đảo người dân di cư từ miền Bắc vào định cư. Gắn liền tiến trình di cư, người dân mở 


16

rộng diện tích sản xuất kinh tế và định cư ở miền Đông Nam Bộ. Theo số liệu thống kê, 
tổng số người di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 gần một triệu người, trong đó, phần lớn  
định cư ở miền Đông Nam Bộ. Khi dân cư tăng, diện tích đất đai được mở rộng đáp ứng 
nhu cầu sản xuất kinh tế, hệ thống chợ truyền th ống m ới l ần l ượt ra đời đáp ứng nhu  
cầu trao đổi hàng hóa của người dân địa phương. Theo đó, hàng trăm chợ  truyền thống  
mới ra đời rải rác khắp các địa phương miền Đông Nam Bộ. Nhiều chợ  truyền thống  
mới trong giai đoạn này ra đời gắn liền tên gọi các làng xã miền Bắc. Khi đến vùng đất  
Đồng Nai, những người dân di cư này cùng chung lưng đấu cật xây dựng làng xóm mới.  
Phần lớn người dân di cư   đặt tên làng xóm mới mang tên làng, tên xóm từ  các địa 
phương miền Bắc nhằm tưởng nhớ quê hương. Vì vậy, các chợ truyền thống mới ra đời  
ở Đồng Nai sau năm 1954 phần lớn gắn liền tên gọi của các làng xóm Bắc Bộ. Chợ Sặt  
tọa lạc trên quốc lộ 1A, phường Tân Biên, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ra đời bởi người  
dân làng Kẻ  Sặt huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương đến định cư; chợ  Sặt nổi tiếng 
người dân trong Nam, ngoài Bắc với hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa sầm uất,  
nhộn nhịp. 
2.2.2. Bối cảnh lịch sử và hệ thống chợ ở miền Đông Nam Bộ sau năm 1975
Năm 1975, đất nước thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Mọi hoạt động kinh tế, 
xã hội sau năm 1975  ở  miền Đông Nam Bộ  nói riêng, Nam Bộ  nói chung diễn ra bình  
thường, “hòa bình trở lại, nhân dân tiếp tục sản xuất để cung cấp cho thị trường, cho xã 
hội, cho cả miền Bắc. Các luồng lưu thông hàng hóa cũng như sản xuất được nối lại và 
bình thường hóa. Những ghe thuyền trước đây đi về bị kiểm soát ngặt nghèo, từ nay liên 

thông tự do”. Các hoạt động sản xuất kinh tế, trao đổi hàng hóa ở chợ búa của người dân 
không có sự  xáo trộn lớn. Một không khí lạc quan, phấn khởi của đất nước sau giải  
phóng bao trùm  ở  miền Đông Nam Bộ  nói riêng, cả  Nam Bộ  nói chung. Tuy nhiên, cơ 
chế quản lý hành chính, quan liêu bao cấp của Nhà nước được áp dụng đối với hệ thống  
chợ  thống  ở  miền Đông Nam Bộ, làm cho hệ  thống chợ  truyền thống  ở  đây giảm số 
lượng và hoạt động nhanh chóng. 
2.2.3. Hoạt động của chợ ở miền Đông Nam Bộ 
Suốt 10 năm sau thống nhất đất nước (1975­1985), chợ làng xã ở miền Đông Nam 
Bộ bị hạn chế hoạt động đến mức thấp nhất bởi cơ chế quản lý quan liêu bao cấp của  
Nhà nước về  thương nghiệp “ngăn sông, cấm chợ” trên phạm vi cả  nước . Theo đó, ở 
các làng xã nông thôn tồn tại một chợ  (hoặc không có chợ) với quy mô nhỏ  dưới hình 
thức trao đổi hàng hóa rau quả của địa phương. Nguồn hàng hóa nhu yếu phẩm thiết yếu  
như  gạo, thực phẩm, cá tôm, thịt, vải vóc, chất đốt,... bị  hạn chế  thấp nhất mua bán ở 
chợ  làng xã. Hầu hết hàng hóa nhu yếu phẩm được buôn bán chủ yếu  ở cửa hàng bách 
hóa tổng hợp cấp xã do Nhà nước quản lý. Phần lớn người dân ở  nông thôn mua hàng  
hóa, nhu yếu phẩm  ở cửa hàng bách hóa của Nhà nước với chất lượng khá kém và luôn  
thiếu hụt, không đáp ứng đủ nhu cầu của người dân. Hệ thống chợ làng xã đã hình thành 
trước năm 1975  ở  miền Đông Nam Bộ  vẫn tồn tại nhưng hoạt động trao đổi hàng hóa 
giảm đi rõ rệt, hàng hóa nhu yếu phẩm ngày một trở  nên khan hiếm, giá cả  đắt đỏ.  
Nhằm hạn chế trao đổi, mua bán hàng hóa nhu yếu phẩm ở chợ làng xã, chính quyền cơ 


17

sở các địa phương miền Đông Nam Bộ thi hành nhiều biện pháp ngăn chặn luân chuyển 
hàng hóa với hệ  thống trạm kiểm soát cố  định và di động giữa các địa phương quận, 
huyện, xã, phường,... Mặc dù, chính quyền các địa phương miền Đông Nam Bộ  thực  
hiện chủ trương của Nhà nước hạn chế đến mức thấp nhất hoạt động của chợ  truyền 
thống làng xã nhằm tạo điều kiện cho hệ thống cửa hàng hợp tác xã thương nghiệp, cửa 
hàng thực phẩm, cửa hàng vật tư  phục vụ  sản xuất nông nghiệp,... quốc doanh hoạt 

động. Tuy nhiên, theo thống kê của chúng tôi, sau năm 1975 số lượng chợ làng xã ở miền  
Đông Nam Bộ hơn 100 chợ; trong đó, hơn 50% chợ làng xã mới thành lập mang tính tự 
phát đáp  ứng nhu cầu trao đổi hàng hóa của người dân, mặc dù bị  hạn chế  cao nhất sự 
hoạt động. Theo đó, Nhà nước thực thi nhiều giải pháp hạn chế sự  hoạt động của chợ 
truyền thống (chợ tự phát) ở miền Đông Nam Bộ giai đoạn 1975­1985, nhưng chợ truyền  
thống làng xã vẫn tồn tại mà không bị loại bỏ hoàn toàn, chứng tỏ sức sống mãnh liệt của 
loại hình giao thương hàng hóa gắn liền phong tục, tập quán của người dân nông thôn trải  
qua nhiều thế kỷ. 
Tiểu kết chương 2
Cùng với quá trình khai hoang phục hóa, từng bước  ổn định đời sống văn hóa vật  
chất và tinh thần, người dân ở miền Đông Nam Bộ thành lập các chợ với quy mô lớn nhỏ 
khác nhau  ở hầu khắp địa bàn cư  trú. Hệ  thống chợ  miền Đông Nam Bộ  ra đời trên bến 
dưới thuyền dọc theo sông Sài Gòn, sông Đồng Nai, ven đường thiên lý Bắc Nam như chợ 
Bến Thành, Chợ  Lớn, chợ  Biên Hòa, chợ  Thủ  Dầu Một, chợ  Bà Rịa,... Tên gọi, quy mô, 
hàng hóa, đối tượng tham gia trao đổi buôn bán, cách thức tổ chức, quản lý các chợ,...trong 
các thời kỳ lịch sử khác nhau, song từ khi thành lập đến năm 1975, hệ thống chợ  ở miền  
Đông Nam Bộ luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế, văn hóa, xã hội, phát  
triển.
Giống như  nhiều vùng miền khác của cả  nước, giai đoạn (1975­1980), hệ  thống  
chợ truyền thống miền Đông Nam Bộ chuyển từ tự do hóa hoạt động theo quy luật kinh  
tế  thị  trường sang hình thức quản lý bao cấp của Nhà nước. Mặc dù hệ  thống (HTX)  
mua bán, cửa hàng thương nghiệp,... được thành lập và đi vào hoạt động, nhưng chợ   ở 
miền Đông Nam Bộ vẫn tồn tại, hoạt động và góp phần không nhỏ  trong việc đáp ứng 
nhu cầu mua bán trao đổi hàng hóa của nhân dân trong vùng.
Trong giai đoạn (1981­1985), cơ  chế  quản lý thương nghiệp quan liêu bao cấp  
“ngăn sông, cấm chợ” của hệ thống chợ  ở miền Đông Nam Bộ  nói riêng, cả  nước nói  
chung từng bước được xóa bỏ bởi Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 (khóa IV) năm 1979 và  
Quyết định số 188­ HĐBT năm 1982 về tăng cường thương nghiệp xã hội chủ nghĩa và 
quản lý thị  trường. Theo đó, số  lượng chợ  truyền thống miền Đông Nam Bộ  tăng dần, 
hàng hóa trao đổi từng bước dồi dào đáp ứng nhu cầu người dân, tái sản xuất kinh tế và 

chuẩn bị bước vào công cuộc đổi mới đất nước, mở cửa thương nghiệp năm 1986.  
Chương 3
CHỢ Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ 
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP 


18

3.1. Chợ ở miền Đông Nam Bộ trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới (1986­

1995)
3.1.1. Đại hội Đảng lần thứ VI và đường lối đổi mới về kinh tế thương mại
Cuối năm 1985, kinh tế  nước ta ngày càng  ẩn chứa những biến động phức tạp.  
Những hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế trải qua 10 năm (1975­1985) đã tích tụ,  
dồn nén gần như bùng nổ bất cứ lúc nào. Trong đó, lĩnh vực nóng bỏng nhất là phân phối 
lưu thông, giá cả, lương, tiền,... Theo đó, “hàng hóa đâu đâu cũng khang hiếm. Ngân hàng  
thiếu tiền. Thương nghiệp thiếu hàng. Công nghiệp thiếu vật tư. Nông dân “kêu trời” vì 
giá bán lương thực không bù đắp được chi phí, dù giá bán nông sản đã được nâng lên 10 
lần...”. Vì vậy, hệ thống chợ truyền thống cả nước nói chung, miền Đông Nam Bộ  nói  
riêng luôn trong tình trạng thiếu hàng hóa trao đổi, mua bán đáp ứng nhu cầu người dân 
từ thành thị đến nông thôn.  
3.1.2. Cơ chế quản lý và sự phát triển hệ thống chợ ở miền Đông Nam Bộ 
Mi ền Đông Nam B ộ  v ới TP. H ồ  Chí Minh là đị a phươ ng đầ u tiên cả  n ướ c 
thự c hi ện “xé rào” trong l ưu thông hàng hóa. Vì v ậy, sau Đ ại h ội Đả ng lần th ứ  VI,  
cùng các Ngh ị quy ết, Ch ỉ th ị c ủa Đảng, Nhà nướ c về   gi ải quy ết nh ững v ấn đ ề  cấp 
bách phân ph ối, l ưu thông đã t ạo đi ều kiện thu ận l ợi đố i vớ i hệ  th ống chợ  truy ền 
th ống mi ền Đông Nam B ộ ph ục h ồi ho ạt độ ng theo quy lu ật v ốn có củ a nó. 
Thực trạng thương nghiệp và hoạt động buôn bán ở Đông Nam Bộ trong thời gian  
này tương tự các địa phương khác của cả nước. Theo đó, Tỉnh ủy Sông Bé có nhiều nổ 
lực cố gắng “về thương nghiệp phải làm được nhiệm vụ thúc đẩy sản xuất phát triển,  

tạo nguồn hàng tại chỗ  để  phục vụ  đời sống nhân dân, công khai hóa được tiêu chuẩn 
định lượng, phân phối đúng đối tượng, đến tận người tiêu dùng thật công bằng và hợp  
lý. Phấn đấu đảm bảo định lượng cho cán bộ, công nhân viên chức 17 đồng/người/tháng  
bao gồm lương thực và thực phẩm, nhân dân lao động thành thị 12 đến 15 đồng, nhân dân 
lao động nông thôn 5 đến 6 đồng thực phẩm/hộ/tháng”. Để  đồng hành cùng hoạt động 
của hệ thống chợ truyền thống trên toàn tỉnh, Tỉnh ủy Sông Bé đã yêu cầu “về phân phối 
lưu thông, vấn đề  quyết định là từng bước cũng cố  và phát triển lực lượng thương 
nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán, vươn lên cho được nắm những mặt hàng chủ 
lực về  lương thực, nông sản và thủ  công mỹ  nghệ  có thế  mạnh địa phương, bảo đảm  
nguyên liệu cho sản xuất, phục vụ  tiêu dùng, trao đổi với các tỉnh bạn và tăng cường  
xuất khẩu. 
3.1.3. Hoạt động của chợ ở miền Đông Nam Bộ trong giai đoạn 1986­1995
Giai đoạn 1986­1995 đã mở ra nhiều vận hội đối với sự hoạt động của chợ truyền 
thống ở miền Đông Nam Bộ sau công cuộc đổi mới toàn diện cơ chế quản lý Nhà nước 
về lưu thông hàng hóa. Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đi đầu cả nước trong tiến  
trình phát triển nền sản xuất hàng hóa với sự  tham gia của nhiều thành phần kinh tế, 
giảm bao cấp đối với hoạt động lưu thông hành hóa. Vì vậy, “số lượng doanh nhiệp tăng  
nhanh, năm 1990 thành phố đã có trên 30% số lượng doanh nhiệp so với cả nước và 30% 
số  vốn đầu tư  của khu vực doanh nghiệp so với cả  nước. Hoạt động sản xuất công  
nghiệp đã bắt đầu có những bước tiến tích cực về sản lượng, chất lượng hàng hóa, đem  


19

lại làng gió mới cho lực lượng lao động và nhu cầu lao động cũng tăng, bắt đầu tiếp  
nhận lao động từ các địa phương khác vào các khu công nghiệp, khu chế xuất của thành  
phố”. Khi công nghiệp TP. Hồ Chí Minh phát triển, từng bước thu hút nhà đầu tư trong  
và ngoài nước đến kinh doanh. Qua đó, hàng hóa được sản xuất ở TP. Hồ Chí Minh ngày 
một phong phú về chủng loại, đa dạng về mẫu mã đáp ứng nhu cầu thị trường ngày càng 
tăng qua kênh phân phối chủ yếu của hệ thống chợ thành phố. Đồng thời, sự phát triển  

các khu công nghiệp, khu chế  xuất, gắn liền nhu cầu lao  động nhập cư  từ  các địa  
phương trên cả nước. Vì vậy, số lượng chợ truyền thống mới lần lượt hình thành nhằm 
đáp ứng nhu cầu phục vụ người dân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất,... Trong giai  
đoạn này, để  thúc đẩy hoạt động của hệ  thống chợ, chính quyền TP. Hồ  Chí Minh đã 
ban hành Quyết định số 111/QĐUBTM ngày 22/7/1993 của UBND TP. HCM  với chợ là  
một địa điểm cố định có địa giới được quy định trên địa bàn dân cư  có hay không có nhà 
lồng, được thành lập theo quyết định của UBNDTP. Tập trung việc mua bán của các 
thành phần kinh tế  với một hay nhiều ngành hàng, với nhiều phương thức kinh doanh  
khác nhau được luật pháp cho phép, là nơi lưu thông hàng hóa giữa người bán và người 
mua theo nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống người dân. Theo nhu cầu thực tiễn lưu  
thông hàng hóa đối với địa phương và cả miền Đông Nam Bộ, chính quyền TP. Hồ Chí 
Minh đã xây dựng hành lang pháp lý nhằm tạo điều kiện hệ thống chợ TP. Hồ Chí Minh  
phát triển về số lượng và quy mô. Theo đó, hệ thống chợ chuyên doanh, chợ  bán sỉ  với  
số  lượng hơn 150 chợ  như chợ  Bình Tây, An Đông, Kim Biên, Trần Chánh Chiếu, Phú  
Lâm, Phú Thọ, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Hoa Thám, Phạm Văn Hai, Văn Thánh, Bà  
Chiểu, Thủ Đức, Hóc Môn, Gò Vấp, Tân Sơn Nhất, Phú Nhuận, Bến Thành, Thái Bình...  
cung cấp hàng hóa đối với hệ  thống chợ  xã, phường toàn thành phố  đáp  ứng nhu cầu  
phục vụ người dân. 
3.2. Chợ ở miền Đông Nam Bộ trong thời kỳ hội nhập (1995­2010)
3.2.1. Hệ thống chợ ở miền Đông Nam Bộ từ năm 1995 đến năm 2010
* Cơ chế quản lý Nhà nước về chợ
Năm 1995, Việt Nam bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ và trở thành  
thành viên của ASEAN. Quan hệ thương mại quốc tế từng bước được xác lập giữa Việt 
Nam và các đối tác, góp phần thúc đẩy hệ  thống chợ  Việt Nam nói chung, miền Đông 
Nam Bộ nói riêng phát triển theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội 
nhập. Việc xây dựng cơ  sở  pháp lý tổ  chức và quản lý chợ  truyền thống trở  nên cấp  
thiết đối với Nhà nước. Ngày 16/10/1996, Bộ  Thương mại ban hành Thông tư  số  15­
TM/CSTTTN về Hướng dẫn tổ chức và quản lý chợ. Đối với Ban quản lý chợ: Lập Ban  
quản lý đối với chợ loại 1 và loại 2. Chợ loại 3 do UBND địa phương căn cứ  tình hình  
cụ thể để chọn hình thức quản lý. Theo đó, những chợ họp thường xuyên có từ  50 đến 

100 hộ kinh doanh cố định hoạt động trong phạm vi liên phường, liên xã có thể lập Ban  
quản lý chợ trực thuộc huyện, quận, thị xã. Những chợ nhỏ có dưới 50 hộ kinh doanh cố 
định, chợ  mang tính nội bộ  phường, xã, họp không thường xuyên, lập tổ  quản lý chợ. 
Đối với một số chợ  nhỏ hoạt động trong phạm vi thôn,  ấp, làng, bản có thể  đấu thầu  
quản lý theo nguyên tắc: Nhà nước ban hành các quy định về chức năng, nhiệm vụ của tổ 
quản lý chợ. Theo quy định Bộ Thương mại (Bộ Công thương), Ban quản lý chợ là đơn vị 


20

sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản giao dịch tại Kho bạc Nhà  
nước. Ban quản lý chợ chịu sự hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn của Phòng Tài chính ­ 
Thương nghiệp. Ban quản lý chợ  với chức năng, quyền hạn xem xét và quyết định việc  
chấp thuận hay không chấp thuận đơn xin đặt cửa hàng, cửa hiệu, sạp hàng...buôn bán tại  
chợ của các tổ chức, cá nhân có nhu cầu kinh doanh tại chợ,...
* Nguồn cung cấp hàng hóa, phương thức vận chuyển, thanh toán: Hàng hóa 
sản xuất trong nước ngày một phong phú, đa dạng.  Hàng hóa s ả n xu ấ t  ở  n ướ c 
ngoài   đ ượ c   đ ư a   vào  c ả  n ướ c   nói  chung,  ch ợ   truy ền  th ống  ở  mi ền   Đông  
Nam B ộ  nói riêng ngày càng nhi ề u đáp  ứ ng nhu c ầ u ng ườ i dân và ph ụ c vụ 
phát   tri ển  s ản  xu ất.  Đ ồ ng th ờ i,  p hương thức vận chuyển hàng hóa đối với 
chợ  truyền thống có sự  thay đổi theo hướng chuyên môn hóa hiện đại như  xe 
chuyên dụng chở thủy hải sản tươi sống, chở rau củ quả tươi xanh,... Đáp ứng  
yêu  cầu hội   nhập  với   phương  thanh toán  có  sự  linh  hoạt bằng tiền  mặt và 
chuyển khoản ­ séc,...
3.2.2. Hoạt động của chợ ở miền Đông Nam Bộ trong thời kỳ hội nhập
* Chợ ở thành phố Hồ Chí Minh
Trong giai đoạn (1986­2010), hệ  thống chợ  TP. Hồ  Chí minh khôi phục và phát 
triển mạnh mẽ  gắn liền sự phục hồi kinh tế, gia tăng đầu tư  nước ngoài và dân số  cơ 
học tăng nhanh liên tục. Các chợ đầu mối của thành phố ngày một giữ vai trò quan trọng  
đối với luân chuyển hàng hóa từ các địa phương miền Đông Nam Bộ đến hệ thống chợ 

nội và ngoại thành. Thành phố  có nhiều chợ  nổi tiếng trong Nam ngoài Bắc. Chợ  Bình  
Tây là chợ  đầu mối cung cấp các loại hàng hóa đối với người dân thành phố, các địa 
phương xung quanh miền Đông Nam Bộ, miền Trung, Tây Nguyên, miền Tây Nam Bộ,  
miền Bắc và Campuchia. Chợ này kinh doanh nhiều loại hàng hóa đa dạng phục vụ tiêu 
dùng như vải, quần áo, giày dép, đồ nhựa, đồ  nhôm... Bên cạnh đó, một số chợ  chuyên  
doanh với hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa sôi động như  chợ  Soái Kình Lâm kinh 
doanh vải; chợ  An Đông chuyên doanh buôn bán hàng may mặc; chợ  Kim Biên chuyên  
doanh bán buôn hàng hóa mỹ phẩm, dược phẩm, phẩm chất các loại; chợ Bến Thành trở 
thành biểu tượng mua sắm tiêu biểu của TP. Hồ  Chí Minh đối với du khách trong và  
ngoài nước mỗi khi đến thành phố mang tên Bác; chợ đầu mối thủy hải sản Bình Điền,  
chợ  đầu mối nông sản Thủ Đức và Hóc Môn hoạt động rất nhộn nhịp,... Ngoài các chợ 
đầu mối, hệ  thống chợ  truyền thống TP. Hồ  Chí Minh không ngừng tăng lên về  số 
lượng cùng với dân số  tăng, kinh tế  phát triển, tốc độ  đô thị  hóa của thành phố  nhanh 
nhất nước. Vì vậy, hệ thống chợ truyền thống nội và ngoại thành nhanh chóng phát triển  
về số lượng, mở rộng về quy mô, đa dạng chủng loại hàng hóa đáp ứng nhu cầu phục  
vụ người dân. Trong giai đoạn (1995­2010), hệ thống chợ cũ, chợ mới thành lập trên địa 
bàn thành phố hoạt động rất nhộn nhịp đã góp phần tăng nhanh nguồn thu ngân sách cho  
thành phố, giúp địa phương này có nguồn lực tái đầu tư hạ tầng cơ sở đối với chợ cũ và  
xây dựng thêm chợ mới.


21

* Chợ   ở  tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn 1995­2010, phục hồi, phát triển nhanh về 
số lượng đáp ứng nhu cầu người dân và phát triển kinh tế. 
* Chợ ở tỉnh Bà Rịa ­ Vũng Tàu ở vị trí cửa ngõ ra biển Đông của các tỉnh miền  
Đông Nam Bộ, Bà Rịa ­ Vũng Tàu kết nối thuận lợi với Đồng Nai, Bình Dươ ng, TP.  
Hồ  Chí Minh nên số  lượng chợ  truyền th ống đượ c chính quyền, doanh nghiệp quan 
tâm đầu tư  phát triển về  số  lượng và mở  rộng về  quy mô đáp  ứng nhu cầu phục vụ 
người dân và phát triển kinh tế. 

* Chợ ở tỉnh Bình Dương có đi ều ki ện phát tri ển từ ng b ướ c h ội nh ập khu v ực  
và thế  giới, góp ph ần quan tr ọng đối với phát tri ển kinh tế  đị a phươ ng củ a vùng 
kinh t ế tr ọng đi ểm phía Nam. 
* Chợ   ở  tỉnh Bình Phước được nhà nước, doanh nghiệp thực hiện nhiều giải pháp 
phát triển về số lượng, mở rộng về quy mô đáp ứng nhu cầu phục vụ người dân, phát triển 
kinh tế và giao thương hàng hóa đối với các địa phương nước bạn Campuchia.  
* Chợ ở tỉnh Tây Ninh được phục hồi và phát triển  sau chiến tranh biên giới Tây 
Nam kết thúc hoàn toàn những năm 90 của thế kỷ XX nhằm đáp ứng nhu cầu phục vụ 
người dân và phát triển kinh tế ­ xã hội địa phương, giao thương kinh tế đối với các địa 
phương nước bạn Campuchia.
Tiểu kết chương 3
Thực hiện chủ trương đổi mới đất nước của Đảng năm 1986, kinh tế cả nước nói 
chung, miền Đông Nam Bộ  nói riêng từng bước được phục hồi. Hoạt động lưu thông, 
trao đổi hàng hóa  ở  miền Đông Nam Bộ  dần dần có sự  chuyển biến theo cơ  chế  thị 
trường. Trong giai đoạn 1986­1995, các địa phương này đã chủ  động xây dựng cơ  chế,  
tạo điều kiện phục hồi và phát triển chợ  truyền thống. Vì vậy, bên cạnh hệ  thống chợ 
truyền thống cũ, khá nhiều chợ  mới được thành lập trong không gian địa lý Đông Nam  
Bộ đáp ứng nhu cầu của người dân trao đổi hàng hóa, phục vụ sản xuất. 
Trong giai đoạn 1995­2010, nhằm tạo hành lang pháp lý đối với hoạt động của 
chợ  truyền thống các bộ  ngành như  Quốc hội, Bộ  Thương mại (Bộ  Công thương),  
Chính phủ đã ban hành nhiều Thông tư, Nghị định,... về quản lý, chiến lược phát triển,  
hoạt động của chợ  truyền thống trên phạm vi cả  nước. Đối với các địa phương miền  
Đông  Nam Bộ   đã chủ   động xây  dựng  đề   án, kế   hoạch, chiến  lược phát triển  chợ 
truyền thống theo từng thời kỳ  nh ất định đáp  ứng yêu cầu phát triển kinh tế  ­ xã hội  
của địa phương. Trong giai  đoạn này,  nguồn cung cấp hàng hóa, phương thức vận 
chuyển, thanh toán đã có nhiều chuyển biến mới, thúc đẩy hoạt động, trao đổi hàng hóa 
của hệ  thống chợ  truyền thống miền Đông Nam Bộ. Qua đó, chợ  truyền thống miền  
Đông Nam Bộ  tăng nhanh về  số  lượng, mở  rộng về  quy mô, đa dạng hình thức hoạt 
động, phong phú về  chủng loại hàng hóa trao đổi của nhiều nước châu Á, Âu, Mỹ,...  
tạo nên một bức tranh đa màu trong hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa của các tầng 

lớp nhân dân, đồng thời, đặt ra nhiều vấn đề cần được giải quyết.
Bước vào thời kỳ hội nhập, xu thế toàn cầu hóa thương mại tác động mạnh mẽ đến 
miền Đông Nam Bộ nói riêng, cả nước nói chung. Vì vậy, hệ thống siêu thị, trung tâm thương  
mại ra đời và cạnh tranh quyết liệt đối với hệ thống chợ truyền thống. Do đó, hệ thống chợ 
truyền thống miền Đông Nam Bộ muốn tồn tại và phát triển hỏi cần có sự đổi mới về quản  


22

lý (giới tư nhân kinh doanh chợ dưới hình thức công ty TNHH), cải tạo và xây dựng mới hạ 
tầng cơ sở vật chất, thay đổi thái độ phục vụ của giới tiểu thương đối với khách hàng,... 
Chương 4
VAI TRÒ TÁC ĐỘNG CỦA CHỢ Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ 
ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG KINH TẾ ­ XàHỘI
4.1. Tác đ ộ ng c ủa ch ợ  đ ố i v ới đ ờ i s ố ng kinh t ế
4.1.1. Trên lĩnh v ự c nông nghi ệ p
Trong nông nghi ệp, lĩnh v ự c chăn nuôi bò đ ạ t k ết qu ả  đáng khích l ệ  so v ớ i  
ngành chăn nuôi c ả  n ướ c. S ản l ượ ng đàn bò mi ề n Đông Nam B ộ  tăng nhanh th ờ i  
k ỳ  kinh t ế  h ội nh ập khu v ực và th ế  gi ớ i góp ph ầ n cung c ấp ngu ồn hàng hóa trao 
đ ổ i mua bán th ị t, s ữ a  đ ố i v ớ i  ch ợ  truy ền th ống,  siêu th ị , trung tâm  th ươ ng m ạ i 
mi ền Đông Nam B ộ  đáp  ứ ng nhu c ầu tiêu dùng ng ườ i dân. S ự  phát tri ể n h ệ  th ống 
ch ợ  truy ề n th ống, siêu th ị  và trung tâm th ươ ng m ạ i mi ề n Đông Nam B ộ  đã thúc 
đ ẩ y ng ườ i dân m ở  r ộ ng s ố  l ượ ng đàn bò trong chăn nuôi góp ph ầ n c ả i thi ệ n sinh  
k ế  ng ườ i nông dân.
4.1.2. Trên lĩnh vực công nghiệp
Thời kỳ đổi mới kinh tế và hội nhập quốc tế, miền Đông Nam Bộ dẫn đầu cả 
nướ c thu  hút vốn  đầu tư   nướ c ngoài. Giá trị  sản xuất công  nghiệp không ngừ ng  
tăng, kết n ối xu ất nh ập kh ẩu thu ận l ợi các nướ c ASEAN và thế  giới. Với đị a thế 
thuận lợi h ạ  t ầng giao thông thủy bộ, hàng không, miền Đông Nam Bộ  luôn luôn 
hấp   dẫn   nhà   đầu   tư   phát   tri ển   công   nghiệp   trong  và   ngoài   nướ c.   Hàng   hóa   công 

nghiệp ngày một dồi dào đáp  ứng nhu cầu tiêu dùng địa phươ ng qua vai trò phân  
phối   bán   lẻ   của   h ệ   th ống   ch ợ.   H ệ   th ống   ch ợ   truy ền   th ống,   siêu   thị,   trung   tâm 
thươ ng mại mi ền Đông Nam Bộ trở  thành cầu nối trung gian thúc đẩ y tiêu dùng sản 
phẩm công nghiệp địa phươ ng phát triển.
4.1.3. Trên lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp
Ngành thủ công nghiệp miền Đông Nam Bộ hưng khởi sau thời gian trầm lắng từ 
1975 đến năm 1985. Sự hồi phục hoạt động hệ thống chợ truyền thống miền Đông Nam  
Bộ (1986­2010) đã thúc đẩy các ngành nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ phát triển 
trở lại đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường. Sản phẩm gốm sứ  ở miền Đông Nam  
Bộ  đã có từ  lâu đời với các địa điểm nổi tiếng như  Sài Gòn, Lái Thiêu (Bình Dương),  
Biên Hoà (Đồng Nai),... Sau khi hệ  thống chợ  nơi này phát triển trở  lại, nhu cầu tiêu  
dùng của người dân đối với sản phẩm gốm tăng dần. 
4.1.4. Trên lĩnh vực thương nghiệp
Trong thời kỳ đổi mới kinh tế, miền Đông Nam Bộ đạt được những thành tựu vượt  
trội trên lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp. Trong nông nghiệp, dưới sự lãnh đạo của 
Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, miền Đông Nam Bộ thực hiện tăng sản  
xuất cây lương thực, thực phẩm, chăn nuôi, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản nhằm đáp ứng 
nhu cầu người dân về lương thực, thực phẩm qua kênh phân phối bán lẻ từ hệ thống chợ.  
Trong công nghiệp, hàng hóa ngày một dồi dào qua kênh phân phối bán lẻ ở hệ thống chợ, 


23

siêu thị, trung tâm thương mại đáp ứng nhu cầu phục vụ người dân. Vì vậy, tổng mức bán 
lẻ ở miền Đông Nam Bộ tăng liên tục từ năm 2000 ­ 2010. 
4.1.5. Đóng góp đối với nguồn thu ngân sách địa phương
Trong giai  đoạn  (1975­1985), hệ  thống chợ  truyền thống miền  Đông  Nam Bộ 
trước năm 1975 được thay thế vai trò bởi hệ thống cửa hàng hợp tác xã thương nghiệp  
quốc doanh. Vì vậy, hệ  thống cửa hàng hợp tác xã thương nghiệp miền Đông Nam Bộ 
không có sự  đóng góp đối với ngân sách địa phương bởi cơ chế bao cấp của Nhà nước 

đối về thương nghiệp. Bước vào thời kỳ mở cửa và hội nhập kinh tế, Đảng, Nhà nước 
chủ  trương phát triển chợ  truyền thống trên phạm vi cả  nước nói chung, ở  miền Đông 
Nam Bộ nói riêng nhằm đáp ứng nhu cầu phục vụ người dân và phát triển kinh tế. Theo  
đó, ngoài nguồn vốn đầu tư nâng cấp, xây dựng mới hệ thống chợ truyền thống của nhà  
nước; các cá nhân, tổ  chức đầu tư  vốn kinh doanh chợ  truyền thống dưới hình thức 
doanh nghiệp tư  nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ  ngày càng 
phát triển về số lượng và quy mô. Sự phục hồi và phát triển hệ thống chợ truyền thống  
ở miền Đông Nam Bộ (1975­2010) đã góp phần phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía 
Nam. 
4.2. Tác động của chợ đối với đời sống văn hóa­xã hội
4.2.1. Giải quyết sinh kế người dân
Theo các nhà khoa học, khái niệm sinh kế   theo nghĩa chung nhất bao gồm các khả 
năng, tài sản (bao gồm cả các nguồn lực vật chất, xã hội) và các hoạt động cần thiết để 
kiếm sống. Ở Việt Nam, khái niệm về sinh kế của hộ hay một cộng đồng được hiểu là 
một tập hợp các nguồn lực và khả năng của con người kết hợp với những quyết định và 
những hoạt động mà họ sẽ thực hiện để kiếm sống đồng thời đạt được những mục tiêu  
đa dạng hơn. Một cách đơn giản và dễ hiểu sinh kế của một hộ gia đình hay một cộng  
đồng chính là kế sinh nhai của hộ hay cộng đồng đó. Theo đó, sự phát triển của hệ thống 
chợ  truyền thống đã hình thành hàng loạt dịch vụ đi kèm, giải quyết sinh kế đảo người 
dân như dịch vụ vận chuyển hàng hóa; sơ  chế, đóng gói hàng hóa; dịch vụ  vệ  sinh môi  
trường, góp phần phát triển du lịch.
4.2.2. Góp phần phát triển tầng lớp tiểu thương mới ở nông thôn và thành thị 
Nguồn nhân lực quyết định sự  phát triển hệ  thống chợ  truyền thống là nữ  tiểu 
thương. Vì vậy, từ  năm 1998, Hội liên hiệp phụ  nữ  phối hợp với Sở  Thương mại (Sở 
Công thương) TP. Hồ  Chí Minh phát động phong trào “Người kinh doanh mới” gồm 5  
tiêu chuẩn [201]  nhằm  thúc đẩy hoạt  động thương nghiệp của  thành phố  theo  định  
hướng hiện đại hóa ngành Thương mại ­ Dịch vụ, tạo sự chuyển biến tích cực để  xây 
dựng chợ văn minh thương nghiệp trong thời kỳ mở cửa, hội nhập khu vực và thế giới. 
4.2.3. Góp phần tạo ra bộ mặt xã hội mới ở các địa phương miền Đông Nam Bộ
Đối   với   văn   hóa   vật   chất,   sự   ho ạt   động   và   phát   triển   hệ   thống   ch ợ   truy ền  

thống đáp  ứng nhu cầu trao đổi hàng hóa của ngườ i dân và góp phần thúc đẩy sản 
xuất kinh t ế  mi ền Đông Nam Bộ. Sự  phát tri ển hệ  thống chợ  truy ền th ống t ừ thành  
thị  đến nông thôn đã góp phần thúc đẩy kinh tế  nông nghiệp, công nghiệp, tiểu th ủ 


24

công nghiệp phát triển thời mở  c ửa, h ội nh ập khu v ực và thế  giới, nâng cao đờ i  
sống vật ch ất ngườ i dân miền Đông Nam Bộ.
4.2.4. Một số đặc điểm
Về thời gian, địa điểm ra đời và hoạt động của chợ: Hệ thống chợ truyền thống  
miền Đông Nam Bộ ra đời muộn hơn so với nhiều chợ  ở miền Bắc và miền Trung. So 
với vùng Tây Nguyên, Tây Bắc Bộ một số chợ truyền thống miền Đông Nam Bộ ra đời  
và phát triển gắn liền miền biển giàu nguồn thủy hải sản, tài nguyên biển (muối, tảo,  
san hô...) đáp  ứng nhu cầu phục vụ  người dân. Đối với hệ  thống chợ  vùng núi, đồng 
bằng, ven biển Bắc Bộ diễn ra hoạt động dưới hình chức chợ phiên từ thứ hai đến chủ 
nhật; hoặc chợ họp phiên chẵn, phiên lẽ; hoặc mỗi năm họp một phiên, đặc biệt nhất là  
chợ  tình Sapa, Lào Cai họp mỗi tuần một phiên vào sáng chủ  nhật,... Đối với hệ  thống 
chợ truyền thống vùng núi, đồng bằng, ven biển miền Đông Nam Bộ không diễn ra hoạt  
động của chợ  phiên (chợ  luân phiên) các ngày trong tuần, trong tháng, trong năm mà hệ 
thống chợ ở đây diễn ra hoạt động chủ yếu phiên sáng và phiên chiều. Đối với chợ vùng  
quê, vùng sâu, vùng xa của một số  xã, huyện của Đồng Nai, Bình Phước, Tây Ninh,...  
họp phiên sáng từ 5 ­ 6 giờ đến khoảng 11 ­ 12 giờ chấm dứt. Đối với hệ thống chợ có  
quy mô nhỏ, chợ tự phát... tọa lạc gần các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế 
xuất ở TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bình Phước chỉ họp phiên chiều từ 16  
giờ đến 20 giờ mỗi ngày trong tuần nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng đối với công nhân 
và người lao động. Đối với các chợ có quy mô lớn, cố định thời gian hoạt động suốt cả 
ngày, thậm chí từ  khoảng 3 giờ  sáng đến 21 giờ  đêm như   ở  TP. Hồ  Chí Minh với chợ 
đầu mối nông sản Thủ Đức, Hóc Môn, chợ đầu mối thủy sản Bình Điền lớn nhất Đông 
Nam Bộ nói riêng, cả nước nói chung, chợ đầu mối nông sản Phước Hòa (Bình Dương), 

chợ đầu mối hải sản Vũng Tàu (Bà Rịa ­ Vũng Tàu).
Về quy mô và mật độ, hệ thống chợ miền Đông Nam Bộ chiếm số lượng và mật  
độ lớn nhất cả nước. Sự phát triển kinh tế, xã hội miền Đông Nam Bộ  gắn liền sự gia  
tăng dân cư cơ học, hệ thống chợ dân sinh, chợ tự phát tăng lên nhanh, đến năm 1998 với  
“mạng lưới chợ  trong vùng có 1.050 chợ  các loại, chiếm 13% số chợ cả nước với mật  
độ  29,7km2/chợ  và 13.500 người/chợ  (cả  nước là 41.4km2/chợ  và 10.600 người/chợ)”. 
Riêng chợ đầu mối hình thành, hoạt động ngày càng hiệu quả  như: Chợ Bình Điền, Thủ 
Đức và Hóc Môn thực sự là một nét riêng và có thể  là một gợi ý cho các địa phương ở 
Nam Trung Bộ hay Bắc Trung  Bộ, một số vùng miền khác khi quy hoạch, đầu tư  phát 
triển chợ đầu mối trước mắt và lâu dài.
Về đặt tên chợ theo tên làng Bắc Bộ, Trung Bộ, sau năm 1954 gần một triệu người 
dân miền Bắc vào định cư  phần lớn trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, trong đó nhiều 
nhất là  ở  Đồng Nai. Các chợ  được đặt tên như: Chợ  Sặt, chợ  Bùi Chu, chợ  Phúc Hải,  
chợ Quảng Biên, chợ Thái Bình,... 
Về chợ mang tính tôn giáo, theo khảo sát của chúng tôi, chợ Long Hoa,  huyện Hòa 
Thành, tỉnh Tây Ninh là ngôi chợ  duy nhất của Việt Nam với kết cấu xây dựng, tôn chỉ 
hoạt động, hàng hóa trao đổi mang màu sắc tôn giáo Cao Đài. Theo tín ngưỡng tôn giáo 
Cao Đài, Long Hoa có ý nghĩa là chỉ khai mở hội Long Hoa do đức Di lạc vương làm chủ 
khảo, là kỳ thi phán xét cuối cùng trong kỳ Hạ Ngươn để  tuyển phong phật vị. Đối với  
hàng hóa trao đổi ở chợ Long Hoa khá đặc biệt so với nhiều chợ trên cả nước. Theo quy 


25

định, người tín đồ đạo Cao Đài trong 1 tháng ăn chay 10 ngày cụ  thể mùng 1, 8, 14, 15, 
18, 23, 24, 28, 29 và 30, nếu tháng thiếu không có ngày 30 thì thay thế bằng ngày 27. Chợ 
Long Hoa được ra đời trên cơ  sở  đáp  ứng nhu cầu phục vụ  người dân theo tín đồ  đạo  
Cao Đài nên vào các ngày ăn chay trong tháng, giới tiểu thương của chợ này chỉ bán các 
mặt hàng phục vụ tín ngưỡng tôn giáo. Hàng hóa phục vụ ăn chay ở chợ Long Hoa ngoài 
các loại rau cải, củ, đậu,… 

Về phương thức đặt tên chợ, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Lợi, trên địa bàn 
TP. Hồ Chí Minh với hệ thống chợ có nhiều tên gọi khác nhau và độc đáo. Theo đó, đặt 
tên chợ   theo  địa phương  nơi tọa  lạc chiếm tỉ   lệ  cao nhất với 170/362  chiếm  tỷ  l ệ 
(46,96%) (chợ Bà Quẹo, chợ Giồng Ông Tố...), tên chợ lấy từ tên ấp, khóm có Ấp Đình,  
Cây Dầu... Chợ  mang tên quận, huyện: Chợ  Phú Nhuận, chợ  Thủ  Đức, chợ  Gò Vấp... 
Tên chợ theo họ đạo có 44 chợ: Chợ Thạch Đà, Lạng Sơn, Bùi Phát... Tên chợ gắn liền 
tên kênh, rạch: Kinh chợ Lớn, cầu Chợ Cầu, sông Chợ  Đệm... Đặt tên chợ  theo đường  
chạy qua với 59/362 chợ  chiếm tỷ  lệ  (16,29%) như  chợ  Hoàng Hoa Thám, chợ  Hàm  
Nghi, Tôn Thất Đạm... trong khi đó  ở  Hà Nội cách đặt tên này khá ít có 9 trường hợp 
(chợ  Cầu Giấy, chợ Đông Thành...). Đặt tên chợ  kết hợp giữa địa danh và số  thứ  tự  có 
8/362 chợ chiếm tỷ lệ (2,20%) như chợ 200, chợ Hẻm 289, chợ H ẻm 33... Đặt tên chợ 
theo địa điểm gần chợ  có 36/362 chợ  chiếm tỷ  lệ (17,95) như chợ  Kinh, chợ  Cầu, chợ 
Cây Da Còm, chợ Cây Gõ, chợ  Vườn Chuối, chợ Lò Heo, chợ  Lò Than, chợ  Miễu, chợ 
Đình, chợ  Bồn Nước, chợ  Thùng Phuy... Đặt tên chợ  theo tên người nổi tiếng  ở  địa 
phương có 7/362 chợ chiếm tỷ lệ (1,93%) như chợ Thị Nghè, chợ Bà Chiểu... 
Về  chợ  đặt theo tên của nữ  giới,  so v ới hệ  th ống chợ  truy ền th ống c ả n ước,  
chợ   ở  miền Đông Nam B ộ  có tên gọi gắn liền ngườ i ph ụ n ữ là nhiều nhất. Mặc dù  
tên gọi những ng ườ i ph ụ  n ữ  g ắn li ền v ới tên chợ  có nhiều lý giải khác nhau, độ 
chính xác khác nhau của gi ới nghiên cứu, nhưng nh ững tên chợ  gắn liền ng ườ i ph ụ 
nữ  đã đi vào tên gọi dân gian bao th ế h ệ  ng ười dân miền Đông Nam Bộ  với chợ  Bà  
Chi ểu, chợ Bà Điểm, Bà Quẹo, Bà Hạt, Bà Hoa, Bà Rịa, Thị Nghè,... 
 Chợ đậm nét dấu ấn người Hoa,  chợ Bình Tây tọa lạc quận 6 TP. Hồ Chí Minh là  
một trong những ngôi chợ mang đậm dấu ấn văn hóa người Hoa lớn nhất Việt Nam. Sự 
hình thành, hoạt động và phát triển chợ  Bình Tây vào cuối thế  kỷ  XVIII gắn liền tiến 
trình di cư  “tha phương cầu thực” của người Hoa xuôi về  phương Nam xây dựng quê  
hương mới. Theo phong tục tập quán, người Hoa thường lập chợ  khi đến nơi định cư 
mới  nhằm  xây  dựng  địa điểm  để  trao  đổi, mua  bán hàng hoá  thúc đẩy kinh  kế   địa  
phương phát triển. Chợ Bình Tây với kiến trúc độc đáo nhất Việt Nam được kết hợp hài  
hòa giữa kiến trúc Trung Hoa cổ  kính và Pháp hiện đại. Chợ   được xây dựng bằng  
nguyên liệu xi măng, cốt sắt với hình chữ nhật theo kỹ thuật phương Tây. Điều đặc biệt  

kiến trúc hình chữ nhật của chợ Bình Tây với cửa chính vào chợ là cột tháp vươn cao có  
4 mặt đồng hồ, có lưỡi long chầu châu, 4 góc với 4 chòi nhỏ  mang triết lý âm dương, 
mái lợp hoàn toàn bằng ngói âm dương theo kiểu xếp chồng lên nhau tạo sự  thông 
thoáng, mát mẻ đối với trong nhà lồng chợ. Đối với các góc của mái, vòm chợ được thiết  
kế  uốn lượn mềm mại theo kiểu chùa chiền phương Đông. Nét nổi bật của chợ  Bình  
Tây không chợ nơi nào ở Việt Nam có được là chính giữa chợ  với khoảng sân rộng rãi, 
thoáng mát, trồng cây xanh. 
Tiểu kết chương 4


×