1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 13 năm đi vào hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã
có những bước tiến vượt bậc và đã có lúc được đánh giá là một trong
những thị trường có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới; đặc biệt là
mức độ, tỷ lệ và tốc độ tăng vốn hóa. Để đáp ứng nhu cầu của thị
trường và nắm bắt cơ hội kinh doanh mới, nhiều công ty chứng khoán
đã được thành lập. Mười ba năm qua, từ chỗ chỉ có 4 công ty chứng
khoán khi thị trường đi vào hoạt động, tính đến 31/12/2012 UBCKNN đã
cấp phép hoạt động cho 105 công ty. Thông qua các hoạt động kinh
doanh chính như môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu
tư, các công ty chứng khoán đã góp phần nâng cao tính thanh khoản cho
thị trường, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước cho nền kinh tế và
thúc đẩy thị trường phát triển.
Tuy nhiên, những diễn biến phức tạp của thị trường chứng khoán
trong thời gian qua, đặc biệt cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008,
đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các công ty
chứng khoán Việt Nam. Nhiều yếu kém của các công ty dần lộ diện: số
lượng các công ty quá nhiều so với quy mô thị trường, năng lực tài chính
yếu kém, khả năng cạnh tranh chưa cao, công tác quản trị công ty chưa
hiệu quả … dẫn đến hiệu quả kinh doanh kém, thậm chí nhiều công ty
rơi vào tình trạng thua lỗ nhiều năm, mất khả năng thanh khoản và phải
nằm trong diện cảnh báo đặc biệt của UBCKNN.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng nêu trên, song một trong
những nguyên nhân chính là do công tác quản lý rủi ro trong hoạt động
kinh doanh của các công ty chứng khoán chưa tốt. Ở một vài công ty
việc quản lý rủi ro nếu có cũng chỉ mang tính hình thức hoặc dừng ở
góc độ xử lý rủi ro chứ chưa đi vào bản chất là cảnh báo rủi ro nhằm
giảm thiểu những thiệt hại có thể xảy ra cho công ty.
Dưới góc độ quản trị doanh nghiệp, quản lý rủi ro là một nội dung
quan trọng giúp công ty có thể chủ động đưa ra các quyết định kinh
doanh và thực hiện các hoạt động này một cách công khai, minh bạch,
hiệu quả. Vai trò của quản lý rủi ro đối với doanh nghiệp đã được các
nhà nghiên cứu tại các nước trên thế giới nghiên cứu sâu sắc dưới nhiều
góc độ khác nhau. Nghiên cứu của Clup (2002) về mối quan hệ giữa
quản lý rủi ro và cấu trúc vốn của doanh nghiệp đã chỉ ra rằng khi
những giả định của Lý thuyết cấu trúc vốn M&M (Modigliani & Miller)
2
thay đổi, quản lý rủi ro có thể giúp gia tăng giá trị công ty thông qua việc
gia tăng giá trị dòng tiền kỳ vọng của công ty, giảm thiểu chi phí sử
dụng vốn.
Tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu chính thức và quy mô về những
vấn đề này cho công ty chứng khoán. Chính vì vậy trong phạm vi nghiên
cứu của luận án tiến sỹ, với mong muốn nghiên cứu và đánh giá thực
trạng công tác quản lý rủi ro tại các công ty chứng khoán, từ đó góp thêm
tiếng nói phản biện cho các công ty chứng khoán, giúp các nhà hoạch
định chính sách, các nhà quản lý có cơ sở vững chắc hơn trong việc ra
quyết định để quản lý rủi ro một cách tốt nhất, đề tài “Tăng cường Quản
lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các Công ty cổ phần chứng
khoán tại Việt Nam” đã được chọn làm đề tài luận án tiến sỹ.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Khái niệm quản lý rủi ro doanh nghiệp (Risk Management
ERM) chính thức xuất hiện vào đầu những năm 1950 trên thế giới.
Đến năm 1963, nghiên cứu của Robert Mehr và Bob Hedges đã tạo ra
một bước ngoặt trong lĩnh vực nghiên cứu về ERM bằng việc tổng
kết các quan niệm trước đây về QLRR và đưa ra một định nghĩa mới
về vấn đề này. Theo Robert và Bob, ERM là một quy trình xem xét
đánh giá toàn diện các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để
nhận biết những nguy cơ tiềm ẩn có thể tác động xấu đến các mặt
hoạt động của doanh nghiệp, trên cơ sở đó sẽ đưa ra các giải pháp
ứng phó, phòng ngừa phù hợp tương ứng với từng nguy cơ. Trên nền
tảng lý thuyết này, các nghiên cứu tiếp theo tập trung vào một số vấn
đề sau:
Thứ nhất, quản lý rủi ro được thực hiện như thế nào? Nghiên
cứu của Clup (2001) đã cụ thể hóa quy trình QLRR bao gồm các bước
cơ bản: nhận diện rủi ro, phân tích đánh giá rủi ro, phân loại xếp
hạng, báo cáo rủi ro, xử lý rủi ro và giám sát rủi ro.
Thứ hai, quản lý rủi ro có tác động như thế nào đến giá trị
doanh nghiệp? Nghiên cứu của Clup (1995) đã hệ thống hóa các luận
điểm về ERM giúp nâng cao giá trị doanh nghiệp trong điều kiện thị
trường không hoàn hảo. Mục tiêu của các nhà quản lý doanh nghiệp
cũng như cổ đông đều hướng đến tối ưu hóa giá trị doanh nghiệp
thông qua các kênh giảm chi phí vốn và gia tăng giá trị dòng tiền kỳ
vọng.
3
Thứ ba, mức độ thực hiện QLRR tại các công ty được đánh giá
như thế nào? Nhiều nghiên cứu sử dụng vị trí giám đốc QLRR như một
minh chứng cho việc thực hiện ERM, song chỉ tiêu này không phản ánh
đầy đủ các nội dung của ERM. Một số nghiên cứu khác sử dụng ERM
rating của các tổ chức như Standard & Poor để đo lường. Về cơ bản chỉ
số này đã bao quát các nội dung và mục tiêu của ERM, nhưng Standard
& Poor mới chỉ cung cấp rating cho các doanh nghiệp bảo hiểm, đối với
các lĩnh vực khác vẫn còn bỏ ngỏ.
Thứ tư, những nhân tố nào có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện
QLRR tại các doanh nghiệp? Nghiên cứu của Kleffner và các cộng sự
(2003) cho rằng các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn thường có xu
hướng thực hiện ERM đầy đủ hơn, do đó giá trị doanh nghiệp có xu
hướng tăng lên. Hoyt (2008) cũng đưa ra kết luận tương tự khi nghiên
cứu ERM tại các công ty bảo hiểm của Mỹ.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về QLRR doanh nghiệp
song các nghiên cứu trên vẫn còn nhiều khoảng trống tri thức cần được
tiếp tục nghiên cứu:
Một là, phần lớn các nghiên cứu tập trung vào các doanh nghiệp
tại các thị trường tài chính đã phát triển, một số được nghiên cứu ở
những thị trường đang phát triển.
Hai là, các nghiên cứu thường tập trung nhiều vào các doanh
nghiệp hoặc định chế tài chính như ngân hàng thương mại và công ty
bảo hiểm. Đối với các công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư, các
nghiên cứu chính thức về ERM rất ít và ở Việt Nam gần như chưa có.
Đây là những doanh nghiệp có đặc thù rủi ro rất cao vì vậy ERM là vấn
đề cần quan tâm hàng đầu.
Ba là, việc yêu cầu thực hiện quản lý rủi ro đối với các doanh
nghiệp ở các thị trường mới nổi và kém phát triển thường đi sau và chưa
chặt chẽ so với các doanh nghiệp ở thị trường đã phát triển.
Bốn là, dưới góc độ quản lý vĩ mô, mục tiêu của các quy định về
ERM là nhằm bảo vệ quyền lợi của cổ đông và thị trường. Do đó,
doanh nghiệp bắt buộc phải thực hiện ERM. Song chi phí để thực hiện
ERM không phải là nhỏ. Chưa có nghiên cứu nào lượng hóa cụ thể chi
phí thực hiện ERM và lợi ích mang lại.
Năm là, về phương pháp nghiên cứu, hạn chế chính hiện nay là
thước đo đánh giá mức độ thực hiện ERM.
4
Tại Việt Nam, Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các
CTCK hiện nay đang là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm
dưới các góc độ và mục tiêu nghiên cứu khác nhau. Tác giả Lê Công
Điền trong luận văn thạc sỹ kinh tế năm 2010 với đề tài “Quản lý rủi ro
tại các Công ty cổ phần chứng khoán ở Việt Nam – Thực trạng và giải
pháp hoàn thiện”, đã đánh giá thực trạng quản lý rủi ro của các công ty
chứng khoán trên cơ sở trình bày quy trình từng nghiệp vụ như môi giới,
tự doanh, bảo lãnh phát hành, kế toán tài chính, qua đó đề cập các rủi ro
phát sinh của từng nghiệp vụ này. Trên cơ sở đó, nêu các biện pháp
kiểm soát rủi ro mà các CTCK hiện nay đang áp dụng làm nền tảng đề
ra các giải pháp hoàn hiện quản lý rủi ro tại CTCK [11]. Tuy nhiên, đề
tài chưa đánh giá chi tiết và cụ thể các rủi ro hệ thống mà công ty chứng
khoán có thể gặp phải cũng như tác động chéo giữa các loại rủi ro trong
hoạt động kinh doanh của công ty. Đề tài cũng chưa làm rõ thực trạng
xử lý rủi ro, các công cụ, biện pháp phòng hộ rủi ro tại các công ty
chứng khoán.
Bài báo của PGS.TS Lê Hoàng Nga trên Tạp chí Chứng khoán số
174, tháng 4/2013 đã đưa ra một số nhận diện rủi ro hoạt động và triển
khai Quản trị rủi ro tại CTCK, trong đó đã phân tích những lý luận cơ
bản về rủi ro hoạt động của CTCK, từ đó đưa ra quy trình quản lý rủi
ro. Song những phân tích trên chưa đi vào thực tiễn và mới chỉ mang tính
sơ lược. Một số bài viết khác về quản lý rủi ro của CTCK tập trung vào
việc giới thiệu, hướng dẫn quy trình quản lý rủi ro và một số biện pháp
để việc triển khai được thực hiện hiệu quả.
Như vậy, các bài nghiên cứu về QLRR tại các công ty chứng khoán
ở Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, xác định rủi ro riêng lẻ
trong hoạt động của CTCK. Chưa có nghiên cứu nào đi sâu phân tích
một cách hệ thống các rủi ro của CTCK bao gồm rủi ro hệ thống và rủi
ro riêng lẻ, đồng thời đánh giá mức độ rủi ro của từng loại, trên cơ sở
đó đưa ra những khuyến nghị cụ thể đối với từng loại rủi ro. Mặt khác,
bản chất của quản lý rủi ro là xác định và cảnh báo sớm các loại rủi ro
có thể xảy ra từ đó đưa ra các biện pháp phòng hộ và xử lý kịp thời. Để
làm được điều này cần đánh giá đúng thực trạng thực hiện công tác
quản lý rủi ro tại các CTCK bao gồm: thực hiện quy trình quản lý rủi
ro; hệ thống cảnh báo sớm, hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ. Đặc
biệt cần phải xác định rõ nhân tố nào ảnh hưởng đến việc thực hiện
QLRR của CTCK, từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp.
5
3. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ về mặt lý luận các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh
của công ty chứng khoán và đặc thù quản lý rủi ro trong hoạt động kinh
doanh của công ty chứng khoán tồn tại dưới hình thức sở hữu là công ty
cổ phần. Hệ thống quy trình quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh
của công ty chứng khoán và các tiêu chí đánh giá mức độ thực hiện
QLRR tại từng công ty và hệ thống các nhân tố ảnh hưởng đến việc
thực hiện này.
Nhận diện và phân tích mức độ rủi ro của từng loại rủi ro theo hai
nhóm (rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống) trong hoạt động kinh
doanh của các công ty chứng khoán Việt Nam tồn tại dưới hình thức là
công ty cổ phần thông qua nghiên cứu khảo sát thực nghiệm. Từ đó,
đánh giá thực trạng thực hiện quy trình nội dung quản lý rủi ro cũng như
việc sử dụng các công cụ, biện pháp xử lý rủi ro đối với các loại rủi ro
nêu trên tại các công ty chứng khoán hiện nay.
Trên cơ sở định hướng hoạt động của thị trường chứng khoán
cũng như của các công ty chứng khoán trong giai đoạn tới, kết hợp với
những đánh giá nêu trên, đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường quản
lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các CTCK, từ đó giúp công ty
gia tăng giá trị, vị trí trên thị trường, đồng thời phát triển ổn định và bền
vững.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các loại rủi ro, quy trình quản lý rủi ro
và các công cụ quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của CTCK tồn
tại dưới hình thức là công ty cổ phần.
Phạm vi nghiên cứu là nhóm các công ty cổ phần chứng khoán
Việt Nam, bao gồm cả công ty chưa niêm yết và đã niêm yết trên Sở
giao dịch chứng khoán Hà Nội và Sở giao dịch chứng khoán Thành phố
Hồ Chí Minh, tính đến 31/12/2013, kết hợp với việc nghiên cứu kinh
nghiệm quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của CTCK ở một số
nước trên thế giới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài sử dụng các
phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh, quy nạp vấn đề.
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem
xét, đánh giá và làm sáng tỏ các vấn đề thực tiễn, rút ra những điểm chủ
yếu cần được giải quyết để đề xuất giải pháp, kiến nghị.
6
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng phương pháp điều tra mẫu đối với
các đối tượng là nhà quản lý rủi ro tại các công ty chứng khoán, thống
kê thu thập số liệu từ báo cáo tài chính của CTCK, báo cáo thường niên
của UBCKNN dưới dạng bảng số liệu exel, sử dụng phần mềm
EPIDATA và SPSS để phân tích, vẽ đồ thị và tính các hệ số tương quan
giữa các biến ngẫu nhiên.
Đề tài cũng kế thừa, vận dụng một số kết quả nghiên cứu của các
công trình khoa học có liên quan đến nội dung nghiên cứu để làm sâu
sắc thêm các luận điểm trong đề tài.
6. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận án bao gồm 3 chương như
sau:
Chương 1: Lý luận về quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh
của công ty cổ phần chứng khoán
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh
của các công ty cổ phần chứng khoán ở Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường quản lý rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của các công ty cổ phần chứng khoán ở Việt Nam
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN
1.1. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm rủi ro trong hoạt động kinh doanh
của Công ty Chứng khoán
Rủi ro trong kinh doanh chứng khoán được hiểu là những biến cố
không mong đợi mà khi xảy ra sẽ dẫn đến tổn thất về tài sản của
CTCK, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm
một khoản chi phí để có thể hoàn thành một nghiệp vụ kinh doanh nhất
định.
Khái niệm này bao hàm hai nội dung cơ bản: (1) Sự thay đổi; (2)
Kết quả của sự thay đổi là không lường trước được [30]. Sự thay đổi
hay chính là sự không chắc chắn về những tình huống có thể xảy ra
trong tương lai, hoặc không thể chỉ định rõ chuyện gì sẽ xảy ra, khả
năng chắc chắn là bao nhiêu phần trăm. Doanh nghiệp khi đầu tư
7
thường không chắc rằng dự án sẽ thành công hay thất bại hoàn toàn, do
đó rủi ro thường là điều không tránh khỏi. Đối với từng quy mô, kết quả
của sự thay đổi sẽ khác nhau. Về cơ bản, đối với CTCK, ngoài lợi
nhuận, rủi ro có thể ảnh hưởng đến tài sản, uy tín đạo đức, thiệt hại
nhân sự, rủi ro nghiệp vụ … và cuối cùng là giá trị của công ty.
1.1.2. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Công ty chứng
khoán
1.1.2.1.Theo đối tượng và hành vi kinh doanh
1.1.2.1.Theo đối tượng và hành vi kinh doanh
Dựa theo tiêu chí này, rủi ro trong hoạt động kinh doanh của CTCK
được chia thành hai loại Rủi ro của quá trình quản trị hệ thống và Rủi ro
đặc thù của từng nghiệp vụ kinh doanh.
1.1.2.2. Theo nguồn gốc phát sinh rủi ro
Theo cách phân loại này, rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng
khoán được chia thành rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống.
1.1.2.3. Sự tương tác giữa các loại rủi ro
Việc phân tích các loại rủi ro về hình thức thường khá độc lập
nhưng trên thực tế giữa chúng lại có những mối tương quan chặt chẽ
với nhau. Chính vì mối tương quan này, việc quản lý rủi ro tại các
CTCK không chỉ đơn thuần dừng ở việc quản lý từng loại rủi ro riêng
lẻ, mà cần có chiến lược quản lý rủi ro một cách tổng thể và hệ thống
để đạt được hiệu quả tốt nhất.
1.1.3. Nguyên nhân rủi ro trong hoạt động kinh doanh của CTCK
Nhóm nguyên nhân khách quan
Nhóm nguyên nhân chủ quan từ phía công ty chứng khoán
Nhóm nguyên nhân thuộc về phía khách hàng
1.2 Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của CTCK
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm QLRR trong hoạt động kinh doanh
của CTCK
Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của CTCK là việc tiếp
cận để nhận dạng và kiểm soát các loại rủi ro có thể xảy ra trong hoạt
động kinh doanh của công ty. Từ đó đưa ra các biện pháp, các công cụ
phòng ngừa rủi ro một cách hiệu quả nhằm giảm thiểu những tổn thất,
ảnh hưởng của rủi ro đến tình hình hoạt động cũng như tài sản của
công ty.
8
QLRR trong hoạt động kinh doanh của CTCK có một số đặc điểm
cơ bản:
Quản lý rủi ro là một nhiệm vụ căn bản và có vai trò trung tâm
trong quản trị CTCK.
Quản lý rủi ro hoạt động kinh doanh của CTCK có nhiều điểm
tương đồng với quản lý rủi ro hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Quản lý rủi ro thông qua quản lý vốn.
1.2.2. Sự cần thiết của Quản lý rủi ro hoạt động kinh doanh Công
ty cổ phần chứng khoán
Theo quan điểm hiện đại, thị trường thường không hoàn hảo và
nhà đầu tư khó có thể xây dựng được một danh mục đầu tư đa dạng hóa
hoàn hảo, chi phí giảm thiểu rủi ro phi hệ thống thường cao hơn lợi ích
mang lại. Trong điều kiện đó, hoạt động QLRR của doanh nghiệp sẽ
mang lại hiệu quả tốt hơn vì có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh và nâng
cao giá trị công ty. Cụ thể:
Giảm gánh nặng thuế
Giảm chi phí đại diện
Phối hợp chính sách tài chính và chính sách đầu tư
Giảm chi phí giao dịch
1.2.3. Nội dung Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của công
ty cổ phần chứng khoán
QLRR không phải là một hoạt động đơn thuần mà là một chuỗi
các hoạt động kết nối nhau tạo thành một quy trình mang tính hệ thống
giúp công ty kiểm soát rủi ro hiệu quả. Về mặt tổng quát, quy trình
quản lý rủi ro CTCK bao gồm các bước: Nhận diện rủi ro; Phân tích rủi
ro; Kiểm soát rủi ro; Giám sát.
1.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá việc thực hiện quản lý rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của Công ty cổ phần chứng khoán
Tính độc lập của bộ phận QLRR biểu hiện qua vị trí của CRO.
Đây là yếu tố quan trọng quyết định đến việc thực hiện QLRR, từ đó
cũng quyết định mức độ ảnh hưởng của ERM đến giá trị công ty.
Chính sách quản lý rủi ro biểu hiện qua việc CTCK xây dựng
khẩu vị rủi ro từ đó đưa ra các hạn mức rủi ro cụ thể đối với từng
nghiệp vụ hoặc nhóm rủi ro chính, áp dụng công cụ, phần mềm để
quản lý rủi ro.
Hệ thống cảnh báo rủi ro sớm (Emerging risk management ): hệ
thống này tập trung vào kiểm soát các nguy cơ có thể xảy ra trong quá
9
trình thực hiện quy trình nghiệp vụ, chấp hành các quy định của pháp
luật trong hoạt động của mỗi nghiệp vụ, đánh giá mức độ tới hạn của
các rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động, rủi ro thanh toán và tổng giá trị
rủi ro trong hoạt động của CTCK.
Các mô hình phân tích và lượng hóa rủi ro (Risk models). Việc các
CTCK áp dụng một số mô hình lượng hóa rủi ro như Value at Risk
(VaR), phân tích kịch bản, cây quyết định, phương pháp mô phỏng cũng
là dấu hiệu cho thấy mức độ thực hiện QLRR.
Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ thực chất là sự tích hợp một
loạt hoạt động, biện pháp, kế hoạch, quan điểm, nội quy chính sách và
nỗ lực của mọi thành viên trong công ty để đảm bảo hoạt động hiệu
quả, đạt được mục tiêu đặt ra một cách hợp lý.
An toàn vốn (Capital safety). Một trong những đặc điểm QLRR
của CTCK là thông qua quản lý vốn, do vậy an toàn vốn là chỉ tiêu được
áp dụng ở hầu hết các nước đối với lĩnh vực kinh doanh chứng khoán
nhằm đo lường và đánh giá thực trạng rủi ro trong hoạt động kinh doanh
của công ty.
1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến Quản lý rủi ro trong hoạt động
kinh doanh của Công ty cổ phần chứng khoán
Cơ cấu tổ chức và hoạt động.
Quy mô và năng lực tài chính
Nguồn nhân lực.
Công nghệ thông tin
Quản lý điều hành
Các quy định của pháp luật về QLRR.
1.3. Kinh nghiệm QLRR trong hoạt động kinh doanh của CTCK ở
một số nước trên thế giới và bài học đối với Việt Nam
1.3.1. Kinh nghiệm của Mỹ
Điều kiện về vốn là công cụ chính được SEC sử dụng nhằm
đảm bảo an toàn hoạt động cho các CTCK, NHĐT
Các NHĐT, CTCK cũng được yêu cầu thực hiện nghiêm ngặt các
quy định về cơ cấu tổ chức, nhân sự trong phòng QLRR
Mô hình QLRR tại NHĐT thường được được tổ chức với cơ cấu
cao nhất là Hội đồng QLRR trực thuộc HĐQT; Ủy ban điều hành; Ủy
ban rủi ro; Ủy ban thông lệ kinh doanh; Ủy ban cam kết; Ủy ban chính
10
sách tín dụng; Ủy ban tài chính; Ủy ban sản phẩm mới; Ủy ban rủi ro
hoạt động.
1.3.2. Kinh nghiệm của Thái Lan
Hoạt động QLRR của CTCK cũng được thực hiện thông qua
quản lý vốn.
UBCK Thái Lan cũng quy định các CTCK phải có bộ phận tuân
thủ nội bộ, bộ phận kiểm toán nội bộ độc lập.
Việc quản lý rủi ro của các CTCK Thái Lan còn được thực hiện
thông qua Trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ (Thailand Securities
Deposit –TSD)
1.3.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc cũng xem hoạt động của các CTCK là loại hình kinh
doanh có điều kiện.
Các CTCK phải chịu sự giám sát hoạt động, thực hiện quản lý
rủi ro theo quy định của quy chế giảm thiểu rủi ro và quy chế giám sát
CTCK do Ủy ban giám quản chứng khoán Trung quốc ban hành (China
Securities Regulatory Commission CSRC).
CTCK được xếp hàng theo các lớp từ A đến E, trong từng lớp,
CTCK có thể được phân loại nhỏ hơn thành 11 tiểu lớp (AAA, AA, A,
BBB, BB, B, CCC, CC, C, D, E). Mức xếp hạng A, B, và C cho thấy
năng lực quản lý rủi ro của công ty chứng khoán là phù hợp kinh doanh
hiện tại, trong đó các tiểu lớp phản ánh mức độ tương đối của quản lý
rủi ro trong ngành.
1.3.4 Một số bài học cho các CTCK Việt Nam
Hoạt động KDCK của các CTCK là loại hình kinh doanh có điều
kiện, trong đó vốn pháp định cho từng loại hình kinh doanh luôn được
quy định và giám sát chặt chẽ bởi UBCK
UBCK ban hành quy chế về QLRR và buộc các CTCK phải tuân
thủ nhằm tạo ra lớp phòng hộ rủi ro thứ hai tại các CTCK
UBCK cũng đưa ra các biện pháp xử lý đối với các CTCK vi
phạm quy chế QLRR rất khắt khe, bao gồm cả xử phạt hành chính và
hình sự.
Xếp hạng và phân loại CTCK
Hoạt động QLRR về bản chất là một hoạt động điều hành doanh
nghiệp
CTCK xây dựng bộ phận QLRR độc lập với các bộ phận kinh
doanh khác
11
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN TẠI
VIỆT NAM
Để đánh giá thực trạng quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh
của CTCK Việt Nam, NCS đã thực hiện khảo đối với các công ty cổ
phần Chứng khoán ở Việt Nam. Các câu hỏi khảo sát được gửi đến
Trưởng bộ phận QLRR tại các CTCK. Đối với các công ty chưa có bộ
phận này, câu hỏi khảo sát được gửi đến trưởng bộ phận kiểm soát nội
bộ của công ty. Các câu hỏi khảo sát tập trung vào hai nội dung cơ bản:
thứ nhất, nhận diện các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các
công ty cổ phần chứng khoán, thứ hai, mức độ thực hiện QLRR tại các
công ty theo các tiêu chí đã được phân tích trong phần lý thuyết. Các số
liệu nghiên cứu cũng được thu thập thêm từ báo cáo tài chính của các
công ty, cũng như từ website của công ty trong giai đoạn 2008 – 2013 để
thống kê số liệu về quy mô, năng lực tài chính, tốc độ tăng trưởng và lợi
nhuận của các công ty, trên cơ sở đó đánh giá ảnh hưởng của các nhân
tố này đến việc thực hiện QLRR tại công ty. Các thông tin về cơ cấu sở
hữu, mức độ độc lập của bộ phận QLRR được thu thập thêm từ báo cáo
thường niên cũng như thông tin từ website của hai sở giao dịch chứng
khoán Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh. Phần mềm EPIDATA và SPSS được
sử dụng để nhập liệu và phân tích kết quả khảo sát.
Trên thực tế số lượng CTCK được cấp phép hoạt động tăng từ 4
công ty trong giai đoạn đầu TTCK đi vào hoạt động lên 105 công ty vào
cuối năm 2008. Con số này được duy trì trong suốt giai đoạn 2009 –
2013. Tuy nhiên, trong số các câu hỏi được gửi đến các công ty cổ phần
chứng khoán, số phiếu hợp lệ thu được là 77, số phiếu không hợp lệ do
không nhận được ý kiến phản hồi, không có báo cáo tài chính tính đến
thời điểm khảo sát, một số công ty sáp nhập với nhau, một số công ty
xin chấm dứt hoạt động do tình trạng yếu kém trong kinh doanh. Trong
số các công ty này, có 27 công ty niêm yết tính đến cuối năm 2012 và
giảm xuống còn 20 công ty tính đến cuối năm 2013. Kết quả nghiên cứu
như sau:
12
2.1. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC
CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
2.1.1. Sơ lược về các công ty cổ phần chứng khoán Việt Nam
Tính chất sở hữu, hiện có khoảng 44% CTCK trong nhóm khảo
sát có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có 13 công ty đã có tỷ lệ vốn đầu
tư nước ngoài ở mức tối đa là 49%, 3 công ty có tỷ lệ trên 40%, 8 công
ty có vốn ngoại từ 530% và 22% có vốn ngoại dưới 5%. Nếu tính theo
vốn điều lệ, tổng giá trị vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài đến cuối
năm 2013 là 4.510,13 tỷ đồng, chiếm 19,7% tổng vốn điều lệ của các
CTCK có vốn đầu tư nước ngoài và bằng 12,88% vốn điều lệ của tất
cả các CTCK hiện đang hoạt động trên TTCK.
Nghiệp vụ kinh doanh, Trên thực tế, trung bình trong giai đoạn
2008 – 2013, trong mẫu nghiên cứu chỉ có 2% công ty thực hiện duy nhất
nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán trong khi có khoảng 60% các
CTCK hoạt động với 2 đến 3 nghiệp vụ, 38% các CTCK thực hiện đầy
đủ cả 4 nghiệp vụ cơ bản.
Quy mô vốn của các CTCK không ngừng gia tăng trong những năm
qua, nhưng nếu xét về tiềm lực tài chính, các công ty này vẫn ở mức rất
thấp. Tính đến cuối năm 2013 chỉ có khoảng 26,8% công ty chứng khoán
đạt đủ điều kiện để thực hiện tất cả nghiệp vụ. Trong đó, số CTCK có
lượng vốn lớn (trên 1000 tỷ) chiếm số lượng rất ít, thậm chí có xu
hướng giảm dần trong vòng 4 năm trở lại đây.
Năng lực tài chính. Mặc dù quy mô vốn của các CTCK không
ngừng gia tăng trong những năm qua, nhưng nếu xét về tiềm lực tài
chính, các công ty này vẫn ở mức rất thấp so với các định chế tài chính
khác trên TTCK Việt Nam cũng như các thị trường khác trong khu vực.
Nếu so sánh với các Ngân hàng thương mại, Công ty bảo hiểm, Công ty
tài chính hiện đang niêm yết trên thị trường thì quy mô tài sản của các
CTCK đang niêm yết vẫn thấp hơn khá nhiều. Bảng 2.1 cho thấy, tính
đến cuối năm 2013 bình quân tổng tài sản của một NHTM đạt khoảng
271.700 tỷ đồng, con số này đối với Công ty bảo hiểm là 5.150 tỷ đồng,
trong khi CTCK chỉ là 1.428 tỷ đồng chưa bằng 30% mức trung bình của
công ty bảo hiểm.
Khả năng sinh lời. Từ năm 2011 đến nay, TTCK có dấu hiệu phục
hồi và tăng điểm, các hệ số khả năng sinh lời của các CTCK cũng có xu
hướng tăng trở lại, tuy rằng bình quân vẫn đang ở mức âm.
13
Khả năng thanh toán. Phần lớn các công ty được nghiên cứu đều
có khả năng thanh khoản tương đối tốt, trong đó có 27 công ty có hệ số
tài sản ngắn hạn/nợ ngắn hạn là trên 200%, 7 công ty đạt mức từ 150%
200% và 3 công ty từ 100% 150%.
2.1.2. Nhận diện rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các Công ty
cổ phần chứng khoán ở Việt Nam
Căn cứ vào kết quả điều tra từ 77 CTCK, NCS đã sử dụng phần
mềm thống kê SPSS xác định các yếu tố rủi ro cơ bản ảnh hưởng lớn
đến hoạt động kinh doanh của CTCK. Mô hình nghiên cứu của 35 quan
sát bao gồm các yếu tố rủi ro có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của CTCK như đã phân tích ở phần trên. Sau khi chạy các mô
hình phụ, phương pháp phân tích nhân tố tìm kiếm EFAExploratory
Analysis với phép xoay Varimax được áp dụng để phân tích 35 biến
quan sát.
Sử dụng phương pháp kiểm định KMO (Kaiser – Meyer – Olkin)
và Barlett để kiểm định sự tương thích của mẫu khảo sát nêu trên. KMO
là chỉ tiêu xem xét sự thích hợp của EFA, nếu 0,5<= KMO <= 1 phân tích
nhân tố là thích hợp. Barlett kiểm định giả thuyết H0: độ tương quan
giữa các biến quan sát bằng 0. Nếu kiểm định này có ý nghĩa thống kê
(Sig < 0,05) thì các biến có tương quan với nhau trong tổng thể. Kết quả
phân tích EFA được trình bày trong bảng 2.12 có hệ số KMO = 0,542
(>0,5) cho thấy phân tích nhân tố EFA là thích hợp và Sig = 0,000
(<0,005) chứng tỏ các biến quan sát có tương quan với nhau trong tổng
thể.
Bảng 2.12 Kết quả kiểm định KMO và Bartlett
KMO and Bartlett's Test
KaiserMeyer
Olkin Measure of
.542
Sampling
Adequacy.
Approx. ChiSquare
1539.845
Bartlett's Test of
df
561
Sphericity
Sig.
.000
Tiếp đến phương pháp Principal componants analysis được áp
dụng để xác định yếu tố giải thích được nhiều biến thiên nhất trong
tổng thể. Theo tiêu chuẩn Kaiser, những yếu tố có chỉ số Eigenvalue
14
nhỏ hơn 1 sẽ bị loại khỏi mô hình vì nó bao hàm ít sự biến thiên được
giải thích bởi một biến duy nhất. Kết quả bảng 2.13 cho thấy từ 34
biến ban đầu, có 10 nhân tố có Eigenvalue > 1 và được chọn.
Khi các nhân tố đã được xác định, phép xoay Varimax được sử
dụng để tìm ra các yếu tố có trị số lớn nhất. Để phân tích nhân tố EFA
được xem là quan trọng và có ý nghĩa thiết thực, chỉ giữ lại những biến
quan sát có trọng số lớn hơn 0,5. Sau khi dán nhãn các biến, kết quả
được trình bày trong bảng 2.15. Đối với rủi ro hệ thống, các yếu tố như
biến động lãi suất, thiếu thông tin, thông tin không chính xác, làm sai
luật hay luật thay đổi được đánh giá là những rủi ro có ảnh hưởng lớn
đến hoạt động kinh doanh của CTCK. Về rủi ro phi hệ thống, các yếu
tố như năng lực cán bộ lãnh đạo yếu, dự đoán sai, bộ máy quản lý
không phù hợp, thiếu quy trình nghiệp vụ, lỗi kỹ thuật, lỗi con người
trong quá trình tác nghiệp là những yếu tố rủi ro có mức ảnh hưởng lớn
nhất đến hoạt động kinh doanh của CTCK. Kết quả này là cơ sở để các
công ty chứng đưa ra các quyết định QLRR hợp lý hơn trong hoạt động
kinh doanh của mình.
Bảng 2.15 Tổng hợp các yếu tố rủi ro cơ bản đối với CTCK Việt
nam
Hệ số tải
Các yếu tố rủi ro
nhân tố
Rủi ro hệ thống
Biến động lãi suất
0.888
Thiếu thông tin
0.837
Thông tin không chính xác
0.835
Làm sai luật
0.809
Luật thay đổi
0.795
Xử lý thông tin không kịp thời
0.792
Làm sai luật
0.790
Biến động giá cả
0.782
Biến động GDP
0.782
Biến động tỷ giá
0.772
Rủi ro thiên tai
0.521
Rủi ro phi hệ thống
Đầu tư sai
0.928
Năng lực cán bộ lãnh đạo yếu
0.837
15
Dự đoán sai
0.825
Bộ máy quản lý không phù hợp
0.786
Thiếu quy trình nghiệp vụ
0.758
Lỗi kỹ thuật, lỗi hệ thống, quy trình nghiệp
vụ
0.744
Lỗi con người trong quá trình tác nghiệp
0.735
Chính sách khen thưởng không hợp lý
0.682
Không kiểm tra, giám sát chặt chẽ
0.677
Đòn bẩy tài chính cao
0.664
Thiếu vốn, không đủ vốn
0.625
Bị lừa đảo, chiếm dụng vốn
0.613
Rủi ro thanh toán
0.595
Extraction Method: Principal Component Analysis.
2.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM
2.2.1. Khung pháp lý về quản lý rủi ro Công ty cổ phần chứng
khoán Việt Nam
2.2.1.1. Quy định về Quản lý rủi ro
Yêu cầu về QLRR tại CTCK lần đầu tiên được luật hóa thông qua
Quyết định 105/QĐUBCK ban hành ngày 26/2/2013. Quy định này
hướng dẫn việc thiết lập và vận hành hệ thống quản trị rủi ro cho công
ty chứng khoán để đảm bảo ngăn chặn, hạn chế một cách hiệu quả
những tổn thất do rủi ro gây ra
2.2.1.2. Quy định về an toàn vốn
Thông tư 226/2010/TTBTC ngày 31/12/2010 về Quy định chỉ tiêu
an toàn tài chính và biện pháp xử lý đối với các tổ chứng kinh doanh
chứng khoán không đáp ứng chỉ tiêu an toàn tài chính.
Thông tư 210/2012/TTBTC (Thông tư 210) thay thế Quyết định
27/2007/QĐBTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thành lập và hoạt động
CTCK, có hiệu lực từ 15/1/2013, điều kiện hoạt động của CTCK được
siết chặt hơn.
Thông tư 165/2012/TTBTC ngày 9/10/2012 về Sửa đổi, bổ sung
một số điều của thông tư số 226 của Bộ Tài chính quy định chỉ tiêu An
toàn tài chính và biện pháp xử lý đối với các tổ chức kinh doanh chứng
khoán không đáp ứng chỉ tiêu an toàn tài chính.
16
2.2.1.3. Quy chế xếp loại công ty chứng khoán theo tiêu chuẩn
CAMEL
Tháng 10/2013, UBCKNN đã ban hành Quy chế hướng dẫn xếp
loại CTCK theo tiêu chuẩn CAMEL theo Quyết định số 617/QĐUBCK
ngày 9/10/2013. Quy chế này được ban hành nhằm phân loại, đánh giá
một cách toàn diện hoạt động của các CTCK, trên cơ sở đó hỗ trợ cho
UBCK trong công tác quản lý, giám sát hoạt động của các công ty này.
2.2.2. Thực trạng Quản lý rủi ro của Công ty cổ phần chứng khoán
ở Việt Nam
Chưa có CTCK nào trong nhóm khảo sát xây dựng và thực hiện
khung QLRR một cách đầy đủ và toàn diện trên phạm vi toàn công ty.
Một trong những lý do cơ bản giải thích cho kết luận này là các CTCK
trong mẫu điều tra nghiên cứu đều chưa xây dựng hệ thống cảnh báo
sớm để nhận diện thông tin cảnh báo các rủi ro mới có thể ảnh hưởng
lớn đến công ty, hoặc theo dõi các thay đổi rủi ro và báo cáo kịp thời các
thất bại kiểm soát.
Hơn 1/3 số CTCK được khảo sát đã xây dựng và thực hiện một
phần khung QLRR trong hoạt động kinh doanh. Một trong những nội
dung của khung QLRR được nhiều CTCK thực hiện nhất là các công ty
đã xây dựng được chính sách QLRR, hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội
bộ và các mô hình định lượng rủi ro. Cụ thể, hơn 70% các công ty ở thời
điểm khảo sát đã xây dựng chính sách QLRR thể hiện trên các báo cáo
tài chính hằng năm.
Hơn 40% các công ty đã xây dựng được một phần khung quản lý
rủi ro nhưng chưa triển khai thực hiện. Kết quả này phần lớn xảy ra
tại các CTCK chưa có bộ phận QLRR độc lập, việc thực hiện QLRR
chủ yếu dựa vào hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
Mặc dù một số công ty chứng khoán chưa triển khai thực hiện
QLRR tại công ty song hầu hết đều lên kế hoạch triển khai trong thời
gian ngắn. Trải qua những giai đoạn khó khăn từ 2008 đến nay, các công
ty chứng khoán đều thấy được mức độ cạnh tranh trong ngành cung cấp
dịch vụ tài chính này là hết sức gay gắt, do đó đòi hỏi các công ty phải
có những chiến lược, bước đi hết sức rõ ràng, phải rà soát, đánh giá lại
toàn bộ các quy trình kiểm soát nội bộ, quản lý rủi ro, tăng cường công
tác quản trị doanh nghiệp, tuân thủ quy định pháp luật trong toàn bộ hoạt
động của mình. Hơn nữa, với quy định 105 về QLRR được ban hành nêu
17
trên, việc xây dựng và thực hiện QLRR không còn là sự lựa chọn mà
mang tính bắt buộc đối với CTCK.
Mức độ thực hiện QLRR tại các CTCK tỷ lệ thuận với quy mô
nhưng không có mối tương quan nhiều với tỷ lệ an toàn vốn khả dụng
của công ty. Ba công ty có quy mô lớn nhất hiện nay không phải là
những công ty có mức độ thực hiện quản lý rủi ro cao nhất theo kết quả
khảo sát. Trên thực tế, một số công ty chứng khoán có quy mô nhỏ hơn,
song việc thực hiện QLRR lại rất tốt. Đặc biệt là những công ty có vốn
đầu tư nước ngoài, biểu hiện qua việc công ty không những xây dựng
chính sách rủi ro hằng năm mà còn xây dựng được văn hóa QLRR trên
toàn công ty, các báo cáo rủi ro được thực hiện định kỳ hàng quý, hằng
năm và phân công rõ quyền hạn và trách nhiệm của các bộ phận tham
gia QLRR.
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO CỦA CÁC
CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
2.3.1. Những mặt đạt được
Thứ nhất, các CTCK đã từng bước xây dựng và áp dụng khung
QLRR trong hoạt động kinh doanh một cách hệ thống và toàn diện.
Thứ hai, sự độc lập của bộ phận QLRR được đề cập và trở thành
yêu cầu mang tính bắt buộc không chỉ ở các văn bản pháp lý của UBCK
mà ở cả các quy định của công ty.
Thứ ba, bộ phận KTKS nội bộ đã bắt đầu thực hiện đúng vị trí và
chức năng của mình trong việc thanh tra, giám sát các hoạt động hàng
ngày của CTCK, từ đó phát hiện và xử lý kịp thời các sai sót trong hoạt
động hàng ngày của CTCK.
Thứ tư, các CTCK ngày càng ý thức và tuân thủ chặt chẽ hơn tỷ lệ
an toàn vốn khả dụng nhằm đáp ứng quy định của thông tư 226 về an
toàn tài chính và cũng là an toàn cho chính công ty và hệ thống tài chính.
Thứ năm, năng lực tài chính của CTCK ngày một nâng cao, đáp
ứng tương đối tốt nhu cầu hoạt động kinh doanh hiện tại và quy định
về quản lý vốn của UBCKNN.
Thứ sáu, QLRR trở thành vấn đề được quan tâm hàng của UBCK
trong quá trình tái cấu trúc CTCK ở Việt Nam.
18
2.3.2. Những mặt hạn chế
Thứ nhất, văn hóa quản trị rủi ro vẫn chưa được thấm nhuần
trong hoạt động kinh doanh của CTCK. Nhiều các công ty vẫn coi quản
lý rủi ro làm phát sinh các chi phí nhiều hơn mang lại lợi nhuận.
Thứ hai, gần như các CTCK chưa có sự tách biệt chuyên môn hóa
về các loại rủi ro để thực hiện quản lý rủi ro. Mọi rủi ro đều do cả
phòng phụ trách.
Thứ ba, các công ty chứng khoán chưa xây dựng được các mô hình
tổ chức hợp lý cho phòng quản lý rủi ro. Đồng thời các bước trong quy
trình phát hiện, giám sát và xử lý rủi ro cũng không được quy định rõ
ràng và thống nhất.
Thứ tư, không có sự liên kết giúp đỡ giữa các phòng ban trong công
ty chứng khoán về QLRR. Trên thực tế, việc quản lý rủi ro có hiệu quả
ngoài sự tham gia của phòng quản lí rủi ro cần có sự giúp đỡ của các
phòng ban khác như ban giám sát, phòng kinh doanh, phòng kế toàn kiểm
toán, phòng phân tích.
Thứ năm, đa số các phòng quản lý rủi ro của các công ty chứng
khoán chỉ làm nhiệm vụ là phát hiện ra các rủi ro chứ chưa có những
biện pháp để giám sát hay phòng ngừa rủi ro khi rủi ro xuất hiện.
Thứ sáu, vẫn còn một số bất cập trong các văn bản quy định về
QLRR đối với các CTCK.
2.3.3. Nguyên nhân
2.3.3.1. Nhóm nguyên nhân khách quan
Một là, các cơ quan quản lý như UBCKNN, SGDCK chưa có
những quy định cụ thể để giúp công ty chứng khoán hiểu rõ và thực
hiện đầy đủ, toàn diện quy trình quản lý rủi ro.
Hai là, TTCK Việt Nam còn khá mới mẻ, chưa cung cấp nhiều
các công cụ, sản phẩm đa dạng, phong phú, đặc biệt thiếu hẳn thị
trường chứng khoán phái sinh.
Ba là, những quy định, hành lang pháp lý đối với hoạt động kinh
doanh chứng khoán đang tạo ra môi trường kinh doanh quá thận trọng.
Bốn là, các chương trình giảng dạy ở Việt Nam chưa đề cập sâu
và riêng biệt đối với lĩnh vực quản trị rủi ro nên ít người có chuyên môn
về lĩnh vực này.
2.3.3.2. Nhóm nguyên nhân chủ quan
Mô hình tổ chức, hoạt động của CTCK còn nhiều bất ổn, chưa xác
định được một mô hình tối ưu, phù hợp với TTCK Việt Nam nên chưa
19
có điều kiện để áp dụng hiệu quả mô hình quản trị doanh nghiệp hiện
đại trong quản lý, điều hành CTCK;
Đi kèm với tốc độ gia tăng số lượng, chất lượng nguồn nhân lực
lại chưa được đảm bảo; Chất lượng công nghệ thông tin chưa cao;
Năng lực quản lý điều hành thấp
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG
KHOÁN Ở VIỆT NAM
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VÀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
3.1.1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán phù hợp với điều
kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước, hình thành một hệ thống
thị trường chứng khoán đồng bộ và thống nhất trong tổng thể thị trường
tài chính của đất nước.
Phát triển, mở rộng thị trường chứng khoán có tổ chức, thu hẹp thị
trường tự do đồng thời đặc biệt coi trọng vấn đề chất lượng và sự an
toàn của thị trường, từng bước tiếp cận với các thông lệ và chuẩn mực
quốc tế.
Phát triển thị trường chứng khoán theo hướng gắn kết với việc cải
cách, sắp xếp khu vực doanh nghiệp nhà nước, tạo động lực cho các
doanh nghiệp, các thành phần kinh tế cả về năng lực tài chính và quản
trị doanh nghiệp.
Nhà nước thực hiện quản lý bằng công cụ pháp luật, có các chính
sách hỗ trợ, tạo điều kiện để thị trường chứng khoán phát triển ổn định,
vững chắc; phát huy vai trò của các tổ chức tự quản, hiệp hội nhằm bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp và khuyến khích các chủ thể tham gia thị
trường chứng khoán.
3.1.2. Mục tiêu và định hướng phát triển CTCK
Cơ cấu lại số lượng các công ty chứng khoán theo hướng duy trì
số lượng phù hợp với quy mô của thị trường, xử lý thanh lọc các công ty
chứng khoán yếu kém, không hiệu quả (không phân biệt công ty lớn hay
bé).
20
Cấu trúc lại mô hình tổ chức hoạt động của các công ty chứng
khoán nhằm nâng cao chất lượng hoạt động, năng lực tài chính, quản trị
doanh nghiệp và khả năng kiểm soát rủi ro.
Cơ cấu lại thành phần tham gia góp vốn trong công ty chứng
khoán trong đó có các ngân hàng, tổng công ty, tập đoàn, góp vốn của
Nhà Nước theo hướng hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tăng cường khả năng, hiệu quả quản lý, giám sát đối với hoạt
động công ty chứng khoán.
Mở cửa thị trường dịch vụ tài chính theo lộ trình hội nhập đã cam
kết.
3.1.3. Mục tiêu và yêu cầu QLRR tại CTCK
Đảm bảo công ty có các cấu trúc và quy trình cần thiết đả bảo vệ
công ty khỏi các trạng thái rủi ro không chấp nhận được cũng như tận
dụng được các cơ hội tiềm ẩn của nó.
Chủ động nhận dạng, nắm bắt và quản lý được các rủi ro cố
hữu trong các dịch vụ và gắn liền cùng với các kế hoạch, chiến lược
của công ty, khuyến khích việc chấp nhận rủi ro có cân nhắc và có trách
nhiệm.
Mọi rủi ro có nguy cơ gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả và mục
tiêu hoạt động của CTCK đều phải được nhận dạng, đo lường, đánh giá
một cách thường xuyên, liên tục để kịp thời phát hiện, ngăn ngừa và có
biện pháp quản lý rủi ro thích hợp.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO TẠI
CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
3.2.1. Xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro
Mặc dù không có một mô hình tổ chức QLRR phù hợp cho tất cả
các CTCK, tuy nhiên việc áp dụng mô hình QLRR tổng hợp sẽ giúp
CTCK Việt Nam thực hiện được yêu cầu QLRR nêu trên một cách tốt
hơn. Cụ thể như sau:
21
Sơ đồ 3. Mô hình tổ chức QLRR hiện đại của CTCK
Giám đốc QLRR (CRO) chịu trách nhiệm quản lý chung tất cả các
loại rủi ro trong công ty và hoạt động độc lập với các bộ phận chức
năng khác, đồng thời CRO cũng chịu trách nhiệm báo cáo trực tiếp cho
giám đốc tài chính, giám đốc điều hành và HĐQT. Giám đốc QLRR có
thể là thành viên của HĐQT nhằm tăng cường tính tuân thủ trong
QLRR. Tuy nhiên, CRO không chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp các bộ
phận điều hành khác như kiểm toán nội bộ, công nghệ thông tin, pháp
chế, bảo hiểm …
3.2.2. Xây dựng khung quản lý rủi ro (Risk management framework)
Thành phần chủ chốt của khung QLRR là một tập hợp các tiêu
chuẩn rủi ro cốt lõi cung cấp hướng dẫn về cơ sở kiểm soát và đảm
bảo môi trường hoạt động. Các khung được bổ sung với các công cụ
khác nhau nhưng đều có các thành phần chính: xác định chiến lược rủi
ro, xây dựng cấu trúc quản trị, phân định luồng báo cáo, kiểm soát tự
đánh giá, quản lý sự kiện rủi ro, các chỉ số đo lường rủi ro chính và công
cụ giảm thiểu rủi ro. Về cơ bản, CTCK Việt Nam hoàn toàn có thể áp
dụng khung QLRR nêu trên để thực hiện các quy định về QLRR
22
Nguồn: KPMG International 2007
Sơ đồ 3. Khung quản lý rủi ro theo Basel II
3.2.3. Xây dựng khung quản lý nguồn vốn (Capital funding
framework)
Về cơ bản, khung quản lý nguồn vốn được xây dựng trên 3 mô
hình tương ứng với 3 cập độ quản lý rủi ro thanh khoản: bình thường,
căng thẳng và khủng hoảng và được tổ chức định mức tín nhiệm
Moody’s đánh giá là một trong những khung quản lý nguồn vốn tốt nhất
trên phố Wall.
Nguồn: Cẩm nang NHĐT, Mạc Quang Huy (2008)
Sơ đồ 3. Khung quản lý nguồn vốn của NHĐT quốc tế lớn
3.2.4. Xây dựng khung quản lý rủi ro tín dụng
Về cơ bản, CTCK cần thực hiện phân tách chức năng bán hàng, chức
năng thẩm định, quản lý rủi ro tín dụng và chức năng quản lý nợ trong
hoạt động cấp tín dụng cho các khách hàng thực hiện hoạt động ký quỹ.
3.2.5. Xây dựng hệ thống các công cụ quản lý rủi ro
Đây gần như là nội dung chưa được đề cập đến trong quy định về
QLRR của các công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. Về cơ bản,
các CTCK có thể áp dụng một số công cụ QLRR sau [4]: báo cáo dấu
hiệu rủi ro chính, báo cáo sự cố rủi ro, báo cáo lỗi/sai sót, ma trận rủi ro
23
3.2.6. Xây dựng quy trình quản lý rủi ro
Trên cơ sở hướng dẫn của UBCKNN về quy chế quản lý rủi ro,
CTCK cần xây dựng một quy trình quản lý rủi ro đầy đủ phù hợp với
hoạt động của từng công ty. Về cơ bản, quy trình quản lý rủi ro này cần
đảm bảo các nội dung như sau:
Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm rủi ro
Xây dựng hệ thống phòng ngừa và rào chắn rủi ro
Xây dựng hệ thống xử lý rủi ro
3.2.7. Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Xây dựng văn hóa quản lý rủi ro chuyên nghiệp
xây dựng và triển khai bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp
xây dựng cơ chế lương, thưởng hợp lý
xây dựng cơ chế đào tạo và tự đào tạo
3.2.8. Nâng cao năng lực tài chính
Để có thể thực hiện được các giải pháp nêu trên, vấn đề có ý
nghĩa là CTCK cần có một nguồn lực tài chính vững mạnh. Các CTCK
có một số phương thức nhất định có thể giúp tăng vốn
3.2.9. Nâng cao năng lực công nghệ và trình độ kỹ thuật
Để nâng cao trình độ kỹ thuật, năng lực công nghệ cho các CTCK
cần thực hiện một số biện pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cấp đầu tư vào hệ thống công nghệ thông tin bằng
cách mua các phần mềm đã được sử dụng trên thế giới và đồng bộ hệ
thống phần mềm các công ty chứng khoán sử dụng tránh tình trạng bị ách
tắc thông tin khiến nhà đầu tư và công ty chứng khoán gặp phải rủi ro
khi đầu tư.
Hai là, cần dành một bộ phận nguồn lực tài chính đầy đủ, kịp thời
để phục vụ mục tiêu đầu tư, nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ của
công ty.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.3.1. Hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động kinh doanh chứng
khoán
Thứ nhất, pháp luật về ngân hàng đầu tư cần tập trung làm rõ
một số nội dung quan trọng sau:
Mô hình ngân hàng đầu tư được phép áp dụng trên thị trường, trong
thời gian trước mắt mô hình nên phát triển là các ngân hàng đầu tư
chuyên sâu hoạt động theo cơ chế công ty cổ phần.
24
Cơ chế chuyển đổi CTCK thành các ngân hàng đầu tư, hoạt động
thiết lập NHĐT của các NHTM, Công ty bảo hiểm.
Các nội dung hoạt động chủ yếu của ngân hàng đầu tư. Trong giai
đoạn đầu nên tập trung vào hai hoạt động là tư vấn tài chính, tư vấn
mua bán, sáp nhập doanh nghiệp và hoạt động bảo lãnh phát hành chứng
khoán.
Cơ chế kiểm soát hoạt động của ngân hàng đầu tư trong đó tập
trung quyền quản lý kiểm tra cho UBCKNN. Có cơ chế phối hợp giám
sát giữa UBCKNN và Ủy ban giám sát tài chính quốc gia đối với hoạt
động của các ngân hàng đầu tư.
Các điều kiện cấp phép hoạt động cho ngân hàng đầu tư như mức
vốn pháp định, đội ngũ nhân viên hành nghề, cơ chế quản trị doanh
nghiệp, quản trị rủi ro. Mức vốn pháp định cho hoạt động của NHĐT
chuyên sâu về hoạt động tư vấn có thể tương đương với mức vốn pháp
định công ty quản lý quỹ hiện hành ở Việt nam
Thứ hai, khung pháp lý về hoạt động M&A các CTCK. Cùng với
sự phát triển của thị trường tài chính, hoạt động sáp nhập, mua lại công
ty chứng khoán đang dẫn trở thành xu hướng tất yếu. Đây được xem như
một công cụ chiến lược để phát triển hay tái cơ cấu lại CTCK, do sau
khi sáp nhập, mua lại lợi ích của các bên tham gia thu được là rất lớn: sự
tăng trưởng hiệu quả kinh tế nhờ quy mô khi tăng thị phần, giảm chi phí
cổ định, chi phí nhân lực … Tuy nhiên, để hoạt động M&A thực sự sôi
động và phát triển cần khắc phục những nguyên nhân chủ quan và khách
quan đã nêu trên, trong đó những vấn đề liên quan đến khung pháp lý, cơ
chế tài chính, thuế và các chính sách phát triển thị trường … cần được
chú trọng nhằm khuyến khích các CTCK sáp nhập, hợp nhất với nhau
chứ không chỉ dừng lại ở những thương vụ chuyển nhượng sở hữu cổ
phần như hiện nay.
Thứ ba, các quy định về quản lý rủi ro. Hiện nay UBCK đã xây
dựng được bộ ba công cụ về QLRR đối với CTCK: khung pháp lý về
QLRR thông qua quy định 105; cơ chế kiểm soát việc thực hiện
(CAMELs) và hệ thống cảnh báo sớm rủi ro. Vấn đề đặt ra cần có một
chế tài cụ thể, rõ ràng để tăng cường tính tuân thủ QLRR tại các CTCK.
3.3.2. Xây dựng bộ chỉ số đánh giá mức độ thực hiện quản lý rủi ro
Về mặt nguyên lý, chỉ số mức độ thực hiện QLRR (Risk
management rating) phải bao quát được một số nội dung cơ bản sau:Văn
hóa quản lý rủi ro công ty (Risk Management culture); Kiểm soát rủi ro
25
(Risk control); Các mô hình QLRR (Risk model); Chiến lược quản lý rủi
ro. Trên thực tế, bộ chỉ tiêu đánh giá mức độ thực hiện QLRR tại các
công ty cổ phần chứng khoán Việt Nam được áp dụng trong bài có thể
là một gợi ý cho CTCK. Tuy nhiên, để đảm bảo bộ chỉ tiêu có ý nghĩa
thực tế cần có một số điều kiện như sau: CTCK phải công khai, minh
bạch hóa thông tin đầy đủ; Báo cáo rủi ro nộp cho UBCK phải trung
thực, đúng hạn….
3.3.3. Tăng cường quản lý vốn tại các công ty chứng khoán
UBCKNN cần có sự giám sát chặt chẽ việc tuân thủ mức vốn
pháp định của các CTCK. UBCKNN cần phải đưa ra những chế tài
nghiêm khắc nhằm xử phạt những công ty không tuân thủ quy định của
pháp luật.
3.3.4. Tăng cường vai trò trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ
Tại Việt Nam, việc thanh toán bù trừ được thực hiện thông qua
Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam (VSD) sau khi kết thúc phiên
giao dịch. Trong thời gian tới, VSD cần có những thay đổi tích cực hơn
để thực hiện tốt vai trò của một tổ chức thanh toán bù trừ nêu trên.
Trong đó cần áp dụng hệ thống chuyển nhượng cổ phiếu ghi sổ thay
thế cho hệ thống lưu ký và chuyển nhượng ghi sổ chứng chỉ cổ phiếu
trước đây.
3.3.5. Phát triển thị trường chứng khoán phái sinh
KẾT LUẬN
Trong điều kiện TTCK Việt nam ngày một hội nhập nhanh hơn,
mạnh hơn vào TTCK, TTTC khu vực và thế giới theo xu hướng quốc tế
hóa, các CTCK trên thị trường với tư cách là định chế trung gian không
thể thiếu trong hoạt động của TTCK luôn cần không ngừng hoàn thiện,
nâng cao hiệu quả hoạt động, phát triển ổn định, bền vững.
Luận án đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận về rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của CTCK, phân loại rủi ro và các nhân tố ảnh hưởng
đến rủi ro đối với công ty. Từ đó luận án đã đi sâu xác lập lý luận về
quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của CTCK. Nghiên cứu kinh
nghiệm quản lý rủi ro CTCK ở một số nước và rút ra các bài học kinh
nghiệm có giá trị cho quá trình phát triển và quản lý rủi ro CTCK ở Việt
nam. Trong chương 2, trên cơ sở đánh giá tổng quan về hoạt động kinh