Tải bản đầy đủ (.pdf) (220 trang)

Luận án phó Tiến sĩ Khoa học ngữ văn: Thơ Nôm Đường luật (từ Hồ Xuân Hương đến Trần Tế Xương)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 220 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
---*---

NGUYỄN THANH PHÚC

THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT
(TỪ HỒ XUÂN HƢƠNG ĐẾN TRẦN TẾ XƢƠNG)

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 50433

LUẬN ÁN PHÓ TIẾN SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học :
Giáo sư: LÊ TRÍ VIỄN

TP. Hồ Chí Minh - 1996


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong Luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Ký tên

Nguyễn Thanh Phúc



1

MỤC LỤC
MỤC LỤC ..................................................................................................................... 1
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................ 3
1. Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề : .................................................................................................. 4
2.2. Nghiên cứu thơ Nôm Đƣờng luật nhƣ là bộ phận trong mối liên quan với
tổng thể là tác phẩm , tác giả.......................................................................................... 6
3. Mục đích nghiên cứu : ....................................................................................... 9
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu : ................................................................... 9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu : ............................................................................... 13
6. Những đóng góp mới của luận án .................................................................... 14
7. Bố cục của luận án : ......................................................................................... 15
CHƢƠNG MỘT: KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN THƠ NÔM ĐƢỜNG
LUẬT ................................................................................................................................... 17
CHƢƠNG HAI: HỆ THỐNG ĐỀ TÀI, CHỦ ĐỀ THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT THẾ
KỶ XIX ................................................................................................................................ 39
2.1.Đề tài, chủ đề thiên nhiên .......................................................................... 40
2.2. Đề tài, chủ đề vịnh sử, vịnh truyện, triết lý nhân sinh khẳng định đạo lý và
khí tiết nhà Nho............................................................................................................ 47
2.3. Đề tài tự vịnh, tự thuật, tự trào và chủ đề tâm sự, khát vọng cá nhân. ..... 55
2.4. Đề tài cuộc sống xã hội, đất nƣớc, con ngƣời và chủ đề yêu nƣớc........... 67


2

CHƢƠNG BA HỆ THỐNG HÌNH TƢỢNG KHÔNG GIAN - THỜI GIAN ........ 75
3.1. Hình tƣợng không gian ............................................................................. 75

3.2. Hình tƣợng thời gian ................................................................................. 90
CHƢƠNG BỐN: CẤU TRÚC BÀI THƠ VÀ NHỊP ĐIỆU CÂU THƠ .............. 102
4.1 Cấu trúc bài thơ Nôm Đƣờng luật thất ngôn bát cú ................................. 102
4.2. Nhịp điệu câu thơ Nôm Đƣờng Luật ...................................................... 133
CHƢƠNG NĂM: HỆ THỐNG NGÔN NGỮ THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT THẾ
KỶ XIX .............................................................................................................................. 146
5.1. Hệ thống ngôn ngữ gần với Đƣờng thi ................................................... 146
5.2. Hệ thống ngôn ngữ dân tộc ..................................................................... 159
5.2.1. Bộ phận từ thuần Việt: ..................................................................... 160
5.2.2. Ngôn ngữ văn học dân gian : ........................................................... 167
5.2.3 Ngôn ngữ đời thƣờng . ............................................................. 170
PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................... 190
1. Thế giới nghệ thuật thơ Nôm Đƣờng luật ( thế kỷ XIX) ............................... 190
2. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong thơ Nôm Đƣờng luật (thế kỷ XIX)
........................................................................................................................................ 193
3. Kết luận chung ............................................................................................... 195
THƢ MỤC THAM KHẢO........................................................................................ 201
PHẦN PHỤ LỤC ....................................................................................................... 210


3

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Trong hơn 1200 năm nay, Đƣờng Thi vẫn đƣợc coi là tiêu biểu cho đỉnh cao của
thơ ca cổ điển Trung Quốc. Nó "để lại cõi đời cùng sáng với vầng trăng". Ảnh hƣởng của nó
rộng khắp các nền văn hóa Châu Á, nhất là Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam... Có thể nói,tinh
hoa Đƣờng Thi đã thấm sâu vào mạch nguồn thơ ca dân tộc Việt Nam, trở thành vốn văn hóa.
1.2. Qua thi cử thời xƣa, mọi nhà Nho đều có thể làm thơ Đƣờng luật. Từ đó, cũng có
ngƣời ngộ nhận rằng ngƣời Việt bắt chƣớc làm thơ Đƣờng giống y nhƣ ngƣời Trung Hoa đã

làm. Thật ra, khi tiếp nhận, nhà thơ Việt Nam đã chuyển hóa nó thành của riêng mình, nghĩa
là tiếp nhận với tinh thần độc lập, sáng tạo, làm cho thơ Đƣờng luật Việt Nam thấm đƣợm
tinh thần Việt Nam, phù hợp với nền văn hóa dân tộc.
1.3. Do vậy, nghiên cứu thơ nôm Đƣờng luật, trong hoàn cảnh hiện nay, khi mà việc
bảo tồn, chấn hƣng, phát huy bản sắc văn hóa dân lộc là hết sức cấp thiết, lại trở thành quan
trọng. Hơn nữa, thực tế sự đổi mới chƣơng trình văn học trong nhà trƣờng Đại học và Trung
học cũng đòi hỏi những công trình nghiên cứu về thơ cổ điển Việt Nam, mà trong đó, thơ
Nôm Đƣờng luật có một vị trí quan trọng.
1.4. Tính cấp thiết của đề tài còn chính vì lầm quan trọng của thể loại. Ngƣời viết lời
giới thiệu cuốn “Théorie des genres” (Lý thuyết về thể loại - Nhiều tác giả - Editions du
Seuil - 1986) cho đây là một vấn đề "trong nhiều thế kỷ từ Aristote đến Hégel đã là đối tượng
trung tâm của thi pháp học" (dẫn theo [81 : 3]) M. Bakhtin cũng từng nhấn mạnh rằng "


4

" Mỗi một thể loại, nhất là thể loại lớn, thể hiện một thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực, một
cách cảm thụ, nhìn nhận, giải minh thế giới và con người. Thể loại là cái trí nhớ siêu cá nhân
của nghệ thuật, nơi tích lũy, đúc kết những kinh nghiệm nhận thức thẩm mỹ thế giới. Mỗi thời
đại thể loại cố hệ thống thể loại của mình, trong đó những thể loại chính thể hiện sự tập
trung nhất, nổi bật nhất tâm thức, tầm nhìn, những mối quan tâm, những quan niệm và chuẩn
mực giá trị của con người trong thời đại đó." [2:7]M. Bakhtin nhận định rằng "Đằng sau cái
mặt ngoài sặc sỡ và đầy tạp âm ồn ào cửa tiến trình văn học, người ta không nhìn thấy vận
mệnh to lớn và cơ bản của văn học và ngôn ngữ, mà những nhân vật chính nơi đây trước hết
là các thể loại, còn trào lưu, trường phái chỉ là những nhân vật hạng nhì và hạng ba" [2:28]
Thế mà thơ Nôm Đƣờng luật, một trong ba thể loại lớn viết bằng thứ văn tự riêng của dân tộc
thời trung đại, đến nay vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu một cách hệ thống.
Đó là mấy lý do cấp thiết khiến chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu, thơ Nôm Đƣờng
luật, khám phá những đặc điểm thể loại, chứng tỏ nó không phải là sự lập lại bài học từ văn
chƣơng Trung Quốc. Để giới hạn đề tài, luận án tập trung vào giai đoạn thế kỷ XIX, từ Hồ

Xuân Hƣơng đến Trần Tế Xƣơng.

2. Lịch sử vấn đề :
Theo dõi lịch sử của việc nghiên cứu ít nhiều liên quan đến thơ Nôm Đƣờng luật, thấy
có ba hƣớng chính :
- Nghiên cứu thơ Nôm Đƣờng luật trong quá trình nghiên cứu chung về nền văn
chƣơng chữ Nôm.


5

- Nghiên cứu thơ Nôm Đƣờng luật nhƣ là bộ phận trong mối liên quan với tổng thể là
tác phẩm, tác giả.
- Nghiên cứu thơ Nôm Đƣờng luật trong sự giao lƣu với văn học Trung Quốc.
2.1. Nghiên cứu thơ Nôm Đƣờng luật trong quá trình nghiên cứu chung về nền văn
chƣơng chữ Nôm.
Vào đầu thế kỷ XX, có cuốn "Quốc văn tùng ký", Nguyễn Văn San tự Hải Châu Tử
biên soạn bằng chữ Nôm, đã tập hợp và phân loại thơ văn, trong đó có thơ Nôm Đƣờng luật.
Khi nói về các sáng tác Nôm, ông có nhận xét "Ấy là lối văn chương nước ta, non sông tinh
tú vẽ ra biết bao nhiêu nhân tài chứ không đâu được thế vậy" [98: ] Vào những năm cuối
thập kỷ thứ hai, Đông Chu Nguyễn Hữu Tiến (1875 - 1941) biên soạn "Cổ xúy nguyên âm",
quyển 1 năm 1916 và quyển 2 năm 1918. Trong lời Tựa, ông viết "lối văn chương Nôm nước
mình(...) thể cách cũng chẳng khác chi văn Tàu mà lại có lối đặc biệt riêng của ta vậy "(dẫn
theo [81:13]). Cũng năm 1918, Phan Kế Bính (1875 - 1921) viết Việt Hán văn khảo . Đây là
"công trình nghiên cứu , biên khảo và dịch thuật có giá trị về nghệ thuật văn chương(...) gồm
8 tiết, trong đó dành 5 tiết để nghiên cứu nguồn gốc, nguyên lý văn chương, các thể loại văn
học và(...) " [85:II:199]. Năm 1943, cuốn Việt Nam văn học sử yếu của Dƣơng Quảng Hàm
xuất hiện lần đầu. Trong công trình này, tác giả có đề cập đến các thể văn. Ông nhận định về
thơ Đƣờng luật nhƣ sau: "Thơ Nôm ta làm theo phép tắc thơ tàu, mà âm thanh tiếng ta cũng
tương tự tiếng Tầu (cũng là thứ tiếng đan âm và cũng chia làm tiếng bằng tiếng trắc) nên thi

pháp của ta tức là thi pháp của Tàu và các niêm luật của thơ


6

ta cũng phỏng theo thơ Tàu cả" [29:122] Rõ ràng cách nhìn của tác giả là có hạn chế. Tuy
nhiên, từ sự phân tích, tác giả cũng đã rút đƣợc một số kết luận quan trọng, chẳng hạn " Văn
Nôm của ta về thế kỷ thứ XIX, so với trước, thật có tiến bộ nhiều (...) các thể thơ, hát nói,
song thất, lục bát đều có phần khởi sắc và các văn sĩ ta đã nhiều khi thoát ly cái ảnh hưởng
của thơ văn Tàu mà diễn đạt tư tưởng, tính tình một cách thành thực để sáng tạo một nền văn
đặc biệt của dân tộc ta"[29:399] Năm 1953, Thanh Lãng viết Văn chƣơng chữ Nôm. Chúng
tôi lƣu ý 2 điểm. Một là, tuy cách gọi tên mỗi thời kỳ có chỗ chƣa ổn, nhƣng ông đã chia quá
trình phát triển của văn chƣơng chữ Nôm ra làm ba thời kỳ là tái hợp lý : phôi thai thời đại(
1225 - 1430), phát đạt thời đại( 1430 - 1750)và toàn thịnh thời đại( 1750 - 1900). Hai là,
trong cái nhìn của tác giả, dƣờng nhƣ chƣa nhìn thấy vị trí xứng đáng của thơ Nôm bên cạnh
truyện Nôm. Nhìn chung những công trình trên chỉ vận dụng thi luật học Trung Quốc để tìm
hiểu thơ Nôm Đƣờng luật. Dù đây đó còn hạn chế về tƣ tƣởng, học thuật, nó cũng đã có gợi ý
bƣớc đầu.
2.2. Nghiên cứu thơ Nôm Đường luật như là bộ phận trong mối liên quan với tổng
thể là tác phẩm , tác giả.
Hƣớng nghiên cứu này góp phần khám phá về thơ Nôm và cả thơ Hán luật Đƣờng
nhƣ chuyên khảo Thi hào Nguyễn Khuyến, đời và thơ do Gs Nguyễn Huệ Chi chủ biên. Tiêu
biểu là bài viết "Sáng tạo trong thơ Đường luật" của Gs Lê Chí Dũng. Nhìn chung chuyên
khảo đã nhất trí và khẳng định "Bút pháp Nguyễn Khuyến đã như một dấu hiệu quan trọng
của sự vận động của văn học Việt Nam trên đường hiện đại hóa" [15:28]. Trong chuyên đề
sau đại học Thơ Hồ Xuân Hương, Gs Lê Trí Viễn đã chỉ ra


7


phong cách Xuân Hƣơng trong phong cách thể loại xét từ cấp độ xây dựng hình tƣợng với cả
một hệ thống ngôn ngữ tƣơng ứng và từ phƣơng diện cấu trúc của thể thơ. Gs Đặng Thanh Lê
cũng đã đặt những bài thơ Hồ Xuân Hƣơng trong sự phát triển của dòng thơ Nôm Đƣờng
luật, phác họa một số nét cơ bản trong sự vận động của thể loại, đồng thời nêu bật những
đóng góp của Hồ Xuân Hƣơng về cảm hứng và bút pháp nghệ thuật. Dựa vào quan điểm thi
pháp học của Jakobson, Gs Đỗ Đức Hiểu đã tìm hiểu ý nghĩa thơ Nôm Đƣờng luật của Hồ
Xuân Hƣơng từ cấu trúc biểu đạt trong bài Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương và ông kết luận
"Hồ Xuân Hương sáng tạo một phong cách thơ Đường luật mới" (31 : 87) Nhìn chung những
công trình này có nhiều gợi ý đáng kể cho luận án của chúng tôi.
2.3 Nghiên cứu thơ Nôm Đƣờng luật trong sự giao lƣu với văn học Trung Quốc.
Hƣớng nghiên cứu này thƣờng sử dụng thao tác so sánh với Đƣờng thi hoặc văn học,
văn hóa Trung Quốc để tìm ra những nét đặc thù dân tộc. Bài viết sớm nhất có lẽ là bài Mối
quan hệ mật thiết giữa văn học Việt Nam và văn học Trung quốc của Gs Đặng Thai Mai. Ông
cho rằng "Ngay trong lúc họ vận dụng thể văn và văn tự Trung Quốc để hiểu hiện tình cảm
và tư tưởng của họ, nhiều nhà thơ chúng ta vẫn luôn luôn cố gắng bảo vệ đặc sắc của dân tộc
và cá tính của con người sáng tác" [54: ] Tuy nhiên, ông đã không chỉ ra chỗ đặc sắc, nét
riêng ấy, lại cho rằng; "Trong các thể loại vay mượn của Trung Quốc thì thơ ca(...) thơ
Đường luật thất ngôn, ngũ ngôn(...) trong lối thơ ca trữ tình, thi sĩ cổ điển ta vẫn khai thác
bấy nhiêu long mạch: tình yêu thiên nhiên, tình yêu


8

người yêu bè bạn vợ con và nhất là tình yêu nước" [64 : 11]. Năm 1973, Gs Trƣơng Chính có
bài viết "Cha ông ta đã vận dụng các thể loại văn học Trung quốc như thế nào vào thơ
Nôm?" Ông viết: "Cha ông chúng ta khi chuyển sang sáng tác bằng chữ Nôm, đồng thời
muốn cởi xiềng xích ra, bắt đầu từ Hàn Thuyên" [14:3] Khi đối chiếu hiện tƣợng thất ngôn
xen lục ngôn ở thơ Nôm Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm với thể Đƣờng
thi ở Trung Quốc, ông cho biết Trung Quốc "Không có thể câu bảy từ xen câu sáu từ hoặc
câu sáu từ xen câu bảy từ" và theo ông thì hiện tƣợng này của thơ Việt Nam " chắc đó là một

thể loại mới do cha ông chúng ta tạo ra trên cơ sở câu thất ngôn, trong lúc niêm luật, đối,
gieo vần theo luật Đường" (14:4) Mãi cho đến năm 1991, tại Hội thảo khoa học Nghiên cứu
văn học cổ trung đại Việt Nam trong mối quan hệ khu vực, Gs Nguyễn Huệ Chi đã nhấn
mạnh vấn đề "cố gắng tìm ra những nét nghĩa khu biệt giữa thơ Đường luật dân tộc với thơ
Đường" và khẳng định vai trò quan trọng của những công trình nghiên cứu này "nếu có thể
cùng nhau góp sức tìm ra một lời giải đáp chung: như thế nào là mã thơ Đường Việt Nam
(...) thì mọi sự mắc míu về thi pháp thể loại thơ cổ chắc sẽ khai thông dễ dàng" (2:22) Tại hội
thảo, Gs Bùi Duy Tân có bài Mối quan hệ về thể loại giữa văn học Trung Quốc và văn học
Việt Nam thời trung đại: tiếp nhận - cách tân - sáng tạo và cho rằng "Những thể loại ngoại
nhập mà được viết bằng chữ Nôm thì sự Việt hóa dễ được tăng trưởng" Năm 1993, trong luận
án PTS Thơ Nôm Đƣờng luật từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi đến thơ Hồ Xuân
Hƣơng , Lã Nhâm Thìn đã bƣớc đầu tìm hiểu thơ Nôm Đƣờng luật giai đoạn này và kết luận
" Có thể thấy bội số chung nhỏ nhất của các yếu tố cấu thành


9

thơ Nôm Đường luật là tính chất đời thường, sự giản dị, tinh thần tự do và xu hướng tâm
trạng hóa. Nói một cách khái quát và ngắn gọn, mã của thơ Nôm Đường luật được xác định
bởi tính chất Nôm của thể loại" [81:142-143] Nhƣ vậy, nhìn chung tuy có những đóng góp
quí báu, nhất là hai hƣớng nghiên cứu sau, nhƣng khảo sát thơ Nôm Đƣờng luật một cách hệ
thống, nhất là ở giai đoạn phát triển từ Hồ Xuân Hƣơng đến Trần Tế Xƣơng đang còn là
khoảng trống dành cho ngƣời nghiên cứu.

3. Mục đích nghiên cứu :
Nằm trong hƣớng nghiên cứu thƣ Nôm Đƣờng luật từ góc độ thể loại văn học , luận
án tập trung nghiên cứu thể loại này trong giai đoạn từ Hồ Xuân Hƣơng đến Trần Tế Xƣơng,
coi nhƣ thuộc thế kỷ XIX, là giai đoạn phát triển đến đỉnh cao của thể loại, mà điểm trọng
yếu là tìm hiểu, xác định những đặc trƣng của nó về mặt nội dung và về mặt hình thức nghệ
thuật. Để tiến tới mục đích ấy, luận án cũng phác họa quá trình phát triển, sơ bộ tái hiện diện

mạo thơ Nôm Đƣờng luật trong văn học Việt Nam.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu :
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu chính của luận án là 450 bài thơ thất ngôn bát cú và tứ
tuyệt chữ nôm từ Hồ Xuân Hƣơng đến Tú Xƣơng. Đây là những bài thơ Nôm Đƣờng luật liêu
biểu cho thế kỷ XIX. Sở dĩ chúng tôi chọn thơ Hồ Xuân Hƣơng làm mốc đầu vì thơ Nôm
truyền tụng của bà thật sự mở ra bƣớc ngoặt vĩ đại trong lịch sử phát triển thơ Nôm Đƣờng
luật lại xuất hiện khoảng đầu thế kỷ XIX. Chọn thơ Trần Tế Xƣơng làm mốc cuối không chỉ
vì nhà thơ đã qua đời vào đầu thế kỷ XX (1907) mà còn vì thơ ông thật sự khép lại thơ
Đƣờng luật chữ Nôm. Thơ Nôm Đƣờng


10

luật trƣớc Hồ Xuân Hƣơng chỉ đƣợc đề cập đến ở chƣơng , khi tìm hiểu một cách khái quát
về thể loại này từ góc độ phát triển lịch sử và khi cần thiết để so sánh lịch đại. Thơ chữ Quốc
ngữ và chữ Hán luật Đƣờng xuất hiện ở thế kỷ XX cũng là đối tƣợng để so sánh. Truyện thơ
gồm nhiều bài thơ Đƣờng luật thất ngôn bát cú ghép lại và "bài luật" đều không phải là đối
tƣợng nghiên cứu của luận án . Chúng tôi rất chú ý đến việc chọn lựa văn bản đáng tin cậy để
tiến hành thống kê nhằm rút ra những kết luận có khả năng thuyết phục nhiều nhất. Luận án
chủ yếu dựa vào Hợp tuyển thơ văn Việt Nam và các Thi tập. Riêng văn bản về Hồ Xuân
Hƣơng là lấy trong Thơ Hồ Xuân Hƣơng (thƣ mục 91) của Gs Lê Trí Viễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Trƣớc khi xác định phạm vi nghiên cứu của luận án, chúng tôi thấy cần giới thuyết
một vài khái niệm: Một là về khái niệm thể loại. Dựa vào ý kiến của D.X.Likhasev cho thể
loại văn học "là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện vào một giai đoạn phát triển nhất định
của văn học và sau đó biến đổi và được thay thế" (86 : 204) và của Từ điển thuật ngữ văn học
"thể loại văn học là sự thống nhất giữa một loại nội dung và một dạng hình thức văn bản và
phương thức chiếm lĩnh đời sống" (86 : 204), chúng tôi nghĩ đến sự cần thiết nên phân biệt
giữa thể và thể loại nhƣ sau:



11
THỂ
- thiên về hình thức

THỂ LOẠI
- thống nhất nội dunghình thức

- có tính ổn định, bền vững

- vừa ổn định vừa biến đổi,
vừa cũ vừa mới

- thí dụ :

- thí dụ :

thể Đƣờng luật

Thơ Nôm Đƣờng luật...

thể lục bát

Truyện thơ Nôm

thể song thất lục bất

Ngâm khúc


Nhƣ vậy, theo chúng tôi, thể Đƣờng luật và thể loại thơ Nôm Đƣờng luật sẽ có 6 hình
thức thể: thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bài luật, ngũ ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ
tuyệt, ngũ ngôn bài luật. Chúng tôi cũng sử sụng thuật ngữ thể tài khi muốn đề cập, nhấn
mạnh ở góc độ đề tài, chủ đề, nghĩa là thiên về mặt nội dung thể loại, chẳng hạn khi nói đến
thể tài trữ tình thế sự, trữ tình đời tƣ, thể tài trào phúng, hoặc hẹp hơn: thơ thiên nhiên, thơ
điền viên, thơ biên tái, thơ vịnh sử, vịnh truyện, vịnh vật, thở khẩu khí, thở cảm hoài, thơ tự
trào, thơ đi sứ, thơ bút chiến... Hai là về khái niệm thơ Nôm Đƣờng luật. Đây là thuật ngữ để
chỉ thơ viết bằng chữ Nôm của dân tộc Việt Nam (đúng hơn là của dân tộc Kinh) theo thể
Đƣờng luật. Luận án chỉ tập trung khảo sát hai hình thức thể cơ bản là thất ngôn bát cú và
thất ngôn tứ tuyệt bởi vì nó chiếm số lƣợng áp đảo và có những đặc trƣng tiêu biểu cho thể
loại. Số bài thơ đƣợc khảo sát cụ thể là:


12

STT

Tác giả tiêu biểu
Xuân

Bát cú

Tứ tuyệt

Cộng

Hƣơng

25


13

38

Thái

3

0

3

1

Hồ

2

Phạm

3

Trịnh

Hoài

Đức

6


0

6

4

Nguyễn

Công

Trứ

40

0

40

5

Nguyễn

Thị

Hinh

6

0


6

6

Phan

Thanh

Giản

6

4

10

7

Bùi

Hữu

Nghĩa

13

0

13


8

Huỳnh

Mẫn

Đạt

11

0

11

9

Nguyễn

Hữu

Huân

4

0

4

10 Nguyễn


Đình

Chiểu

32

0

32

11 Tôn

Thọ

Tƣờng

14

0

14

12 Phan

Văn

Trị

32


0

32

13 Lê

Quang

Chiểu

15

0

15

Khuyến

64

4

68

14 Nguyễn
15 Nguyễn

Văn

Lạc


7

2

9

16 Chu

Mạnh

Trinh

21

0

21

17 Nguyễn

Thiện

Kế

5

0

5


18 Trần

Tế

Xƣơng

74

33

107

19 Khuyết danh( và mấy bài thơ lẻ)

13

3

16

391

59

450

TỔNG CỘNG



13

Để tiếp cận thơ Nôm Đƣờng luật nhƣ một hiện tƣợng văn học, chúng tôi có quan tâm
đến quá trình phát sinh và phát triển nhƣng chủ yếu vẫn là đi vào chính cấu trúc của nó.
Những lĩnh vực chúng tôi quan tâm là:
- Thơ Nôm Đƣờng luật về mặt lịch sử, tức là tình hình phát triển địa thể loại và sơ bộ
phác họa đặc điểm có tính qui luật về sự phát triển ấy.
- Cấu trúc thơ Nôm Đƣờng luật trong tính tổng thể của nó với các mặt hình thức - nội
dung. Nhằm tiếp cận nội dung thể loại, phạm vi luận án nghiên cứu là hệ thống đề tài, chủ đề.
Còn những yếu tố hình thức nghệ thuật tiêu biểu đƣợc khảo sát là : nhịp (hay tiết tấu) của câu
thơ, cấu trúc của bài thơ bát cú, hệ thống ngôn ngữ và hệ thống hình tƣợng không gian - thời
gian.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu :
5.1. Phƣơng pháp luận nghiên cứu:
Chúng tôi sử dụng thuật ngữ phƣơng pháp luận (méthodologie) với ý nghĩa phổ biến
là lý luận, bàn về các con đƣờng nghiên cứu, cách tiếp cận văn chƣơng. Chúng tôi lƣu ý hai
điểm sau đây về mặt phƣơng pháp luận:
- Thơ Nôm Đƣờng luật là một thể loại ngoại nhập chứ không phải nội sinh nên chúng
tôi coi nó nhƣ một hiện tƣợng giao lƣu văn học, giao lƣu văn hóa nói chung.
- Thơ Nôm Đƣờng luật, trong thực tế, ngày càng xa dần cội nguồn của nó là Đƣờng
thi Trung Quốc, lại hấp thụ tƣ tƣởng dân tộc, chịu ảnh hƣởng sâu đậm của folklore, thực sự
xác định chỗ đứng của mình trong nền văn học dân tộc nên chúng tôi nhìn nhận nó nhƣ một
thể loại văn học dân tộc, tuy có sự mô phỏng nhƣng chủ yếu lại là sự cách tân, sáng tạo.


14

5.2 Những phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể:
Trƣớc hết, từ các văn bản, chúng tôi sƣu tầm dữ kiện chính xác và khách quan theo

từng yếu tố và hệ thống đƣợc khảo sát, sau đó, sắp đặt chúng một cách hệ thống. Chúng tôi
phân tích, tổng hợp, tìm ra những đặc trị thống kê và thử lý giải, tìm ra những yếu tố nào về
xã hội, tâm lý nhà thơ...đã ảnh hƣởng đến các dữ kiện. Nhƣ vậy, thống kê là thao tác không
thể thiếu trong bất cứ công trình khoa học nào. Trong luận án chúng tôi vận dụng kết hợp 5
phƣơng pháp nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp biến sinh lịch sử: Không chỉ đƣợc dùng để tìm hiểu sự vận động của
thể loại qua ba giai đoạn mà còn đƣợc dùng trong khi khảo sát từng yếu tố, hệ thống trong sự
vận động có tính lịch sử của nó.
- Phƣơng pháp hệ thống và phƣơng pháp cấu trúc: Là hai phƣơng pháp đƣợc vận
dụng để nghiên cứu, phân tích hệ thống đề tài - chủ đề, ngôn ngữ, nhịp thơ và bố cục một bài
thơ.
- Phƣơng pháp so sánh: Là một phƣơng pháp hết sức quan trọng và cần thiết đối với
luận án. Sử dụng phƣơng pháp này, chúng tôi mới có thể tìm ra những đặc trƣng của thơ Nôm
Đƣờng luật thế kỷ XIX.
- Phƣơng pháp liên ngành: đặc biệt là liên ngành ngôn ngữ và văn học đƣợc dùng để
khảo sát chƣơng cuối.

6. Những đóng góp mới của luận án
- Về nghiên cứu văn học: Hƣớng về một thể loại tiêu biểu cho văn học Trung đại
Việt Nam, luận án góp phần khái quát hóa, bổ sung và đính chính một số đặc điểm cơ bản
của thể loại này. Nó cũng góp phần tái hiện rõ nét diện mạo thể loại qua những tác giả, tác
phẩm nổi bật ở thế kỷ XIX, một thế kỷ văn học đầy tự hào của dân tộc. Nói cách khác,


15

bằng cách tiếp cận từ mặt nội dung (đề tài, chủ đề) và về mặt thi pháp thể loại, luận án cố
gắng phát hiện và tổng kết, nêu lên một số đặc điểm về nhịp, cấu trúc bên ngoài và bên trong
của thể loại thơ Nôm Đƣờng luật. Ngoài ra, những bản thống kê cụ thể, chi tiết của luận án về
đề tài, chủ đề, ngôn ngữ của những tác giả, tác phẩm tiêu biểu chắc chắn góp phần hữu hiệu

cho việc nghiên cứu văn học.
- Về thức tiễn: Luận án có thể góp phần bổ sung chuyên đề giảng dạy, gợi ý cho giáo
viên trong quá trình giảng dạy những tác giả thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX.

7. Bố cục của luận án :
Luận án có 200 trang viết, 9 trang thƣ mục và 8 trang phần phụ lục (trong đó có 2
bảng biểu). Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận án có 5 chƣơng
- Phần mở đầu: 16 trang. Trước hết, chúng tôi nêu lên tính cấp thiết của đề tài. Thứ
hai, là lịch sử của vấn đề, chúng tôi tóm tắt nội dung ở các tƣ liệu căn bản nằm trong những
công trình nghiên cứu đi trƣớc ít nhiều có liên quan đến đề tài, nhấn mạnh chỗ đóng góp,
đồng thời mạnh dạn chỉ ra những chỗ thiếu sót, thậm chí sai lầm trong khi nhận xét, đánh giá
về thơ Nôm Đƣờng luật. Từ đó, luận án nêu ra những vấn đề chƣa đƣợc nói đến hay đã nói
đến nhƣng chƣa đầy đủ, chƣa chính xác lắm. Thứ ba, chúng tôi nêu lên mục đích nghiên cứu
của mình, chỉ ra đối tƣợng, phạm vi, phƣơng pháp nghiên cứu và bố cục của luận án.
- Chƣơng một: 22 trang. Luận án sẽ lƣợc khảo khái quát quá trình phát triển thơ Nôm
Đƣờng luật.


16

- Chƣơng hai: 36 trang. Chúng tôi đi vào khảo sát, phân tích hệ thống đề tài, chủ đề
thở Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX nhằm tiếp cận nội dung thể loại.
- Chƣơng ba: 27 trang. Hệ thống hình tƣợng không gian - thời gian.
- Chƣơng bốn : 44 trang. Cấu trúc bài thơ và nhịp điệu câu thơ.
- Chƣơng năm: 44 trang. Hệ thống ngôn ngữ .
- Phần kết luận: 11 trang. Tổng hợp từ những yếu tố đƣợc khảo sát, chúng tôi thử
phác họa thế giới nghệ thuật thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX và nêu lên quan niệm nghệ
thuật về con ngƣời của nhà thơ.



17

CHƢƠNG MỘT: KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN THƠ NÔM
ĐƢỜNG LUẬT
N.G.Tsenushevsky từng nói rằng nếu không có lịch sử của đối tƣợng thì cũng sẽ
không có lý luận về nó.D.X.Likhasev cũng nhận thấy tầm quan trọng của lịch sử thể loại,
khẳng định thể loại văn học "là một phạm trù lịch sử. Nó chỉ xuất hiện vào một giai đoạn
phát triển nhất định của văn học và sau đó biến đổi và được thay thế" (dẫn theo [86 : 204]).
Từ điển thuật ngữ văn học cũng gợi ý: "Vì vậy khi tiếp cận các thể loại văn học, cần tính đến
thời đại lịch sử của văn học và những biến đổi, thay thế của chúng" [86 : 204]. Nhìn tổng
quát về những biến đổi trên những chặng đƣờng phát triển của thơ Nôm Đƣờng luật, chúng
tôi thấy nó từng bƣớc đƣợc hoàn thiện cùng với nền văn chƣơng chữ Nôm nói chung, cụ thể
là trải qua ba giai đoạn : giai đoạn hình thành (thế kỷ XII đến Quốc âm thi tập vào đầu thế kỷ
XV), giai đoạn phát triển (từ Quốc âm thi tập đến hết thế kỷ XVIII) và giai đoạn phát triển ở
đỉnh cao (thế kỷ XIX) với sự mở đầu của thơ Hồ Xuân Hƣơng và kết thúc với thơ Trần Tế
Xƣơng.
1.1. GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH
Thơ Nôm Đƣờng luật có lẽ ra đời vào cuối thế kỷ XIII, song về mặt văn bản, cho đến
nay, vẫn chƣa sƣu tầm đƣợc. Đại Việt sử ký toàn thư có chép: " Nhâm ngọ (Thiên Bảo), năm
thứ tư (1282) mùa thu, tháng tám,...Bấy giờ có cá sấu đến sông Lô, vua Trần Nhân Tông sai
Thượng thư Hình bộ là Nguyễn Thuyên làm văn ném xuống sông, con cá sấu tự đi


18

mất (...) Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc âm. Nước ta thơ phú dùng nhiều quốc âm, thực bắt
đầu từ đây.) [43,48]. Sáng tác đầu tiên lƣu lại đƣợc là vào đầu thế kỷ XIV, bài thơ tƣơng
truyền là của nàng Điểm Bích trong câu chuyện với sƣ Huyền Quang. Để có thể khẳng định
rằng có một giai đoạn hình thành, tất nhiên phải có cơ sở lý luận: Xét từ gốc độ ngôn ngữ,
đến thế kỷ XIII, chữ Nôm có đầy đủ khả năng để trở thành thứ văn tự dùng trong sáng tác văn

học. Còn xét từ góc độ văn học, sự xuất hiện của Quốc âm thi tập vào nửa đầu thế kỷ XV tuy
có vẻ là một sự kiện đột biến song phải là một tập đại thành, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị từ
trƣớc về mặt thể loại. Và lại đây cũng là giai đoạn mở đầu cho nền văn chƣơng chữ Nôm. Tác
giả cuốn Văn chương chữ Nôm gọi đây là phôi thai thời đại (1225 - 1430), trong đó Nguyễn
Sĩ Cố với Quốc âm thi phú, "có tài làm thơ quốc âm và khéo khôi hài", Chu Văn An (? 1370) với Quốc ngữ thi tập , Hồ Quí Ly làm phú bằng quốc âm...
1.2. GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN
Giai đoạn phát triển thơ Nôm Đƣờng luật là từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi (đầu
thế kỷ XV) đến thơ Hồ Xuân Hương cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX). Nói một cách khái
quát, trải qua bốn thế kỷ, thể loại này đã từ chỗ thể nghiệm đi đến ổn định, từng bƣớc và về
nhiều mặt, trong đó có vấn đề cấu trúc bài thơ, số lƣợng âm tiết (chữ) trên mỗi dòng thơ. Nếu
Nguyễn Trãi là ngƣời mở đầu con đƣờng Việt hóa thì Hồ Xuân Hƣơng, chính bà Chúa thơ
Nôm ấy đã tạo nên bƣớc ngoặt lớn đƣa thơ Nôm Đƣờng luật vào con đƣờng Việt hóa hoàn
toàn ở thế kỷ XIX. Đi


19

vào cụ thể, chúng tôi nhận định về quá trình phát triển giai đoạn này thông qua các tập thơ
tiêu biểu :
Một là, với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã tô đậm xu hƣớng dân tộc hóa ở hình
thức nghệ thuật lẫn nội dung thể loại, đúng nhƣ Gs Đặng Thai Mai đã khẳng định Nguyễn
Trãi là ngƣời đầu tiên có công lớn: một cố gắng để xây dựng một lối thơ Việt Nam. Gs Đinh
Gia Khánh cũng nhận xét thấy: "Nguyễn Trãi là nhà thơ rất có ý thức" trên con đường tìm tòi
một thể thơ dân tộc ít nhiều thoát ly Đường luật trong khi vẫn giữ phong cách chung của thơ
Đường luật [35, ]. Biểu hiện nổi bật của xu hƣớng dân tộc hóa là ở hai điểm sau đây:
- Về mặt nội dung, "Nhìn bao quát thì 254 bài thơ trong Quốc âm thi tập trước hết là
thơ về chủ đề thiên nhiên. Nguyễn Trãi ca ngợi cảnh vật đất nước với tấm lòng tin yêu, rộng
mở... "[85 : II : 258]
- Về mặt hình thức, Nguyễn Trãi có rất nhiều sáng tạo. "Về thể loại, trong thơ quốc
âm Nguyễn Trãi có một số bài làm theo luật Đường; nhưng rất nhiều bài không phải luật

Đường. Đó là thơ Việt đang trên xu hướng, định hình , có sự tiếp thu cả thơ Đường lẫn thơ
ca dân gian dân tộc (...) câu 6 chữ xen vào những câu 7 chữ (...) Có những câu tuy là 7 chữ,
nhưng cách ngắt nhịp 3/4 cho phép ta hiểu đó không phải là câu 7 chữ của thơ Trung Quốc
(vốn ngắt nhịp 4/3 là chính) Nguyễn Trãi đã sử dụng một vốn từ tiếng Việt phong phú bậc
nhất vào thời ấy để sáng tác thơ (...) Nguyễn Trãi cũng rất thích dùng thành ngữ, tục ngữ của
quần chúng... "[85 : II : 258 - 259]. Gs Lê Trí Viễn cũng nhận thấy: " Thể thơ lục ngôn, nói
đúng hơn là thể thất ngôn bát cú có chen vào những câu lục ngôn, đó là


20

một sự thay đổi có thể là một thí nghiệm tìm tòi một âm điệu mới ra ngoài khuôn phép luật
Đường " [94:54]
Hai là Hồng Đức quốc âm thi tập vào nửa sau thế kỷ XV một mặt kế thừa nội dung
dân tộc ở Quốc âm thi tập , mặt khác cũng có những tìm tòi mở hƣớng về phía xã hội hóa.
Tất nhiên là tập thơ có nhiều hạn chế; lại là cái chính: đề tài thông tục nhƣng lại mang khẩu
khí cao sang. Thi tập có vẻ nặng nề tính chất cung đình. Tuy vậy, "...nhiều thành ngữ, tục
ngữ, từ lấp láy được sử dụng (...) Tính ước lệ tượng trưng là phổ biến trong tác phẩm nhưng
cũng có xu hướng tả thực với những chi tiết cụ thể, sinh động "(85 : I : 323). Về nhịp 3/4, có
nhà nghiên cứu cho rằng: "Một vài câu có cắt nhịp 3/4 hoặc có vần bằng ở giữa câu, thì có
thể là do ngẫu nhiên chứ không phải dụng ý của nhà thơ" [79:79]. Chúng tôi không nghĩ nhƣ
vậy mà cho rằng nhịp 3/4 là một hiện tƣợng độc đáo rất Việt Nam, rất có ý nghĩa. Ngoài ra,
tập thể đã có những thể nghiệm trong việc vận dụng thơ Đƣờng luật để tự sự và để trào
phúng, tuy sự tìm tòi chƣa đƣợc rõ nét nhƣng cũng gây đƣợc ấn tƣợng. Nó đã giúp đỡ các nhà
thơ sau đó rút ra bài học không thành công khi dùng Đƣờng luật để tự sự và bài học thành
công khi dùng Đƣờng luật để trào phúng.
Ba là Bạch Vân thi tập (thƣờng đƣợc gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi) của Nguyễn
Bỉnh Khiêm (1491 - 15850) "Một cây đại thụ rợp bóng suốt thế kỷ XVI". Nếu trong thơ chữ
Hán, các thể tài đề vịnh, thù tạc, trữ tình đều đƣợc bảo lƣu rất đậm thì ngƣợc lại dƣờng nhƣ
trong thơ chữ Nôm chủ yếu là thơ ngôn chí. Gần gũi với Nguyễn Trãi về nội dung tƣ tƣởng

nhƣng nếu nhƣ thơ Nguyễn Trãi thiên về cái tinh tế trong khi miêu tả sự diễn biến, những
rung động thầm kín của trái tim thì thơ Tuyết Giang phu


21

tử thiên về cái uyên thâm trầm lắng những nghĩ suy về thế sự. Gs Đinh Gia Khánh khi nhận
xét về thơ Đƣờng luật của hai thế kỷ XVI và XVII có lẽ dựa trên thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm:
"Sang các thế kỷ XVI và XVII thì (...) thơ Đường luật vốn rất phù hợp với yêu cầu trữ tình lại
đã được nhiều tác giả sử dụng để viết về triết học, về đạo lý, tức là thể hiện những suy tư về
thế giới, về xã hội,...". Cùng với

chân dung một con ngƣời luôn tự chủ, bình tĩnh, ung dung,

thƣ thái, thƣờng lạc quan, yêu thích thiên nhiên, hòa mình vào thiên nhiên, là âm vang của
những dòng thơ tiếng Việt giản dị, trong sáng, vừa có cái cụ thể sinh động khi tiếp cận cuộc
sống, vừa nâng lên tầm khái quát, cô đúc nhƣ những chân lý. Quả thật tập thơ đã có những
đóng góp mới cho xu hƣớng Việt hóa và quá trình dân chủ hóa thể loại này. Gs Bùi Duy Tân
viết: "Thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được Việt hóa thêm một bước, nhất
là về mặt ngôn ngữ, rất gần với thơ Nôm Nguyễn Công Trứ, thậm chí Nguyễn Khuyến thời
sau, trong những bài thơ đó, không tự giác mà nhà thơ đã phá vỡ truyền thống khuôn sáo,
cầu kỳ , ước lệ trong phong cách thơ Nôm thời Lê Thánh Tông (...) xét về phong cách ngôn
ngữ thì thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng phản ảnh rất rõ tác động ngày càng mạnh của thơ
ca dân gian vào dòng văn học viết của trí thức phong kiến." [79 : 155 - 156]. Nhà nghiên cứu
Mai Quốc Liên nhận xét: "Nguyễn Bỉnh Khiêm đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng
thơ tiếng Việt (...) ông tiếp tục cái quá trình sử dụng và không chế chất liệu ngôn ngữ thuần
Việt. Đặc biệt là đã đưa vào thơ những chất liệu thường ngày, những câu chữ xuất từ ca dao,
tục ngữ, từ tiếng nói bình dân. Đó là quá trình dân chủ hóa nền



22

văn học dân tộc, một quá trình vĩ đại. Những câu thơ của (...) Nguyễn Bỉnh Khiêm;
Thèm nỡ phụ canh cua rốc
Lạnh đà quen đắp ổ rơm
chúa dựng bên trong nó một sự chuyển biến vĩ đại, một sự từ bỏ một nền mỹ học quan
phương cung đình có phần nào rập khuôn thơ Trung Hoa, đến việc kiến tạo một nền mỹ học
dân tộc. Nó cũng là biểu hiện của mỹ học của cái thường ngày, bình dị..." [96 : 107 - 108].
GS Lê Trí Viễn, trong bài viết Tài thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm còn khẳng định "Thơ Nguyễn
Bỉnh Khiêm là thơ hay với đầy đủ phẩm chất thơ. Cách dùng từ thoải mái, thêm chút tự do và
có lúc có thể nói ngang tàng (...) sử dụng hư từ lạ và tài:
Cá tôm tối chác bên kia bến
Củi đuốc ngày mua mé nọ đèo
(...) "Ngâm biếm nguyệt "và"chén vầy thu" thì

sức cô đúc nhượng gì thơ chữ Hán:

Song bắc kìa ai ngâm biếm nguyệt
Lầu nam nọ khách chén vầy thu
(...) âm điệu thì khỏi nói. Nào chen lục ngôn hoặc toàn lục ngôn. Nào ngắt nhịp bất chấp
nhạc điệu thơ luật mà chỉ nghe theo nhạc điệu của hồn thơ, chẳng chút e dè" [96: 157]. Đỗ
Kim Thịnh, trên tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật số 6/1991 có bài Quan niệm đạo đức
và thẩm mỹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong đó ông chỉ ra bản sắc văn hóa, tâm hồn Việt Nam
ở thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm "Sự gắn bó với các ngạn ngữ dân ca Việt được ông thể hiện
trong các bài thơ Nôm - thứ quốc ngữ đầu


×