Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh giá chất lượng kháng nguyên trong quy trình sản xuất vắcxin cúm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.38 MB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
­­­­­o0o­­­­­

NGUYỄN THỊ KIM DUNG

NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG PHƯƠNG PHÁP
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG KHÁNG NGUYÊN
TRONG QUY TRÌNH SẢN XUẤT VẮCXIN CÚM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC


Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

NGUYỄN THỊ KIM DUNG

NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG PHƯƠNG PHÁP
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG KHÁNG NGUYÊN
TRONG QUY TRÌNH SẢN XUẤT VẮCXIN CÚM

Chuyên ngành:

Vi sinh vật học

Mã số: 


60420107

   

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. 

 Đỗ Tuấn Đạt

PGS.TS. Bùi Thị Việt Hà


Hà Nội – 2015

LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến: 
­ TS. Đỗ Tuấn Đạt, Cơng ty TNHH MTV Vắcxin và Sinh phẩm số 1  
­ PGS. TS. Bùi Thị  Việt Hà, Bộ  mơn Vi sinh vật học – Khoa Sinh học,  
trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Là những người Thầy  đã tận tình quan tâm dạy bảo cùng những kinh 
nghiệm q báu và tạo mọi điều kiện giúp tơi hồn thành khóa luận này.
Tơi xin chân thành cảm  ơn đến các thầy cơ trong khoa Sinh học ­ trường  
Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội, đã giảng dạy và dìu dắt  
tơi trong suốt q trình học tập vừa qua.
Nhân dịp này tơi xin bày tỏ lịng biết ơn tới gia đình, đồng nghiệp, bạn bè 
đã động viên, giúp đỡ và chia sẻ để tơi có đủ  nghị  lực hồn thành nhiệm vụ  học 
tập của mình.
Tơi xin trân trọng cảm ơn !


Hà Nội, ngày 18 tháng 11 năm 2015
Học viên

Nguyễn Thị Kim Dung


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC HÌNH



MỞ ĐẦU
Bệnh cúm đã và đang đe dọa tồn cầu. Trong ba thế  kỷ  qua, cứ 
khoảng 10 đến 40 năm, thế giới lại chứng kiến một đại dịch cúm. Trước  
khi có vắcxin, mỗi đợt dịch có hàng triệu người chết. Năm 1918 chứng 
kiến đại dịch cúm nghiêm trọng nhất lịch sử thế giới, thậm chí cịn được 
cho là đại dịch kinh hồng nhất trong các loại bệnh dịch. Tác nhân gây dịch 
là vi rút cúm A/H1N1 đã gây tổn thất chưa từng thấy. Dịch cúm gia cầm  
A/H5N1 xuất hiện từ giữa tháng 12/2003 tại Hàn Quốc, sau  đó lan rộng ra 
một số nước châu Á trong đó có Việt Nam. Từ  đầu tháng 4/2009, Mexico 
đã thơng báo trường hợp nhiễm cúm A/H1N1. Vi rút này nhanh chóng lan  
ra rất nhiều quốc gia trên thế  giới và đã có thời điểm Tổ  chức Y tế  Thế 
giới (TCYTTG) phải đưa ra các cảnh báo coi đây như là một đại dịch cúm  
mới. Gần đây nhất, vào năm 2013, trường hợp nhiễm cúm A/H7N9 đầu 
tiên được thơng báo  ở  Trung Quốc và đang tiếp tục dấy lên một mối lo  

ngại cho châu Á nói riêng cũng như  tồn Thế  giới nói chung về  một căn 
ngun cúm mới nguy hiểm đối với sức khoẻ con người.
Bệnh cúm là một trong những bệnh nhiễm trùng đường hơ hấp tạo 
nên gánh nặng lớn đối với sức khỏe của cộng đồng, TCYTTG và hơn 40% 
quốc gia trên Thế  giới khuyến cáo sử  dụng vắcxin phịng vi rút cúm. Do  
vậy, phát triển các vắcxin cúm cho người đang đặt ra như  là một u cầu 
rất cấp bách hiện nay. Là một cơ  sở  nghiên cứu và sản xuất vắcxin cho  
người  ở  Việt Nam, Cơng ty TNHH MTV Vắcxin và sinh phẩm số  1 đã  
tiến hành xây dựng các quy trình cơng nghệ sản xuất vắcxin cúm A/H5N1, 
cúm A/H1N1 và tiến tới là vắcxin cúm A/H7N9 trên ni cấy tế bào. Một 
trong những thơng số rất quan trọng để đánh giá chất lượng vắcxin trong  
phịng thí nghiệm đó là đặc tính của kháng ngun vi rút cúm có mặt trong 

9


các sản phẩm của q trình sản xuất vắcxin. Xây dựng các phương pháp  
để  đánh giá, từ  đó đưa ra các tiêu chuẩn về  chất lượng kháng ngun là 
một việc làm hết sức cần thiết. Điều này giúp cho việc đánh giá được  
chất lượng vắcxin và kiểm tra độ ổn định của quy trình sản xuất.  Do vậy, 
chúng tơi đã tiến hành thực hiện đề tài : “Nghiên cứu  xây dựng phương 
pháp đánh giá chất   lượng kháng ngun trong quy trình sản xuất 
vắcxin cúm”  trên sản xuất vắc xin cúm A/H5N1 và cúm A/H1N1, với 2  
mục tiêu :
1. Nghiên cứu xây dựng và áp dụng các phương pháp đánh giá chất  
lượng kháng nguyên trong quy trình sản xuất vắcxin cúm
2. Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá chất lượng kháng nguyên trong quy 
trình sản xuất vắcxin cúm.

10



Chương 1 ­ TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm chung của vi rút cúm
Vi rút cúm thuộc họ Othomyxoviridae là họ vi rút đa hình thái, có vỏ ngồi,  
genom là ARN đơn, (­), phân đoạn, bao gồm 5 nhóm vi rút: vi rút cúm A, vi rút  
cúm B, vi rút cúm C, vi rút Thogoto và vi rút Isa. Trong đó, vi rút cúm A lưu hành 
phổ  biến trên gia cầm, người và động vật khác như  lợn, ngựa…là căn ngun  
gây nên các đại dịch lớn trên tồn cầu. Vi rút cúm B và C chỉ lưu hành ở người và  
thường chỉ gây nên các vụ  dịch vừa và nhỏ. Các vi rút cúm A, B và C rất giống  
nhau về cấu trúc. Thể vi rút có chiều ngang từ 80­120  nm, và thường có hình gần 
như trịn, ngồi ra vi rút cũng có thể hiện diện một số dưới dạng hình sợi. Thể vi 
rút cúm được cấu tạo từ  một vỏ vi rút bao gồm 2 loại glycoprotein, quấn quanh  
một phần nhân trung tâm. Phần nhân trung tâm chứa bộ gene RNA và các protein  
khác có chức năng đóng gói và bảo vệ  thể  RNA này. Đối với 1 vi rút, thơng 
thường bộ gene khơng chỉ có 1 mảnh nucleic acid; thay vào đấy, sẽ chứa 7 hoặc 8 
mảnh RNA có chiều âm và phân đoạn. Vi rút cúm A có bộ  gene mã hố cho 11  
protein trên 8 đoạn RNA: hemagglutinin (HA), neuraminidase (NA), nucleoprotein  
(NP), M1, M2, NS1, NS2 (NEP), PA, PB1, PB1­F2 và PB2.
1.2. Hình thái và cấu trúc hạt vi rút cúm
Hạt vi rút cúm có hình dáng rất đa dạng: hình cầu, hình trứng hoặc đơi khi  
có hình sợi kéo dài tới 2000 nm, đường kính trung bình từ  80­120 nm. Các hạt  
virion của vi rút A và B có vỏ bao bọc. Vỏ vi rút có bản chất là protein có nguồn 
gốc từ  màng tế  bào vật chủ, bao gồm một số protein được glycosyl hóa và một  
số protein dạng trần khơng được glycosyl hóa. Vi rút cúm có genom nhiều đoạn, 
ở  typ A và  B  có 8 đoạn ARN(­) với tổng khối lượng 5x10 6, cịn  ở  typ C có 7 
đoạn. Trong virion có chứa enzyme ARN­ polymeraza phụ  thuộc ARN, enzyme  

11



này cần cho q trình phiên mã vì genom ARN chuỗi (­). Protein capsit kết hợp  
với ARN tạo nucleocapsit đối xứng xoắn.

Hình 1.1. Cấu trúc hạt vi rút cúm [10]
Nucleocapsit  được bao bọc bởi màng protein nền M1 (M: matrix), phía 
ngồi màng được bao bọc bởi vỏ ngồi là lớp lipit kép có nguồn gốc từ màng sinh  
chất của tế  bào chủ. Protein M2 đâm xun và nhơ ra khỏi vỏ  ngồi, tạo thành  
các kênh ion, làm cho pH của endosom thay đổi.
Bề   mặt   vi   rút   có   hai   loại   gai   mọc   nhô   ra:   hemaglutinin   (H)   và 
neuraminidaza (N). Gọi là hemaglutinin vì vi rút gây ngưng kết hồng cầu  ở một  
số lồi.
Gai   H   dài   10   nm   gồm   3   tiểu   đơn   vị   glycoprotein   giống   nhau   gộp   lại 
(trimer). Mỗi tiểu đơn vị cấu tạo gồm 2 chuỗi polypeptit kí hiệu là HA1 và HA2, 
gắn với nhau bởi cầu nối disunphua. Trong hạt vi rút, phân tử  hemaglutinin gắn 
vào màng lipit của vỏ ngồi ở vùng kỵ nước, phía đầu –COOH của HA2. Epitop  
của kháng ngun hemaglutinin rất dễ  bi biến đổi do ln có sự  biến đổi trong  

12


ARN genom, làm thay thế  axit amin tại một số vị trí trên phân tử  HA1. Sự  thay 
đổi này nằm  ở  vị  trí gắn hemaglutinin vào thụ  thể  của tế  bào.  HA chứa peptit  
dung hợp, khi  ở  pH trung tính vùi vào trong gai, nhưng  ở  pH thấp thì peptit lại  
nhơ ra ngồi. Các peptit dung hợp tạo lỗ, lồng vào lớp lipit kép của màng tế bào  
chủ làm cho màng tế bào chủ và vỏ ngồi của vi rút dung hợp với nhau.
Xen giữa các gai H là các N hình nấm. Đầu gai có cấu trúc hình hộp do 4  
tiểu đơn vị có dạng hình như cầu giáp nối với nhau mà thành. Đầu được nối với  
cuống chứa vùng kỵ nước, nhờ thế mà gai N cắm sâu vào vỏ ngồi của vi rút.
Thụ thể của tế bào dành cho hemaglutinin có cấu tạo từ axit sialic (cịn gọi 

là neuraminic) liên kết với gốc đường trong glycol protein bằng dây nối glycozit.  
Enzym neuraminic (silidaza) phân giải thụ thể  ở màng nhầy đường hơ hấp bằng 
cách cắt liên kết glycozit, giải phóng axit neuraminic. Động tác này cho phép vi  
rút   đi   qua   màng   nhầy   và   thoát   khỏi   các   chất   ức   chế   “không   đặc   hiệu”. 
Neuraminidaza phá hủy thụ  thể  của hemaglutinin trên bề  mặt hồng cầu mặc dù 
tế bào này khơng phải là đối tượng gây nhiễm. Neuraminidaza cũng tham gia vào 
giải phóng vi rút ra khỏi tế bào.
Vi rút typ A có 16 loại gai H và hầu hết các loại gai này có  ở  vi rút gây  
nhiễm ở động vật (chim, gà, vịt, ngỗng, gà tây, lợn ngựa và một số loại động vật 
có vú khác). Ba loại gai H quan trọng có ở vi rút gây bệnh cho người là H1, H2 và  
H3. Trước đây có H0 và HW (H lợn), nhưng về sau 2 gai này được coi là H1. 
Có 9 loại gai N, trong đó N1 và N2 là quan trọng nhất vì gây bệnh cho 
người.

13


Hình 1.2. Hình ảnh vi rút cúm B [1].
Vi rút cúm B với virion dạng hình cầu điển hình với đường kính hạt vi rút 
thay đổi từ  80­ 120nm. Bên ngồi vỏ  bao ngồi hạt vi rút là các gai ngắn dài 
khoảng 12nm rõ nét bám xung quanh. Nhuộm PTA 0,25% (thước đo 100nm).

Hình 1.3. Hình ảnh vi rút cúm A/H1N1 [1].

14


Hình 1.4. Hình ảnh vi rút cúm A/H1N1 [1].
Vi rút cúm A/H1N1 đa dạng về hình thái (hình cầu­ 1.3.; hình que­ 1.4.) và 
kích thước thay đổi, đường kính hạt vi rút từ  80­120nm, dài đến 1μm. Trên bề 

mặt   hạt   vi   rút   là   các   gai   ngắn   xếp   đều   đặn.   Nhuộm   PTA   0,25%   (thước   đo 
100nm).
 

Hình 1.5. Hình ảnh 
vi rút cúm A/H5N1 
[1]
  Vi   rút   cúm 
A/H5N1  với   hình 
dạng   và   kích   thước 

15


thay đổi: hình cầu, hình que, đường kính hạt vi rút khoảng 100nm, dài đến 1 μm. 
Các gai ngắn sắp xếp đều trên bề  mặt hạt vi rút với chiều dài của gai khoảng  
17nm. Nhuộm PTA 0,25% (thước đo 100nm).
1.3. Cấu trúc hệ gen vi rút cúm và các protein mã hóa
Hệ  gen của vi rút cúm A và B có 8 đoạn gen trong khi vi rút cúm C có 7  
đoạn gen ( khơng có gen NA). Cấu trúc hệ gen của vi rút cúm đã được tìm hiểu  
nhờ kỹ thuật phân tích điện di virion ARN vi rút trên gen polyacrylamit. Cấu trúc 
gen của vi rút cúm như sau: Đọan gen 1 mã hóa cho PB2, đoạn gen 2 mã hóa cho 
PB1, đoạn gen 3 mã hóa cho PA, đoạn 4 cho HA, đoạn 5 cho NP, đoạn 6 cho NA,  
đoạn 7 cho M1 và M2, đoạn 8 cho NS1 và NS2. Trình tự nucleotit của ARN vi rút 
cúm PR8/34 và rất nhiều phân typ khác được cơng bố  từ  năm 1982 [28]. Vi rút 
R8/34 có 13.588 nucleotit. 

Bảng 1.1. Các phân đoạn ARN của vi rút cúm và chức năng [26]

Phân 

đoạn  Protein
ARN

TLPT
(kDa)

Kích 
thước
(bp)

1

PB2

85 700

2341

2

PB1

86 500

2341

3

PA


84 200

2233

Chiều dài 
Số 
chuỗi 
phân tử 
Chức năng
polypeptit
trên 1 
(axit amin) virion
759
30­60 Tìm   thấy   trong   q   trình   tổng 
hợp   ARNtt.   Đóng   vai   trị   làm 
enzyme phiên mã: gắn kết, kéo 
757
30­60 dài, tham gia vào q trình sinh 
tổng   hợp   vi   rút   thế   hệ   mới 
trong tế bào chủ.
Tìm   thấy   trong   quá   trình   tổng 
716
30­60
hợp ARN virion (vARN)

16


4


HA

61 468

1778

566

500

5

NP

56 101

1565

498

1000

6

NA

50 087

1413


454

100

M1

27 801

252

3000

M2

11 010

97

20­60

NS1

26 815

230

20­60

NS2


14 216

7

8

1027

890

121

17

130­
200

Phân tử  có cấu trúc trimer, cắt 
bởi   enzyme   thủy   phân   thành 
HA1 và HA2, là cơ  sở  cho khả 
năng nhiễm trùng. HA gắn với 
tế  bào túc  chủ,  dung  hợp giải 
phóng phức hợp RNP, mở  đầu 
cho   quá   trình   nhân   lên   của   vi 
rút.
Là thành phần protein chủ  yếu 
của   phức  hợp  RNP,  chứa   một 
trong   các   khàng   nguyên   đặc 
hiệu   typ,   phân   biệt   3   typ   cúm 
A,B,C.

Phân   tử   có   cấu   trúc   tetramer, 
thủy   phân   bằng   protease,   cho 
phép   vi   rút   tiến   qua   lớp   niêm 
mạc tới các tế  bào của đường 
hô   hấp   trong   quá   trình   nhiễm 
trùng.
Loại bỏ  phân tử  axit sialic của 
phân   tử   HA   từ   các   virion   mới 
được   tổng   hợp,   làm   lộ   HA   ra 
ngoài,   tăng   khả   năng   nhiễm 
trùng.
M1: là kháng ngun đặc hiệu 
typ, có chức năng ổn định vrrus, 
điều   khiển   hoạt   tính   ARN­
protease   và   tham   gia   vào   q 
trình lắp rắp vi rút (70%).
M2: kênh ion.
Là protein khơng cấu trúc, kết 
thúc q trình tổng hợp protein  
của tế bào túc chủ, chỉ có trong 
tế bào nhiễm vi rút.


Đoạn   ARN   đơn   của   vi   rút   cúm   C   mã   hóa   cho   protein   liên   kết  
haemaglutinin­ esteraza (HEF) có chức năng gắn dính vào thụ thể (receptor), hoạt 
động hịa mạng của HA và phá hủy thụ thể của NA, trong khi  ở vi rút cúm A và 
B những đặc tính do các đoạn gen riêng biệt mã hóa. Chiều dài của các đoạn gen 
và các protein mã hóa được liệt kê trong bảng trên. Đoạn gen ngắn khơng mã hóa  
ở mỗi đầu bao gồm chuỗi 11­13 nucleotit tại đầu 5’ và 9­12 nucleotit tại đầu 3’ có 
tính ổn định cao hơn so với các đoạn gen khác và giống nhau ở cả 3 loại vi rút A, 

B và C [44].
Ba gen lớn nhất mã hóa cho các thành phần của ARN polymeraza PB1,  
PB2 và PA của vi rút A và vi rút cúm B, C [ 66]. Đoạn gen 1 và 2 đều dài 2341 
nucleotit mã hóa cho protein PB2 gồm 759 axit amin và PB1 757 axit amin. Đoạn 
gen 3 dài 2233 nucleotit mã hóa cho protein PA có 716 axit amin.
NP là protein cấu trúc chính tạo thành RNP. NP cịn là kháng ngun đặc 
hiệu typ, khác nhau giữa vi rút cúm A, B và C. NP được đoạn ARN 5 dài 1565  
nucleotit mã hóa [64]. NP chứa 498 axit amin và có trọng lượng phân tử  56.101 
dalton. NP của vi rút cúm B chứa 560 axit amin và tương đồng 47% so với vi rút 
cúm A trong khi NP của vi rút cúm C có 565 axit amin và có một số vùng tương 
đồng với vi rút cúm A và B [28].
Tên gọi của protein HA (hemagglutinin) xuất phát từ khả  năng gây ngưng  
kết hồng cầu của vi rút bằng cách gắn với các thụ  thể  đặc biệt có chứa axit 
sialic. HA có 3 vai trị quan trọng trong q trình sao chép vi rút:

18


1. HA gắn với thụ thể có chứa axit sialic trên bề mặt tế bào và tạo thành sự 
gắn kết giữa vi rút và tế bào.
2. HA chịu trách nhiệm cho sự xâm nhập của vi rút vào tế bào bằng cách gián 
tiếp tạo nên sự  hịa mạng endocytose của vi rút và màng nội bào làm cho 
nucleocapsit vi rút giải phóng vào trong bào tương.
3. HA là kháng ngun chính tạo nên kháng thể trung hịa và các vụ dịch cúm 
đều liên quan đến sự thay đổi cấu trúc kháng ngun.
Đoạn ARN 4 có chiều dài 1.742 đến 1.778 nucleotit và mã hóa cho 562 đến  
566 axit amin. HA do đoạn ARN 4 mã hóa và được tổng hợp nên ribosom gắn 
màng và di chuyển vào lumen của lưới nội chất (ER) tế  bào bị  nhiễm như  là  
polypeptit đơn HA0 (trọng lượng phân tử 76.000 dalton). Phụ thuộc vào phân typ  
vi rút, loại tế  bào chủ  và điều kiện ni cấy HA tồn tại cả  2 dạng: Dạng tiền  

thân khơng phân tách HA0 hoặc dạng phân tách với hai chuỗi có cầu nối disulfit  
(HA1 có trọng lượng 47.000 dalton và HA2­ 29.000 dalton). Q trình phân tách là 
điều kiện quyết định để  vi rút có khả  năng lây nhiễm và do vậy liên quan đến 
độc tính và khả  năng lây truyền [42]. HA chính là đoạn gen đầu tiên của vi rút 
cúm được xác định trình tự. HA1 có từ  319 đến 326 axit amin và HA2 có từ  221 
đến 222 axit amin. Tùy thuộc vào các phân typ HA, số  lượng các axit amin bị 
phân tách giữa HA1 và HA2 là 1 đến 6. HA ngun vẹn có thể  tách chiết từ  hạt 
virion vi rút cúm hoặc từ  tế  bào bị  nhiễm bằng chất tẩy hịa tan màng, khi chất 
tẩy bị  loại bỏ, vùng transmembrane kỵ  nước kết hợp lại và tạo thành HA hình 
hoa thị. Tuy nhiên, xử lý vi rút bằng promelin sẽ giải phóng ra HA bảo tồn tính  
kháng ngun và cấu trúc ba chiều, có khả năng hịa tan trong nước và chứa tồn  
bộ HA1 cùng với 175 axit amin đầu tiên trong số 221 axit amin của HA 2 [61] . Vị 
trí gắn thụ thể HA nằm ở vùng ngoại biên của các tiểu đơn vị phân tử. Cấu trúc 
vị  trí đó có tính đồng dạng cao giữa các phân typ (Tyr­ 98, Tyr – 153, His – 183,  
Glu – 190, Leu – 194) [41, 63]. Bởi vì tính đặc hiệu gắn thụ  thể khác nhau giữa 
khí quản người (α 2, 3) và khí quản lợn (α 2, 3 và α 2, 6), số lượng các phân tử 

19


có thể chuyển từ  lồi này sang lồi khác và có thể  bị  giới hạn [18]. Sự  phân tác 
HA0 thành HA1 và HA2 là cần thiết để chuyển dạng pH thấp và do vậy cần thiết  
đối với hoạt tính gây nhiễm của vi rút. Những HA đó đều chứa chuỗi R­X­K­/R­
R  ở  cầu nối peptit và được phân tách trong tế  bào bằng furin, một proteaza của  
mạng trans­Golgi [25,  43].   HA chỉ  có arginnine đơn  ở  cầu nối peptit khơng bị 
phân tách khi ni cấy trên tế bào (trừ  chủng A/WSN/33) nhưng sẽ bị phân tách  
bởi tpypsin ngoại sinh. Khi ni cấy trên trứng gà có phơi, HA có arginine đơn ở 
cầu nối peptit sẽ bị phân tách do proteaza [ 25]. Nhiều nghiên cứu cho rằng vị trí 
phân tách có liên quan đến độc tính vi rút và chủng vi rút độc lực có chứa kiểu  
nhận biết furin trong khi chủng vi rút khơng độc lực chỉ  chứa arginine đơn [22, 

25, 42]. Tuy nhiên cũng có một số  chủng cúm H5 khơng độc lực có vị  trí nhận  
biết furin. Những chủng khơng độc lực này có chuỗi oligosaccharit  ở  gần vị  trí 
phân tách, điều này có  ảnh hưởng đến hoạt tính của proteaza khi phân tách và 
chuỗi này khơng tìm thấy ở những chủng H5 độc lực [21, 22].
Trong các chủng vi rút cúm người chỉ có A/WSN/33 có khả năng ni cấy  
trên nhiều loại tế bào mà khơng cần có trypsin và các nghiên cứu về  hệ  gen đã 
cho thấy NA của WSN cần thiết cho sự phân tách HA của WSN .
NA là glycoprotein thứ  hai đặc hiệu cho phân typ của vi rút cúm A, B.  
NA/PR/8/34 đoạn gen ARN 6 có 1413 nucleotit mã hóa cho 453 axit amin.
Đoạn   ARN   thứ   bảy   mã   hóa   cho   2   protein   M1   và   M2.   Đoạn   có   1027  
nucleotit mã hóa cho M1 có 252 axit amin, trọng lượng phân tử 27.801 dalton [29]. 
M1 là kháng ngun đặc hiệu typ của vi rút cúm và có tính ổn định giữa các phân  
typ của vi rút cúm và có tính ổn định giữa các phân typ [28]. Protein M2 có hoạt 
động kênh trao đổi ion nhờ hoạt hóa pH. Kênh này được chặn đặc hiệu bởi thuốc 
kháng vi rút cúm amantadin. Hoạt động của kênh ion cần thiết cho việc bỏ lớp  
ngồi của vi rút trong khoang nội bào của tế bào bị nhiễm. Đột biến của vùng M2  
liên quan đến việc kháng amantadin [16].

20


Đoạn ARN 8 của vi rút cúm A, B và đoạn ARN 7 của vi rút cúm C mã hóa  
cho 2 loại protein NS1 và NS2. NS1 protein có trọng lượng phân tử 26.000 dalton. 
NS1 là protein đa chức năng trong chu trình sống của vi rút cúm. NS2 protein có 
trọng lượng phân tử  11.000 tồn tại trong virion (130­200 phân tử) và tạo thành 
phức hợp với M1.
1.4. Q trình nhân lên của vi rút cúm
Trước hết gai H của vi rút gắn vào thụ thể có chứa axit neuraminic của tế 
bào chủ, rồi tiến hành nhập bào tạo endosom. Tiếp đó, xảy ra q trình dung hợp  
giữa vỏ ngồi của vi rút với màng endosom. Điều này thực hiện được nhờ gai H  

chồi lên khi pH trong endosom thấp. Sau khi dung hợp ribonucleprotein và ARN­  
polymeraza chui vào tế  bào chất. Việc “cởi áo” làm hoạt hóa ARN­ polymeraza 
của vi rút. Phân tử  mARN được phiên mã trong nhân từ  các chuỗi ARN khn  
đơn, (­) của vi rút khi sử dụng mồi là đoạn 10 – 13 nucleotit cắt ra tử đầu 5 ’ của 
mARN có gắn mũ của vật chủ, sau đó được gắn đi PolyA cũng lấy từ  mARN  
của tế  bào chủ. Enzym cắt mồi là endonucleaza do vi rút mang theo. Phân tử 
mARN mới hồn thiện của vi rút ra khỏi nhân, vào tế  bào chất để tiến hành sao 
chép genom trong nhân.
Kết quả  q trình phiên mã từ  8 đoạn ARN genom (­) tạo ra 10 phân tử 
mARN, bởi vì đoạn 7 và 8 mỗi đoạn phiên mã tạo ra 2 phân tử mARN. 6 phân tử 
(1 – 6) dịch mã cho ra 6 protein, cịn 2 phân tử  (7 – 8) do có 2 khung đọc nên mỗi 
phân tử tạo ra 2 phân tử protein. Điều này được thực hiện khơng phải do sử dụng  
mARN   đa   gen   (polycistronic)   thật   sự   như   ở   prokaryota,   bởi   vì   riboxom   ở 
eukaryote chỉ nhận diện bộ ba khởi đầu AUG nằm sát đầu 5’ của mARN.
Như  vậy từ  1 ARN đã cho ban đầu, chúng chỉ  tạo ra được 1 protein. Hai  
đoạn 7 và 8 tiến hành phiên mã cho ra 2 mARN có chiều dài đủ. Mỗi trường hợp 
tổng hợp một loại protein bổ sung cho dịch mã từ  mARN đã được chế biến nhờ 
bộ  máy cắt ghép (splicing) của tế  bào chủ. Giống như  các gen chồng lớp, một  

21


lần nữa đây là ví dụ  cho thấy các vi rút ARN đã tận dụng tối đa genom nhỏ  bé 
của mình như thế nào.
Khác với đa số  vi rút ARN, protein cấu trúc sau khi được tổng hợp lại  
được chuyển vào nhân và q trình lắp rắp ribonucleoprotein xảy ra trong nhân.  
Các glycoprotein HA và NA được tổng hợp trên mạng lưới nội chất hạt sau đó 
được di chuyển tới các vùng chun biệt trên màng sinh chất. Protein M cũng di 
chuyển đến màng và liên kết với màng nhờ gai HA và NA. Ribonucleoprotein và 
ARN­ polymeraza cũng từ  nhân di chuyển ra tế bào chất rồi tới màng sinh chất, 

nơi đã có protein M và các gai HA, NA. Virion ra khỏi tế bào chất theo lối nảy 
chồi với sự  tham gia của neuraminidaza. Nếu enzyme này bị   ức chế  thì virion  
khơng được giải phóng.
Genom phân nhiều đoạn của vi rút cúm là ngun nhân dẫn đến sự  thay 
đổi kháng ngun liên tục. Có 2 kiểu thay đổi kháng ngun:
­

Thay đổi lớn: Hiện tượng hốn vị kháng ngun (antigenic shift) xảy ra 

khi có hai hay nhiều chủng vi rút, với nhiều đoạn ARN khác biệt nhau về mặt di  
truyền, cùng lúc xâm nhiễm vào một tế bào. Các đoạn genom hốn vị với nhau. 
Ví dụ: thay đoạn mã hóa cho hemaglutinin của người bằng đoạn của động vật, 
kết quả  là tạo ra chủng vi rút mới với kháng ngun H thay đổi, làm cho vi rút  
kháng lại kháng thể đã được hình thành trong đáp ứng miễn dịch lần trước.
Biến chủng vi rút có thể  lây nhiễm vào vật chủ  mới mà chủng bố  mẹ 
chúng   khơng   có   khả   năng   gây   nhiễm.   Sự   hoán   vị   kháng   nguyên   được   coi   là  
nguyên nhân gây ra các vụ đại dịch cúm.
­

Thay đổi nhỏ: Một khái niệm khác liên quan đến sự  thay đổi kháng 

nguyên nhưng  ở mức độ thấp gọi là biến thể kháng nguyên (antigenic drift). Do 
đột biến kháng nguyên xảy ra  ở gen mã hóa cho hemaglutinin dẫn đến sự  thay 
đổi một số axit amin trong protein hemaglutinin (mặc dù về cơ bản hemaglutinin 
vẫn là protein như  cũ). Chủng vi rút biến thể  kháng nguyên trở  thành chủng  
được chọ  lọc trong quần thể  do chúng có khẳ  năng nhiễm vào ký chủ  chưa  

22



miễn dịch. Hiện tượng biến thể  kháng ngun tăng lên từ  mùa này sang mùa  
khác đã gây khó khăn cho việc sản xuất vắcxin hữu hiệu phịng ngừa dịch cúm.  
Sự biến thể kháng ngun là ngun nhân gây ra các vụ dịch nhỏ, tản phát [2]. 

Hình 1.6. Vi rút cúm A/H5N1 và quy trình vi rút cúm xâm nhập vào tế bào, 
nhân lên thành vi rút mới [13]
1.5. Sự phát triển của vi rút cúm trên tế bào
Vi rút cúm đầu tiên được ni trên trứng gà có phơi. Sau này, các vi rút cúm 
có thể được ni trên trứng gà có phơi hoặc trong một số hệ ni cấy tế bào tiên  
phát. Việc ni cấy vi rút trên trứng gà có phơi vẫn được lựa chọn làm quy trình 
sản xuất vắcxin cúm trên thế  giới. Hiện nay, các hệ  ni cấy tế  bào như  thận  
khỉ tiên phát (PMKC) hay thận chó Madin­ Darby (MDCK) thường được dùng để 
phân lập vi rút cúm từ  mẫu bệnh phẩm của người. Tế  bào MDCK có độ  nhạy  
100% trong phân lập vi rút cúm A trong khi đó độ  nhạy của Vero chỉ  71,4% và 
MRC­5 là 57,1%.
Sự  phát triển của vi rút trên ni cấy tế bào và tạo các đám hoại tử trong 
một số dịng tế bào tiên phát như tế bào thận khỉ, thận bê, thận chuột đồng, thận  

23


gà. Ngồi ra nếu sử dụng các dịng tế  bào thường trực thì trypsin phải được bổ 
sung để hoạt hóa các phân tử protein HA trong q trình xâm nhập vào tế bào chủ 
của vi rút. 
1.6. Kỹ thuật di truyền ngược
Giống như  hầu hết các loại vi rút ARN sợi (­), vi rút cúm nhân lên trong 
nhân của tế  bào bị  nhiễm. Sau khi dung hợp với màng tế  bào, phức hợp của  
ribonucleoprotein của vi rút (vRNP) được phóng thích vào tế bào chất. Phức hợp 
vRNP, bao gồm ARN của vi rút (vARN), nucleoprotein (NP) và 3 loại protein  
polymeraza (PA, PB1, PB2), được chuyển vào nhân và q trình phiên mã tái bản  

diễn ra tại đây, vARN sợi (­) khơng thể trực tiếp làm khn tổng hợp protein mà 
vARN được bao bọc trong NP phải được phiên mã thành mARN nhờ  phức hợp  
polymeraza của vi rút. Trong q trình tái bản vARN được sử dụng làm khn để 
tổng hợp sợi ARN bổ  sung (cARN), sợi cARN này lại được làm khn để  tổng 
hợp sợi vARN. Như vậy, đơn vị chức năng tối thiểu để vi rút cúm có thể tái bản  
là vRNP.
Những nỗ lực tạo ra vi rút cúm trong phịng thí nghiệm từ những năm 1980 
khi Plotch và Beaton, Krug tinh khiết được vRNP từ những vi rút bị phá hủy bằng  
chất tẩy rửa và từ tế bào bị  gây nhiễm. Đến cuối thập niên 80, Parvin và sau đó 
là Honda đã thành cơng trong việc tái tạo phức hợp RNP có hoạt tính trong phịng 
thí nghiệm từ  những thành phần polymeraza NP riêng lẻ. Từ  đấy rất nhiều hệ 
thống di truyền ngược để  tạo ra vi rút cúm đã được phát triển. Hệ  thống di  
truyền ngược đầu tiên được Palese và cộng sự thiết lập vào năm 1989 [33]. 
Một đoạn ARN tách chiết từ  vi rút hoặc phiên mã từ  cDNA trong phịng 
thí nghiệm được  ủ  với polymeraza của vi rút (PA, PB1, PB2) và nucleoprotein  
(NP) tinh sạch để tái tạo ra phức hợp vRNP. Phức hợp rRNP này được biến nạp 
vào tế  bào eukaryote đã bị  gây nhiễm bằng một chủng vi rút cúm trợ  giúp từ 
trước, vi rút cúm trợ giúp có nhiệm vụ cung cấp các vRNP cịn lại. Kết quả tạo 
ra một chủng vi rút cúm tái tổ mới mang 7 đoạn ARN của vi rút cúm trợ giúp vào  

24


một đoạn ARN được biến nạp vào. Năm 1994, Hobom và các đồng nghiệp [36] 
đã sử dụng enzyme ARN polymeraza I để tổng hợp ARN của vi rút cúm bên trong 
tế  bào, thiết lập một hệ thống khác để  tạo ra vi rút cúm mà vẫn sử  dụng tới vi  
rút trợ  giúp. Tuy nhiên cơng trình này đã thúc đẩy việc  ứng dụng kỹ  thuật di 
truyền ngược trong các nghiên cứu về vi rút cúm.
Trong các kỹ thuật di truyền ngược sau này, vARN được tạo dịng cDNA 
trong các plasmid có khả  năng tổng hợp vARN và các protein của vi rút cúm. Vì 

vậy các gen của vurus cúm có thể được chủ động làm biến đổi theo ý muốn. Các 
plasmit mang các cDNA được biến nạp vào tế  bào. Bên trong tế  bào, vARN và 
các protein của vi rút được tổng hợp, sự lắp ráp các vARN và các protein dẫn đến  
sự hình thành vi rút mới bên trong tế bào. Các vi rút này có khả năng nhân lên và 
phát triển bình thường như  một vi rút được phân lập [ 35]. Năm 1999, Neumann 
và cộng sự đã tạo ra thành cơng vi rút cúm từ 17 plasmit ( 8 plasmit mã hóa tổng  
hợp 8 ARN của vi rút, 9 plasmit biểu hiện tổng hợp 9 loại protein). Sau đó hệ 
thống này được cải tiến, rút số plasmid phải sử dụng xuống 12.
Năm 2000, Hofmann và cộng sự  đã cải biến hệ thống ARN polymeraza I  
thành hệ  thống ARN polymeraza I/II.  Đoạn cDAN được cài đặt giữa trình tự 
promoter ARN polymeraza II (cytomegalovi rút early promoter) và trình tự  poly 
(A). Do đó, q trình phiên mã bằng ARN polymeraza I tạo ra ARN sợi âm của vi 
rút, cịn q trình phiên mã bởi ARN polymeraza II tạo ra sợi mARN. Như vậy cả 
vARN và mARN được tổng hợp cùng từ  một khn, kết quả  đã làm giảm số 
lượng plasmid cần dùng từ 12 xuống 8. Vì vậy, hệ thống này có thể sử dụng cho  
nhiều dịng tế  bào hơn. Đến năm 2005, Neumann và cộng sự  đã thiết lập được  
một hệ  thống di truyền ngược mới chỉ  sử  dụng từ  3 đến 4 plasmit. Đây là hệ 
thống mà rất nhiều cấu trúc phiên mã bởi ARN polymeraza I được kết hợp lại 
với   nhau  trong   cùng  một  plasmid,   cũng  như   các   cấu  trúc   phiên  mã   bởi  ARN 
polymeraza II được kết hợp vào một plasmid khác.

25


×