Tải bản đầy đủ (.pdf) (275 trang)

Luận án tiến sĩ Hán Nôm: Nghiên cứu văn bản tác phẩm Chu nguyên tạp vịnh thảo của Lý Văn Phức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.87 MB, 275 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ MAI HƢƠNG

NGHIÊN CỨU VĂN BẢN TÁC PHẨM
CHU NGUYÊN TẠP VỊNH THẢO CỦA LÝ VĂN PHỨC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÁN NÔM

Hà Nội, 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ MAI HƢƠNG

NGHIÊN CỨU VĂN BẢN TÁC PHẨM
CHU NGUYÊN TẠP VỊNH THẢO CỦA LÝ VĂN PHỨC
Chuyên ngành: Hán Nôm
Mã số: 9.22.01.04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÁN NÔM

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Trịnh Khắc Mạnh
2. TS. Vƣơng Thị Hƣờng


Hà Nội, 2018


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án Tiến sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Giám
đốc, Khoa Hán Nôm, Học viện Khoa học Xã hội và các thầy, cô giáo đã trực tiếp
giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.
Trân trọng cám ơn Ban Lãnh đạo Trường Đại học Hải Phòng, Khoa Ngữ
văn - Địa lý cùng bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi trong quá trình học tập NCS và viết luận án.
Đặc biệt, NCS xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn PGS.TS. Trịnh Khắc Mạnh và TS. Vương Thị Hường, đã luôn tận tình hướng
dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian tôi nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đồng
nghiệp đã giúp đỡ, động viên NCS.

Tác giả


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các tài liệu được trích dẫn trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu
của luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên
cứu nào khác.

Nghiên cứu sinh

Đỗ Thị Mai Hƣơng



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................................. 1
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI ......................................................................................................................................................... 5
1.1.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ................................................................. 5
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. .......................................... 30
1.3. Định hƣớng nghiên cứu của đề tài .............................................................................. 31
1.4. Các thuật ngữ sử dụng trong luận án ........................................................................ 32
Chƣơng 2 LÝ VĂN PHỨC VÀ CHUYẾN ĐI SỨ YÊN KINH (TRUNG QUỐC)
NĂM 1841 ......................................................................................................................................... 37
2.1. Tình hình xã hội, quan hệ bang giao Việt Nam – Trung Quốc nửa đầu thế
kỉ XIX ................................................................................................................................................. 37
2.2. Giới thiệu chung về cuộc đời và tác phẩm của Lý Văn Phức ........................ 41
2.3. Chuyến đi sứ Yên Kinh năm 1841 ............................................................................... 50
Chƣơng 3 KHẢO SÁT VĂN BẢN CHU NGUYÊN TẠP VỊNH THẢO CỦA LÝ
VĂN PHỨC ..................................................................................................................................... 60
3.1. Tình hình văn bản Chu Nguyên tạp vịnh thảo 周原襍咏草 ............................. 60
3.2. Khảo sát dị văn trong 14 bản Chu Nguyên tạp vịnh thảo ................................. 75
3.3. Tổng hợp tình hình văn bản và sơ đồ biểu thị mối liên hệ giữa các bản sao
của văn bản CNTVT .......................................................................................... 95
Chƣơng 4 GIÁ TRỊ CỦA CHU NGUYÊN TẠP VỊNH THẢO ................................. 103
4.1. Giá trị nội dung ...................................................................................................................103
4.2. Giá trị nghệ thuật ..............................................................................................................128
KẾT LUẬN ....................................................................................................................................148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, VIẾT TẮT

A

Bản A.1188 (hoặc A.1188)

B

Bản VHv.111 (hoặc VHv.111)

C

Bản VHv.1146 (hoặc VHv.1146)

D

Bản A.304 (hoặc A.304)

E

Bản A.2992 (hoặc A.2992)

F

Bản A.2805 (hoặc A.2805)

G

Bản A.2497 (hoặc A.2497)


H

Bản VHv.110 (hoặc VHv.110)

I

Bản R.240 (hoặc R.240)

K

Bản HN.660 (hoặc HN.660)

L

Bản A.1250 (hoặc A.1250)

M

Bản A.2636 (hoặc A.2636)

N

Bản A.1308 (hoặc A.1308)

O

Bản A.1757 (hoặc A.1757)

CNTVT


Chu Nguyên tạp vịnh thảo


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 3.1: Tổng hợp các văn bản hiện tồn có sao chép CNTVT được khảo sát trong
luận án. ...................................................................................................................... 60
Bảng 3.2. Bảng tổng hợp kết quả khảo sát và mô tả 14 bản CNTVT. ......................... 74
Bảng 3.3 : Số lượng, tình hình xuất nhập và trật tự sao chép các bài thơ, văn trong
14 dị bản CNTVT. .................................................................................................. 80
Bảng 3.4: Danh mục 17 bài thơ xuất hiện trong cả 14 bản CNTVT ............................. 82
Bảng 3.5: Khảo sát từ ngữ sai khác trong nhan đề các bài thơ, văn.............................. 86
Bảng 3.6 : Tổng hợp số lượng sai khác ở nhan đề các bài thơ, văn .............................. 89
Bảng 3.7: Bảng số lượng và tỉ lệ các loại sai khác trong nội dung 17 bài thơ được
khảo sát ..................................................................................................................... 91
Bảng 3.8: Tình hình phân bố các loại sai khác trong 17 bài thơ được khảo sát......... 92
Bàng 3.9: Số lượng sai khác ở thi tự của 17 bài thơ được khảo sát .............................. 93
Bảng 3.10: Tổng hợp kết quả khảo dị trong 14 bản CNTVT ......................................... 94
Bảng 3.11: Tình hình viết húy trong 14 bản CNTVT ....................................................... 95
Bảng 4.1: Bảng thống kê thể loại ......................................................................................... 128
Biểu đồ 3.1: Tình hình phân bố, số lượng sai khác ở 13 bản CNTVT .....................94
Sơ đồ 3.1: Sơ đồ biểu thị mối liên hệ giữa các dị bản của văn bản CNTVT ............99


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Trong
lịch sử bang giao, Việt Nam và Trung Hoa đã xây dựng một mối quan hệ lâu
dài. Tùy từng giai đoạn mà vị thế bang giao có những thay đổi nhất định, song một
điều có thể khẳng định rằng quan hệ bang giao với các triều đại Trung Quốc ở thời
nào cũng nắm giữ vị trí quan trọng trong kế sách của các vị vua Việt Nam. Nghiên

cứu các tư liệu Hán Nôm để hiểu thêm các vấn đề như triều cống, sách phong, sự
nhu cương khôn khéo trong mối quan hệ ngoại giao, sự giao lưu văn hóa, kinh tế
với Trung Hoa là việc làm cần thiết.
1.2. Lý Văn Phức 李文馥 (1785-1849) là một vị quan ngoại giao xuất sắc
của triều Nguyễn. Bên cạnh đó, ông cũng là một tác gia văn học nổi tiếng của nhà
Nguyễn với một di sản thơ văn đồ sộ cả chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó, nổi bật là
các tác phẩm liên quan đến các chuyến đi nước ngoài, được sáng tác trong mười năm
hải ngoại từ tây sang đông (1831-1841). Các tác phẩm của Lý Văn Phức được nhiều
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Các nghiên cứu đã đề cập đến cuộc
đời, hành trạng làm quan, đi sứ, hệ thống các tác phẩm gắn với những chuyến đi
trong nghiên cứu mối quan hệ bang giao Việt Nam và Trung Hoa thế kỉ XIX; và hình
ảnh đất nước, con người Trung Hoa qua góc nhìn của Lý Văn Phức. Tuy nhiên đóng
góp này so với số lượng thơ văn sứ trình của ông để lại hiện quả là chưa tương xứng.
1.3. Chu Nguyên tạp vịnh thảo (CNTVT) 周原雜詠 tuy không đề là “Hoa
trình” hay “Sứ trình” nhưng là tập thơ được sáng tác trong chuyến đi sứ tới Yên
Kinh, cũng là chuyến đi ngoại giao cuối cùng trong cuộc đời Lý Văn Phức. Tác
phẩm vừa là sự nối tiếp mạch thơ con đường đi sứ đến Yên Kinh (Bắc Kinh) của
các sứ thần ta từ buổi đầu dựng nước, vừa có tính chất kết thúc sự nghiệp thơ ca sứ
trình của Lý Văn Phức. Thông qua nghiên cứu văn bản tác phẩm này, các nhà
nghiên cứu có thể định hình được diện mạo và tài năng thơ văn của tác giả một cách
đầy đủ hơn. Nhưng đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ

1


thống về tình hình văn bản, cũng như về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Luận án sẽ tiến hành nghiên cứu để khỏa lấp phần nào mảng còn thiếu đó.
1.4. Trong thời đại hội nhập, đối thoại và giao lưu quốc tế rộng mở như hiện
nay, nhiệm vụ bảo tồn và phát huy di sản Hán Nôm càng trở nên cấp thiết. Thời cuộc
mới yêu cầu những người nghiên cứu và giảng dạy Hán Nôm tiếp tục nghiên cứu văn

bản, dịch thuật và công bố những phần còn lại của di sản này. Trong quá trình nghiên
cứu về văn bản tác phẩm CNTVT, luận án cố gắng góp phần thực hiện nhiệm vụ của
ngành Hán Nôm.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Luận án hướng đến cái nhìn toàn diện về chuyến đi sứ Yên Kinh năm 1841
của Lý Văn Phức và nghiên cứu văn bản học văn bản tác phẩm CNTVT. Trên cơ sở
đó, tiến hành xác lập thế hệ bản sao, xác định bản đáng tin cậy (thiện bản) và nghiên
cứu giá trị tác phẩm CNTVT trên các phương diện nội dung và nghệ thuật.
2.2. Nhiệm vụ
Luận án xác định những nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp trước tác của Lý Văn
Phức; đặc biệt là những nghiên cứu về tác phẩm CNTVT của các nhà nghiên cứu đi trước.
- Sưu tầm tư liệu liên quan đến chuyến đi sứ năm 1841 của Lý Văn Phức làm
sáng rõ hơn về chuyến đi ngoại giao cuối cùng của ông. Đây cũng là lần duy nhất ông
xuất ngoại trên cương vị Chánh sứ triều Nguyễn sang triều Thanh (Trung Quốc).
- Sưu tầm, khảo sát, hệ thống hóa các văn bản tác phẩm CNTVT hiện còn. Từ
đó tiến hành đối chiếu so sánh và xác lập thế hệ bản sao, xác định bản tin cậy (thiện
bản) của tác phẩm.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá giá trị thơ văn của Lý Văn Phức qua tác
phẩm CNTVT trên hai phương diện: nội dung và nghệ thuật.
- Phiên dịch thơ, văn tác phẩm CNTVT.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu

2


- Các văn bản của tác phẩm CNTVT hiện còn lưu giữ được gồm 14 văn bản;
trong đó ở kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 12 bản, Thư viện Viện Văn học

có 1 bản và Thư viện Quốc gia Việt Nam có 1 bản.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Bao quát tình hình bang giao triều Nguyễn và triều Thanh, trong đó có những
chuyến đi sứ, đi công cán của Lý Văn Phức, đặc biệt là chuyến đi sứ năm 1841 của
ông. Tập trung khảo sát những vấn đề văn bản học của 14 văn bản tác phẩm CNTVT
hiện lưu giữ tại Hà Nội và xác định bản tin cậy để phiên dịch và công bố. Từ đó,
nghiên cứu, phân tích, đánh giá và nêu lên những giá trị tác phẩm CNTVT trong
dòng thơ đi sứ thế kỷ XIX và thơ đi sứ trung đại Việt Nam.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu:
- Phương pháp văn bản học Hán Nôm là phương pháp chủ đạo được vận
dụng nhằm xác lập hệ văn bản CNTVT, giám định niên đại, tác giả, quá trình truyền
bản, từ đó xác định văn bản tốt nhất để giới thiệu và công bố.
- Phương pháp định lượng thống kê số lượng bài, số lượng các dị văn trong
các bài thơ; từ đó đưa ra những phân tích biện luận về các dị văn và đưa ra những
nhận định tin cậy cho các dị văn.
- Phương pháp thông diễn học (thuyên thích học), được sử dụng để giải mã,
biên dịch ... làm nổi bật các thông tin từ tác phẩm một cách tối đa và có chiều sâu. Theo
phương pháp này, vấn đề minh giải văn bản được xem xét trong các mối quan hệ của
văn bản và liên văn bản, giúp người đọc hiểu được tác phẩm.
- Phương pháp nghiên cứu văn học sử với định hướng khai thác giá trị thi ca,
giá trị sử liệu của tác phẩm CNTVT.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành nhằm nêu ra những giá trị lịch sử, văn
hóa, văn học, phong tục tập quán, v.v… được thể hiện trong tác phẩm CNTVT.
Luận án có sử dụng các thao tác phân tích tổng hợp, với mục tiêu tổng thuật
tình hình nghiên cứu về tác giả Lý Văn Phức và nhóm văn bản CNTVT, đưa ra

3



những nhận xét của người đi trước đã nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đề tài,
từ đó định hướng nghiên cứu của đề tài.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Lần đầu tiên chuyến đi sứ năm 1841 của Lý Văn Phức được nghiên cứu
trong mối quan hệ bang giao triều Nguyễn và triều Thanh. Đây cũng là cơ sở cho
việc tìm hiểu bối cảnh ra đời tác phẩm CNTVT.
- Lần đầu tiên các dị bản CNTVT ở kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
Thư viện Quốc gia và Thư viện Viện Văn học được mô tả, khảo sát và đánh giá kĩ
lưỡng về văn bản học.
- Từ những kết quả khảo sát văn bản, luận án nêu lên vấn đề thế hệ cho 14
văn bản CNTVT hiện tồn. Tiến hành biện ngụy cho từng trường hợp dị văn đối với
các dị bản tác phẩm CNTVT. Từ đó xác định bản tin cậy cho tác phẩm CNTVT.
- Nghiên cứu đánh giá, nêu lên những giá trị nội dung và nghệ thuật nổi bật
của tác phẩm CNTVT.
- Biên dịch 1 bài tựa và 62 bài thơ trong tác phẩm CNTVT.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Tìm hiểu tác phẩm đi sứ của một sứ thần nổi tiếng triều Nguyễn có ý nghĩa
thực tiễn đối với công tác ngoại giao ngày nay, việc làm này đưa ra những bài học
bổ ích như sự kết hợp nhu cương, ý thức tinh thần dân tộc... được thể hiện trong
chính sách ngoại giao từng thời kỳ .
- Nghiên cứu văn bản và tác phẩm một tập thơ văn đi sứ viết bằng chữ Hán,
có ý nghĩa xã hội hóa tư liệu Hán Nôm trong đời sống văn hóa hiện nay. Hơn nữa
trong việc cung cấp tư liệu và giảng dạy thơ văn đi sứ thời trung đại ở trường phổ
thông hay bậc đại học hiện nay.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài các phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận án có
cơ cấu như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chương 2: Lý Văn Phức và chuyến đi sứ Yên Kinh (Trung Quốc) năm 1841

Chương 3: Khảo sát văn bản Chu Nguyên tạp vịnh thảo
Chương 4: Giá trị của tác phẩm Chu Nguyên tạp vịnh thảo

4


NỘI DUNG
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Trong chương tổng quan, luận án tổng kết lại những nghiên cứu có liên quan
đến đề tài, cụ thể là: nghiên cứu về tác giả Lý Văn Phức trên các phương diện thân
thế, sự nghiệp của ông; các nghiên cứu về văn bản và tác phẩm CNTVT cả trong
nước và nước ngoài. Trên cơ sở đánh giá những nghiên cứu đi trước, luận án nêu ra
những vấn đề còn bỏ ngỏ cần tiến hành nghiên cứu và định hướng nghiên cứu của
đề tài. Trong chương này, luận án tiến hành giới thuyết một số khái niệm được sử
dụng trong quá trình nghiên cứu.
1.1.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1. Nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp và trước tác của Lý Văn Phức
Lý Văn Phức là một nhân vật tương đối đặc biệt của triều Nguyễn ở giai
đoạn đầu thế kỉ XIX. Ông vừa một vị quan ngoại giao, vừa là một tác gia văn học
và con đường hoạn lộ có nhiều thăng giáng. Vậy nên các nhà nghiên cứu rất quan
tâm đến nhiều vấn đề liên quan đến ông như: thân thế, sự nghiệp và trước tác. Trong
phần tư liệu mà chúng tôi khảo sát, các công trình nghiên cứu đã tập trung vào
những vấn đề như sau:
1.1.1.1. Các công trình biên mục, thư mục
Các bộ sử triều Nguyễn đều ghi chép những sự kiện trong cuộc đời làm quan
ngoại giao của Lý Văn Phức. Chi tiết, đầy đủ nhất phải kể đến Đại Nam thực lục
chính biên do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn. Bộ sách ghi chép theo lối biên
niên những thông tin liên quan đến Lý Văn Phức từ khi thi đỗ, làm quan đến khi

mất (từ năm 1819 đến 1849) [111] [112]. Trong bộ sử Đại Nam chính biên liệt
truyện, phần Truyện các quan, ở mục XV do Viện Sử học phiên dịch, có chép về Lý
Văn Phức [113]. Phần này, tóm tắt những thông tin về cuộc đời, quê quán, và sự
nghiệp làm quan. Những thông tin này đều thống nhất với Đại Nam thực lục. Ở đây,
có nhận xét Lý Văn Phức là người nổi tiếng văn học, với những trước tác: Tây hành

5


kiến văn lục, Mân hành thi thảo, Việt hành thi thảo, Việt hành tục ngâm, Kính hải
tục ngâm, Chu nguyên tập vịnh. Nói về cuộc đời và sự nghiệp của Lý Văn Phức,
Đại Nam liệt truyện có bình luận rằng: “Văn Phức có tiếng là văn học, làm quan
thường bị vấp, rồi lại được khôi phục. Trước sau hơn 30 năm. Phần nhiều phải làm
việc khó nhọc ở đường biển, sóng gió kinh khủng, mây khói mịt mờ, kinh lịch
không chỉ một chỗ nào, thường thấy biểu hiện ở thơ vậy” [113, tr. 501]. Cao Xuân
Dục trong Quốc triều Hương khoa lục chép rằng Lý Văn Phức và hai em trai ông là
Lý Văn Loát và Lý Văn Hảo đỗ Hương cống các khoa Kỷ Mão năm 1819 và Tân
Tỵ năm 1821 [22]. Sách sử Quốc sử di biên do Phan Thúc Trực biên soạn cũng ghi
chép theo lối biên niên, có nội dung về Lý Văn Phức. Sách này không ghi chép
thông tin về quê quán, cuộc đời, sự nghiệp. Nội dung này do những người biên dịch
chú bổ sung, và không có gì khác so với hai bộ sử của Quốc sử quán triều Nguyễn.
Tuy nhiên, sách có bổ sung thêm một số chi tiết mà chính sử không nhắc đến. Năm
1827, khi Lý Văn Phức đang làm Hộ bộ Thị lang bị cách chức, sách có nói đến
nguyên nhân là do “do tiết lộ chiếu chỉ, cho nên mắc tội”, sách còn chép thêm
“Phức đỗ Hương cống trong Ân khoa, cùng với Phạm Đình Trạc ở Liêu Trung làm
Hành tẩu. Phức được cất nhắc trước, Trạc nhiều năm vẫn chưa được điều động,
Phức khuyên Trạc hối lộ để được thăng tiến, Trạc không chịu. Người đời nhân đó
mà biết được ai là kẻ tốt, ai là kẻ xấu.” [110, tr. 322]. Đặc biệt, Quốc sử di biên
nhắc đến sự việc Lý Văn Phức đi sứ và làm bài Di biện luận. Tuy nhiên, sách chép
rằng sự việc này xảy ra vào năm 1841 khi Lý Văn Phức đi sứ Yên Kinh. Điều này

có lẽ do nhầm lẫn, vì thực tế sự kiện này xảy ra năm 1831 khi Lý Văn Phức đi công
cán đến Phúc Kiến. Sách chép năm 1841, trong chuyến đi sứ Yên Kinh, khi đến
công quán ở Trung Quốc, Lý Văn Phức thấy biển hiệu do quan địa phương ở đó đề
bốn chữ “Việt Di hội quán”. Ông đã giận dữ, “chê trách quan nước bạn, giọng nói
và sắc mặt đều rất nghiêm nghị, không chịu vào trong quán. Quan bạn sai người xóa
chữ Di đi mới chịu vào quán.” [110, tr. 506] Lý Văn Phức làm bài Di biện luận
(biện luận về Di) để tỏ rõ thái độ. Lời lẽ sắc sảo có đoạn viết “Việt Nam vốn dòng
Thánh đế họ Thần Nông, là tộc Hoa Hạ, không phải Di vậy. Đạo học theo thầy

6


Khổng, Mạnh, Trình, Chu. Pháp độ theo đời Chu, Hán, Đường, Tống. Chưa từng
kết tóc, khép vạt áo trái như phong tục của người Di… Sao lại coi ta là Di được
đây”. Người Thanh “thẹn mà xin lỗi” [110, tr. 506]. Những bộ quốc sử đều là
những tài liệu đầy đủ về cuộc đời, sự nghiệp làm quan nhiều thăng giáng mà không
ít thành tựu của Lý Văn Phức.
Trong Lược truyện các tác gia Việt Nam tập 1 xuất bản năm 1971, ở mục Lý
Văn Phức, tác giả Trần Văn Giáp giới thiệu về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác. Cụ thể
Trần Văn Giáp đã đưa ra danh mục 12 trước tác của Lý Văn Phức và có chú thích
ngắn gọn về lĩnh vực nội dung (văn – sử - địa) hoặc văn tự (Hán - Nôm). 12 tác
phẩm đó là: Tây hành kiến văn kỉ lược (sử, văn, địa); Việt hành ngâm (văn); Kính
hải tục ngâm (văn); Chu Nguyên tạp vịnh thảo (văn); Sứ trình chí lược thảo (văn, sử);
Xuyết thập tạp ký (văn); Sứ trình tiện lãm khúc (Nôm); Nhị thập tứ hiếu diễn ca (Nôm);
Bản quốc ký sự lược biên (sử); Ngọc Kiều Lê tân truyện (văn, Nôm); Mân hành thi
thảo (văn). So với khối lượng trước tác của Lý Văn Phức thì danh mục 12 tác phẩm
này chưa thật đầy đủ, mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu ngắn gọn về Lý Văn Phức [21,
tr. 391]. Về mặt giá trị của các tác phẩm của Lý Văn Phức, Trần Văn Giáp đã chỉ ra giá
trị cốt lõi của hàng loạt các tác phẩm văn chương được sáng tác trong các chuyến đi
hiệu lực, công cán và đi sứ và ông cho rằng: “chúng ta có nhiều phái đoàn đi ra nước

ngoài, những cuộc sống của nhân dân ở các nơi đi qua ấy thường được ghi lại trong các
tập hành trình hay sách ký lược; đó là những tài liệu quý không những cần cho ta mà
còn giúp cho các nhà nghiên cứu nước bạn ” [25, tr. 392].
Thư mục sách Hán Nôm - Mục lục tác giả (1972) [47] của Dương Thái
Minh, bản in Ronêo, giới thiệu khá ngắn gọn về tiểu sử Lý Văn Phức và cũng đưa
ra danh mục gồm 20 tác phẩm cùng một số bài thơ, văn trong các tác phẩm khác
của ông.
Di sản Hán Nôm Việt Nam – Thư mục đề yếu (1993) [56] đã hệ thống lại 50
văn bản của 21 tác phẩm bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm được cho là của Lý Văn
Phức. Đây danh mục tương đối đầy đủ, chi tiết về các trước tác của ông.
Thư mục sách Hán Nôm ở Thư viện Quốc gia (2002) [101] giới thiệu một số

7


tác phẩm của Lý Văn Phức hiện được lưu giữ ở Thư viện Quốc gia. Đó là các văn
bản: Xuyết thập tạp ký 掇拾雜記 AB.132 (gồm các tác phẩm Vịnh Nhị thập tứ hiếu
thi 詠二十四孝詩, Quốc âm tạp ký 國音雜記,Tự thuật ký 自述記,Bất Phong Lưu
truyện 不風流傳,Phụ châm tiện lãm 婦箴便覽, Chu hồi trở phong thán 舟回阻
風嘆 và Chu Nguyên tạp vịnh thảo R.240.
Trong Sứ thần Việt Nam (1996), mục Lý Văn Phức, các tác giả đã nhầm lẫn
tên họ của ông là Lê Văn Phức. Mục này có nói đến quê quán, sự nghiệp làm quan,
đi sứ, và hệ thống lại 12 tác phẩm của Lý Văn Phức cả bằng các chữ Hán, chữ Nôm.
Trong đó có CNTVT, và đánh giá “đây đều là những tác phẩm quý trong kho tàng
văn học dân tộc” [94, tr. 87].
Từ điển văn học bộ mới (2004) ở mục Lý Văn Phức, Trần Hải Yến đã tổng
thuật ngắn gọn về tên tuổi, quê quán, thân thế sự nghiệp. Về sự nghiệp văn chương,
Lý Văn Phức để lại một di sản văn thơ đồ sộ gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Tác giả
tiến hành khái quát đặc điểm 16 tác phẩm trên các phương diện: đặc điểm văn bản
(ý nghĩa nhan đề, kí hiệu văn bản, tình hình biên chép), chú thích hoàn cảnh sáng

tác cụ thể, năm sáng tác hoặc nội dung cơ bản. Trần Hải Yến cho rằng, những sáng
tác bằng chữ Nôm của Lý Văn Phức gồm 2 mảng: một là những tập thơ hoặc ghi
chép bằng chữ Nôm, song song với với các tác phẩm chữ Hán (Sứ trình tiện lãm
khúc, Chu hồi trở phong thán, Hồi kinh nhật trình); hai là thơ ca với mục đích gia
huấn (Tự thuật phú, Bất phong lưu truyện, Phụ châm tiện lãm, Nhị thập tứ hiếu diễn
ca); diễn âm một số tác phẩm Trung Hoa thành truyện thơ Nôm (Tây Sương, Ngọc
Kiều Lê, Nhị Độ mai diễn ca, Cừu Đại Nương Trương Văn Thành diễn nghĩa…).
Tính đến nay, đây là công trình từ điển biên soạn về các trước tác của Lý Văn Phức
chi tiết và đầy đủ hơn cả. Những thông tin rất có giá trị, cung cấp cho người đọc cái
nhìn tổng thể về danh mục sáng tác, tình hình văn bản và nội dung cơ bản của mỗi
tác phẩm. Về thơ văn chữ Hán, Trần Hải Yến khẳng định: chúng “giúp cho người
đọc hiểu được cảm xúc và suy nghĩa của tác giả trên con đường sứ trình những cảnh
ngộ gian truân giữa biển cả và những điều mới mẻ mà ông tận mắt nhìn thấy bên
ngoài cương giới nước nhà”[126, tr. 927]. Vì vậy, đây là những cứ liệu quý để tìm
8


hiểu tâm thế của tầng lớp nhà nho trong hoàn cảnh xuất ngoại ngoại giao. Ở những tác
phẩm Nôm, “tuy phần sáng tạo của ông không nhiều nhưng sự xuất hiện của một loạt
truyện thơ Nôm như vậy đã làm rõ thêm xu hướng sáng tác, làm phong phú thêm diện
mạo một thể loại văn chương dân tộc trong thời đại bấy giờ” [120, tr. 928]. Tổng kết
lại, Trần Hải Yến đánh giá: Lý Văn Phức là một tác gia lớn cả về chữ Hán và chữ
Nôm. Đặc điểm nổi bật trong thơ văn của ông là “nhiều nét đời thường cả trong tả và
cảm xúc”. Xét về đóng góp, những tác phẩm của ông trên từng thể loại không có đóng
góp kiệt xuất, những bước phát triển có tính bước ngoặc trong lịch sử phát triển văn
học trung đại, nhưng “sự tài hoa, bút lực dồi dào và đa dạng” ở ông đã minh chứng rõ
nét hơn cho diện mạo văn học giai đoạn này.
Năm 2010, Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Khoa học xã hội Việt
Nam hợp tác với Viện Nghiên cứu văn sử thuộc Đại học Phúc Đán Thượng Hải
(Trung Quốc) tiến hành sưu tập, chỉnh lý, biên tập và xuất bản các tư liệu thư tịch

Hán Nôm dưới dạng tùng thư với tên gọi Việt Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập
thành 越南漢文燕行文献集成 [123]. Các tư liệu thư tịch này bao gồm các tác
phẩm được viết bằng chữ Hán trong các chuyến đi sứ của sứ thần Việt Nam sang
Trung Hoa trên đoạn đường đi từ Mục Nam Quan đến Yên Kinh, hiện đang lưu giữ
tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Bộ sách này có giới thiệu 4 tập sáng tác của Lý Văn
Phức đó là: Kính hải tục ngâm 鏡海續吟 A.303, Sứ trình di lục 使程遺錄 A.2636,
Sứ trình quát yếu biên 使程括要編 VHv.1732 và CNTVT A.1757.
Trong cuốn Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam (2012) [43],
Trịnh Khắc Mạnh có một mục viết ngắn gọn về thân thế, sự nghiệp của Lý Văn
Phức. Cụ thể, Lý Văn Phức hiệu là Khắc Trai vàTô Xuyên, tự là Lân Chi. Sự nghiệp
làm quan gắn liền với các chuyến đi nước ngoài thực hiện nhiệm vụ bang giao.
Trong hơn 10 năm (1830 - 1841), ông đã thực hiện 11 chuyến đi công cán nước
ngoài. Về sự nghiệp sáng tác, Trịnh Khắc Mạnh đưa ra một danh mục với 32 tác
phẩm, tham gia biên soạn 2 tác phẩm, và có thơ văn còn lưu chép trong nhiều tập
thơ, tập sách khác. Đây là số lượng tương đối đầy đủ về tác phẩm của Lý Văn Phức.

9


Những con số đó chứng tỏ khối lượng sáng tác đồ sộ, phong phú của vị quan ngoại
giao giỏi văn chương này.
1.1.1.2. Sách chuyên khảo, luận án
Tính đến nay số lượng sách chuyên khảo, luận án nghiên cứu về Lý Văn
Phức cả trong nước và ở nước ngoài đều khá nhiều. Trong nước, sớm nhất là cuốn
sách Lý Văn Phức: Tiểu sử - Văn chương của Dương Quảng Hàm xuất bản năm
1945. Tác giả Dương Quảng Hàm đã giới thiệu về bối cảnh xã hội lúc sinh thời của
Lý Văn Phức. Đó là thời kì Lê mạt Nguyễn sơ. Thời kì này, nước ta “có nhiều
việc”, trong nước có những cuộc biến loạn, ngoài nước mối quan hệ với các nước
phương tây, đặc biệt là Pháp. Còn về cuộc đời và sự nghiệp làm quan của Lý Văn
Phức, Dương Quảng Hàm kết luận là “Là một người không những có tài văn học,

mà lại có tài ngoại giao nên mấy lần được phái đi công cán ở các lân bang. Còn về
việc thăng giáng trong họa đồ của ông, chúng ta không lấy làm lạ, hầu hết các bậc
tài lỗi lạc làm quan trong thời kỳ ấy đều ngộ…Lý Văn Phức tuy bận về công vụ mà
vẫn không quên cái trách nhiệm tối cao của nhà Nho” [30, tr. 15 - 16]. Như vậy là
Lý Văn Phức trong sự đánh giá của Dương Quảng Hàm là nhà danh nho sinh thời
loạn lạc, có tài văn chương, và ngoại giao.
Công trình Lý Văn Phức [5], Hoa Bằng biên soạn năm 1953, là chuyên khảo
công phu, chi tiết, toàn diện về cuộc đời và sự nghiệp Lý Văn Phức. 70 trang sách
trình bày 9 chương, cụ thể là: Tiểu sử, Cá tính, Thời đại, Tác phẩm tiếng Việt, Tư
tưởng, Nghệ thuật, Nhị thập tứ hiếu diễn âm, Trích giảng, Tổng kết. Chương I, Tiểu
sử giới thiệu nhiều thông tin: tên tự, tên hiệu, ngày tháng năm sinh, quê quán, lược
thuật nhiều sự nghiệp quan trường, các chức quan Lý Văn Phức đã giữ, những
thăng giáng ông đã trải qua. Những thông tin này đều thống nhất với tài liệu mà
chúng tôi đã khảo sát được. Đặc biệt ở đây có những chi tiết tác giả Hoa Bằng chú
thích thêm về Lý Văn Phức rất thú vị: Tên tự của ông là Lân Chi “láng giềng với
cây chi”, một giống thuộc loài lan, vì tên ông có nghĩa là thơm “Phức”, nên mới đặt
tự cho hợp với danh như vậy” [5, tr. 7]. Hay về ngày sinh của ông, ngày mồng 1
tháng 10 “Theo bài Thập nguyệt, sóc, tiện đản, cảm thành ở tập Kính hải tục ngâm”

10


[5, tr. 7]. Chương này có chi tiết về ngoại hình của Lý Văn Phức do chính ông tự
miêu tả trong bài tự ông viết cho tập Chu Nguyên tạp vịnh thảo:“… Nghĩ mình chưa
đầy 60, thế mà râu tóc đã bạc phơ, cặp mắt đã mờ yếu, như thể ông lão 70 vậy!” [5,
tr. 8]. Những chi tiết này đều rất giá trị, giúp người đọc hiểu thêm về con người, tiểu
sử Lý Văn Phức, thêm cơ sở để giải mã những sáng tác văn chương của ông.
Chương II trình bày 5 nét tính cách mà tác giả Hoa Bằng đánh giá là nổi bật ở con
người Lý Văn Phức: thanh đạm, khiêm tốn, tín ngưỡng, tình bạn, đấu tranh. Mỗi nét
cá tính đều được minh chứng qua những sáng tác của Lý Văn Phức hoặc những sự

kiện, câu chuyện cụ thể. Về tình bạn, Lý Văn Phức “cư xử rất tốt với bạn hữu. Khi
đi sứ ra ngoại quốc, ông cùng hai bạn, là Đỗ Tuấn Đại và Trần Tú Dĩnh, ăn cùng
mâm, ngủ cùng giường, hàng hơn nửa năm trong chỗ đồng sự, trước sau không có
một lời nào tồn thương hòa khí…” [5, tr. 15]. Các ông vừa là đồng sự cùng nhau
công cán ở Áo Môn, vừa là bạn văn cùng nhau xướng họa, ngâm vịnh thơ ca rồi
biên chép thành tập. Lý Văn Phức là quan chuyên ngoại giao, cá tính đấu tranh cũng
thể hiện ở những câu chuyện ngoại giao. Đó là câu chuyện ngày 20 tháng 8 năm
Tân Mão (1831), khi Lý Văn Phức cương quyết phản đối việc quan nước bạn đề ở
công quán dòng chữ “Việt Nam Di sứ công quán” và làm bài Di biện luận để giải
thích, lập luận cho ý chí của mình. Bản lĩnh của nhà nho chân chính ở Lý Văn Phức
cùng đức tính cương trực chính là yếu tố làm nên phẩm chất của vị quan ngoại giao
xuất sắc, khẳng định và bảo vệ được vị thế của nước Việt Nam trước phong kiến
Trung Quốc. Hoa Bằng dẫn câu chuyện cũng trong chuyến đi công cán Áo Môn
năm 1831. Ngày 23 tháng 8, Tôn Nhĩ Chuẩn, tổng đốc Thanh ở Phúc Kiến hỏi về
tên húy của vua nhà Nguyễn để làm tờ tấu lên vua Thanh. Năm lần bảy lược, dùng
đủ mọi cách thuyết phục, gặn hỏi Lý Văn Phức nhưng Tôn Nhĩ Chuẩn đều thất bại.
Lý Văn Phức thì trả lời rằng: “Xưa, trước mặt con mà gọi tên tự của cha, dẫu đứa
trẻ cũng không chịu phục thay, huống chi bây giờ, trước mặt thần tử mà hỏi tên cái
của quân phụ thì ai chịu trả lời?” [5, tr. 13]. Những câu chuyện như vậy phác họa
phần nào hình ảnh con người một nhà nho chân chính, có tài năng, có bản lĩnh ở Lý
Văn Phức. Tuy nhiên, những chi tiết như vậy chỉ nên có tính chất tham khảo, không

11


thể xuất phát từ những đặc điểm cá tính con người Lý Văn Phức để đánh giá giá trị
văn thơ ông. Chương III Thời đại đã tổng lược lại tình hình xã hội, chính trị thời đại
Lý Văn Phức sống và sáng tác. Những sự kiện lịch sử trong giai đoạn cuối Lê đến
đầu triều Nguyễn: chiến tranh, thiên tai địch hạn (1787)… ảnh hưởng đến tư tưởng
của ông, và xu hướng chuộng quốc văn ở thời kì này có lẽ ảnh hưởng đến sự nghiệp

sáng tác của Lý Văn Phức. Ngoài tác phẩm chữ Hán những sáng tác bằng chữ Nôm
của ông không ít và đạt thành tựu đáng kể. Hoa Bằng rất coi trọng những sáng tác
bằng chữ Nôm của Lý Văn Phức và đánh giá cao vai trò của ông trong phong trào
dùng tiếng mẹ đẻ làm thơ, viết văn. Sách dành chương IV để bàn về các tác phẩm
tiếng Việt của Lý Văn Phức. Chương này đề cập đến danh mục tác phẩm bằng chữ
Nôm với 7 sáng tác: Nhị thập tứ hiếu diễn âm, Sứ trình tiện lãm khúc, Tự thuật ký,
Phụ châm tiện lãm, Bất phong lưu truyện, Chu hồi trở phong thán, Thiên tự văn
diễn âm…, cụ thể là giới thiệu ba bài ký Tự thuật ký, Bất phong lưu truyện, Chu hồi
trở phong thán. Kết lại chương này, Hoa Bằng nhận định “Qua mấy tác phẩm trên,
ta nhận thấy tác giả Lý Văn Phức là người kính cẩn, giữ gìn, trung hiếu, đáng làm
tiêu biểu cho lớp người nho học thuần túy ở đương thời. Bấy giờ mới là đầu thế kỷ
XIX, thế mà tác giả đã biết yêu chuộng tiếng mẹ, để ý viết nhiều thể văn: lục bát có,
song thất có và biền ngẫu cũng có. Mà thể văn nào tác giả cũng thành công trong sự
chải chuốt và chặt chẽ”[5, tr. 28]. Rõ ràng đánh giá này cho thấy sự coi trọng những
tác phẩm viết bằng chữ Nôm của Lý Văn Phức và khẳng định bút lực dồi dào, đa
dạng của ông. Chương V Tư tưởng, thông qua các tác phẩm chữ Hán và Nhị thập tứ
hiếu diễn âm, Hoa Bằng tìm hiểu về tư tưởng ở nhà nho Lý Văn Phức. Tác giả cho
rằng điểm nổi bật trong tư tưởng Lý Văn Phức là “sùng bái thánh hiền Trung
Quốc”, từ đó dẫn đến thái độ thận trọng và không tiếp nhân văn hóa phương Tây:
miệt thị văn tự Tây Dương. Ông gọi tiếng Anh là “phiên ngữ”, gọi những người này
là “Di địch”. Từ nội dung của Nhị thập tứ hiếu diễn âm, Hoa Bằng cho rằng Lý Văn
Phức là người có tư tưởng “tin trời”, quan niệm về đạo hiếu “gia đình là đơn vị
trung tâm của xã hội, mà cha con là đạo rất trọng trong ngũ luân” [5, tr. 34]. Rõ
ràng thông qua một tác phẩm đi đến kết luận như vậy về tư tưởng tác giả là khiên

12


cưỡng và phiến diện. Ở chương VI tác giả tiếp tục thông qua Nhị thập tứ hiếu để
nhận định về giá trị nghệ thuật thơ văn Lý Văn Phức. Cụ thể, nghệ thuật thơ văn

ông: sát với thực tế, thành thực, mộc mạc, đối chỉnh, thực cổ nhi hóa (Việt hóa điển
cũ) và có tính phổ biến. Chi tiết hơn Hoa Bằng minh chứng: sát với thực tế “vì ông
(Lý Văn Phức) có óc thực tế, lại giàu kinh nghiệm trong nhiều chuyến đi ra hải
ngoại, nên văn ông chủ quan, thiết thực, chú trọng về ý hơn lời” [5, tr. 40]; thành
thực “tính ông thành thực, văn ông cũng thành thực” [5, tr. 40]; mộc mạc “với các
tác phẩm Nôm thì nghệ thuật của ông chỉ có vẻ mộc mạc vững vàng, chứ không
diễm lệ, chi phấn” [5, tr. 41]; cuối cùng tác giả nhấn mạnh nghệ thuật của Lý Văn
Phức trong các sáng tác bằng chữ Nôm, đặc biệt Nhị thập tứ hiếu diễn âm. Có thể
những đánh giá này mang tính chủ quan và theo khuynh hướng phân tích từ chính
tính cách con người nhà thơ nhiều hơn là căn cứ trên tác phẩm văn chương, nhưng
nó phản ánh một phần đặc điểm nghệ thuật thơ văn của Lý Văn Phức. Chương VII
Nhị thập tứ hiếu diễn âm trình bày các nội dung: Nguyên tác chữ Hán là ai? Những
động cơ và trường hợp nào đã đưa Lý Văn Phức đến chỗ làm Nhị thập tứ hiếu diễn
âm? Lý Văn Phức diễn Nhị thập tứ hiếu ra quốc âm vào bao giờ và có những ai góp
công sửa chữa? Cuối cùng, Hoa Bằng kết luận rằng tác phẩm này “chính là con đẻ
của hoàn cảnh xã hội và đáp ứng theo nhu yếu của thời đại bấy giờ” [5, tr. 57].
Chương VIII Trích giảng hai truyện trong Nhị thập tứ hiếu diễn âm là: Đánh hổ cứu
cha và Đội gạo nuôi mẹ. Mỗi phần trích giảng đều được trình bày chi tiết, chặt chẽ
theo các mục: xuất xứ, thể tài, bố cục, cốt truyện, chú giải, hiệu đính, phê bình.
Chương IX là tổng kết. Mặc dù lượm lặt qua các chương viết, có thể tìm hiểu nhiều
chi tiết thú vị mà Lý Văn Phức tự viết về cuộc đời, sự nghiệp làm quan, sáng tác thơ
văn và những đoạn phân tích chi tiết cụ thể nội dung thơ văn, nhưng nội dung chính
của cuốn sách này là nói về Nhị thập tứ hiếu diễn âm.
Tiểu sử và những thăng trầm trong chốn quan trường của Lý Văn Phức được
hệ thống hóa một cách công phu, đầy đủ trong luận án Tiến sĩ Nghiên cứu Lý Văn
Phức và Tây hành kiến văn kỷ lược của tác giả Nguyễn Thị Ngân chuyên ngành
Hán Nôm bảo vệ năm 2009. Tác giả luận án căn cứ vào nhiều thư tịch lịch sử và

13



văn tịch Hán Nôm để dựng lại phả hệ gia đình, dòng họ Lý Văn Phức. Con đường
làm quan sớm được trọng dụng nhưng cũng nhiều thăng trầm. Thông qua các bảng
biểu, tác giả luận án đưa ra một cách nhìn toàn diện về cuộc đời Lý Văn Phức từ khi
sinh ra, đi học, thi đỗ, làm quan, đặc biệt là sự nghiệp đi sứ cùng những con đường
đi sứ đông tây của ông. Tác giả có những nhận định xác đáng về ảnh hưởng của gia
đình, những biến động thời đại đến con người và sáng tác thơ văn của Lý Văn Phức.
Trong luận án, Nguyễn Thị Ngân đã đưa ra một bảng danh mục tác phẩm của Lý
Văn Phức, đó là: 17 tập viết bằng chữ Hán bao gồm cả thơ, ký, phú… 14 tác phẩm
viết bằng chữ Nôm bao gồm các thể loại ký, truyện, diễn ca, khúc ngâm … 6 tác
phẩm về văn hóa lịch sử khác gồm có gia phả, sử ký… và 7 tác phẩm được cho là
soạn chung với các tác giả khác. Mỗi tác phẩm đều được chú thích về tình trạng văn
bản và giới thiệu đôi nét về nội dung hoặc hoàn cảnh sáng tác. Luận án đã lập một
bảng danh mục 26 tác phẩm Lý Văn Phức sáng tác trong các chuyến đi nước ngoài,
có chú về thể loại, năm sáng tác và văn tự. Danh mục này đã cho thấy một cái nhìn
tổng quát về sự nghiệp sáng tác của một vị quan ngoại giao có tài thơ văn. Trong đó
có đến 15 tác phẩm được Lý Văn Phức sáng tác về những chuyến đi sứ sang Trung
Quốc bao gồm cả thơ, văn, phú… Đây là bộ phận thơ văn này quan trọng trong sự
nghiệp sáng tác của ông. Luận án đã giải quyết một cách triệt để tình hình văn bản
của tác phẩm Tây hành kiến văn kỷ lược, cho đến việc dịch, chú công phu tỉ mỉ tác
phẩm ký này.
Ở nước ngoài, Trần Ích Nguyên, giáo sư Trường Đại học Thành Công, Đài
Loan (Trung Quốc) là một chuyên gia nghiên cứu về Lý Văn Phức. Ông là tác giả
của cuốn sách Việt Nam Hán tịch văn hiến thuật luận (Trung Hoa thư cục xuất bản
năm 2013) được dịch sang tiếng Việt với nhan đề Thuật bàn về tư liệu sách chữ
Hán ở Việt Nam [59]. Sách gồm 12 chương thì có tới 4 chương, tác giả nghiên cứu
khảo sát về Lý Văn Phức và các sáng tác của ông. Chương 6 Danh Nho Việt Nam
Lý Văn Phức chu du các nước và cuộc tranh biện về Hoa, Di. Chương này nhằm trả
lời cho hai vấn đề: Một là số lần ra nước ngoài, lộ trình, nhiệm vụ của Lý Văn Phức
từng chuyến đi là gì? Và trong những chuyến tiếp xúc với người nước ngoài, Lý


14


Văn Phức trải qua như thế nào, có cảm nhận gì về Trung Quốc và các nước phương
Tây? Hai là tư tưởng Nho gia với lập trường Hoa Di chi biện, có mẫu thuẫn, trăn trở
như thế nào trong thời đại giao thoa văn hóa đông tây? Câu hỏi thứ nhất, tác giả đã
căn cứ vào các tư liệu lịch sử để khẳng định: Lý Văn Phức đi sứ nước ngoài ít nhất
11 lần. Tác giả đã lập một bảng thống kê các chuyến đi với những tiêu chí: thời
gian, nước (điểm đến), nhiệm vụ, tác phẩm liên quan. So với ghi chép của Đại Nam
thực lục, bảng này đã bổ sung hành trình lần thứ ba đi Phúc Kiến, lần bảy, tám đi
Quảng Đông. Trong hơn mười năm (1830 - 1841), Lý Văn Phức đã “đặt chân lên
khắp: Luzong, Singapore, Malaixia, Bangladesh, Ấn Độ, Trung Quốc, tiếp xúc với
hầu hết người nước ngoài thời đó (Trung Quốc, Nam Dương, thực dân Anh, Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha”[ 59, tr 228]. Nội dung thứ hai, Trần Ích Nguyên phân tích
tư tưởng Hoa Di chi biện của Lý Văn Phức trong Di biện luận. Lý Văn Phức xuất
phát từ lập trường nhà nho yêu nước để khẳng định: nước Nam “trị quốc theo nhị đế
tam vương, đạo nghĩa theo Lục kinh tứ tử thuộc “nhà Khổng, Mạnh cửa Chu,
Trình”, là “Hoa” chứ không phải là “Di”[59, tr. 229]. Theo Lý Văn Phức, “Đông
Tây dương hiệp Di” (tộc người xảo quyệt Đông Tây dương) lúc đó “vứt bỏ cương
thường đạo nghĩa của người nước ta” “gọi chúng là Di cũng là vì lẽ đó”[59, tr. 229].
Chính từ tư tưởng này mà Lý Văn Phức có sự mâu thuẫn khi tiếp xúc trực tiếp với
văn hóa phương Tây. Khi đã tường tận nền văn minh khoa học kỹ thuật của các
cường quốc phương tây với những “cầu sắt, cột thu lôi, máy bơm nước, thuyền máy
hay bảo tàng…ông đều so sánh về mặt trí tuệ và sự khéo léo với guồng nước bằng
đạp chân, giương buồm chạy xe mà ông thấy trên đường sang nhà Thanh” [59, tr.
230], để thấy sự ưu việt và tiến bộ hơn, nhưng ông vẫn không thực lòng tiếp nhận
mà người xứ đó là “Di”. Phần phụ lục, Trần Ích Nguyên giới thiệu bản dịch tác
phẩm Di biện trong văn bản Mân hành thi thoại. Chương 7 là bài viết Duyên thơ
trượt sát bên nhau giữa Lý Văn Phức của Việt Nam và Thái Đình Lan của Đài

Loan. Chương này Trần Ích Nguyên đã giải quyết được những vấn đề sau: đưa ra
một bảng danh mục các tác phẩm đi sứ của Lý Văn Phức. Theo đó, Lý Văn Phức có
26 tác phẩm cả chữ Hán và chữ Nôm trong khoảng thời gian 11, 12 năm hải ngoại.

15


Bảng thống kê có chú rõ: địa danh nơi sáng tác, năm sáng tác, văn tự, tác giả (Lý
Văn Phức hoặc sáng tác chung với bạn văn). Vấn đề thứ hai làm mối duyên thơ giữa
Lý Văn Phức và Thái Đình Lan. Mặc dù không trực tiếp giao lưu cùng nhau nhưng
thông qua những người bạn văn của Lý Văn Phức ở Phúc Kiến, những bạn thơ của
Thái Đình Lan ở Việt Nam mà Trần Ích Nguyên nhận ra mối liên hệ, sự đồng điệu
giữa hai vị quan ngoại giao này. Phụ lục chương này có dịch giới thiệu bài ký
Thạch tầm tịch thoại ký trong Mân hành thi thoại của Lý Văn Phức. Chương 8 là
bài viết Văn hóa ẩm thực Châu Á đầu thế kỷ XIX dưới ngòi bút Lý Văn Phức Việt
Nam. Thông qua các tư liệu Hán Nôm Lý thị gia phả và những sáng tác thơ văn của
Lý Văn Phức, Trần Ích Nguyên cho rằng “Lý Văn Phức là người không coi trong
việc ăn ngon, hơn nữa là thơ viết nhiều hơn văn” vậy nên những tác phẩm đi sứ dù
phản ánh nhiều mặt của cuộc sống nhưng viết về chủ đề ẩm thực thì khá ít ỏi. Tuy
vậy, những vần thơ đó vẫn là những minh chứng quý giá về văn hóa ẩm thực Đông
Nam Á và Nam Á trong năm 1830, đó là những ghi chép vụt vặt mà chúng ta có thể
lượm lặt được trong Tây hành thi kỷ: người Bồ Đà ở Nam Á kiêng ăn thịt bò, một
quốc đảo trên biển thuộc Nam Á ăn đồ sống…Chỉ đến Tây hành kiến văn kỷ lược,
vấn đề ẩm thực mới được ghi chép một cách hệ thống và chặt chẽ trong mục Ẩm
thực, với ba nội dung thói quen ăn uống, phong tục uống rượu và cách hút thuốc.
Nhiều điều mới mẻ, khác lạ, được ghi lại một cách thú vị. Đây là những nội dung
thực sự giá trị cho các nhà nghiên cứu sau này. Căn cứ các cứ liệu thi văn, trong
sáng tác của Lý Văn Phức, người sau còn đọc được văn hóa ẩm thực Philippines
năm 1832 và văn hóa ẩm thực Trung Quốc từ năm 1831 đến 1841. Phần phụ lục, tác
giả đưa ra dịch giới thiệu các bài: Lữ Tống phong tục ký (Bút ký về phong tục Lữ

Tống), Lý Văn Phức di văn; Tây Dương trí phú biện (Bàn về cách làm giàu của
người Tây dương), dịch 8 bài thơ trong các tập Tây hành thi kỷ. Chương 8 của
chuyên luận là bài viết Thế giới mới ở Đông Nam Á trong văn học chữ Hán Việt
Nam (Đối tượng khảo sát: đầu những năm 30 của thế kỉ XIX). Qua sáng tác của Lý
Văn Phức, Đặng Văn Khải, Hà Tông Quyền, Phan Thanh Giản, Trần Ích Nguyên
phác họa lại hình ảnh khu vực này trên mọi mặt của đời sống. Lý Văn Phức với Tây

16


hành thi kỷ 西行詩紀 và Tây hành kiến văn kỷ lược 西行見聞紀略 ghi chép lại đời
sống, hành trình của sứ giả trên con đường vòng quanh khu vực Nam Á và Đông
Nam Á: Việt Nam - Singapore - Penang - Bangladesh - Jakata vào năm 1830. Với
tập Đông hành thi thuyết 東行詩說, Lý Văn Phức phản ánh một phần diện mạo của
xã hội Philipines năm 1832. Mở rộng tầm mắt, chứng kiến cái mới mẻ thuộc về văn
hóa phương Tây, các sứ thần không khỏi “pha tạp giữa kinh ngạc và coi thường”
[59, tr. 348]. Rõ ràng những nghiên cứu mà Trần Ích Nguyên về Lý Văn Phức này
cho thấy một sự hứng thú và am hiểu về tác gia văn học chuyên đi sứ này.
Các học giả nước ngoài rất quan tâm đến mảng thơ văn đi sứ của Lý Văn
Phức. Họ chủ yếu nghiên cứu so sánh theo hướng: đặt tác phẩm của Lý Văn Phức
trong mối quan hệ với các tác gia cùng thời đại như: mối quan hệ giữa Lý Văn Phức
với các nhà thơ văn nước ngoài, giữa Việt Nam với các nước láng giềng. Tác phẩm
mà các học giả nước ngoài quan tâm nghiên cứu phần nhiều là thơ văn đi sứ, hiệu
lực, công cán. Nhóm tác giả Claudine Salmon (Pháp) giới thiệu Tây hành kiến văn
kỷ lược và Tây hành thi kỷ của Lý Văn Phức sáng tác trong chuyến dương trình hiệu
lực đến Tiểu Tây Dương năm 1830. Sau này, các nghiên cứu về Lý Văn Phức và
thơ văn đi sứ của ông khá nhiều: bài viết của Hạ Lộ “Chuyến đi đến Quảng Đông,
Áo Môn của Lý Văn Phức và giao lưu văn học Trung–Việt 李文馥广东,澳门之行
与中越文学交流” in trong cuốn 海洋史研究 tập 5 (2013) [164]; năm 2014, luận
văn Thạc sĩ của Dương Đại Vệ ở Đại học Ký Nam “Nghiên cứu sứ thần Việt Nam

Lý Văn Phức và mối quan hệ Thanh - Việt đầu thế kỉ XIX “越南使臣李文馥与 19
世纪初清越关系研究” [165].
Tựu chung lại, những nghiên cứu này đã cho thấy Lý Văn Phức và những
sáng tác bang giao của ông thể hiện đặc trưng tiêu biểu của thơ văn bang giao. Thứ
nhất là tinh thần dân tộc, ý thức thức tự tôn dân tộc một cách kiên định. Với tinh
thần đó và sứ mệnh ngoại giao, Lý Văn Phức không làm nhục “quốc thể” mà còn
khẳng định vị thế của dân tộc. Thứ hai, ông đi nhiều và quảng giao, mối duyên thơ
văn giữa những sứ thần với các văn nhân nước bạn rất thú vị. Thứ ba, thơ văn đi sứ

17


ở giai đoạn triều Nguyễn nói chung và của Lý Văn Phức nói riêng có sự nới rộng
phạm vi phản ánh hiện thực.
1.1.1.3. Các bài tạp chí và kỷ yếu hội thảo
Theo trình tự thời gian, chúng tôi điểm lại những bài viết công bố trên tạp chí
và các kỷ yếu hội thảo về Lý Văn Phức.
Năm 1981, tác giả Nguyễn Đổng Chi trong bài viết “Lý Văn Phức, cây bút
luận chiến ngoại giao cứng cỏi” [125, tr. 530] trên cơ sở tìm hiểu thơ đi sứ và tập
Mân hành thi thoại 閩行詩話 đã khẳng định Lý Văn Phức là vị sứ thần “không làm
nhục sứ mệnh”, một nhà văn tài hoa đầy dũng khí và lòng tự trọng. Mân hành thi
thoại được làm trên đường đi sang đất Mân (Phúc Kiến, 1831), là những sáng tác
thơ, phú, luận kèm lời dẫn rất giá trị, đặc biệt là bài Di biện luận nổi tiếng và còn là
tác phẩm mang tính tư tưởng cao. Những tác phẩm này thể hiện con người tác giả
dám nói dám làm, không chịu lùi bước trước mọi khó khăn phức tạp. Cuốn sách là
tư liệu lịch sử, phản ánh thói kì thị chủng tộc, trịch thượng kiểu nước lớn của quan
lại địa phương Trung Quốc. “Đứng trước thái độ đó, sứ thần ta có những màn đáp
trả ngoan cường, lí thú” [125, tr. 530].
Năm 1988, Nguyễn Đăng Na có bài viết “Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý
Văn Phức” được đăng trên tạp chí Tác phẩm mới. Đến năm 2001, bài viết có bổ

sung, dịch mục Châu thuyền và phần Phụ lục in trong Văn xuôi Việt Nam thời
Trung đại [48]. Trong đó, tác giả xác định Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn
Phức như một tác phẩm văn học ký trung đại Việt Nam; và khẳng định đây “không
chỉ là tác phẩm ký đầu tiên viết về thế giới phương Tây mà nó còn mở ra một hướng
sáng tác mới, thu hút một đội ngũ đông đảo như Phan Huy Chú, Đặng Huy Trứ,
Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ... viết về chân trời ngoại quốc ngoài Trung
Hoa” [49, tr. 449].
Năm 1992, tác giả Dương Thị The trong bài viết “Sứ trình tiện lãm khúc –
tác phẩm thơ chữ Nôm của Lý Văn Phức” [97] trên tạp chí Hán Nôm đã chọn văn
bản VHv.217 làm bản nền, và phiên âm, chú thích một số trích đoạn.

18


×