Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Áp dụng khung quy chiếu trình độ chung châu Âu (CEFR) trong xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh tại trường Đại học Giao thông Vận tải: Khó khăn và đề xuất giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.55 KB, 10 trang )

v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

ÁP DỤNG KHUNG QUY CHIẾU TRÌNH ĐỘ
CHUNG CHÂU ÂU (CEFR) TRONG XÂY DỰNG
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TIẾNG ANH
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI:
KHÓ KHĂN VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
NGUYỄN THỊ THU HÀ*
Đại học Giao thông Vận tải, ✉

*

TÓM TẮT
Bài báo nêu lên những bất cập trong việc xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh dựa trên
khung quy chiếu trình độ chung châu Âu (Common European Framework of Reference, viết
tắt là CEFR) tại trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội. Theo chỉ đạo về việc thực hiện đề
án ngoại ngữ 2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trường Đại học Giao thông Vận tải (GTVT) đã
tiến hành xây dựng đề án đổi mới chương trình đào tạo tiếng Anh theo định hướng chuẩn đầu ra
B1 và quyết định lấy khung quy chiếu châu Âu CEFR làm nền tảng cho việc xây dựng chương
trình. Tuy nhiên, quá trình xây dựng đề án đổi mới đã gặp nhiều thách thức liên quan đến cơ chế
và chính sách đào tạo, giáo trình bài giảng, đề thi, phương pháp giảng dạy của giáo viên khiến
cho việc thiết kế chương trình gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy, trong bài báo này, tác giả dự
định phân tích những bất cập đó và đề xuất những hướng giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả của
chương trình đào tạo.
Từ khóa: đề án ngoại ngữ 2020, khung quy chiếu châu Âu, xây dựng chương trình.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, các trường đại học ở
Việt nam đã và đang thực hiện nhiều biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả đào tạo tiếng Anh, từ việc biên soạn
lại chương trình, lựa chọn giáo trình mới, tăng thời


lượng, nâng cao trình độ giáo viên đến việc thay đổi
cách kiểm tra đánh giá theo hướng áp dụng một số
chứng chỉ quốc tế để xác định trình độ người học. Tất
cả những nỗ lực nói trên đã góp phần cải thiện một
phần nào chất lượng đào tạo tiếng Anh. Tuy nhiên,
theo nhận định chung, hiệu quả về giảng dạy vẫn còn

62

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 09 - 9/2017

tương đối thấp mà nguyên nhân là do các biện pháp
cải thiện được thực hiện một cách tự phát hoặc thiếu
một cơ sở lý luận làm nền tảng, đặc biệt thể hiện ở mối
liên kết lỏng lẻo giữa chương trình đào tạo và cách
đánh giá chuẩn đầu ra.
Nhận thức được tầm quan trọng trong việc xác
định chuẩn đầu ra cho sinh viên đại học, Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã ban hành thông tư số 05/2012/TTBGDĐT quy định sinh viên tốt nghiệp ĐH khối ngành
không chuyên ngữ phải đạt trình độ tiếng Anh B1 –
tương đương 450 điểm TOEIC, 450 điểm TOEFL


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v

PBT hoặc 4.5 điểm IELTS theo khung quy chiếu châu
Âu có hiệu lực thi hành từ tháng 4/2012 (Bộ Giáo
dục và Đào tạo, 2012). Thông tư nhằm hiện thức hóa

một phần trong nội dung của đề án ngoại ngữ 2020
đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 2008.
Nhằm thực hiện thông tư của Bộ, bắt đầu từ năm
học 2015-2016, trường Đại học Giao thông Vận tải
đã thực hiện đề án đổi mới chương trình đào tạo tiếng
Anh theo định hướng sử dụng khung quy chiếu châu
Âu bắt đầu bằng việc phân loại sinh viên để xếp lớp
theo đúng trình độ và xác định chuẩn đầu ra là B1
với bài thi tập trung vào cả 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc
và viết, nhằm phát triển toàn diện khả năng giao tiếp
bằng tiếng Anh của sinh viên. Tuy vậy, trong quá trình
xây dựng đề án, các giảng viên Anh văn phụ trách
phần thiết kế chương trình đã gặp rất nhiều khó khăn
liên quan đến việc ứng dụng khung quy chiếu trình
độ chung châu Âu (CEFR) đối với một trường khối
kỹ thuật không chuyên về tiếng Anh, bên cạnh đó còn
có nhiều bất cập về cơ chế chính sách đào tạo, biên
soạn giáo trình, phương pháp giảng dạy để thực hiện
đề án. Để làm rõ vần đề này, bài báo sẽ giới thiệu tổng
quan về khung quy chiếu CEFR, nêu lên các thách
thức trong áp dụng khung quy chiếu và đề xuất một số
biện pháp nhằm nâng cao chất lượng chương trình và
hiệu quả giảng dạy tiếng Anh tại trường Đại học Giao
thông Vận tải nói riêng và các trường đại học không
chuyên ngữ nói chung.
2. GIỚI THIỆU KHUNG QUY CHIẾU TRÌNH
ĐỘ CHUNG CHÂU ÂU
Khung trình độ chung châu Âu, tên đầy đủ là
Khung quy chiếu về trình độ ngôn ngữ chung châu
Âu (Common European Framework of Reference for

Languages), là một sáng kiến của Hội đồng châu Âu
nhằm đưa ra một hệ thống mô tả các mức trình độ
ngoại ngữ có thể đạt được của người học từ lúc bắt
đầu đến khi đạt được trình độ gần tương đương với
người bản ngữ (Council of Europe, 2001).
CEFR được bắt đầu xây dựng vào đầu thập niên
1990 bởi một nhóm các nhà nghiên cứu ngôn ngữ
nổi tiếng của châu Âu, trong đó tác giả chính là John
Trim, Brian North, Daniel Coste và Joseph Sheils.

Sau khi thử nghiệm với 2 phiên bản nội bộ, phiên
bản chính thức đầu tiên ra mắt vào năm 2001, được
xuất bản bằng hai ngôn ngữ, tiếng Anh do nhà xuất
bản Cambridge, tiếng Pháp do nhà xuất bản Didier để
chào mừng năm Ngôn ngữ châu Âu và đã được dịch
ra gần 40 ngôn ngữ trên thế giới.
Mục tiêu tổng quát của khung quy chiếu CEFR
được thể hiện trong trích đoạn sau đây: “Khung quy
chiếu CEFR nhằm mục đích vượt qua các rào cản về
giao tiếp giữa các chuyên gia làm việc về lĩnh vực
ngôn ngữ hiện đại đến từ các hệ thống giáo dục khác
nhau… cung cấp các phương tiện để các nhà quản
lý đào tạo, các nhà thiết kế chương trình, giáo viên,
người đào tạo giáo viên, các cơ quan khảo thí có thể
định vị và phối hợp các nỗ lực để đảm bảo đáp ứng
nhu cầu của người học. Bằng cách tạo ra một cơ sở
chung để mô tả tường minh các mục tiêu, nội dung
chương trình và phương pháp giảng dạy. Khung quy
chiếu CEFR sẽ làm tăng tính minh bạch của các khóa
học, nội dung chương trình và văn bằng được cấp”

(Common European Framework of Reference for
Languages: Council of Europe, phiên bản điện tử,
tr.1) (Council of Europe, 2001).
Phiên bản chính thức của khung quy chiếu CEFR
có độ dài 260 trang với 9 chương chính và 4 phụ
lục; trong đó, 2 chương đầu của công trình giới thiệu
bối cảnh, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu, các
chương còn lại mô tả và phân tích các yếu tố có liên
quan đến hiệu quả của việc học tập, giảng dạy và sử
dụng ngôn ngữ như các mức trình độ ngôn ngữ, bối
cảnh sử dụng ngôn ngữ, năng lực của người học, quá
trình giảng dạy và học tập, vai trò của các hoạt động
trong giảng dạy, chương trình đào tạo và cuối cùng là
kiểm tra đánh giá. Phần phụ lục của công trình nêu
một số ứng dụng cụ thể của CEFR trên thế giới nhằm
mục đích minh họa và gợi ý cho người đọc những
cách khai thác CEFR để phục vụ cho mục đích riêng
biệt của mình.
Có thể nói CEFR là một công trình toàn diện và
bao quát vì nó hướng đến tất cả các đối tượng có liên
quan trong quá trình đào tạo, từ người sử dụng lao
động, các cơ quan khảo thí và cấp chứng chỉ đến các
nhà quản lý, thiết kế chương trình và cuối cùng là các
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 09 - 9/2017

63



v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

Bảng 1. Khung quy chiếu trình độ chung - Thang đo tổng quát (Council of Europe, 2001)

Năng
lực

Cấp
độ

C2
Sử dụng
thành
thạo

Có khả năng hiểu một cách dễ dàng những thông tin đọc và nghe được. Tóm tắt thông tin
từ các nguồn nói và viết khác nhau, tái cấu trúc các lập luận và miêu tả thành một trình tự
gắn kết. Biểu hiện khả năng ngôn ngữ một cách tự nhiên, trôi chảy và chính xác, phân lập
các tầng nghĩa khác nhau kể cả trong những tình huống phức tạp.

C1

Có khả năng hiểu các loại văn bản dài và phức tạp, nhận biết được các hàm ý. Biểu hiện
khả năng ngôn ngữ một cách tự nhiên, thuần thục mà không gặp phải nhiều khó khăn. Sử
dụng ngôn ngữ linh hoạt và hiệu quả phục vụ trong các mục đích xã hội, học tập hay công
việc. Có khả năng dùng các câu có cấu trúc chặt chẽ, rõ ý về những đề tài phức tạp, sử dụng
linh hoạt các thành phần câu, từ nối câu và các cụm từ chức năng.

B2


Có khả năng hiểu các ý chính trong văn bản phức tạp về các chủ đề cụ thể cũng như trừu
tượng, bao gồm những thảo luận về các vấn đề kỹ thuật về chuyên ngành của người học.
Giao tiếp một cách tự nhiên và lưu loát với người bản địa, không gây sự hiểu lầm giữa đôi
bên. Có khả năng sử dụng các câu chi tiết, rõ ràng trong nhiều chủ đề khác nhau, bày tỏ
quan điểm về một vấn đề cũng như so sánh những ưu, nhược điểm của từng đề tài trong
các bối cảnh khác nhau.

B1

Có khả năng hiểu những ý chính trong ngôn ngữ thông qua các chủ đề quen thuộc thường
gặp trong công việc, ở trường học hay khu vui chơi…. Có thể xử lý hầu hết các tình huống
có thể xảy ra trong giao tiếp. Có khả năng sử dụng các câu liên kết đơn giản trong các chủ
đề quen thuộc trong cuộc sống hoặc liên quan đến sở thích cá nhân. Có thể miêu tả các sự
kiện, các trải nghiệm, giấc mơ, ước ao hay tham vọng của mình và đưa ra những nguyên
nhân, giải thích cho các ý kiến và dự định đó.

A2

Có thể hiểu câu và các cụm từ thông thường trong những hầu hết các chủ đề quen thuộc
(ví dụ: thông tin cơ bản về bản thân và gia đình, mua sắm, địa lý địa phương, vấn đề việc
làm). Có thể giao tiếp đơn giản, thực hiện các yêu cầu cơ bản và nắm bắt được thông tin
khi giao tiếp trong các bối cảnh quen thuộc. Có thể dùng từ vựng đơn giản để miêu tả lý
lịch cá nhân, bối cảnh trực tiếp hay những chủ đề về các nhu cầu cấp bách.

A1

Có khả năng hiểu và sử dụng các cấu trúc câu đơn giản và cơ bản nhằm đáp ứng những yêu
cầu cụ thể. Có khả năng giới thiệu bản thân và những người khác, có thể hỏi và trả lời các
câu hỏi về bản thân như nơi sinh sống, những người quen biết hay những vật dụng sở hữu.


Sử dụng
độc lập

Sử dụng
căn bản

64

Mô tả năng lực

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 09 - 9/2017


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v

nhân vật trung tâm của quá trình đào tạo là giáo viên
và người học.
2.1. Nội dung chính của khung quy chiếu chung
CEFR
Hiện nay, trên thế giới đang tồn tại nhiều cách
phân chia trình độ ngoại ngữ sử dụng các thang đo
khác nhau, tuy nhiên, các thang đo này còn khá mơ
hồ gây trở ngại cho việc chuyển đổi và công nhận lẫn
nhau giữa các hệ thống. Ví dụ, người học có chứng chỉ
TOEIC, TOEFL hoặc IELTS sẽ được quy chiếu như
thế nào với chứng chỉ FCE. Chính vì vậy, một khung
tham chiếu chung như CEFR là thực sự cần thiết và
hữu dụng để giải quyết vấn đề này.

Theo CEFR, năng lực ngoại ngữ của người học
được chia ra làm 6 mức như Bảng 1 (Council of
Europe, 2001):
Trình độ A (sử dụng căn bản): Gồm 2 mức A1
(giao tiếp theo công thức) và A2 (giao tiếp cơ bản).
Trình độ B (sử dụng độc lập): Gồm 2 mức: B1(giao
tiếp độc lập trong một số tình huống hạn chế) và B2
(giao tiếp độc lập trong các tình huống quen thuộc).
Trình độ C (sử dụng thành thạo): gồm 2 mức: C1
(giao tiếp chủ động và thành thạo trong nhiều tình
huống đa dạng) và C2 (giao tiếp chủ động và thành
thạo trong hầu hết mọi tình huống).
Các trình độ nói trên được sắp xếp trên một thang
đo tổng quát (global scale) theo thứ tự từ cao đến thấp
(từ trình độ C2 đến trình độ A1), mỗi trình độ có kèm
theo diễn giải về khả năng sử dụng ngôn ngữ của
người học, để người đọc có thể hiểu dễ dàng. Thang
đo này cung cấp một bản mô tả chung về trình độ của
người học, đồng thời đưa ra những định hướng tổng
quát cho việc xây dựng mục tiêu học tập và thiết kế
chương trình đào tạo.
2.2. Khái niệm về chương trình và các nội dung
của việc thiết kế chương trình trong CEFR
Các tác giả trong CEFR cũng đã khẳng định rằng,
chương trình là một khái niệm rộng và khó đưa ra

được một định nghĩa rõ ràng và được sự nhất trí cao.
Theo các tác giả, chương trình học được coi là một kế
hoạch học tập hay là “môt lộ trình mà người học thực
hiện thông qua các trải nghiệm học tập, có hoặc không

có sự kiểm soát của một cơ sở giáo dục” (CEFR,
chương 8.4). Chương trình học chính là một phần của
chương trình “trải nghiệm” (experiential) và “tồn tại”
(existential), mà phạm vi của nó còn vượt ra khỏi cả
ranh giới của trường học.
Xây dựng và thực hiện chương trình bao gồm
nhiều hoạt động được thực hiện ở nhiều cấp khác
nhau trong hệ thống giáo dục, cụ thể như sau:
– Cấp quốc tế, để so sánh (supra): Ví dụ như: các
công cụ để tham chiếu có tính quốc tế như khung
năng lực CEFR, các nghiên cứu đánh giá quốc tế như
khảo sát PISA hay các chỉ số châu Âu về năng lực
ngôn ngữ, hoặc các phân tích được chuyên gia quốc
tế thực hiện.
– Cấp quốc gia (hệ thống giáo dục), cấp bang hoặc
vùng (macro): Ví dụ như: các kế hoạch học tập, đề
cương bài giảng, các mục đích chiến lược cụ thể, nội
dung cốt lõi, các chuẩn về đào tạo.
– Cấp trường (meso): Ví dụ như: điều chỉnh
chương trình học hoặc kế hoạch học tập để phù hợp
với điều kiện của từng trường.
– Cấp lớp, nhóm, trình tự giảng dạy, giáo viên
(micro): Ví dụ như: khóa học, sách giáo khoa được sử
dụng, các nguồn tài liệu.
– Cấp cá nhân (nano): Ví dụ như: kinh nghiệm
học tập cá nhân, phát triển cá nhân về học tập suốt đời.
Các tác giả cũng khẳng định rằng, sự tham gia
của các cấp trong việc xây dựng và thực hiện chương
trình đào tạo, đặc biệt ở cấp quốc gia hoặc cấp khu
vực trong việc đưa quyết sách có thể gây ra những sức

ép nhất định.Tuy nhiên, dù chính sách giáo dục được
quyết định như thế nào ở hai cấp này, thì vai trò của
trường học (meso) và giáo viên đứng lớp (micro) luôn
đóng vai trò quyết định trong việc thực thi chương
trình đào tạo.
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 09 - 9/2017

65


v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
3. ỨNG DỤNG CỦA CEFR TRONG THIẾT
KẾ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TRÊN THẾ
GIỚI VÀ VIỆT NAM
CEFR ra đời đánh dấu một bước thay đổi lớn
trong việc thiết kế chương trình đào tạo ở khắp nơi
trên thế giới, không chỉ bó hẹp ở phạm vi châu Âu.
Từ cách tiếp cận theo tính truyền thống là xây dựng
chương trình chú trọng vào phương pháp giảng dạy để
truyền tải nội dung chương trình thì nay việc thiết kế
chương trình hướng đến kết quả đầu ra của người học
và tất cả phương pháp giảng dạy và các hoạt động học
tập đều nhằm đạt đến kết quả đầu ra đó.
Hội đồng châu Âu đã thực hiện một cuộc nghiên
cứu khảo sát từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2006 để thu
thập thông tin về việc sử dụng CEFR ở cấp quốc gia
tại 30 nước thành viên của liên minh châu Âu. Kết
quả của khảo sát này đã được trình bày tại Diễn đàn

chính sách “The Common European Framework for
Reference for Languages and the Development of
Language Policies: Challenges and Responsibilities”
(Khung quy chiếu Trình độ Ngôn ngữ chung châu Âu
và xây dựng các chính sách ngôn ngữ: Thách thức
và trách nhiệm) (Council of Europe, 2001) được tổ
chức vào tháng 2 năm 2007. Kết quả khảo sát đã cho
thấy, CEFR được thường xuyên sử dụng ở các nước
thành viên trong việc xây dựng chương trình đào tạo
ngoại ngữ ở cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học
phổ thông và đại học, chương trình đào tạo tiếng dân
tộc, các quy định về kiểm tra, đánh giá và cấp chứng
chỉ, các chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên,
biên soạn sách giáo khoa, các văn bản về chính sách
và kế hoạch hành động trong đào tạo ngôn ngữ…. Cụ
thể, về nội dung câu hỏi liên quan đến lập kế hoạch
và xây dựng chương trình đào tạo, 26 trên tổng số 29
nước tham gia trả lời khảo sát (chiếm 90%) đã đánh
giá rằng, CEFR là công cụ rất hữu ích trong việc lên
kế hoạch và xây dựng chương trình đào tạo. 87%
nước được hỏi đánh giá CEFR rất hữu ích trong lên
kế hoạch và biên soạn bài kiểm tra, đánh giá, và cấp
chứng chỉ.
Các câu trả lời đã thể hiện tầm ảnh hưởng rộng
lớn của CEFR trong rất nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong

66

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ


Số 09 - 9/2017

việc xây dựng chương trình và bài giảng. Các nước
tham gia khảo sát cũng chỉ ra rằng, ứng dụng lớn nhất
của CEFR là các thành phần của khung CEFR như
cách tiếp cận hướng đến hành động lấy người học làm
trung tâm, bối cảnh về đa dạng ngôn ngữ, khái niệm
về học tập suốt đời …. Nhiều nước ủng hộ việc sử
dụng các thang đo với phần mô tả chi tiết từng mức
năng lực trong thang đo để làm công cụ đánh giá và tự
đánh giá. Ở rất nhiều nước, các tài liệu tham khảo, các
chuẩn đầu ra và các kỳ thi đang được đánh giá lại, cập
nhật dựa trên khung quy chiếu CEFR. Một số nước
khác cũng lên kế hoạch để tiếp tục nghiên cứu nhằm
hiệu lực hóa mối liên hệ giữa chương trình cấp quốc
gia với CEFR.
Ở Việt Nam, trong hệ thống giáo dục phổ thông
đến đại học, khung quy chiếu CEFR cũng được sử
dụng như nền tảng cho việc xây dựng chương trình
đào tạo. Đặc biệt, ngày 30 tháng 9 năm 2008. Thủ
tướng Chính phủ đã ký quyết định số 1400/QĐ-TTG,
phê duyệt khung quy chiếu trình độ ngoại ngữ chung
Châu Âu làm chuẩn đào tạo trình độ tiếng Anh kèm
theo đó là “Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống
giáo dục quốc dân Việt Nam giai đoạn 2008-2020”.
Ngày 24 tháng 1 năm 2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã ban hành Thông tư 01/2014/TT-BGDĐT, quy định
về khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc của Việt Nam dựa
trên cơ sở khung quy chiếu CEFR và được chia làm 3
cấp và 6 bậc, trong đó:

Bậc 1 (sơ cấp) tương thích với A1 trong CEFR.
Bậc 2 (sơ cấp) tương thích với A2 trong CEFR.
Bậc 3 (trung cấp) tương thích với bậc B1 trong CEFR.
Bậc 4 (trung cấp) tương thích với bậc B2 trong CEFR.
Bậc 5 (cao cấp) tương thích với bậc C1 trong CEFR.
Bậc 6 (cao cấp) tương thích với bậc C2 trong CEFR.
Thông tư số 05/2012/TT-BGDĐT do Bộ GDĐT ban hành, trong đó quy định sinh viên tốt nghiệp
đại học khối ngành không chuyên ngữ phải đạt
trình độ tiếng Anh B1 – tương đương 450 điểm
TOEIC, 450 điểm TOEFL PBT hoặc 4.5 điểm IELTS


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v

theo khung tham chiếu chuẩn châu Âu có hiệu lực thi
hành từ tháng 4-2012. Tuy nhiên, cho đến nay việc
học và thi đạt chuẩn đầu ra ở các trường đại học lại
rất khác nhau, dẫn đến tình trạng “loạn chuẩn đầu ra”.
Theo Thu Tâm (2013), bên cạnh một số trường
áp dụng chuẩn Anh ngữ đầu ra B1 cho sinh viên tốt
nghiệp đại học hệ đào tạo chính quy theo quy định của
Bộ Giáo dục và Đào tạo như Đại học Kinh tế Quốc dân
(trừ 3 ngành Ngoại thương, Du lịch và Kinh doanh
quốc tế), Đại học Văn hóa, Đại học Công nghiệp,
Đại học Công nghiệp thực phẩm TPHCM, nhiều đơn
vị vẫn áp dụng chuẩn ngoại ngữ đầu ra thấp hơn so
với quy định. Đơn cử tại Đại học Giao thông Vận tải
TPHCM, sinh viên sẽ được công nhận tốt nghiệp đại
học nếu đạt 405 điểm TOEIC hoặc 4.0 điểm IELTS,
thấp hơn 0.5 điểm so với chuẩn quy định theo khung

tham chiếu. Tương tự, tại Đại học Cần Thơ, trừ 4
chuyên ngành Sư phạm tiếng Anh, Việt Nam học
(chuyên ngành Hướng dẫn viên du lịch), Kinh doanh
quốc tế và Luật (chuyên ngành Luật thương mại) có
mức yêu cầu trình độ Anh ngữ cao hơn, còn lại tất cả
các ngành đều công nhận tốt nghiệp cho sinh viên có
trình độ tiếng Anh bằng A quốc gia hoặc 350 điểm
TOEIC, thấp hơn 100 điểm so với mức quy định.
Theo Hương Lan (2008), trước thực trạng “loạn
chuẩn” này, bà Trần Thị Hà, Vụ trưởng Vụ Giáo
dục đại học cho biết, các trường cùng khối ngành
phải phối hợp xây dựng chương trình chi tiết môn
tiếng Anh theo chuẩn năng lực sử dụng tiếng Anh. Và
chuẩn phải có tính thống nhất, chặt chẽ và xuyên suốt,
đồng thời phải đáp ứng được yêu cầu của cơ quan
tuyển dụng lao động.
4. THIẾT KẾ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
TIẾNG ANH DỰA TRÊN KHUNG QUY CHIẾU
CEFR TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG
VẬN TẢI
Từ năm học 2015-2016, nhằm thực hiện chỉ đạo
của đề án Ngoại ngữ quốc gia 2020, Trường Đại học
Giao thông Vận tải đã tiến hành đổi mới chương trình
đào tạo lấy khung quy chiếu trình độ chung châu Âu
là nền tảng cho việc thiết kế chương trình.

Trước thời điểm đổi mới chương trình, sinh viên
toàn trường thường phải học 3 học phần tiếng Anh
gồm tiếng Anh 1 (60 tiết/3 tín chỉ), tiếng Anh 2 (60
tiết/3 tín chỉ) và tiếng Anh chuyên ngành (45 tiết hoặc

60 tiết tùy từng chuyên ngành). Giáo trình tiếng Anh
1 là cuốn giáo trình được nhà trường biên soạn ở trình
độ Elementary (sơ cấp), giáo trình tiếng Anh 2 ở trình
độ Pre-intermediate (trung cấp) và giáo trình chuyên
ngành thường từ trình độ Pre-intermediate (trung cấp)
trở lên. Sinh viên buộc phải học cả 3 học phần, không
tính đến trình độ đầu vào của các em, dẫn đến tình
trạng lớp có nhiều trình độ khác nhau, có những sinh
viên học kém nhưng cũng có nhiều em khá tiếng Anh
phải học lại từ trình độ cơ bản Elementary, dẫn đến
tình trạng chán học. Giáo viên cũng gặp nhiều khó
khăn khi giảng dạy những lớp sinh viên có trình độ
chênh lệch nhau vì khó áp dụng những phương pháp
giảng dạy phù hợp với những đối tượng như vậy.
Đề án đổi mới chương trình được sự tham gia xây
dựng của tất cả các giảng viên tiếng Anh. Với cách tiếp
cận xác định chuẩn năng lực cho từng học phần, từ đó
xác định phương pháp giảng dạy, nội dung bài giảng
và cách đánh giá, chương trình đào tạo được thiết kế
theo các trình độ từ A1 đến B1 (bảng 2). Theo yêu
cầu của chương trình mới, sinh viên khi vào trường
phải tham gia thi sát hạch năng lực đầu vào. Bài thi
sát hạch là dạng thi TOEIC Listening & Reading dạng
trắc nghiệm khách quan thực hiện trong 2 giờ, gồm
200 câu hỏi. Từ kết quả sát hạch này, Nhà trường thực
hiện quy đổi điểm TOEIC sang khung trình độ chung
châu Âu như trình độ A1, A2, B1. Sinh viên sau khi
quy đổi đạt trình độ như thế nào sẽ được xếp lớp theo
đúng trình độ của mình. Những sinh viên đạt điểm
TOEIC tương đương B1 sẽ được miễn học tất cả các

học phần A1, A2 và B1 và chỉ phải học học phần tiếng
Anh chuyên ngành.
Cũng theo yêu cầu của đề án, sinh viên phải đạt
điểm 5 ở các học phần trước thì mới được chuyển tiếp
lên học ở các học phần tiếp theo. Những sinh viên
không đạt sẽ phải học lại và thi lại để đạt. Chuẩn tiếng
Anh đầu ra là 5 điểm học phần B1 và đạt điểm theo
quy định của hệ thống tín chỉ với học phần tiếng Anh
chuyên nghành.
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 09 - 9/2017

67


v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Bảng 2. Khung chương trình đào tạo tiếng Anh tại Đại học Giao thông Vận tải (từ năm học 2015-2016)
STT

Trình độ

1

A1

2

Học phần


Số tín chỉ

Số tiết

Thời điểm học

Tiếng Anh A1

4

90

Năm thứ 1

A2

Tiếng Anh A2

4

90

Năm thứ 2

3

B1

Tiếng Anh B1


4

90

Năm thứ 3

4

B1+

Tiếng Anh chuyên ngành

3

60

Năm thứ 3

Về giáo trình sử dụng, nhà trường sử dụng bộ
giáo trình được thiết kế dựa theo khung quy chiếu
trình độ chung châu Âu, giáo trình Straightforward
A1, Straightforward A2 và Straightforward B1 (Philip
Ker, 2013). Đối với học phần tiếng Anh chuyên
ngành, nhà trường giao việc biên soạn giáo trình tùy
theo từng chuyên ngành cho các nhóm giảng viên dạy
chuyên nghành cụ thể như chuyên ngành công trình,
cơ khí, kinh tế, kỹ thuật viễn thông.... Tất cả các giáo
trình chuyên ngành đều biên soạn từ trình độ B1.
Về đề thi cho các học phần, các giảng viên dựa
vào các tiêu chí đánh giá trình độ A1, A2 và B1 để

thiết kế ra bộ đề thi để đánh giá theo trình độ. Đối
với trình độ A2, việc thiết kế đề thi dựa trên bài thi
KET (Cambridge ESOL) và trình độ B1 dựa trên đề
thi PET (Cambridge ESOL).Nhà trường quyết định
lấy đề thi B1 (PET) nhằm xác định chuẩn đầu ra vì nó
đánh giá đầy đủ 4 kỹ năng, không giống đề thi TOEIC
chỉ đánh giá 2 kỹ năng nghe và đọc. Cho đến nay, việc
thực hiện chương trình đã thực hiện cho 2 khóa 55 và
56 và có những ưu thế so với chương trình cũ như sau:
– Sinh viên được xếp lớp theo đúng trình độ, tránh
tình trạng lớp nhiều trình độ chênh lệch.
– Sinh viên phải đạt học phần mới được chuyển
tiếp lên học phần cao hơn, thúc đẩy động cơ học tập
của sinh viên.
– Giáo trình phát triển 4 kỹ năng nghe, nói, đọc và
viết theo đúng khung quy chiếu châu Âu CEFR.
– Đề thi có đủ 4 kỹ năng nghe, nói, đọc và viết,

68

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 09 - 9/2017

bám sát khung quy chiếu CEFR, khác với chương
trình cũ không kiểm tra kỹ năng nói.
Tuy vậy, đã có khá nhiều bất cập từ khâu xây dựng
và thực hiện chương trình, cụ thể:
Áp dụng đề thi TOEIC sát hạch đầu vào
Việc sử dụng đề thi TOEIC Listening và Reading

để sát hạch đầu vào và xếp lớp là do đề thi có dạng
trắc nghiệm, dễ áp dụng cho hơn 1000 sinh viên năm
thứ nhất, dễ chấm điểm và quy đổi sang khung tham
chiếu CEFR. Tuy nhiên, vì đề thi chỉ đánh giá 2 kỹ
năng nghe và đọc nên kết quả có phần nào phiến diện,
chưa phản ảnh thực chất khả năng giao tiếp của sinh
viên. Rất nhiều sinh viên được điểm cao ở kỳ thi sát
hạch này, được chuyển điểm, miễn học và miễn thi
các học phần A1, A2, B1 và chỉ phải học phần tiếng
Anh chuyên ngành. Tuy vậy, khi ra trường khả năng
giao tiếp của sinh viên khó đáp ứng được yêu cầu của
thị trường lao động.
Trình độ của sinh viên
Kể từ khi thực hiện sát hạch trình độ đầu vào của
sinh viên trong năm học 2015-2016, trình độ ngoại
ngữ của sinh viên của các trường khối kỹ thuật như
Đại học Giao thông Vận tải rất kém. Khóa 55(80%
sinh viên) và khóa 56 (76% sinh viên) phải học từ
trình độ A1, trong khi đa phần các em đã học tiếng
Anh từ tiểu học (lớp 3), tức là khoảng 10 năm học
tiếng Anh. Điều này chứng tỏ chất lượng đào tạo
ngoại ngữ ở bậc phổ thông thật sự là hồi chuông báo
động cả xã hội. Sinh viên vào đại học đáng lý đã phải


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v

đạt trình độ A2, và chỉ phải học B1 thì nay phải học
lại từ đầu, gây khó khăn cho tất cả các trường đại học
nói chung, không riêng gì Đại học Giao thông Vận tải.

Thời lượng chương trình
Theo khung quy chiếu châu Âu CEFR, với mức
điểm 220-245/990 TOEIC, trình độ đầu vào của sinh
viên là từ cận A2 (~ 225) đến A2 (> = 225). Đối với
mức này, để đạt chuẩn đầu ra (B1) thì sinh viên cần
khoảng 300 giờ học trên lớp (class hours), tương
đương 400 tiết. Tuy nhiên, với thời lượng tổng là 270
tiết (3 học phần từ A1 đến B1) thì sinh viên đại học
Giao thông Vận tải rất khó để đạt trình độ B1 cần
thiết. Những giảng viên tham gia xây dựng chương
trình cũng đã nhận thức vấn đề này ngay từ khâu thiết
kế. Tuy nhiên, do còn có rất nhiều môn học khác trong
khung chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy
định cho tất cả các trường đại học, cho nên không thể
bố trí đủ thời lượng theo yêu cầu cho môn tiếng Anh.
Đây là một vấn đề rất nan giải, đòi hỏi việc tái cấu trúc
lại cơ cấu khung chương trình đào tạo đại học.
Giáo trình cho các học phần tiếng Anh
Giáo trình Straightforward sử dụng cho các học
phần tiếng Anh từ A1 đến B1 dựa trên khung quy
chiếu châu Âu tập trung vào cả 4 kỹ năng nghe, nói,
đọc và viết. Tuy nhiên, với thời lượng 90 tiết cho 1
học phần, các giảng viên không thể giảng dạy hết nội
dung chương trình theo quy định. Hơn nữa, vì đề thi
A2 và B1 lại dựa trên định dạng đề thi KET và PET
nên việc đáp ứng cả nội dung chương trình và chuẩn
bị cho kỳ thi hết học phần là những thách thức rất lớn
đối với cả giảng viên và sinh viên.
Đề thi và chuẩn đầu ra cho các học phần
Như đã trình bày ở trên, đề thi A1 được biên soạn

dựa trên yêu cầu trong Khung quy chiếu CEFR, đề
thi A2 dựa trên cấu trúc bài thi KET và B1 dựa trên
PET của Cambridge ESOL. Tuy nhiên, qua thực hiện
chương trình và kết quả thi của sinh viên, để có được
điểm đạt của KET và PET là một khó khăn rất lớn
vì nội dung đề thi KET và PET khá phức tạp đòi hỏi
một bộ giáo trình phù hợp hơn, thời lượng nhiều hơn
và cả nỗ lực giảng dạy và học tập của giảng viên và
sinh viên.

Phương pháp giảng dạy của giảng viên
Trước đây, khi chưa thực hiện đề án đổi mới, việc
đánh giá chỉ dựa trên bài thi đọc, viết và nghe. Tuy
nhiên, với cách đánh giá thêm kỹ năng nói vào nội
dung bài thi đã làm cho giảng viên gặp khá nhiều lúng
túng vì giảng viên đã quen với phương pháp giảng dạy
truyền thống, chú trọng vào dạy từ vựng, ngữ pháp.
Giảng viên chưa chuẩn bị tâm lý sẵn sàng, cũng như
chưa cập nhật các phương pháp giảng dạy theo đường
hướng giao tiếp. Kết quả thi nói ở các học phần vẫn
bị đánh giá là kém nhất trong các kỹ năng. Điều này
ảnh hưởng nhiều đến chất lượng đào tạo tiếng Anh
nói chung.
5. ĐỀ XUẤT GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ
TRONG ÁP DỤNG CEFR ĐỂ XÂY DỰNG VÀ
THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
TIẾNG ANH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC GTVT
CŨNG NHƯ CÁC TRƯỜNG KHỐI KHÔNG
CHUYÊN NGỮ
Việc áp dụng CEFR vào xây dựng chương trình

đào tạo tiếng Anh là một chủ trương đúng đắn, tuy
nhiên, để có thể thực hiện chương trình một cách hiệu
quả, cần phải có những giải pháp đồng bộ từ tất cả các
bên có liên quan, từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất,
tạo sự đồng bộ và gắn kết giữa các mảng khác nhau
của quá trình giảng dạy và học tập ngoại ngữ, cụ thể:
1) Bộ giáo dục và Đào tạo nên cử các chuyên gia
đầu ngành về chính sách giảng dạy ngoại ngữ, phối
hợp với những nhà quản lý và các giảng viên dạy
ngoại ngữ tại các trường đại học nhằm xây dựng một
bộ khung chương trình đào tạo ngoại ngữ chung cho
tất cả các trường đại học khối không chuyên ngữ, là
những trường gặp khó khăn nhiều nhất trong việc đáp
ứng chuẩn đầu ra ngoại ngữ của Bộ.
Tái cơ cấu lại khung chương trình đào tạo đại học,
dành thời lượng đủ để đào tạo tiếng Anh nhằm đạt
chuẩn đầu ra. Đây là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn,
đòi hỏi sự nghiên cứu xem xét rất kỹ của hội đồng
khoa học của Bộ cũng như của các trường đại học.
Tuy nhiên, nếu không giải quyết về vấn đề thời lượng
chương trình, rất khó để đạt chuẩn đầu ra theo đúng
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 09 - 9/2017

69


v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
quy định mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra cho

các trường đại học.
Khung chương trình đào tạo ngoại ngữ nên xác
định rõ mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể, chuẩn đầu ra,
giáo trình, thời lượng, phương pháp giảng dạy và cách
đánh giá chuẩn đầu ra. Việc xây dựng một bộ khung
chương trình chi tiết sẽ giúp vạch ra phương hướng cụ
thể để các nhà quản lý giáo dục các trường thực hiện,
tạo sự đồng bộ và nâng cao chất lượng đào tạo giáo
dục đại học nói chung.
2) Đối với từng trường, việc sát hạch trình độ đầu
vào và xếp lớp là một công việc rất quan trọng, đòi hỏi
sự chính xác cao. Do vậy, cân nhắc sử dụng đề thi có 4
kỹ năng nghe, nói, đọc và viết để đánh giá đúng năng
lực của sinh viên, chẳng hạn có thể bổ sung thêm kỹ
năng nói và viết cho đề thi TOEIC hiện nay đang áp
dụng ở nhiều trường.
3) Các trường có thể cân nhắc xây dựng các khóa
học trực tuyến theo từng trình độ A1, A2, B1 hoặc
tiếng Anh chuyên nghành để bổ sung vào thời lượng
chương trình trên lớp. Coi việc đánh giá trực tuyến là
một phần trong đánh giá học phần của sinh viên, dưới
dạng bài tập lớn và có tính điểm thành phần.
4) Việc xây dựng một bộ đề thi chuẩn và phù hợp
với tình hình thực tế ở Việt Nam là một công việc đòi
hỏi nhiều thời gian và công sức. Việc nghiên cứu và
áp dụng bộ đề thi như thế nào, PET hay TOEIC hoặc
một chứng chỉ nào khác để đánh giá chuẩn đầu ra cho
các trường đại học cần phải có ý kiến chuyên môn của
tất cả các bên có liên quan, từ các chuyên gia của Bộ
cũng như của các trường để thống nhất một chuẩn đầu

ra, tránh tình trạng loạn chuẩn như hiện nay.
5) Việc bồi dưỡng nâng cao phương pháp giảng
dạy theo đường hướng giao tiếp là một yêu cầu cấp
thiết đối với tất cả các giảng viên. Tuy nhiên, để đạt
hiệu quả tốt nhất cho việc bồi dưỡng, cần phải có
một chương trình bồi dưỡng phương pháp dựa trên
khung chương trình đào tạo ngoại ngữ áp dụng cho
các trường đại học với nội dung cụ thể chi tiết để
giảng viên có thể áp dụng trong công việc giảng dạy
của mình.

70

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 09 - 9/2017

Trên đây là một số đề xuất mà chúng tôi đưa ra
để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình xây
dựng và thực hiện chương trình đào tạo tiếng Anh dựa
trên khung tham chiếu CEFR. Chúng tôi tin rằng, với
sự phối hợp đồng bộ của tất cả các cấp sẽ đem lại hiệu
quả tích cực trong việc xây dựng và thực hiện chương
trình đào tạo tiếng Anh của tất cả các trường đại học
khối không chuyên ngữ ở Việt Nam./.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012),  Thông tư
05/2012/TT-BGDDT.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Thông tư
01/2014/TT- BGDĐT.

3. Council of Europe (2001), Common European
Framework of Reference for Languages: Learning,
Teaching, Assessment, Cambridge: Cambridge
University Press, available online: <.
int/lang>.
4. Council of Europe (2007), The Common
European Framework of Reference for Languages
(CEFR) and the development of policies: Challenges
and Responsibilites, Strasbourg: Language Policy
Division, avalaible online: < />5. Huong Lan (2008), Đạt chuẩn nhà trường,
dưới chuẩn doanh nghiệp. < />giaoduc/2008/12/817118/>.
6. Philip Ker (2013). Straightforward PreIntermediate, Oxford: MacMillian Publisher.
7. Thu Tâm (2013), Cần xác định chuẩn thống
nhất việc dạy tiếng Anh ở trường đại học. www.sggp.org.vn/giaoduc/2013/3/313322/>.

8. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định 1400QĐ TTg: “Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống
giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020”.


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v

APPLYING THE COMMON EUROPEAN FRAMEWORK OF REFERENCE TO
ENGLISH CURRICULUM DEVELOPMENT AT THE UNIVERSITY OF TRANSPORT
AND COMMUNICATIONS: PROBLEMS AND SOLUTIONS
NGUYEN THI THU HA
Abstract: This paper presents challenges in English curriculum development based on the Common
European Framework of Reference (CEFR) at the University of Transport and Communications
in Hanoi. According to the guidelines on the 2020 National Foreign Language Project by the
Ministry of Education and Training, the University of Transport and Communications (hereafter

UTC) has implemented the renovation of English curriculum oriented towards the expected
outcome of B1 English level. The University has decided to take the CEFR as the foundation for
the curriculum development. However, the designing of the new curriculum has encountered a
lot of obstacles relating to educational policies and mechanism, textbooks, syllabuses, testing and
assessment, teaching methodologies. Therefore, the paper aims to analyse those difficulties and
proposed possible solutions to improve the effectiveness of the renovated curriculum.
Keywords: common European Framework of Reference, curriculum development, 2020 National
Foreign Language Project.
Received: 07/5/2017; Revised: 06/6/2017; Accepted for publication: 30/8/2017

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 09 - 9/2017

71



×