HCVINCHNHTRQUCGIAHCHMINH
NGUYNTHKIMLIấN
CÔNG NGHIệP VĂN HóA
ở THàNH PHố Hồ CHí MINH HIệN NAY
(QUA KHảO SáT MộT Số LĩNH VựC NGHệ THUậT
BIểU DIễN)
Chuyờnngnh:Vnhúahc
Mós:62310640
TểMTTLUNNTINSVNHểAHC
HÀ NỘI – 2015
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS,TS. NGUYỄN THỊ HƯƠNG
2. PGS,TS. NGUYỄN TOÀN THẮNG
Phản biện 1: .............................................................
.............................................................
Phản biện 2: .............................................................
.............................................................
Phản biện 3: .............................................................
.............................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án
cấp Học viện tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi ........ giờ ...... ngày ......... tháng ..........năm 2015
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện quốc gia
và thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thứ nhất, hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới, công nghiệp
văn hóa đang đóng vai trò là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn
của nền kinh tế tri thức, có khả năng to lớn trong việc truyền bá,
bảo vệ, phát huy bản sắc và giá trị văn hóa dân tộc. Trong khi đó, ở
Việt Nam, cả về lý luận và thực tiễn phát triển công nghiệp văn hóa
chỉ mới ở giai đoạn đầu.
Thứ hai, Việt Nam đang ở thời kỳ phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, phát triển công nghiệp văn hóa là tất
yếu khách quan.Trong định hướng phát triển văn hoá của Đảng và
Chiến lược phát triển văn hóa từ nay đến năm 2020, vấn đề phát triển
công nghiệp văn hoá đã được đặt ra. Tuy nhiên, cho đến nay chúng ta
vẫn chưa ban hành Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn
hóa. Điều này sẽ hạn chế việc cụ thể hóa những quan điểm đổi mới
của Đảng về phát triển văn hóa, phát huy sức mạnh nội sinh của dân
tộc trong giai đoạn đổi mới, hội nhập hiện nay.
Thứ ba, Tp. Hồ Chí Minh là một trong những đô thị lớn của cả
nước, nơi có nhiều cơ sở, đơn vị trong lĩnh vực nghệ thuật biểu
diễn bước đầu đã có những hoạt động phát triển theo hướng công
nghiệp. Tuy nhiên, để phát triển công nghiệp văn hóa nói chung và
lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn nói riêng trong cơ chế thị trường, cần
phải có sự chuyển đổi cơ bản hơn nữa, cả về cơ chế chính sách cũng
như hoạt động của các đơn vị, doanh nghiệp trên lĩnh vực này. Việc
nghiên cứu đánh giá và tìm ra những giải pháp để phát triển công
nghiệp văn hóa ở nước ta hiện nay, cả về lý luận và thực tiễn là vấn
đề cấp thiết.
Từ những lý do trên đây, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài nghiên
cứu của luận án: Công nghiệp văn hóa ở Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay (Qua khảo sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu
2
diễn). Hy vọng kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần làm
sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của phát triển ngành công nghiệp
văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh và ở
Việt Nam hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Để có cách nhìn hệ thống về công nghiệp văn hóa nói chung,
lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn nói riêng, nghiên cứu sinh bước đầu
tổng quan về những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên
quan đến những vấn đề lý thuyết và thực tiễn về công nghiệp văn
hóa và nghệ thuật biểu diễn trong thời gian qua (xin được trình bày
cụ thể ở chương 1 luận án).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án góp phần làm rõ cơ sở lý luận nghiên cứu công nghiệp
văn hoá, lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn; trên cơ sở đó khảo sát thực
trạng công nghiệp văn hoá qua một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn
ở Tp. Hồ Chí Minh; khuyến nghị một số giải pháp phát triển lĩnh vực
nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận án
Làm rõ cơ sở lý luận về phát triển công nghiệp văn hóa và lĩnh
vực nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam trong thời kỳ phát triển kinh
tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Khảo sát, đánh giá thực trạng lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở
Tp. Hồ Chí Minh hiện nay.
Dự báo xu hướng vận động, phát triển của công nghiệp văn
hóa ở Việt Nam nói chung, nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí
Minh nói riêng trong thời gian tới; khuyến nghị một số giải pháp
nhằm phát triển nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh trong
điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghệ thuật biểu diễn bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau. Luận
án chỉ tập trung nghiên cứu, khảo sát ba lĩnh vực: Âm nhạc, Sân
khấu Kịch nói và Múa ở một số đơn vị công lập và ngoài công lập
trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu vấn đề từ năm 2008 đến 2015, vì đây là
giai đoạn mà Đảng và Nhà nước có chủ trương, chính sách rõ hơn
tạo điều kiện cho ngành công nghiệp văn hoá phát triển. Đây cũng
là giai đoạn mà thị trường văn hoá ở Tp. Hồ Chí Minh có bước phát
triển mới so với thời kinh tế bao cấp. Một số lĩnh vực của nghệ
thuật biểu diễn ở Thành phố như Kịch nói, Âm nhạc và Múa phát
triển khá rầm rộ, theo hướng công nghiệp.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận mác
xít và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, mối quan hệ biện chứng giữa phát triển văn hoá và kinh tế.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luân an s
̣ ́ ử dung m
̣
ột số phương pháp sau: Phương pháp lịch sử
logic: nhằm đi sâu tìm hiểu quá trình vận động và phát triển của
công nghiệp văn hóa ở Tp. Hồ Chí Minh; khái quát logic của sự vận
động này theo những nội dung vấn đề cần nghiên cứu phục vụ cho
triển khai thực hiện luận án. Phương pháp phân tích và tổng hợp:
Luận án tập trung nghiên cứu phân tích các tài liệu, các số liệu, các
kết quả điều tra, nghiên cứu đã có để có thể khái quát hóa, tổng hợp
hóa, đưa ra các nhận định khoa học về công nghiệp văn hóa ở Tp.
4
Hồ Chí Minh hiện nay. Phương pháp nghiên cứu trường hợp: Luận
án chọn một số loại hình nghệ thuật biểu diễn để khảo sát, đánh
giá dưới góc nhìn công nghiệp văn hóa. Phương pháp phân tích
SWOT: nhằm chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ, thách thức,
triển vọng để phát triển công nghiệp văn hóa ở Tp. Hồ Chí Minh; từ
đó đề xuất giải pháp để giải quyết những vấn đề đang được đặt ra.
Đặc biệt luận án chú ý đến Phương pháp điều tra xã hội học để
nhằm phát hiện: nhận thức, thái độ, hành vi của các nhóm chủ thể
khác nhau đối với lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh
hiện nay. Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp thống kê – so
sánh, phương pháp dự báo.
6. Kết quả và đóng góp mới của luận án
6.1. Đóng góp về mặt lý luận
Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến công
nghiệp văn hoá và lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn trên thế giới và ở
Việt Nam hiện nay.
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Phân tích, đánh giá thực trạng một số lĩnh vực nghệ thuật biểu
diễn ở Tp. Hồ Chí Minh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay. Từ đó dự báo xu
hướng phát triển công nghiệp văn hoá ở Việt Nam nói chung và ở
Tp. Hồ Chí Minh nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể góp phần cung cấp tài
liệu tham khảo cho các trường đại học, cao đẳng, các nhà nghiên
cứu, cơ quan nghiên cứu, hoạch định chính sách xây dựng và phát
triển công nghiệp văn hoá ở nước ta.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung của luận án được kết cấu thành 4 chương, 13 tiết:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
5
Chương 2. Cơ sở lý luận tiếp cận nghiên cứu công nghiệp văn
hoá và nghệ thuật biểu diễn ở Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3. Thực trạng lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay
Chương 4. Những vấn đề đặt ra đối với phát triển nghệ thuật
biểu diễn ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay và một số khuyến
nghị.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI
Có thể thấy, cho đến nay, các nhà khoa học trên thế giới đã có
khá nhiều các công trình nghiên cứu về công nghiệp văn hoá cũng
như nghệ thuật biểu diễn. Các vấn đề được các học giả nghiên cứu
tập trung ở một số mặt sau:
Về nghiên cứu lý thuyết: Xuất phát từ các góc độ tiếp cận cũng
như điều kiện lịch sử, địa lý, kinh tế, văn hoá khác nhau nên các nhà
nghiên cứu về công nghiệp văn hoá đều đưa ra những cách hiểu
khác nhau về quan niệm cũng như cách phân loại lĩnh vực này. Vẫn
còn nhiều tranh luận xoay quanh tên gọi: công nghiệp văn hoá, công
nghiệp sáng tạo, công nghiệp văn hoá và sáng tạo, công nghiệp
nghệ thuật, công nghiệp bản quyền, công nghiệp giải trí... Mặc dầu
tên gọi khác nhau nhưng tất cả các quốc gia đều nhìn nhận công
nghiệp văn hoá là một ngành công nghiệp. Nghĩa là, công nghiệp
văn hoá cũng bao gồm các hoạt động sản xuất, khai thác, phân phối
và tiêu thụ sản phẩm như các ngành công nghiệp khác. Chỉ khác là
đối tượng của quá trình sáng tạo, sản xuất và khai thác ở đây không
phải là sản phẩm vật chất thông thường mà là sản phẩm văn hoá.
Ngoài những tác phẩm đề cập đến khái niệm khác nhau liên
quan đến công nghiệp văn hoá, các học giả còn khẳng định vai trò
6
của ngành công nghiệp văn hoá và phân loại các ngành công nghiệp
văn hoá. Với tư cách là một cơ quan văn hoá của Liên Hợp Quốc,
UNESCO đã đưa ra những quan điểm, chủ trương, chính sách cũng
như khẳng định tầm quan trọng của việc phát triển công nghiệp văn
hoá.
Riêng về khái niệm công nghiệp nghệ thuật biểu diễn, cho đến
nay chưa thấy đề cập ở công trình nghiên cứu nào. Tuy nhiên, tiếp
cận ở quy trình hoạt động loại hình nghệ thuật biểu diễn như các
ngành công nghiệp văn hoá cụ thể thì đã có rất nhiều tác giả đề cập
tới. Cũng như các nhà nghiên cứu đã bàn nhiều đến những vấn đề
chung của nghệ thuật biểu diễn và hệ thống lý thuyết trong kinh tế
của nghệ thuật biểu diễn; vai trò của nghệ thuật biểu diễn.
Về nghiên cứu thực tiễn: Các công trình nghiên cứu đã phân tích
chính sách công của chính phủ trong việc tác động đến lĩnh vực
công nghiệp văn hoá, lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn nhằm đáp ứng
các nhu cầu văn hoá, tinh thần của người dân trong xã hội, nhấn
mạnh khía cạnh kinh tế của các hoạt động văn hoá, mối quan hệ
giữa kinh tế và văn hoá, tính đặc thù của các sản phẩm hàng hoá văn
hoá, thị trường văn hoá phẩm. Vấn đề chi phí, ngân sách, thị trường,
tổ chức hoạt động, xây dựng thương hiệu, tiếp thị và phát triển
khán giả… trong công nghiệp văn hoá, đặc biệt là lĩnh vực nghệ
thuật biểu diễn đều được các tác giả quan tâm. Ngoài ra, các nhà
khoa học còn phân tích các quan điểm về chính sách công, về thực
tiễn phát triển, quản lý phát triển hoạt động nghệ thuật biểu diễn
và một số kinh nghiệm ở các nước về lĩnh vực này.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
Đóng góp của các nghiên cứu về lĩnh vực công nghiệp văn hoá,
trong đó có nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam có thể đánh giá chung
như sau:
Về nghiên cứu lý thuyết:
7
Các nghiên cứu đã làm rõ tính tất yếu khách quan và đặc thù
của phát triển công nghiệp văn hoá trong cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập của Việt Nam.
Lý luận phát triển công nghiệp văn hoá như: quan niệm công
nghiệp văn hoá, cấu trúc của công nghiệp văn hoá trên thế giới và ở
nước ta ngày càng được nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn.
Bước đầu nghiên cứu vai trò, ý nghĩa của phát triển công
nghiệp văn hoá nói chung và lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn nói riêng
đối với việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc và phát triển kinh tế. Phân tích những vấn
đề đặt ra trong việc xây dựng, phát triển công nghiệp văn hoá ở
nước ta.
Về nghiên cứu thực tiễn:
Bước đầu đã có một số công trình khảo sát đánh giá về thực
trạng hoạt động của một số lĩnh vực công nghiệp văn hoá, trong đó
có nghệ thuật biểu diễn ở một số địa phương như Hà Nội, Tp. Hồ
Chí Minh và đã đưa ra khuyến nghị cần thiết hữu ích cho phát triển
lĩnh vực này. Ngoài ra, các công trình đã đề cập đến kinh nghiệm
quản lý, phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu
rộng hiện nay.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở kế thừa và chọn lọc những kết quả nghiên cứu đã
công bố, luận án tiếp tục giải quyết những vấn đề cụ thể sau:
Một là, về mặt lý luận, luận án góp phần làm sáng tỏ khái
niệm, đặc điểm, cấu trúc, vai trò của công nghiệp văn hoá và loại
hình nghệ thuật biểu diễn.
Hai là, về mặt thực tiễn, luận án tập trung vào các vấn đề sau:
Phân tích những yếu tố chủ quan và khách quan tác động đến
lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh.
8
Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động của một số loại hình
nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh trong những năm qua.
Chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế trong lĩnh vực nghệ thuật
biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay, tìm ra nguyên nhân.
Ba là, luận án dự báo xu hướng vận động, phát triển của công
nghiệp văn hoá nói chung, nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh nói
riêng trong thời gian tới. Từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát
triển lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Như vậy, trên thế giới, quan niệm, cơ cấu, chức năng, vai trò
của công nghiệp văn hoá và nghệ thuật biểu diễn đã được bàn đến
khá nhiều. Những vấn đề mới trong công tác quản lý nghệ thuật như:
xây dựng thương hiệu, tiếp thị và phát triển khán giả; những mâu
thuẫn về giá trị kinh tế với giá trị văn hoá, nghệ thuật; phân tích
những tác động của công nghệ đối với công nghiệp văn hoá cũng
được giới nghiên cứu chú ý.
Ở trong nước, thời gian gần đây công nghiệp văn hoá đã được
bàn đến khá sôi nổi. Những nội dung được đưa bàn thảo chủ yếu
về quan niệm, vai trò, ý nghĩa của công nghiệp văn hoá và sự tác
động của xu thế toàn cầu hoá, hội nhập cũng như kinh tế thị trường
đối với lĩnh vực này. Đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu
về công nghiệp nghệ thuật biểu diễn mà chỉ dừng lại ở những bài
viết chuyên sâu về từng loại hình nghệ thuật đơn lẻ, chưa có sự kết
nối giữa các nhân tố sáng tạo, sản xuất, quảng bá, tiếp nhận như
một hệ thống thống nhất của công nghiệp nghệ thuật biểu diễn.
Khái niệm “công nghiệp văn hoá” còn khá mới mẻ ở Việt
Nam. Nghiên cứu xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn
hoá nói chung, lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh
nói riêng có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Kế
thừa và vận dụng những thành tựu lý luận và thực tiễn đã đạt được,
9
luận án đi sâu khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng một số lĩnh
vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh trong thời gian vừa
qua, từ đó có thể phát hiện ra những vấn đề đang đặt ra cần giải
quyết trong thời gian tới.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU
CÔNG NGHIỆP VĂN HOÁ VÀ NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÔNG CỤ
2.1.1. Khái niệm, cơ cấu và đặc trưng của công nghiệp văn hoá
2.1.1.1. Khái niệm công nghiệp văn hoá
Ở Việt Nam, công nghiệp văn hoá đang còn là một khái niệm
khá mới. Khái niệm và vai trò của công nghiệp văn hoá mới được
bàn đến ở một số công trình nghiên cứu và một số cuộc hội thảo.
Nhóm tác giả nghiên cứu đề tài: “Phát triển công nghiệp văn hoá ở
Việt Nam Thực trạng và giải pháp” (PGS,TS. Nguyễn Thị Hương
làm chủ nhiệm) đã đưa ra khái niệm về công nghiệp văn hoá như sau:
Công nghiệp văn hoá là ngành công nghiệp sáng tạo, sản xuất,
tái sản xuất, phổ biến tiêu dùng các sản phẩm và các dịch vụ văn hoá
bằng phương thức công nghiệp hoá, tin học hoá, thương phẩm hoá,
nhằm đáp ứng nhu cầu văn hoá đa dạng của xã hội, các hoạt động đó
được bảo vệ bởi bản quyền.
Đây là một trong những định nghĩa đã nêu được những đặc trưng
cơ bản của ngành công nghiệp văn hoá. Công nghiệp văn hoá được
thể hiện ở những sản phẩm tạo ra có sự kết hợp chặt chẽ giữa kỹ
thuật cao với các giá trị văn hoá, giá trị kinh tế, các sản phẩm đó phải
hướng tới phục vụ số đông. Tính chất của hệ thống công nghiệp văn
hoá bao giờ cũng gắn với những mô hình sản xuất nhất định.
10
2.1.1.2. Cơ cấu của ngành công nghiệp văn hoá
Về cơ cấu của ngành công nghiệp văn hoá cho đến nay vẫn có
nhiều ý kiến khác nhau. Trước đây, theo quan niệm phổ biến trên
thế giới, lĩnh vực công nghiệp văn hoá gồm: quảng cáo, kiến trúc,
thị trường đồ cổ và nghệ thuật, thủ công nghiệp, thiết kế, thời
trang, điện ảnh, video và nhiếp ảnh, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn
và thị giác,xuất bản, phần mềm, trò chơi máy tính và xuất bản điện
tử, truyền hình và đài phát thanh. Các nước châu Âu đưa ra 11 lĩnh
vực, các nước châu Á đưa ra 7 lĩnh vực thuộc ngành công nghiệp
văn hoá.
Ở Việt Nam hiện nay, các nhà nghiên cứu cho rằng cơ cấu của
ngành công nghiệp văn hoá bao gồm các lĩnh vực chủ yếu sau: Công
nghiệp truyền thông đại chúng, Công nghiệp điện ảnh, Công
nghiệp nghệ thuật biểu diễn, Công nghiệp mỹ thuật, Công nghiệp
dịch vụ vui chơi, giải trí, Hoạt động kinh doanh thương mại các vật
tư chuyên ngành văn hoá và các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch
vụ văn hoá.
2.1.1.3. Đặc trưng của công nghiệp văn hoá
Công nghiệp văn hoá có một số đặc trưng sau:
Thứ nhất, công nghiệp văn hoá là thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ
Thứ hai, công nghiệp văn hoá hoạt động theo cơ chế thị trường,
chịu sự tác động của quy luật thị trường
Thứ ba, công nghiệp văn hoá phải được bảo vệ bởi bản quyền
Thứ tư, công nghiệp văn hoá vượt ra ngoài giới hạn của quan
niệm truyền thống phân biệt văn hoá tinh hoa, văn hoá bác học với
văn hoá bình dân, văn hoá đại chúng
2.1.2. Khái niệm và cơ cấu của nghệ thuật biểu diễn
2.1.2.1. Khái niệm nghệ thuật biểu diễn
11
Nghệ thuật biểu diễn là một trong những lĩnh vực quan trọng
có tính đặc thù của công nghiệp văn hoá. Sản phẩm của nghệ thuật
biểu diễn trước hết liên quan đến sáng tạo giá trị văn hoá nghệ thuật
giá trị mà không một hình thái ý thức nào có thể thay thế được trong
việc tác động đến tư tưởng, tình cảm, lý tưởng thẩm mỹ, góp phần
phát triển hoàn thiện nhân cách con người.
Theo quan điểm của NCS, nếu quan niệm công nghiệp văn hoá
là sự ứng dụng của tiến bộ khoa học công nghệ và kỹ năng kinh
doanh, sử dụng năng lực sáng tạo, vốn văn hoá để tạo ra sản phẩm
và dịch vụ văn hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và hưởng thụ văn hoá
của người dân, thì nghệ thuật biểu diễn là ngành công nghiệp đặc
thù, quan trọng của công nghiệp văn hoá. Một số lĩnh vực nghệ thuật
biểu diễn ở nước ta hiện nay cũng đã được sáng tạo, sản xuất, phân
phối và tiêu dùng theo quy trình của một ngành công nghiệp. Nhưng khác
với một số thành tố khác trong đời sống văn hoá nghệ thuật, nghệ thuật
biểu diễn được thể hiện thông qua hệ thống các phương tiện (sân khấu,
âm thanh, ánh sáng, trang phục, đạo cụ…), tập trung ở nhà hát, sân khấu,
rạp xiếc, múa rối, nhà chiếu phim, vũ trường.
2.1.2.2. Cơ cấu của nghệ thuật biểu diễn
Trong các loại hình nghệ thuật, nghệ thuật biểu diễn có thể là
những sáng tạo cá nhân, hay một nhóm nhỏ các cá nhân hoặc là kết
quả của một tập thể đông người, song xét về tổng thể, nghệ thuật
biểu diễn là một ngành nghệ thuật mang tính tập thể, mỗi một tác
phẩm sân khấu, âm nhạc, múa... đều là kết quả của sự sáng tạo cá
nhân (biên đạo, nhạc sĩ, kịch tác gia...) và tập thể (đạo diễn, âm
thanh, ánh sáng...), với sự kết hợp chặt chẽ của 3 thành phần: sáng
tạo (nghệ sĩ, diễn viên), tổ chức biểu diễn (âm thanh, ánh sáng),
quản trị (bán vé, marketing, PR...). Do đó, đây là một ngành đòi hỏi
phải có sự quan tâm bởi 3 bình diện: nghệ thuật, tổ chức biểu diễn
12
và quản trị. Chính 3 bình diện này tạo nên ngành nghệ thuật biểu
diễn, vượt qua khái niệm thông thường khi chỉ coi ngành này đơn
thuần là nghệ thuật.
2.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN
2.2.1. Đặc điểm của nghệ thuật biểu diễn
Là ngành công nghiệp văn hoá mà các hoạt động thể hiện sự
sáng tạo mang tính tổng hợp, gắn quá trình sản xuất với các dịch
vụ, sàn diễn, loại hình nghệ thuật biểu diễn có những đặc điểm
chung và đặc thù sau:
2.2.1.1. Sản phẩm của lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn là kết quả
của quá trình sáng tạo, sản xuất mang tính tổng hợp và liên kết.
2.2.1.2. Quá trình phân phối, tiêu thụ các sản phẩm nghệ thuật
biểu diễn diễn ra đồng thời
2.2.1.3. Đặc thù trong bảo quản các sản phẩm hàng hoá văn hoá
cho lần khai thác tiếp theo
2.2.1.4. Nghệ thuật biểu diễn hoạt động theo luật doanh nghiệp
nói chung cùng với sự quản lý của cơ quan chức năng văn hoá
2.2.1.5. Khả năng đánh giá và điều chỉnh hoạt động của nghệ
thuật biểu diễn phụ thuộc chặt chẽ vào khán giả
2.2.2. Vai trò của nghệ thuật biểu diễn
2.2.2.1. Nghệ thuật biểu diễn đáp ứng nhu cầu giải trí của xã hội
2.2.2.2. Sản phẩm nghệ thuật biểu diễn chất lượng có tác dụng
giáo dục thẩm mỹ, hoàn thiện nhân cách con người
2.2.2.3. Phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn góp phần giải
quyết mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và kinh tế
2.2.2.4. Phát triển nghệ thuật biểu diễn theo hướng công nghiệp
là con đường để hiện đại hoá nền văn hoá dân tộc và hội nhập quốc
tế
2.3. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NGHỆ THUẬT BIỂU
DIỄN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
13
Quá trình phát triển nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh
đang chịu nhiều nhân tố tác động. Những nhân tố này vừa là thời cơ,
vừa là thách thức ảnh hưởng lớn đến sự phát triển lĩnh vực nghệ
thuật biểu diễn nơi đây. Những nhân tố đó là:
2.3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và lịch sử văn hoá đô
thị
2.3.2. Tác động của khoa học công nghệ, kinh tế tri thức
2.3.3. Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và phát triển công
nghiệp văn hoá
2.3.4. Chủ trương, chính sách phát triển ngành công nghiệp văn
hoá ở Việt Nam
Chương 3
THỰC TRẠNG LĨNH VỰC NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Luận án khảo sát thực trạng lĩnh vực Âm nhạc, Sân khấu
Kịch nói và Múa ở một số đơn vị nghệ thuật công lập và ngoài
công lập, đó là: Nhà hát Giao hưởng Nhạc Vũ kịch Tp. Hồ Chí
Minh, Nhà hát Kịch Tp. Hồ Chí Minh, Nhà hát Kịch Sân khấu nhỏ
5B, Nhà hát Ca múa nhạc dân tộc Bông Sen, Sân khấu Idecaf, Sân
khấu Kịch Hồng Vân và Sân khấu Superbowl, Sân khấu ca nhạc
126, Sân khấu ca nhạc Trống Đồng. Đây là những đơn vị nghệ
thuật đang hoạt động khá sôi nổi tại Tp. Hồ Chí Minh. Nội dung
khảo sát, đánh giá bao gồm những khía cạnh sau: hoạt động sáng
tạo/sản xuất; hoạt động tổ chức biểu diễn và doanh thu; hoạt động
phân khúc thị trường và vấn đề bản quyền.
3.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SÁNG TẠO/ SẢN XUẤT NGHỆ
THUẬT BIỂU DIỄN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1.1. Về đội ngũ sáng tạo/sản xuất
14
Nguồn nhân lực trong hoạt động sáng tạo/sản xuất là yếu tố
quan trọng của công nghiệp nghệ thuật biểu diễn. Về nguồn nhân
lực của thị trường này, có thể thấy Tp. Hồ Chí Minh là nơi tập
trung lượng ca sỹ, nhạc sỹ, nhóm – ban nhạc đông đảo nhất so với
cả nước. Bên cạnh đó, thị trường này còn thu hút nhiều ca sỹ, nhóm
– ban nhạc trong nước, ca sỹ hải ngoại và đặc biệt là các ca sỹ,
nhóm nhạc nổi tiếng trên thế giới. Lực lượng diễn viên, đạo diễn,
nhà biên kịch, nhà quản lý trong lĩnh vực kịch nói và múa cũng khá
đông đảo và chuyên nghiệp.
3.1.2. Về cách thức kết hợp sáng tạo/ sản xuất
Đối với lĩnh vực Âm nhạc, đó là sự kết hợp của ca sĩ – nhạc sĩ
tạo nên những cặp đôi chuyên nghiệp, hướng tới sự hoàn thiện
trong sáng tạo âm nhạc. Các ca sĩ kết hợp để làm “liveshow”, xu
hướng chuyển từ các dự án làm chương trình lớn sang các chương
trình biểu diễn vừa và nhỏ ở các tụ điểm ca nhạc, phòng trà, nhà
hàng, khách sạn cao cấp… ngày càng được các ca sĩ và các nhà tổ
chức quan tâm trong thời buổi kinh tế đang ngày càng khó khăn.
Đối với lĩnh vực sân khấu Kịch nói, để đáp ứng nhu cầu đa dạng
của khán giả, các đơn vị sân khấu kịch đã đa dạng hoá sản phẩm.
Đó là xu hướng chuyển thể tác phẩm văn học sang kịch bản sân
khấu, xu hướng kết hợp yếu tố điện ảnh với kịch nói, xu hướng
phát triển hài kịch, xu hướng cung cấp ý tưởng kịch bản…
Đối với lĩnh vực Múa, sự kết hợp sáng tạo/sản xuất giữa diễn
viên múa vũ đoàn ca sỹ và các công ty tổ chức sự kiện để có các
chương trình biểu diễn diễn ra khá phổ biến. Mối quan hệ này là
một chuỗi mắt xích vô cùng chặt chẽ. Các vũ đoàn muốn tồn tại và
phát triển, ngoài việc luôn có những sản phẩm đáp ứng được yêu
cầu còn phải thiết lập mối quan hệ thật tốt với các ca sỹ, công ty tổ
chức sự kiện. Ngược lại, các ca sỹ, công ty tổ chức sự kiện muốn có
15
một chương trình hoành tráng, toàn diện thì cũng không thể thiếu sự
có mặt của các vũ đoàn.
3.1.3. Đầu tư cơ sở vật chất, khoa học, công nghệ trong
sáng tạo/sản xuất
Hiện nay, có trên 12 sân khấu kịch đang hoạt động tại địa bàn
Tp. Hồ Chí Minh, riêng sân khấu Kịch Hồng Vân là đơn vị kinh
doanh sở hữu nhiều điểm biểu diễn nhất (3 điểm diễn: sân khấu
Phú Nhuận, sân khấu Superbowl và sân khấu VM được đầu tư hệ
thống ghế ngồi, âm thanh, ánh sáng, sân khấu cùng các trang thiết bị
chuyên dụng đảm bảo phục vụ tốt nhất cho các đêm diễn). Sân
khấu Idecaf có đến 2 điểm diễn đều được đầu tư khá hiện đại.
Thành phố Hồ Chí Minh hiện có khoảng 20 địa điểm có thể
phục vụ biểu diễn nghệ thuật ca nhạc: Nhà hát Hoà Bình Nhà hát
hiện đại nhất Việt Nam với sức chứa 2.400 chỗ. Nhà hát Bến
Thành, sức chứa khoảng 1.046 chỗ. Nhà hát Thành phố là địa điểm
lý tưởng cho các chương trình nghệ thuật hàn lâm. Có lẽ, trên địa
bàn thành phố hiện nay, sân khấu Lan Anh được xem là địa điểm
biểu diễn lý tưởng nhất với sức chứa khoảng 2.500 chỗ cùng hệ
thống âm thanh, ánh sáng tương đối tốt. Nhà hát Giao hưởng và Vũ
kịch Tp. Hồ Chí Minh, Sân khấu ca nhạc Trống Đồng, Sân khấu ca
nhạc Cầu Vòng 126, Nhà hát Đại Đồng, CLB Phan Đình Phùng, nhà
thi đấu Nguyễn Du và sân vận động Quân khu 7 cũng là địa điểm
biểu diễn thường xuyên của hầu hết các nghệ sỹ trong lĩnh vực âm
nhạc.
Riêng lĩnh vực nghệ thuật Múa cho đến nay vẫn chưa có một sân
khấu hay địa điểm nào dành riêng cho lĩnh vực này. Các chương trình
biểu diễn nghệ thuật Múa đều phải thuê địa điểm hoặc biểu diễn
cùng với các chương trình ca nhạc.
Các đơn vị nghệ thuật đã đầu tưmua sắm trang thiết bị và sử
dụng các trang thiết bị kỹ thuật cho biểu diễn nghệ thuật tương đối
16
hiện đại (nhất là các đơn vị ngoài công lập). Đào tạo đội ngũ kỹ
thuật viên về lý thuyết âm thanh, ánh sáng, giải mã công nghệ, thiết
bị âm thanh, ánh sáng hiện đại trên thế giới để khai thác các tính
năng của thiết bị. Ngoài ra còn đào tạo nhân viên hậu đài, hoá trang,
phục trang...phục vụ trong biểu diễn nghệ thuật.
3.2. THỰC TRẠNG CÔNG NGHỆ TỔ CHỨC BIỂU DIỄN VÀ
DOANH THU
3.2.1. Công nghệ tổ chức biểu diễn
Thành phố Hồ Chí Minh là nơi các doanh nghiệp, đơn vị nghệ
thuật có công nghệ tổ chức biểu diễn âm nhạc phát triển mạnh nhất
so với cả nước. Sự phát triển của công nghệ tổ chức và biểu diễn
trong lĩnh vực âm nhạc thể hiện ở sự gắn kết chặt chẽ giữa ca sỹ
nhóm/ban nhạc nhạc sỹ công ty tổ chức sự kiện. Ngoài ra, công
nghệ tổ chức biểu diễn này còn được góp sức bởi một lực lượng lớn
phóng viên, nhiếp ảnh của các kênh truyền thông, báo chí có trình độ
tác nghiệp cao; sự phát triển dây chuyền tiếp thị PR chuyên nghiệp
của nhà tổ chức, một hệ thống nhà hát, sân khấu lớn cùng hạ tầng cơ
sở kỹ thuật cao.
Ở một số chương trình ca nhạc do tư nhân tổ chức hoặc có tài
trợ tại một số sân khấu Tp. Hồ Chí Minh đã gây được tiếng vang
đối với lượng khán giả trẻ. Có được những thành công này là nhờ
một phần không nhỏ của các yếu tố kỹ thuật công nghệ. Yếu tố kỹ
thuật công nghệ âm thanh, ánh sáng, trang phục, hoá trang…hệ
thống trang thiết bị hiện đại đóng vai trò không thể thiếu đối với
một chương trình biểu diễn nghệ thuật.
Trong ngành nghệ thuật biểu diễn, do đặc điểm của hoạt động
biểu diễn trực tiếp nên quá trình diễn viên, nghệ sỹ biểu diễn trên
sân khấu và quá trình đưa sản phẩm nghệ thuật đó đến với công
chúng xảy ra song song. Để những tác phẩm nghệ thuật đến được
với người tiêu dùng một cách rộng rãi, nhiều đơn vị sân khấu đã tổ
17
chức lưu diễn.Trong vài năm trở lại đây, sân khấu kịch không chỉ
phát triển tại thị trường thành phố mà nhiều đơn vị đã mạnh dạn
đầu tư cho những chuyến lưu diễn trong và ngoài nước.
Ở lĩnh vực Múa, trong khi cả nước đang gặp lúng túng trong
phát triển lĩnh vực này thì ở Tp. Hồ Chí Minh đã tìm được hướng đi
riêng. Các diễn viên múa (chủ yếu là múa minh hoạ) không còn hoạt
động độc lập như trước mà thường tập hợp nhau thành nhóm. Sau
một thời gian lớn mạnh, nhóm này phát triển thành những vũ đoàn
chuyên nghiệp. Thậm chí hiện nay, một số vũ đoàn lớn đã lập công
ty riêng để dễ dàng trong khâu tổ chức trọn gói kiêm luôn vai trò đào
tạo các diễn viên cho vũ đoàn như vũ đoàn Phương Việt, ABC,
Rạng Đông...
3.2.2. Doanh thu
Khi nhìn nhận nghệ thuật biểu diễn dưới góc nhìn của một
ngành công nghiệp văn hoá thì không thể không bàn đến vấn đề
doanh thu của các đơn vị nghệ thuật. Đây là mục đích đầu tiên của
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong ngành công nghiệp
không khói này.
Sân khấu kịch Tp. Hồ Chí Minh vốn năng động nhất cả nước với
nhiều điểm diễn do tư nhân bỏ vốn đầu tư luôn sáng đèn mỗi đêm
nhưng cũng là nơi thấy rõ nhất khoảng cách giữa nghệ thuật và doanh
thu. Mặc dầu những người làm sân khấu luôn mang trong mình nhiều
tâm huyết.
Kết quả thống kê từ năm 2009 đến 2013 cho thấy doanh thu của
Sân khấu Kịch Hồng Vân luôn tăng ở mức trung bình
13.9%/năm.Đây là mức tăng mà rất ít sân khấu kịch nói tại Tp. Hồ
Chí Minh đạt được trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế đã và đang
có tác động một cách toàn diện và sâu sắc đến đời sống xã hội.
Đối với Sân khấu Kịch Ideaf, gần 20 năm hoạt động, đến nay
sân khấu này đã tạo được chỗ đứng và thương hiệu trong lòng khán
18
giả. Với nguyên tắc làm việc nghiêm túc và tâm huyết với nghề,
quan niệm đặt nghệ thuật đi trước, kinh tế theo sau, quan tâm giữ
gìn thương hiệu và chăm sóc khách hàng… của Giám đốc Huỳnh
Anh Tuấn, càng ngày khán giả đến với sân khấu này càng đông hơn.
Chính vì vậy, trong những năm gần đây, doanh thu của Sân khấu kịch
Ideaf liên tục tăng trưởng. Cụ thể: Doanh thu năm 2011:
13.504.768.194 đồng, năm 2012: 56.873.325.648 đồng, năm 2013:
36.968.580.395 đồng, năm 2014: 53.653.805.137 đồng [Nguồn: Chi
cục Thuế Thành phố]
Hay một số các chương trình nghệ thuật đạt được doanh thu
khá cao như chương trình “Cầm tay mùa hè” của nhạc sĩ Quốc
Trung, bán vé tới 1,8 triệu đồng, tổng thu hai đêm là 1,6 tỷ đồng…
3.3. THỰC TRẠNG PHÂN KHÚC THỊ TRƯỜNG VÀ VẤN ĐỀ
BẢN QUYỀN
3.3.1. Phân khúc thị trường
Lĩnh vực Âm nhạc:
Thị trường tiếp nhận/tiêu thụ của nghệ thuật biểu diễn thể
hiện ở việc phân khúc thị trường, nhất là trong môi trường cạnh
tranh ngày càng gay gắt như hiện nay.
Theo kết quả nghiên cứu cho thấy, nếu căn cứ vào độ tuổi và
trình độ thưởng thức âm nhạc thì thành phố đang tồn tại các phân
khúc thị trường cơ bản sau:
+ Thị trường nhạc nhẹ: có phân khúc thị trường mục tiêu là
những người trẻ có độ tuổi từ 15 đến 25;
+ Thị trường nhạc dân gian đương đại, nhạc cổ điển thính
phòng: có phân khúc thị trường mục tiêu là những người có trình độ
thưởng thức âm nhạc;
+ Thị trường nhạc tiền chiến, nhạc cách mạng: có phân khúc thị
trường mục tiêu là những người lớn tuổi;
19
+ Thị trường nhạc hải ngoại: có phân khúc thị trường mục tiêu là
những người trong độ tuổi trung niên.
Tuy nhiên, nếu căn cứ vào mức thu nhập của người dân thì thị
trường âm nhạc Thành phố đang tồn tại hai phân khúc thị trường cơ
bản là:
+ Phân khúc những người có thu nhập trên trung bình đây là phân
khúc có biên độ hẹp hơn so với phân khúc còn lại;
+ Phân khúc những người có thu nhập thấp và trung bình đây là
phân khúc có biên độ rất lớn.
Lĩnh vực Kịch nói:
Sân khấu nào thì khán giả đó, xét một cách tương đối thì:
Sân khấu Idecaf dành cho khán giả trẻ cá tính, những người
làm văn phòng, thiếu nhi.
Sân khấu Kịch Hồng Vân thì khán giả gốc Bắc quận Phú
Nhuận, Gò Vấp.
Sân khấu nhỏ 5B dành cho tầng lớp trí thức và người lớn tuổi.
Sân khấu Kịch Sài Gòn thì khán giả bình dân, tiểu thương,
người Hoa.
Lĩnh vực Múa rối:
Đối với thực trạng phân khúc thị trường của lĩnh vực Múa, qua
quá trình đi khảo sát, tác giả luận án nhận thấy loại hình Múa rối
nước đang phát triển khá mạnh ở Tp. Hồ Chí Minh theo hướng công
nghiệp. Các nhà hát múa rối đã biết chọn thị trường mục tiêu để
khai thác và phục vụ khán giả. Tiêu biểu là Nhà hát múa rối Rồng
Vàng do ông Huỳnh Anh Tuấn làm giám đốc.
Nếu phân tích ở góc độ phân khúc thị trường của Nhà hát Múa
rối nước Rồng Vàng thì Nhà hát này đã chọn đúng thị trường mục
tiêu chính là đối tượng khán giả khách du lịch, nhất là khách du lịch
quốc tế. Ngoài ra, Múa rối còn nhắm vào đối tượng khán giả là các
20
em thiếu nhi, học sinh. Sự phân khúc này cũng thấy rõ ở Nhà hát Múa
rối nước Thăng Long, Hà Nội.
3.3.2. Vấn đề bản quyền
Phát triển công nghiệp văn hoá trong cơ chế thị trường và hội
nhập quốc tế như hiện nay, thì bản quyền là vấn đề sống còn đối
với các doanh nghiệp văn hoá.
Về kịch nói, nhìn chung, các doanh nghiệp sân khấu kịch ở Tp.
Hồ Chí Minh chấp hành nghiêm túc Luật Bản quyền và Sở hữu trí
tuệ. Hiện nay, Việt Nam đã có Chợ kịch bản.
Ở lĩnh vực âm nhạc, Trung tâm Bảo vệ quyền tác phẩm âm
nhạc Việt Nam (VCPMC) – chi nhánh phía Nam trong suốt 10 năm
hoạt động (2004 2014), đã đạt được những kết quả đáng trân trọng.
Số lượng nhạc sĩ, tác giả thành viên tin tưởng và ký hợp đồng uỷ thác
cho Trung tâm ngày càng tăng theo từng năm. Năm 2004 có 148 thành
viên; năm 2010 có 979 thành viên và đến năm 2014 có 1.963 thành
viên. Số tiền thù lao sử dụng quyền tác giả âm nhạc mà Trung tâm đã
thu cho các nhạc sĩ, tác giả thành viên tăng từ con số 497 triệu đồng
(năm 2004) đến hơn 20 tỷ đồng (năm 2010) và 39 tỷ đồng (năm 2014).
Tổng số tiền thu được cho các nhạc sĩ 10 năm qua đã lên đến hơn 180
tỷ đồng.
Tuy vậy, hiện nay việc vi phạm bản quyền âm nhạc tại Tp. Hồ
Chí Minh vẫn diễn ra khá phức tạp.
3.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG
Trong quá trình đổi mới, hội nhập phát triển của đất nước,
Đảng ta đã có định hướng quan trọng về đảm bảo sự gắn kết giữa
phát triển kinh tế và văn hoá. Cùng với chính sách xã hội hoá, đẩy
mạnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh sản phẩm văn hoá trong
cơ chế kinh tế thị trường, bước đầu đã tạo điều kiện cho các chủ
thể và một số lĩnh vực văn hoá hoạt động theo hướng phát triển của
ngành công nghiệp.
21
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những đơn vị đi đầu cả
nước về phát triển thị trường hàng hoá văn hoá. Công nghiệp văn
hoá trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Thành phố đang trong giai
đoạn đầu của sự phát triển, tuy non trẻ, nhưng đã khẳng định được
vị trí và từng bước phát triển theo hướng công nghiệp giải trí, công
nghiệp văn hoá. Các chủ thể tham gia vào quá trình sáng tạo/sản
xuất, tổ chức biểu diễn cũng như quản lý trong lĩnh vực này đang
ngày càng mang tính chuyên nghiệp hơn. Khảo sát thực trạng lĩnh
vực nghệ thuật biểu diễn ở Thành phố cho thấy:
3.4.1. Lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đã có những bước đi
ban đầu hướng đến phát triển ngành công nghiệp văn hoá
Sự chủ động của các chủ thể, đặc biệt là một số đơn vị ngoài
công lập tham gia sản xuất, kinh doanh trên lĩnh vực này.Tính
chuyên nghiệp, đào tạo cơ bản, năng động của đội ngũ sáng tạo/sản
xuất; sự phân hoá của đội ngũ nghệ sỹ trong cơ chế thị trường.
Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương so với cả nước, có sự đầu
tư đổi mới kỹ thuật công nghệ phục vụ cho lĩnh vực nghệ thuật biểu
diễn.
Phát triển thị trường: phân khúc, lựa chọn thị trường mục tiêu
tốt
Lĩnh vực nghệ thu ật biểu di ễn c ủa Thành phố đã phần nào
giải quyết đượ c mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế trong cơ
chế thị trườ ng, đáp ứng nhu cầu đờ i sống văn hoá tinh thần của
ngườ i dân.
3.4.2. Những hạn chế so với yêu cầu phát triển ngành công
nghiệp văn hoá ở lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn
3.4.2.1. Sản phẩm nghệ thuật biểu diễn còn chiều theo thị hiếu
tầm thường, tẻ nhạt. Thị trường nghệ thuật biểu diễn thiếu những
sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của công chúng