VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
Khoa Luật
BÀI TẬP
LUẬT DÂN SỰ
HỌ VÀ TÊN: MAI THỊ HẢI YẾN
NGÀY THÁNG NĂM SINH: 19/08/1998
Đề tài: Phân tích các quy định của pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu
do không tuân thủ quy định về hình thức. Cho ví dụ minh họa
1
2
LỜI NÓI ĐẦU
Giao dịch dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân, hộ
gia đình, tổ hợp tác xác lập và thực hiện các quyền nghĩa vụ dân sự nhằm thỏa mãn các nhu
cầu trong sinh hoạt tiêu dùng và trong sản xuất kinh doanh. Giao dịch dân sự càng có ý nghĩa
quan trọng trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Thực tế cho thấy một giao dịch để được coi là có hiệu lực cần đảm bảo
được các yếu tố: người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; mục đích và nội dung
giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; người tham gia
giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Bên cạnh đó, trong một số trường hợp pháp luật quy định thì
hình thức giao dịch cũng là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Tuy nhiên, phần lớn
dân số Việt Nam đều không trang bị cho mình đầy đủ kiến thức về luật pháp dấn đến tình
trạng các giao dịch bị vô hiệu vẫn thường xuyên xảy ra. Trong số đó, giao dịch dân sự vô
hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức chiểm tỉ lệ không hề nhỏ. Mặc dù điều này
được quy đinh rất rõ trong pháp luật, nhưng do sự thiếu hiểu biết của mọi người đã dẫn đến
các tranh chấp, kiện tụng, gây ảnh hưởng về tài sản và cả tình cảm giữa các bên tham gia.
Nhận thấy điều này, em đã quyết định tìm hiểu đề tài: “Giao dịch dân sự vô hiệu do không
tuân thủ quy định về hình thức”
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN:
1. Giao dịch dân sự:
1.1. Khái niệm:
Theo điều 116 của BLDS ( 2015) : “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lí
đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” Giao dịch dân
sự là một sư kiện pháp lí dưới dạng hành vi pháp lí ( hành vi pháp lí đơn phương hoặc đa
phương – một bên hoặc nhiều bên ) làm phát sinh hậu quả của pháp lí.
1.2 Đặc điểm của giao dịch dân sự:
Giao dịch dân sự có những đặc điểm sau:
Giao dịch dân sự phải thể hiện được ý chí của các bên tham gia.
Các bên tham gia giao dịch phải tự nguyện.
Chế tài trong giao dịch dân sự mang tính chất bắt buộc nhưng cũng rất linh hoạt. Nội dung
của giao dịch không được trái pháp luật và đạo đức xã hội.
3
1.3 Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:.
Bên cạnh nguyên tắc tôn trọng quyền tự do thoả thuận của các bên trong giao dịch thì
pháp luật cũng đặt ra một số những yêu cầu tối thiểu buộc các chủ thể phải tuân thủ theo
đó là các điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Chỉ những giao dịch hợp pháp mới làm phát
sinh quyền, nghĩa vụ của chủ thể tham gia giao dịch. Mọi cam kết, thoả thuận hợp pháp có
hiệu lực bắt buộc đối với các bên và được pháp luật bảo hộ. Các điều kiện có hiệu lực của
giao dịch được quy định tại Điều 117 BLDS. Đó là:
Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự
được xác lập.
Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện
Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái
đạo đức xã hội.
Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường
hợp luật có quy định.
2. Giao dịch dân sự vô hiệu:
2.1. Khái niệm:
Điều 122 BLDS quy định: “Giao dịch dân sự vô hiệu là các giao dịch không có một trong
các điều kiện được quy định tại điều 117 BLDS.”
điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Điều 117 BLDS. Đó là:
Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự
được xác lập.
Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện
Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái
đạo đức xã hội.
Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường
hợp luật có quy định.
Như vậy những giao dịch dân sự nếu vi phạm 1 trong 4 điều kiện nêu trên thì bị coi là
vô hiệu.
4
2.2 Phân loại giao dịch dân sự vô hiệu :
* Căn cứ theo mức độ vô hiệu, chia làm 2 loại:
Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối :
Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối xảy ra khi toàn bộ nội dung của giao dịch dân sự đó
vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc một trong các bên tham gia giao
dịch đó không có quyền xác lập giao dịch dân sự.
Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối :
Giao dịch vô hiệu từng phần là giao dịch mà trong đó chỉ có 1 phần hoặc một số phần
của giao dịch đó vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại. Khi đó
chỉ phần vô hiệu là không có hiệu lực, các phần còn lại vẫn có hiệu lực thi hành.
* Căn cứ theo tính chất, chia làm 2 loại:
Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối: là những giao dịch dân sự vi phạm những quy tắc
pháp lý có mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chung của cộng đồng.
Giao dịch dân sự do giả tạo, giao dịch dân sự có nội dung và mục đích trái với pháp
luật và đạo đức xã hội, giao dịch dân sự không tuân theo hình thức luật định bị coi là giao dịch
dân sự vô hiệu tuyệt đối thời gian yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không
hạn chế.
Một giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tuyệt đối trong các trường hợp sau:
+ Khi vi phạm vào các điều cấm của pháp luật, trái với đạo đức của xã hội (Điều 123 BLDS
năm 2015).
+ Khi giao dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác hoặc nhằm
trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba (Điều 124 BLDS năm 2015).
+ Khi hình thức của giao dịch không tuân thủ theo các quy định bắt buộc của pháp luật (Điều
129 BLDS năm 2015).
Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối: là những giao dịch dân sự vi phạm một trong những
quy tắc pháp lý có mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một chủ thể xác định (cá
nhân, pháp nhân,…)
Giao dịch dân sự được giao kết do nhầm lẫn, đe doạ, lừa dối, do người chưa thành niên,
người bị mất hay hạn chế năng lực hành vi dân sự thiết lập là giao dịch dân sự vô hiệu tương
5
đối thời hạn yêu cầu xem xét hiệu lực của giao dịch dân sự đó là một năm kể từ ngày giao
dịch dân sự được xác lập.
Giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tương đối trong các trường hợp:
+ Khi giao dịch được xác lập bởi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự (Điều 125 BLDS năm 2015).
+ Khi giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn (Điều 126 BLDS năm 2015).
+ Khi một bên chủ thể tham gia xác lập giao dịch do bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép (Điều 127
BLDS năm 2015).
+ Khi người xác lập giao dịch đủ năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch tại thời
điểm không nhận thức được hành vi của mình (Điều 128 BLDS năm 2015).
II. GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO KHÔNG TUÂN THỦ QUY ĐỊNH VỀ HÌNH
THỨC
1. Hình thức của giao dịch dân sự
Hình thức của giao dịch dân sự là phương tiện thể hiện nội dung của giao dịch. Thông
qua phương tiện này bên đối tác cũng như người thứ ba có thể biết được nội dung của giao
dịch đã xác lập. Hình thức của giao dịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng dân sự.
Nó là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã, đang tồn tại giữa các bên, qua đó xác định trách
nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm xảy ra.
Giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi
cụ thể. Người xác lập giao dịch có quyền lựa chọn hình thức của giao dịch đó. Chỉ trong một
số trường hợp đặc biệt thì pháp luật mới có yêu cầu về hình thức buộc các chủ thể phải tuân
thủ theo (yêu cầu phải lập thành văn bản, phải có chứng nhận, chứng thực, đăng kí, xin
phép). Trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn
bản, phải được công chứng nhà nước chứng nhận, được chứng thực, đăng kí hoặc phải xin
phép thì phải tuân theo các quy định đó (khoản 2 Điều 117 và khoản 2 điều 119 BLDS năm
2015).
Hình thức bằng lời nói: Hình thức bằng lời nói được coi là hình thức phổ biến nhất trong
xã hội hiện nay mặc dù hình thức này có độ xác thực thấp nhất. Hình thức miệng thường
được áp dụng đối với các giao dịch được thực hiện ngay và chấm dứt ngay sau đó (mua bán
trao tay) hoặc giữa các chủ thể có quan hệ mật thiết, tin cậy, giúp đỡ lẫn nhau (bạn bè,
6
người thân cho vay, mượn tài sản...). Nhưng cũng có trường hợp giao dịch dân sự nếu được
thể hiện bằng hình thức bằng lời nói phải bảo đảm tuân thủ những điều kiện luật định mới
có giá trị (di chúc miệng Điều 629, Điều 630 BLDS năm 2015).
Hình thức văn bản:
+ Văn bản thường: Được áp dụng trong trường hợp các bên tham gia giao dịch dân sự thoả
thuận hoặc pháp luật quy định giao dịch phải thể hiện bằng hình thức văn bản. Nội dung
giao dịch được thể hiện trên văn bản có chữ kí xác nhận của các chủ thể cho nên hình thức
này là chứng cứ xác định chủ thể đã tham gia vào một giao dịch dân sự rõ ràng hơn so với
trường hợp giao dịch được thể hiện bằng lời nói.
+ Văn bản có công chứng chứng nhận, uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng
thực: Được áp dụng trong những trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự bắt buộc
phải được lập thành văn bản hoặc các bên có thoả thuận phải có chứng nhận, chứng thực,
đăng kí hoặc xin phép thì khi xác lập giao dịch các bên phải tuân thủ hình thức, thủ tục đó
(mua bán nhà, chuyển quyền sử dụng đất...).
Hình thức giao dịch bằng hành vi: Giao dịch dân sự có thể được xác lập thông qua những
hành vi nhất định theo quy ước định trước. Ví dụ: Mua nước ngọt bằng máy tự động, chụp
ảnh bằng máy tự động, gọi điện thoại tự động… Đây là hình thức giản tiện nhất của giao
dịch. Giao dịch có thể được xác lập thông qua hình thức này mà không nhất thiết phải có sự
hiện diện đồng thời của tất cả các bên tại nơi giao kết. Hình thức này càng ngày càng trở nên
phổ biến, nhất là tại những quốc gia có nền công nghiệp tự động hoá phát triển.
Tuỳ theo tính chất của đối tượng giao dịch và nhu cầu quản lý của nhà nước mà pháp
luật dân sự có những yêu cầu khác nhau về hình thức của giao dịch. Đối với các giao dịch đáp
ứng cho nhu cầu vật chất và tinh thần hàng ngày của cuộc sống và thông thường giá trị tài
sản không lớn thì chỉ cần các bên thể hiện bằng lời nói, có sự tự nguyện, thống nhất ý chí
của các bên là giao dịch đó có hiệu lực. Tuy nhiên, có loại giao dịch không đòi hỏi phải có sự
thống nhất ý chí của hai bên mà chỉ cần 1 bên bày tỏ ý chí bằng lời nói hoặc bằng hành vi cụ
thể ví dụ như viết di chúc. Song có những loại giao dịch pháp luật bắt buộc hai bên phải thể
hiện bằng văn bản và còn có trường hợp phải có công chứng, chứng thực của cơ quan có
thẩm quyền. Theo quy định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Hình
thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có
quy định” thì chỉ trong những trường hợp có quy định của pháp luật về loại giao dịch nào đó
phải tuân theo những hình thức nhất định và hình thức đó là điều kiện có hiệu lực của giao
dịch thì hình thức của giao dịch mới trở thành một điều kiện bắt buộc để giao dịch đó có
hiệu lực.
7
2. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm quy định bắt buộc về hình thức
Điều 126 BLDS năm 2015 quy định:
“Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực
của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án,
cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình
thức của giao dịch trong một thời hạn, quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch đó
vô hiệu.”
Điều 119 BLDS năm 2015 quy định:
“Giao dịch dân sự có thể bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân
sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch
bằng văn bản.”
Có thể thấy, hình thức phổ biến nhất trong giao dịch dân sự là giao dịch bằng lời nói.
Trong thực tế loại giao dịch này được thực hiện ngay và chấm dứt ngay sau đó, thường áp
dụng với những tài sản có giá trị không lớn.
Hình thức giao dịch bằng văn bản thường áp dụng với những tài sản có giá trị lớn. Nội
dung của giao dịch được ghi rõ trong văn bản, có chữ kí của các bên tham gia. Trong trường
hợp pháp luật quy định phải có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng kí xin phép thì phải
tuân theo các quy định đó. Nếu xét về căn cứ pháp lí chặt chẽ trong giao dịch dân sự thì hình
thức bằng văn bản có giá trị pháp lí rất cao.
Hình thức giao dịch bằng hành vi là hình thức giao dịch thuận tiện nhất. Không nhất
thiết phải có sự hiện diện đồng thời của tất cả các bên giao kết.
Theo nguyên tắc chung thì các chủ thể được tự do lựa chọn hình thức của giao dịch.
Chỉ những giao dịch pháp luật quy định bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, phải có chứng
thực, chứng nhận, đăng kí hoặc xin phép mà các bên không tuân thủ quy định này mới bị vô
hiệu. Khi các bên không tuân thủ các quy định này và có yêu cầu của một hoặc các bên thì toà
án xem xét và "buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời
hạn nhất định". Việc ấn định thời hạn do toà án quyết định căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể.
Việc buộc các bên phải thực hiện và đưa ra thời hạn thực hiện quy định về hình thức của
giao dịch thuộc thẩm quyền và là nghĩa vụ của toà án. Chỉ khi các bên không thực hiện và
hoàn tất các quy định về hình thức của giao dịch trong thời hạn do toà án quyết định thì giao
dịch mới vô hiệu. Bên có lỗi làm cho giao dịch vô hiệu phải bồi thường thiệt hại.
8
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định điều kiện về hình thức của giao dịch nói chung
và hợp đồng nói riêng đã khác trước rất nhiều. Ngoài việc sửa đổi có tính chất kỹ thuật như
bỏ bớt các chữ, câu, ý thừa thì về nội dung thì đã có những tư tưởng mới được thể hiện trong
các điều quy định chung về giao dịch và quy định ở phần hợp đồng. Để hiểu đúng quy định
của pháp luật không được xem xét tách rời giữa các điều luật với nhau, giữa các quy định
chung với các quy định trong từng chế định cụ thể. Tuy những quy định về hình thức của
giao dịch dân sự đã khá rõ ràng và hợp lý nhưng cũng không tránh khỏi thiếu sót như: các quy
định về hình thức còn nằm ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau làm cho người dân rất khó
tiếp cận và nắm bắt. Điều đó dẫn đến tình trạng thiếu hiểu biết của người dân về kiến thức
pháp luật. Nhưng bên cạnh những sai phạm có thể gọi là vô ý thì cũng có những trường hợp
biết mà vẫn cố tình vi phạm để trốn tránh sự kiểm soát của cơ quan nhà nước nhằm trục lợi
(như hợp đồng mua bán bán đất không chứng thực trốn sự kiểm soát của Nhà nước nhằm
trốn thuế) … nên những tranh chấp đáng tiếc xảy ra ngày càng phổ biến.
III. THỰC TRẠNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO KHÔNG TUÂN THỦ QUY
ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.
Hiện nay, quá trình thực hiện Bộ luật Dân sự, bên cạnh những mặt tích cực, còn có
thực trạng là các tranh chấp về giao dịch dân sự vẫn có xu hướng gia tăng, trong đó các giao
dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về điều kiện có hiệu lực của giao dịch chiếm tỷ lệ không
nhỏ, nhất là điều kiện về mặt hình thức của giao dịch. Việc tuyên bố giao dịch dân sự vô
hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức và giải quyết hậu quả pháp lý khi giao dịch dân
sự vô hiệu vẫn là vấn đề phức tạp nhất mà ngành Tòa án đang gặp phải. Có không ít vụ án
đă được xét xử nhiều lần, với nhiều cấp xét xử khác nhau (kể cả cấp xét xử cao nhất là Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC)) nhưng cũng vẫn còn những thắc mắc,
vẫn có những quan điểm khác nhau, gây ra nhiều tranh luận phức tạp. Sau đây là ví dụ cụ thể
để thấy được vấn đề bức thiết trong việc xét xử các vụ việc về giao dịch vô hiệu do không
tuân thủ quy định về hình thức.
Vụ việc : Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà.
* Các bên tham gia vụ việc:
Nguyên đơn: Ông Thắng
Bị đơn: Ông Nam
Vụ việc xảy ra trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
* Tóm tắt nội dung vụ việc
9
Nội dung vụ việc:
Ngày 15/08/1996, vợ chồng ông Nam lập hợp đồng chuyển nhượng 50 m2 đất cho ông
Thắng với giá 1 tỷ đồng, nhận trước 500 triệu. Hai bên cam kết đến ngày 30/04/1997 ông
Thắng giao đủ số vàng còn lại sẽ làm giấy tờ sang tên, chi phí giấy tờ mỗi bên chịu một nửa.
Theo ông Thắng thì ông đã giao cho ông Nam nhiều lần, tổng cộng là 960 triệu đồng là đủ, vì
số đất thực tế ông nhận là 48 m2.
Ngày 26/09/1996 ông Nam được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 80 m2 đất. Nhưng ông
Nam không chịu làm thủ tục tách hộ nên ông Thắng khởi kiện đến tòa án, yêu cầu ông Nam
hoàn tất thủ tục sang nhượng theo cam kết.
Về phía ông Nam cho rằng, ông Thắng mới giao cho ông 500 triệu nên ông không làm thủ tục
tách hộ cho ông Thắng. Ông cho rằng ông Thắng đã vi phạm cam kết nên ông yêu cầu hủy
hợp đồng.
Tại bản án sơ thẩm số 6/DSST ngày 15/04/1998, tòa án nhân dân huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam
quyết định: hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất giữa Nam– Thắng. Buộc ông
Nam trả cho ông Thắng 500 triệu đồng , buộc ông Thắng giao lại cho ông Nam 48 m2 đất.
Ngày 19/04/1998, ông Nam có đơn kháng cáo.
Tại bản án phúc thẩm số 264/DSPT ngày 03/09/1998, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam quyết
định: hủy toàn bộ hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nam và ông Thắng,
ông Nam trả lại ông Thắng 960 triệu đồng.
Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Thắng có nhiều đơn khiếu nại.
Tại quyết định số 55/KNDS ngày 22/04/1999, Phó Chánh Án tòa án nhân dân tối cao kháng
nghị bản án phúc thẩm nêu trên.
Tại quyết định giám đốc thẩm số 31/GĐTDS ngày 24/09/1999, tòa dân sự tòa án nhân dân tối
cao quyết định: hủy bản án phúc thẩm số 264/DSPT ngày 03/09/1998 của tòa án nhân dân tỉnh
Hà Nam xử việc tranh chấp hợp đồng sang nhượng đất giữa ông Nguyễn Ngọc Thắng với
ông Phan Văn Nam.
Giao hồ sơ vụ án về tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Tòa dân sự tòa án nhân dân tối cao nhận định việc ông Nam sang nhượng 48 m2 đất tại xã
An Đổ, huyện Phủ Lý cho ông Thắng là hoàn toàn tự nguyện. Trên thực tế, ông Thắng đã
10
nhận đất để canh tác. Do việc ông Nam không tách diện tích đất đã sang nhượng cho ông
Thắng nên xảy ra tranh chấp. Ông Thắng lại nói rằng đã trả đủ 960 triệu đồng nhưng chỉ có
lần đầu ghi biên nhận. Về phía ông Nam cho rằng ông Thắng mới giao 500 triệu đồng. Số
còn lại ông Thắng chưa thanh toán.
Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào lời khai của ông Thắng và các nhân chứng để khẳng định
ông Nam đã nhận đủ 960 triệu đồng là chưa có căn cứ chắc chắn. Tòa án cho rằng hai bên
không tiến hành làm thủ tục sang nhượng và xác định hợp đồng giữa Nam – Thắng là vô
hiệu.
Vì vậy cần phải hủy bản án phúc thẩm để điều tra, đồng thời xác minh thêm về khoản tiền
ông Thắng đã giao cho ông Nam sau ngày 15/08/1996, nếu ông Thắng không chứng minh
được đã giao đủ tiền cho ông Nam thì ông Thắng thanh toán tiếp cho ông Nam tỷ lệ diện tích
đất còn lại theo thời giá.
* Nhận xét về cách giải quyết của Tòa án:
Trước hết, ta nhận thấy ngay, giao dịch giữa ông Nam và ông Thắng là vô hiệu. Bởi
hai ông mới chỉ làm hợp đồng viết tay mà không hề chứng thực tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Chính vì thế, Tòa nên căn cứ vào điều này trước tiên để tuyên giao dịch dân sự
giữa hai ông là vô hiệu và yêu cầu ông Thắng trả lại phần đất đã giao dịch cho ông Nam.
Về số tiền mà ông Thắng đã giao thì mới chỉ lập biên nhận một lần. Cụ thể là trong
biên nhận ông Nam đã nhận được 500 triệu đồng . Vì vậy, Tòa nên yêu cầu ông Nam trả lại
500 triệu cho ông Thắng. Còn về số tiền 460 triệu đồng mà ông Thắng khai đã giao cho ông
Nam sau đó thì chưa đủ căn cứ. Vì vậy, nếu ông Thắng không có đủ bằng chứng chứng minh
về số tiền này thì coi như ông Thắng mới chỉ giao cho ông Nam 500 triệu đồng.
Xét thấy, trong giao dịch này, hai bên đều có lỗi vì không thực hiện đúng những quy
định bắt buộc về hình thức của giao dịch dân sự. chính vì thế, phần án phí sẽ do cả hai bên
trả.
IV.KẾT LUẬN
Vụ việc nêu trên chỉ là một trong số rất nhiều các giao dịch dân sự vô hiệu do không
tuân thủ quy định về hình thức. Thông qua đây, có thể thấy nguyên nhân chính dẫn đến tình
trạng này chính là do sự thiếu hiểu biết về pháp luật của một bộ phận lớn dân số Việt Nam.
Điều này đã dẫn đến những tranh chấp, kiện tụng không đáng có; làm cho trật tự xã hội
không được ổn định. Vì vậy, để hạn chế những tranh chấp đáng tiếc xảy ra, mỗi chúng ta
cần chủ động hơn trong công tác tìm hiểu pháp luật để có thể dễ dàng tham gia vào các giao
11
dịch và đảm bảo cho những giao dịch ấy không trái các với quy định của pháp luật. Bên cạnh
đó, Nhà nước có thể nâng cao kiến thức pháp luật cho người dân thông qua tuyên truyền, giáo
dục hay ban hành một văn bản riêng quy định những loại giao dịch có quy định về hình thức
nhằm giúp mọi người dễ tiếp cận hơn,…
Đối với những người “cầm cân nảy mực”, để có thể đưa ra những bản án vừa hợp
tình, vừa hợp lý thì đòi hỏi phải nắm vững các quy định của pháp luật, vận dụng chúng một
cách khéo léo, chính xác; làm việc thật công tâm, đúng với tinh thần cao quý của một nhà làm
luật. Không những vậy, các nhà làm luật cần phải không ngừng nâng cao kiến thức cũng như
nắm bắt những điểm mới của luật pháp.
Là một sinh viên Khoa Luật, em nhận thấy mình phải thật sự cố gắng, không ngừng
tìm tòi, trau dồi kiến thức để trước hết trở thành một sinh viên giỏi và sau này trở thành một
nhà làm luật có ích cho xã hội.
12
13