Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Đề cương Luận văn Thạc sĩ: Quản lý thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Huế - tỉnh Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1006.26 KB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO                 HỌC VIỆN HÀNH 
CHÍNH
…………/…………                                      …………/…………

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
MàSỐ: 60.34.20

QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
Ở THÀNH PHỐ HUẾ ­ TỈNH THỪA 
THIÊN HUẾ

Người thực hiện: PHẠM THỊ MAI TRINH
Lớp: Cao học Tài chính Ngân hàng 05B
Niên khóa: 2011­2013

1


THỪA THIÊN HUẾ ­ NĂM 2013

2


Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Tổng quan về  thuế  giá trị  gia tăng đối với doanh nghiệp vừa  
và nhỏ
1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp vừa và nhỏ


1.1.1.1. Khái niệm
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về 
mặt vốn, lao động hay doanh thu.  Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể chia thành 
ba loại cũng căn cứ  vào quy mô đó là doanh nghiệp siêu nhỏ  (micro), doanh  
nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.  Ở mỗi nước, người ta có tiêu chí riêng để 
xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước mình. Ở Việt Nam, theo Nghị định 
số  56/2009/NĐ­CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ, DN vừa và nhỏ  quy định 
cụ thể đối với từng ngành nghề như sau:
Quy  Doanh 

Doanh nghiệp nhỏ

Doanh nghiệp vừa

Tổng 

Tổng nguồn Số lao động

mô nghiệp siêu 
 
 

nhỏ
Số lao 

Số lao 

động
nguồn vốn động
vốn

Khu vực
I. Nông, lâm  10 người trở  20 tỷ đồng  từ trên 10  từ trên 20 tỷ  từ trên 200 
nghiệp và 

xuống 

trở xuống

thủy sản
II. Công 

200 người tỷ đồng
300 người
10 người trở  20 tỷ đồng  từ trên 10  từ trên 20 tỷ  từ trên 200 

nghiệp và 

xuống 

trở xuống

người đến  đồng đến 100 người đến 

người đến  đồng đến 100 người đến 

xây dựng 
200 người tỷ đồng
300 người
III. Thương  10 người trở  10 tỷ đồng  từ trên 10  từ trên 10 tỷ  từ trên 50 
mại và dịch  xuống 

vụ 

trở xuống

người đến  đồng đến 50  người đến 
50 người

tỷ đồng

100 người

3


1.1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Những ưu điểm của DNVVN:
­ Tổ chức sản xuất, quản lý linh hoạt, gọn nhẹ, các quyết định quản lý 
thực hiện nhanh nên dễ thích nghi trước những thay đổi của thị trường đặc 
biệt là nhu cầu nhỏ, lẽ, có tính địa phương. Góp phần tiết kiệm chi phí quản 
lý doanh nghiệp.
­ Vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao, thu hồi nhanh, điều đó tạo sức 
hấp dẫn trong đầu tư sản xuất kinh doanh, mọi thành phần kinh tế vào khu 
vực này.
Hạn chế của DNVVN:
­ Nguồn vốn tài chính hạn chế, đặc biệt là nguồn vốn tự có cũng như 
bổ sung để thực hiện quá trình tích tụ, tập trung nhằm duy trì hoặc mở rộng 
sản xuất kinh doanh.
­ Cơ sở vật chất kỹ thuật ,trình độ công nghệ kỹ thuật thường yếu 
kém, lạc hậu,  trình độ quản lý nói chung và quản trị các mặt theo các chức 
năng còn hạn chế. Đa số các chủ doanh nghiệp nhỏ chưa được đào tạo cơ 

bản,đặc biệt những kiến thức về kinh tế thị trường,về quản trị kinh doanh, 
về văn bản pháp luật họ quản lý bằng kinh nghiệm và thực tiễn là chủ yếu.
1.1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế

4


Doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra tổng sản phẩm trong nước. Nhờ doanh 
nghiệp vừa và nhỏ mà của cải vật chất và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân  
tăng nhanh cả  về  số  lượng lẫn chất lượng, chủng loại hàng hóa, dịch vụ 
phong phú thỏa mãn nhu cầu của xã hội.
Doanh nghiệp  vừa và nhỏ  khai thác, sử  dụng các nguồn tài nguyên. 
Tham gia các hoạt động xã hội, môi trường bảo đảm sự  phát triển bền vững 
của nền kinh tế.
Doanh nghiệp  vừa và nhỏ  giữ  vị  trí quan trọng trong việc đóng góp 
nguồn thu cho NSNN. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò góp phần chuyển 
dịch cơ  cấu kinh tế, có vai trò chủ  chốt giải quyết việc làm cho người lao  
động, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển sẽ 
tạo nhiều cơ  hội tăng việc làm, thu hút lao động nâng cao thu nhập của dân 
cư  góp phần xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội. Các doanh 
nghiệp vừa và nhỏ phát triển sẽ tạo điều kiện phát huy lợi thế của mỗi vùng 
để phát triển các ngành, các khu công nghiệp, tạo điều kiện cho cơ quan thuế 
nuôi dưỡng, khai thác nguồn thu. [1]
1.1.2. Những nội dung cơ bản về Thuế
1.1.2.1. Một số khái niệm
Trong cuốn từ điển kinh tế  của hai tác giả  người Anh Chrisopher Pass  
và Bryan Lowes, đứng trên giác độ  đối tượng chịu thuế  đã cho rằng  : "Thuế 
là một biện pháp của chính phủ  đánh trên thu nhập của cải và vốn nhận  
được của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu), trên việc chi tiêu về  
hàng hoá và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản".

 Một khái niệm khác về thuế tương đối hoàn thiện được nêu lên trong 
cuốn sách "Economics" của hai nhà kinh tế  Mỹ, dựa trên cơ  sở  đối giá như 
sau: "thuế  là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc chuyển giao  
bằng hàng hoá, dịch vụ) của các công ty và các hộ gia đình cho chính phủ, mà  
trong sự trao đổi đó họ không nhận được trực tiếp hàng hoá, dịch vụ nào cả,  
khoản nộp đó không phải là tiền phạt mà toà án tuyên phạt do hành vi vi  
phạm pháp luật". [2]
Trên giác độ  phân phối thu nhập, người ta định nghĩa:  Thuế  là hình  
thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân  
5


nhằm hình thành các quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước để đáp ứng các nhu  
cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước. 
Trên giác độ  người nộp thuế,  thuế  được coi là khoản đóng góp bắt  
buộc mà mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước theo  
luật định để  đáp  ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng,  
nhiệm vụ Nhà nước.
Trên giác độ kinh tế học, thuế là một biện pháp đặc biệt, theo đó, Nhà  
nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực  
tư  sang khu vực công, nhằm thực hiện các chức năng kinh tế  – xã hội của  
Nhà nước.     
Dù trải qua nhiều giai đoạn và được nhận định trên nhiều giác độ khác 
nhau, nhưng hiện nay một định nghĩa về thuế theo xu hướng cổ điển vẫn còn 
đang được áp dụng phổ  biến, đặc biệt trong cơ chế  kinh tế thị trường, điển 
hình là khái niệm về  thuế  của Gaston Jèze đưa ra trong Giáo trình Tài chính  
công. Dựa vào định nghĩa này và các yêu cầu nêu trên, có thể đưa ra một khái  
niệm tổng quát về thuế phù hợp với giai đoạn hiện nay như sau:
Thuế là một khoản nộp bằng tiền mà các thể nhân và pháp nhân có  
nghĩa vụ  bắt buộc phải thực hiện theo luật  đối với nhà nước; không  

mang tính chất đối khoản, không hoàn trả  trực tiếp cho người nộp thuế  
và dùng để trang trải cho các nhu cầu chi tiêu công cộng. 
1.1.2.2. Đặc điểm của thuế
Thứ nhất : Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền
Theo phương thức đánh thuế trong nền kinh tế thị trường, về nguyên tắc, 
thuế là một khoản trích nộp dưới hình thức tiền tệ, khác với hình thức nộp thuế 
bằng hiện vật đã tồn tại từ  thời xa xưa hoặc khác với chế  độ  giao nộp sản 
phẩm trong nền kinh tế phi thị trường. Nhiều quan điểm cho rằng, đây chính là  
sự  khác biệt cơ bản và đầu tiên của thuế trong nền kinh tế thị trường và thuế 
trong các nền kinh tế khác. Chính sự phát triển của hoạt động trao đổi hàng hoá 
bằng tiền đã làm cho thuế phát triển, và ngược lại, việc bắt buộc nộp các khoản 
thuế  bằng tiền đã góp phần thúc đẩy sự  phát triển của nền kinh tế  thị trường 
bằng cách đòi hỏi người nộp thuế  trong trường hợp không có tiền phải đổi  
những tài sản hiện vật của mình ra thành tiền để thanh toán nợ thuế.
6


Thứ hai : Thuế luôn gắn liền với quyền lực nhà nước 
Đặc điểm này thể hiện tính pháp lý tối cao của thuế. Thuế là nghĩa vụ 
cơ  bản của công dân đã được quy định trong Hiến Pháp ­ Đạo luật gốc của 
một quốc gia. Theo quan điểm này, công dân không có quyền từ chối trả thuế, 
cũng không có quyền tự  ấn định hay thỏa thuận mức đóng góp của mình, mà 
chỉ  có quyền chấp hành. Trường hợp đối tượng nộp thuế  nào cố  tình không  
chấp hành sẽ  bị  cơ  quan nhà nước có thẩm quyền xử  lý vi phạm theo quy 
định của pháp luật để buộc họ phải làm tròn nghĩa vụ nộp thuế của mình theo  
luật định. 
Đây là đặc trưng cơ bản nhất của thuế nhằm phân biệt với tất cả các  
hình thức động viên tài chính cho Ngân sách Nhà nước khác.
Thứ ba : Thuế luôn gắn liền với thu nhập
Đặc điểm này thể  hiện rõ nội dung kinh tế  của thuế. Nhà nước thực  

hiện thu thuế  thông qua quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu 
nhập quốc dân, mà kết quả  của nó là một bộ  phận thu nhập của người nộp  
thuế  được chuyển giao bắt buộc cho Nhà nước mà không kèm theo bất kỳ 
một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế. 
Với đặc điểm này, thuế  không giống như  các hình thức huy động tài 
chính tự  nguyện hoặc hình thức phạt tiền tuy có tính chất bắt buộc, nhưng 
chỉ áp dụng đối với những tổ chức cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ  tư  : Thuế  mang tính chất không hoàn trả  trực tiếp và được sử 
dụng để đáp ứng chi tiêu công cộng
Tính chất không hoàn trả trực tiếp được thể hiện trên các khía cạnh:
Một là, Sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính chất  
đối giá. Về mặt pháp lý, thuế không là giá cả của dịch vụ  cung cấp. Vì vậy, 
người nộp thuế không thể phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế bằng cách  
viện cớ là Nhà nước sử dụng tiền thuế không có hiệu quả. 
Hai là, Các khoản thuế  đã nộp cho Nhà nước sẽ  không được dùng 
phục vụ  trực tiếp cho người n ộp thu ế, nghĩa là mức thuế  mà các tầng lớp  
trong xã hội chuyển giao cho Nhà nước không hoàn toàn dựa trên mức độ 
người nộp thuế  thừa hưởng những d ịch v ụ và hàng hoá công cộng do Nhà 
nước cung cấp. Đặc điểm này của thuế  giúp ta phân định rõ thuế  với các 
7


khoản phí, lệ phí và giá cả. 
1.1.2.3. Vai trò
1.1.2.3.1. Thuế  là công cụ tập trung chủ  yếu nguồn thu cho Ngân sách 
Nhà nước
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu  
từ  nội bộ  nền kinh tế  quốc dân. Thuế  là công cụ  quan trọng nhất để  phân 
phối lại các thu nhập theo đường lối xây dựng xã hội chủ  nghĩa  ở  nước ta. 
Đặc biệt trong tình hình hiện nay, nguồn thu từ  nước ngoài đã giảm nhiều,  

kinh tế đối ngoại chịu sức ép của quan hệ “mua bán sòng phẳng”,“có vay, có 
trả”, thuế  phải là công cụ  quan trọng góp phần tích cực giảm bội chi Ngân 
sách, giảm lạm phát, ổn định kinh tế  ­ xã hội, chuẩn bị  điều kiện và tiền đề 
cho việc phát triển đất nước lâu dài. Thuế phải trở thành nguồn thu chủ yếu,  
bộ phận cơ bản của nền tài chính quốc gia lành mạnh. Với nền kinh tế nhiều  
thành phần, hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh 
tế. Thuế  phải bao quát được hầu hết các hoạt động kinh doanh, các nguồn  
thu nhập trong xã hội . 
Mục tiêu của Quốc hội đề ra trong những năm tới là động viên về thuế 
chiếm khoảng 20 đến 25% GDP và  ổn định mức đóng góp về  thuế. Mức 
động viên trên đây là phù hợp với khả năng kinh tế, phù hợp với sức đóng góp 
của nhân dân, bảo đảm phần lớn các nhu cầu chi tiêu của Ngân sách nhà  
nước, nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế theo hướng 
có lợi cho đất nước. Nhà nước ta luôn coi thuế là nguồn thu chủ yếu và quan  
trọng nhất của Ngân sách nhà nước. 
1.1.2.3.2. Thuế tham gia vào việc điều tiết kinh tế vĩ mô
Thông qua việc xây dựng đúng đắn cơ cấu và mối quan hệ giữa các sắc 
thuế, việc xác định hợp lý người nộp thuế, đối tượng đánh thuế, thuế  suất, 
chế  độ  miễn giảm, phương pháp quản lý thu thuế  dựa trên cơ  sở  hạch toán  
kế toán đầy đủ, chính xác, thuế là công cụ điều tiết đối với thu nhập của các 
tầng lớp xã hội thể  hiện trên hai mặt: khuyến khích, nâng đỡ  những hoạt 
động kinh doanh cần thiết làm ăn có hiệu quả; đồng thời thu hẹp, kìm hãm  
những ngành nghề, mặt hàng cần hạn chế  sản xuất, hạn chế  tiêu dùng theo  
hướng tiết kiệm, chống lãng phí. Thuế còn khuyến khích việc bỏ vốn đầu tư 
8


phát triển sản xuất, khuyến khích các cơ sở kinh doanh thuộc mọi thành phần  
kinh tế  cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật. Thuế  góp phần khuyến khích 
khai thác nguyên liệu, vật tư trong việc tranh thủ vốn hợp tác của nước ngoài  

để phát triển kinh tế hàng hoá, không ngừng nâng cao khả  năng tích lũy, đáp  
ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, bảo vệ sản xuất trong nước.   Thuế thúc 
đẩy mở rộng thị trường một cách lành mạnh, vừa khuyến khích giao lưu hàng 
hoá, vừa đấu tranh hạn chế mua bán lòng vòng qua nhiều khâu trung gian, đầu 
cơ tích trữ để hưởng chênh lệch giá. 
1.1.2.3.3. Thuế  là công cụ  để  điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng 
xã hội trong phân phối
Hệ  thống thuế   được  áp dụng thống nhất giữa  các ngành nghề, các 
thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư theo nguyên tắc đảm bảo công bằng 
và bình đẳng trong làm nghĩa vụ  và quyền lợi. Sự  bình đẳng và công bằng 
được thể hiện thông qua chính sách động viên giống nhau (thuế suất) giữa các 
tổ  chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế  cùng hoạt động trong một  
lĩnh vực, bảo đảm sự  công bằng và bình đẳng về  quyền lợi và nghĩa vụ  với  
mọi công dân, không có những đặc quyền, đặc lợi cho bất cứ đối tượng nào. 
Thuế  kích thích mọi công dân, doanh nghiệp cải tiến kỹ  thuật, đầu tư  vốn, 
đầu tư chất xám, làm ăn giỏi và có thu nhập cao một cách chính đáng .
1.1.2.3.4. Thuế còn là công cụ  để  kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản  
xuất kinh doanh 
Vai trò này được xuất hiện chính do quá trình tổ  chức thực hiện thuế 
trong thực tế. Để thu được thuế và thực hiện đúng các Luật thuế đã được ban  
hành, cơ  quan thuế  và các cơ  quan liên quan phải bằng mọi biện pháp nắm  
vững số  lượng, quy mô các cơ  sở  sản xuất kinh doanh, ngành nghề  và lĩnh  
vực kinh doanh, mặt hàng họ được phép kinh doanh. Từ công tác thu thuế mà  
cơ  quan thuế  sẽ  phát hiện những việc làm sai trái, vi phạm Luật của các cá  
nhân, các đơn vị  sản xuất kinh doanh, hoặc phát hiện ra những khó khăn mà  
họ gặp phải để giúp đỡ họ tìm biện pháp tháo gỡ. Như vậy, do công tác quản  
lý thu thuế  mà có thể  kết hợp kiểm tra, kiểm soát toàn diện các mặt hàng,  
hoạt động của các cơ sở kinh tế đảm bảo thực hiện tốt quản lý Nhà nước về 
mọi mặt của đời sống kinh tế ­ xã hội.
9



1.1.2.4. Chính sách thuế và phân loại thuế
1.1.2.4.1. Khái niệm
Chính sách thuế  là tổng hòa phương hướng của Nhà nước trong lĩnh  
vực thuế và các biện pháp để đạt được những mục tiêu đã định.
Chính sách thuế  thể  hiện đường lối và phương hướng động viên thu 
nhập dưới hình thức thuế trong nền kinh tế quốc dân. Chính sách thuế  được  
thực hiện bằng cách thiết lập các văn bản pháp luật trong lĩnh vực nộp thuế,  
ban hành các loại thuế và các  ưu đãi về  thuế  trong từng giai đoạn phát triển  
nhất định. Điều đó có nghĩa là chính sách thuế  được thực hiện bằng cách 
thiết lập hệ thống thuế, cải cách thuế và củng cố hệ thống thuế.
Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau mà giữa chúng 
có mối quan hệ mật thiết với nhau để thực hiện các nhiệm vụ nhất định của 
Nhà nước trong từng thời kỳ.
1.1.2.4.2. Phân loại thuế
Để  thu được thuế, Nhà nước đã thể  chế  hoá yêu cầu bắt buộc đóng 
góp nguồn lực tài chính cho NSNN đối với các thể nhân, pháp nhân. Nhà nước  
quy định nguyên tắc chung về nghĩa vụ nộp thuế của các thể nhân, pháp nhân 
trong Hiến pháp ­ văn bản pháp lý cao nhất của Nhà nước. Hệ  thống chính 
sách thuế  của Việt Nam hiện nay bao gồm:  Thuế  giá trị  gia tăng, thuế  tiêu  
thụ  đặc biệt, thuế  xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp,  
thuế thu nhập cá nhân, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế tài nguyên,thuế bảo  
vệ môi trường,  thuế nhà đất, thuế môn bài, …
Tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ  thể  của mỗi nước mà hệ  thống  
pháp luật thuế bao gồm nhiều loại thuế khác nhau. Ðể định hướng xây dựng  
và quản lý hệ  thống thuế, việc sắp xếp các Luật thuế  có cùng tính chất 
thành những nhóm khác nhau, gọi là phân loại thuế. 
Tùy thuộc vào mục tiêu, yêu cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế ­  
xã hội mà cơ cấu và nội dung các Luật thuế có khác nhau. Cũng tùy thuộc vào  

cơ  sở, mục đích phân định, thông thường thuế  được phân loại theo các tiêu  
thức sau
+ Dựa theo phương thức đánh thuế
Tùy thuộc vào phương thức đánh thuế là đánh một cách trực tiếp hay gián 
10


tiếp vào thu nhập, người ta chia hệ  thống thuế thành hai loại: thuế  trực thu và  
thuế gián thu.
Thuế  trực thu:  Là loại thuế  đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản  
của người nộp thuế. Thuế  trực thu có đặc điểm là đối tượng nộp thuế  theo  
luật quy định đồng nhất với người phải chịu thuế. Loại thuế trực thu thường  
bao gồm các sắc thuế đánh trên thu nhập của tổ chức và cá nhân. 
Thuế  gián thu: Là loại thuế  không trực tiếp đánh vào thu nhập hay tài 
sản của người nộp thuế  mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả  hàng  
hoá, dịch vụ. Người tiêu dùng những hàng hoá, dịch vụ đó là người chịu loại  
thuế này. 
+ Phân theo cơ sở tính thuế
Nếu căn cứ vào cơ sở tính thuế để phân loại thuế thì có thể chia thành  
ba loại như sau:
Thuế  thu nhập:  Bao gồm các loại thuế  có cơ  sở  đánh thuế  là thu nhập 
kiếm được. Thu nhập kiếm được là toàn bộ số tiền và lợi ích vật chất mà một tổ 
chức, cá nhân nhận được trong kỳ tính thuế, kể cả các khoản chi tiêu đã bỏ ra để có 
được thu nhập. 
Thuế  tiêu dùng:  Là loại thuế  đánh vào hàng hoá, dịch vụ  khi diễn ra  
việc mua bán. Điều đáng chú ý đầu tiên là thuế tiêu dùng không khác thuế thu 
nhập nhiều như người ta tưởng. Trong thực tế loại thuế tiêu dùng được thể 
hiện dưới nhiều dạng như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị 
gia tăng...
Thuế tài sản: Thuế tài sản có thể được đánh trong trường hợp chuyển  

giao, cho không tài sản (ví dụ  như  cho, tặng hoặc thừa kế), hoặc dưới hình 
thức bán (ví dụ  như  nhượng bán bất động sản hoặc động sản), hoặc trong 
trường hợp có sự  hiện hữu của tài sản (như  trường hợp đánh thuế  vào các 
khối tài sản lớn).
+ Phân theo phạm vi điều chỉnh
Căn cứ  vào phạm vi điều chỉnh của thuế  người ta có thể  chia các sắc  
thuế thành hai loại:
 Thuế tổng hợp:  Là loại thuế đánh vào tất cả các thành phần của cơ sở 
11


đánh thuế  mà không có trường hợp ngoại lệ, không có miễn, giảm thuế. Thuế 
tổng hợp đánh trên toàn bộ tài sản, các nghiệp vụ phát sinh hoặc tổng thu nhập 
trong một lần duy nhất. 
 Thuế có lựa chọn hay thuế có phân tích: Là loại thuế chỉ đánh dựa trên 
cơ sở các yếu tố của một tài sản hoặc một nghiệp vụ độc lập, hoặc một loại  
thu nhập. Thuế  thu nhập cá nhân Việt Nam có thể  coi là một sắc thuế  điển 
hình của loại này.
+ Phân theo đặc trưng của biểu thuế
Thuế đánh theo tỷ lệ %: Là loại thuế đánh theo hình thức áp dụng một 
tỷ lệ hoặc phần trăm, hoặc lần trên các cơ sở  tính thuế. Đây là hình thức áp  
dụng phổ biến trong các loại thuế hiện nay. 
Thuế  đánh trên mức tuyệt đối: Là loại thuế  được xác định bằng cách 
ấn định một số thu bằng tiền trên một đơn vị vật chất như trọng lượng, khối  
lượng, diện tích... của đối tượng chịu thuế. Trong thực tế cách tính thuế  này 
ít phổ biến. Trong hệ thống chính sách thuế Việt Nam hiện nay có thể lấy ví  
dụ  là thuế  tiêu thụ  đặc biệt đánh trên xe ô tô cũ vừa được Bộ  Tài chính ban 
hành.
+ Phân theo thẩm quyền  ban hành chính sách thuế.
Tùy theo thẩm quyền thu thuế được quy định với từng loại thuế, người 

ta phân thuế thành hai loại: Thuế trung ương và thuế địa phương.
Các loại thuế trên được áp dụng cho nhiều đối tượng khác nhau để vừa 
phát huy tác dụng riêng của từng loại thuế, vừa hỗ  trợ, bổ  sung cho nhau  
nhằm thực hiện một cách tổng hợp các mục tiêu và vai trò của hệ thống pháp 
luật thuế. 
1.1.3. Thuế giá trị gia tăng
1.1.3.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thuế giá trị gia tăng
1.1.3.1.1. Khái niệm về thuế giá trị gia tăng
Thuế  giá trị  gia tăng(GTGT) là thuế  tính trên khoản giá trị  tăng thêm  
của hàng hoá, dịch vụ  phát sinh trong quá trình từ  sản xuất, lưu thông đến  
tiêu dùng (Điều 1­ Luật thuế GTGT số 02/1997/QH9).
Giá trị gia tăng = Tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ bán ra – Giá trị hàng hoá, dịch 
vụ mua vào tương ứng.
12


Số thuế GTGT

=

GTGT của HHDV 
chịu thuế

X

Thuế suất thuế GTGT của 
HHDV đó

1.1.3.1.2. Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng
­ Thuế  GTGT là một loại thuế  gián thu đánh vào đối tượng tiêu dùng 

HHDV chịu thuế  GTGT (vì vậy thuế  GTGT là một loại thuế  tiêu dùng, đối 
với cơ  sở  kinh doanh thì đây là loại thuế  gián thu), là một yếu tố  cấu thành  
trong giá cả  hàng hoá và dịch vụ, là khoản thu được cộng thêm vào giá bán 
của người cung cấp, hay nói cách khác giá cả HHDV mà người tiêu dùng mua 
bao gồm cả thuế GTGT.
Tính gián thu của thuế GTGT biểu hiện: ng ười mua HHDV là người  
phải trả  khoản thuế  này thông qua giá mua của HHDV. Như  vậy, ng ười  
mua không trực tiếp nộp thuế  GTGT vào NSNN mà trả  thuế  thông qua giá  
thanh toán hàng hoá và dịch vụ  cho người bán, trong đó bao gồm cả  khoản  
thuế   GTGT   mà   người   mua   trả.   Người   bán   thực   hiện   nộp   khoản   thuế 
GTGT phải nộp “đã được người mua trả” vào NSNN.
Thuế  GTGT đánh vào GTGT của HHDV phát sinh  ở  các giai đoạn từ 
sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng HHDV đó. Tổng số thuế GTGT thu được ở 
tất cả  các giai đoạn sẽ  bằng số  thuế  GTGT tính trên giá bán cho người tiêu  
dùng cuối cùng.Thuế GTGT đã khắc phục được nhược điểm của thuế  doanh 
thu là “thuế chồng lên thuế”.
­Thuế GTGT là một loại thuế có tính trung lập cao. Tính trung lập biểu  
hiện ở hai khía cạnh: 
Thứ  nhất, thuế  GTGT không chịu  ảnh hưởng bởi kết quả  kinh doanh  
của người nộp thuế, do người nộp thuế  chỉ  là người “thay mặt” người tiêu 
dùng nộp hộ  khoản thuế  này vào NSNN. Do vậy thuế  GTGT không phải là 
yếu tố  của chi phí sản xuất mà chỉ  đơn thuần là một khoản thu được cộng 
thêm vào giá bán của người cung cấp HHDV. 
Thứ  hai, thuế  GTGT không bị   ảnh hưởng bởi quá trình tổ  chức và phân 
chia quá trình sản xuất kinh doanh, bởi tổng số thuế  ở tất cả các giai đoạn luôn 
bằng số thuế tính trên giá bán ở giai đoạn cuối cùng bất kể số giai đoạn nhiều  
hay ít.
13



Về  phạm vi đánh thuế: thuế  GTGT chỉ  đánh vào hoạt động tiêu dùng 
diễn ra trong phạm vi lãnh thỗ, không đánh vào hành vi tiêu dùng ngoài lãnh  
thổ. Đặc điểm này tạo ra sự  công bằng trong những giao dịch quốc tế  thông 
qua việc không thu thuế đối với HHDV xuất khẩu và đánh thuế đối với HHDV  
nhập khẩu.
1.1.3.1.3. Vai trò của thuế giá trị gia tăng
Thuế là công cụ rất quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng quản 
lý vĩ mô đối với nền kinh tế. Nền kinh tế  nước ta đang trong quá trình vận 
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, do đó thuế GTGT có 
vai trò rất quan trọng và được thể hiện như sau:
Một là, thuế GTGT có tác dụng điều tiết thu nhập của tổ chức, cá nhân 
tiêu dùng HHDV chịu thuế GTGT.
Hai là, thuế GTGT là khoản thu quan trọng của Ngân sách nhà nước.
Thuế GTGT tạo nguồn thu lớn và tương đối ổn định cho ngân sách nhà 
nước.
Ở  Việt  Nam, thuế  GTGT  hiện nay chiếm tỷ  trọng khoảng 20­23%  
trong tổng thu từ thuế, phí và lệ phí.
 Thuế GTGT không trùng lắp, do thuế GTGT chỉ tính vào giá trị tăng thêm 
của HHDV qua các khâu sản xuất, lưu thông, tiêu dùng, không tính vào phần giá 
trị đã chịu thuế GTGT ở các khâu trước, thuế đã nộp ở các khâu trước được tính 
khấu trừ ở khâu sau nên khuyến khích các tổ chức, cá nhân bỏ vốn đầu tư phát  
triển sản xuất, kinh doanh, khuyến khích chuyên môn hoá, hợp tác hoá sản xuất, 
nâng cao hiệu quả kinh tế, phù hợp với phát triển kinh tế thị trường.
Ba là, khuyến khích xuất khẩu HHDV thông qua áp dụng thuế suất 0%, 
doanh nghiệp xuất khẩu HHDV không những không phải chịu thuế  GTGT  ở 
khâu xuất khẩu mà còn được hoàn toàn bộ  số  thuế  đầu vào đã nộp  ở  khâu  
trước nên có tác dụng giảm chi phí, hạ  giá thành sản phẩm, tăng khả  năng  
cạnh tranh về giá HHDV xuất khẩu trên thị trường quốc tế.
Bốn là, thúc đẩy thực hiện chế độ hạch toán kế toán; sử dụng hoá đơn, 
chứng từ và thanh toán qua ngân hàng vì việc tính thuế đầu ra, khấu trừ thuế 

GTGT đầu vào quy định rõ phải căn cứ trên hoá đơn mua vào, bán ra; hàng hoá  
xuất khẩu mua bán phải thanh toán qua ngân hàng, đối với kinh doanh trong 
14


nước thì chứng từ  thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ 
mua vào, trừ  hàng hoá, dịch vụ  mua từng lần có giá trị  dưới hai mươi triệu 
đồng.
Tóm lại: Thuế  GTGT là một sắc thuế  tiên tiến; việc áp dụng thuế 
GTGT khắc phục nhược điểm của thuế  doanh thu trước đây là “thuế  chồng 
lên thuế”; thuế GTGT có nhiều ưu điểm, tác dụng tích cực tới khuyến khích 
sản xuất kinh doanh, xuất khẩu, tăng cường đầu tư, tăng thu cho NSNN. 
1.1.3.2. Nội dung cơ bản Luật thuế giá trị gia tăng
Luật thuế GTGT gồm một số nội dung cơ bản như sau:
Phạm vi áp dụng thuế giá trị gia tăng
­ Đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng
Đối tượng chịu thuế  GTGT là hàng hoá, dịch vụ  dùng cho sản xuất, 
kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam (bao gồm cả hàng hoá, dịch vụ  mua của  
tổ chức, cá nhân ở nước ngoài).
­ Đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng
 Các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch  
vụ  chịu thuế  GTGT  ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề, hình thức, tổ 
chức kinh doanh (gọi chung là cơ  sở kinh doanh) và tổ  chức, cá nhân khác có 
nhập khẩu hàng hoá, mua dịch vụ từ nước ngoài chịu thuế GTGT (gọi chung  
là người nhập khẩu) đều là đối tượng nộp thuế GTGT.[3] 
­ Đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng
Gồm 25 loại hàng hoá dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT.  
Cơ  sở  kinh doanh không được khấu trừ  và hoàn thuế  giá trị  gia tăng đầu vào  
của hàng hoá, dịch vụ  sử  dụng cho sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ 
thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng này mà phải tính vào nguyên 

giá tài sản cố định, giá trị nguyên vật liệu hoặc chi phí kinh doanh.[3] 
Căn cứ tính thuế và phương pháp tính thuế
­ Giá tính thuế giá trị gia tăng
+ Đối với hàng hóa, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra là giá  
bán chưa có thuế giá trị gia tăng; đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ 
đặc biệt là giá bán đã có thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng chưa có thuế giá trị gia 
tăng; đối với hàng hóa chịu thuế bảo vệ môi trường là giá bán đã có thuế bảo  
15


vệ môi trường nhưng chưa có thuế giá trị gia tăng; đối với hàng hóa chịu thuế 
tiêu thụ  đặc biệt và thuế  bảo vệ  môi trường là giá bán đã có thuế  tiêu thụ 
đặc biệt và thuế bảo vệ môi trường nhưng chưa có thuế giá trị gia tăng;
Đối với hàng hóa nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu cộng với thuế 
nhập khẩu (nếu có), cộng với thuế  tiêu thụ  đặc biệt (nếu có) và cộng với  
thuế bảo vệ môi trường (nếu có). Giá nhập tại cửa khẩu được xác định theo  
quy định về giá tính thuế hàng nhập khẩu
+ Thời điểm để  xác định giá tính thuế  GTGT là thời điểm cơ  sở  kinh  
doanh đã chuyển giao quyền sở  hữu, quyền sử  dụng hàng hoá, dịch vụ  (đối  
với trường hợp xây dựng, lắp đặt là thời điểm nghiệm thu, bàn giao công 
trình, hạng mục công trình, khối lượng xây dựng, lắp đặt hoàn thành), không 
phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền.[3] 
­ Thuế suất thuế giá trị gia tăng
Thuế suất hiện nay Việt nam đang áp dụng các mức 0%; 5%; 10%.
­ Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng
Luật thuế GTGT hiện hành quy định việc tính thuế GTGT phải nộp có  
thể  thực   hiện bằng  một   trong  2 phương  pháp:  phương   pháp khấu  trừ  và 
phương pháp tính trực tiếp trên GTGT .[3]
* Phương pháp khấu trừ thuế . 
 


Phương pháp khấu trừ  thuế  áp dụng đối với cơ  sở  kinh doanh thực  

hiện đầy đủ  chế  độ  kế  toán, hoá đơn, chứng từ  theo quy định của pháp luật 
về kế toán, hoá đơn, chứng từ bao gồm:
­ Cơ  sở  kinh doanh có doanh thu hàng năm từ  bán hàng hoá, cung  ứng 
dịch vụ từ một tỷ đồng trở lên, trừ hộ, cá nhân kinh doanh;
­ Cơ sở kinh doanh đăng ký tự  nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ 
thuế, trừ hộ, cá nhân kinh doanh.
Số thuế 
GTGT phải nộp

=

Thuế GTGT 
đầu ra

­

Thuế GTGT đầu vào 
được khấu trừ

Trong đó:    + Thuế GTGT đầu ra  bằng  (=)  Giá tính thuế  của hàng 
hoá, dịch vụ   nhân  (x)  Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó
16


+ Thuế GTGT đầu vào bằng (=) tổng số  thuế GTGT ghi 
trên hoá đơn GTGT mua hàng dùng cho SXKD hàng hóa, dịch vụ  chịu thuế 
GTGT, số thuế GTGT ghi trên chứng từ nộp thuế của hàng hoá nhập khẩu.

* Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT .  
­ Doanh nghiệp, hợp tác xã có doanh thu hàng năm dưới mức ngưỡng 
doanh thu một tỷ  đồng, trừ  trường hợp đăng ký tự  nguyện áp dụng phương 
pháp khấu trừ thuế
­ Hộ, cá nhân kinh doanh;
­ Tổ  chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh không có cơ  sở  thường trú 
tại Việt Nam nhưng có doanh thu phát sinh tại Việt Nam chưa thực hiện đầy  
đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ, trừ tổ chức, cá nhân nước ngoài cung  
cấp hàng hóa, dịch vụ để  tiến hành hoạt động tìm kiếm, thăm dò, phát triển 
và khai thác dầu, khí nộp thuế  theo phương pháp khấu trừ  do bên Việt Nam 
khấu trừ nộp thay;
­ Tổ chức kinh tế khác, trừ trường hợp đăng ký nộp thuế  theo phương 
pháp khấu trừ thuế 
Số  thuế  giá trị  gia tăng phải nộp theo phương pháp tính trực tiếp trên 
giá trị gia tăng bằng tỷ lệ % nhân với doanh thu áp dụng như sau:
   

+ Phân phối, cung cấp hàng hoá: 1%;
+ Dịch vụ, xây dựng không bao thầu nguyên vật liệu: 5%;
+ Sản xuất, vận tải, dịch vụ  có gắn với hàng hoá, xây dựng có bao  

thầu nguyên vật liệu: 3%;
+ Hoạt động kinh doanh khác: 2%.
Hóa đơn chứng từ mua bán hàng hóa, dịch vụ
Cơ sở kinh doanh khi mua, bán hàng hoá, dịch vụ phải thực hiện chế độ 
hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật.
­ Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp  
khấu trừ  thuế  khi bán hàng hoá, cung  ứng dịch vụ  chịu thuế  GTGT phải sử 
dụng hoá đơn GTGT (trừ  trường hợp được dùng hoá đơn, chứng từ  đặc thù 
ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT).

17


­ Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp trên GTGT khi 
bán hàng hoá, dịch vụ phải sử dụng hoá đơn bán hàng.
­ Khi lập hoá đơn, cơ  sở  kinh doanh phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố 
quy định trên hoá đơn. Đối với hoá đơn GTGT phải ghi rõ giá bán chưa có 
thuế  GTGT, phụ thu và phí tính ngoài giá bán (nếu có), thuế  GTGT, tổng giá 
thanh toán đã có thuế; nếu không ghi tách riêng giá bán chưa có thuế  và thuế 
GTGT, chỉ  ghi chung giá thanh toán thì thuế  GTGT đầu ra phải tính trên giá 
thanh toán.[3]
1.2. Quản lý thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1. Quản lý thuế
1.2.1.1.  Khái niệm 
Quản lý thuế  là quá trình tổ  chức, quản lý và kiểm tra việc thực hiện  
những quy định trong Luật thuế  nhằm huy động đầy đủ  những khoản tiền  
thuế vào ngân sách nhà nước theo luật định .[4]
Dưới góc độ chính trị: quản lý được hiểu là hành chính, là cai trị; nhưng  
dưới góc độ  xã hội: quản lý là điều hành, điều khiển, chỉ  huy. Dù dưới góc  
độ nào đi chăng nữa, quản lý vẫn phải dựa những cơ sở, nguyên tắc đã được 
định sẵn và nhằm đạt được hiệu quả  của việc quản lý, tức là mục đích của  
quản lý. 
Quản lý thuế là hoạt động chấp hành, điều hành của cơ quan thuế Nhà 
nước các cấp trên cơ  sở  của luật và để  thi hành luật nhằm thực hiện chức  
năng tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt động thu thuế  của Nhà nước. Nói 
cách khác, quản lý thuế chính là quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hành pháp ­ 
được thực hiện bởi ít nhất một bên có thẩm quyền hành chính Nhà nước 
trong quan hệ chấp hành, điều hành. Quản lý thuế là hoạt động đảm bảo thực  
thi chính sách thuế  trong thực tế, trong đó vai trò của cơ  quan thuế  rất quan 
trọng khi tác động lên ĐTNT để  đảm bảo tính hiệu lực – đáp ứng mục đích 

thu cho NSNN. Quản lý thuế chủ yếu được thực hiện bởi hệ thống cơ quan 
thuế Nhà nước: Tổng cục Thuế ở Trung ương, Cục thuế, Chi cục Thuế ở các 
địa phương. [5]
1.2.1.2. Nội dung quản lý thuế 
18


Để huy động các khoản thu vào NS, đáp ứng nhu cầu chi tiêu cần thiết, 
nhà nước cần ban hành các chính sách thuế  và để  đưa được các chính sách 
thuế  vào cuộc sống thì phải có hệ  thống quản lý thuế  để  tổ  chức thực thi  
chính sách thuế. Giữa hai nội dung này có mối quan hệ  hữu cơ  với nhau, hệ 
thống chính sách thuế  là cơ  sở  tiền đề  để  hình thành hệ  thống quản lý thuế 
và ngược lại hệ thống QLT là nơi tổ chức thực hiện chính cách thuế.
Theo Điều 3 Luật quản lý thuế  được Quốc hội nước CHXHCNVN  
thông qua tại  kỳ họp thứ 10, khoá XI, nội dung quản lý thuế gồm :
­ Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế. 
­ Thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế. 
­ Xoá nợ tiền thuế, tiền phạt. 
­ Quản lý thông tin về người nộp thuế.
­ Kiểm tra thuế, thanh tra thuế.
­ Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
­ Xử lý vi phạm pháp luật về thuế. 
­ Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế. 
Các quy định của Luật QLT đảm bảo tính pháp lý cho việc thực hiện 
cơ  chế  tự  khai, tự  tính, tự  nộp thuế  và tự  chịu trách nhiệm trước pháp luật 
của NNT. Cơ quan thuế thực hiện chức năng tuyên truyền, hỗ trợ người nộp  
thuế, kiểm tra thuế, thanh tra thuế. [6]
Các nội dung trên được cụ  thể hoá bằng các quy trình cụ  thể để  quản 
lý thuế  theo chức năng.  Hiện nay ngành thuế  đã triển khai thực hiện 5 quy  
trình quản lý thuế  : Đăng ký, kê khai thuế; Kiểm tra thanh tra; Miễn giảm 

thuế; Hoàn thuế; Quản lý nợ thuế.
Việc quy định rõ vai trò, nhiệm vụ, chức năng của từng Đội thuế trong 
công tác QLT thuế  đối với các DN nhằm hạn chế các tiêu cực cũng như  tạo  
điều kiện thuận lợi nhất cho DN thực hiện đúng chính sách pháp luật thuế, 
tuy nhiên  "Hệ thống mẫu biểu, văn bản, các quy trình hướng dẫn chưa đồng  
nhất, chưa kịp thời dẫn đến khó khăn trong việc hướng dẫn, hổ trợ NNT thực  
hiện tốt nghĩa vụ với NSNN". [7]
1.2.2. Những nội dung về quản lý thuế giá trị gia tăng
1.2.2.1. Đăng ký, kê khai, nộp thuế GTGT
19


+ Đăng ký nộp thuế
­ Cơ  sở  kinh doanh, kể  cả các công ty, nhà máy, xí nghiệp, chi nhánh, 
cửa hàng trực thuộc cơ  sở  kinh doanh chính phải đăng ký nộp thuế  với Cục 
thuế  hoặc Chi cục thuế  nếu là cá nhân kinh doanh về  địa điểm kinh doanh, 
ngành nghề  kinh doanh, lao động, tiền vốn, nơi nộp thuế  và các chỉ  tiêu liên  
quan khác theo mẫu đăng ký nộp thuế và hướng dẫn của cơ quan thuế.[8]
Đối với cơ sở  mới thành lập, thời gian đăng ký nộp thuế  chậm nhất là 
10 ngày kể từ ngày cấp giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh 
doanh và cấp con dấu; trường hợp cơ sở chưa được cấp giấy chứng nhận đăng 
ký kinh doanh nhưng có hoạt động kinh doanh, cơ  sở  phải đăng ký nộp thuế 
trước khi kinh doanh.
Các cơ sở đã đăng ký nộp thuế nếu có thay đổi ngành nghề kinh doanh,  
chuyển trụ sở kinh doanh sang các địa điểm khác, sáp nhập, giải thể, phá sản, 
hợp nhất, chia, tách hay thành lập các Công ty, nhà máy, xí nghiệp, chi nhánh,  
cửa hàng mới... phải đăng ký bổ  sung với cơ  quan thuế  chậm nhất là 5 ngày 
trước khi có sự thay đổi đó.[8]
­ Cơ  sở  hoạt động sản xuất, kinh doanh có trụ  sở  chính  ở  một địa 
phương (tỉnh, thành phố  trực thuộc Trung  ương) nhưng có cơ  sở  hạch toán 

phụ thuộc, như Công ty, nhà máy, xí nghiệp, chi nhánh, cửa hàng trực tiếp bán 
hàng ở một địa phương khác thì cơ sở kinh doanh phải đăng ký nộp thuế  với 
cơ quan thuế nơi đóng trụ sở, các cơ sở hạch toán phụ thuộc cũng phải đăng 
ký nộp thuế  GTGT với cơ  quan thuế địa phương nơi cơ  sở  phụ  thuộc đóng 
trụ sở. Riêng các tổ chức, cá nhân thực hiện dịch vụ tư vấn, khảo sát, thiết kế 
hoặc các hợp đồng tư  vấn, dịch vụ  đăng ký, kê khai, nộp thuế  với cơ  quan  
thuế địa phương nơi đóng trụ sở.[8]
­ Cơ sở xây dựng, lắp đặt phải đăng ký nộp thuế với cơ quan thuế địa 
phương nơi đóng trụ  sở. Trường hợp xây dựng, lắp đặt các công trình  ở  địa  
phương khác (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) do các cơ sở phụ thuộc  
không có tư cách pháp nhân như tổ, đội, ban quản lý công trình thực hiện... thì 
cơ  sở  xây dựng đồng thời phải đăng ký, kê khai, nộp thuế  với cơ  quan thuế 
địa phương nơi xây dựng công trình.[8]
­ Cơ  sở  thực hiện cơ  chế  khoán cho tập thể, cá nhân kinh doanh theo 
20


phương thức tự chịu trách nhiệm về  kết quả kinh doanh thì tập thể, cá nhân 
nhận khoán phải trực tiếp đăng ký, kê khai, nộp thuế GTGT với cơ quan thuế 
nơi kinh doanh.
­ Cơ  sở  kinh doanh thuộc đối tượng áp dụng phương pháp tính thuế 
trực tiếp trên giá trị gia tăng, nếu thực hiện được đúng, đủ các điều kiện mua,  
bán hàng hoá, dịch vụ có đầy đủ hoá đơn, chứng từ, ghi chép hạch toán sổ kế 
toán đúng chế độ, kê khai, nộp thuế GTGT đúng chế độ và tự nguyện đăng ký 
thực hiện nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế thì được áp dụng  
tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế. Cơ sở phải lập và gửi bản đăng ký 
nộp thuế  cho cơ  quan thuế  nơi cơ  sở  đăng ký nộp thuế. Cơ  quan thuế  khi  
nhận được đăng ký của cơ sở có trách nhiệm kiểm tra, thông báo kịp thời cho  
cơ sở về việc được áp dụng hay không được áp dụng nộp thuế theo phương  
pháp khấu trừ thuế GTGT (nêu rõ lý do không được áp dụng) trong thời hạn 

chậm nhất là 30 ngày, kể  từ  ngày nhận được đề  nghị  của cơ  sở. Cơ  sở  chỉ 
được thực hiện nộp thuế theo phương pháp khấu trừ  khi được cơ  quan thuế 
thông báo cho áp dụng.[8]
Những cá nhân (hộ) kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương  
pháp tính trực tiếp trên GTGT đã được áp dụng nộp thuế  theo phương pháp  
khấu trừ thuế, nếu trong quá trình thực hiện, cơ sở không thực hiện đúng các 
điều kiện quy định thì cơ quan thuế áp dụng biện pháp ấn định thuế phải nộp 
và ra thông báo đình chỉ việc nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.
­ Cấp mã số  thuế  cho đối tượng nộp thuế: Các cơ  sở  kinh doanh đã 
thực hiện đăng ký nộp thuế  với cơ  quan thuế, cơ  quan thuế  có trách nhiệm 
cấp mã số thuế và giấy chứng nhận đăng ký thuế  cho cơ sở kinh doanh. Đối 
với các chủ dự án (hoặc đại diện được uỷ quyền như ban quản lý công trình), 
nhà thầu chính nước ngoài là đối tượng được hoàn thuế GTGT chưa có mã số 
thuế phải làm thủ tục với Cục thuế nơi đóng trụ sở để được cấp mã số thuế.
[8]
+ Kê khai thuế giá trị gia tăng phải nộp ngân sách Nhà nước
Cơ sở sản xuất, kinh doanh và người nhập khẩu hàng hoá phải kê khai  
thuế GTGT phải nộp theo quy định như sau:
Cơ  sở  kinh doanh hàng hoá, dịch vụ  chịu thuế  GTGT phải lập và gửi 
21


cho cơ quan thuế  tờ khai tính thuế  GTGT từng tháng kèm theo bảng kê hàng  
hoá, dịch vụ  mua vào, bán ra theo mẫu quy định. Thời gian gửi tờ  khai của  
tháng cho cơ quan thuế chậm nhất là ngày 20 của tháng tiếp theo. Cơ sở phải  
kê khai đầy đủ, đúng mẫu tờ khai thuế và chịu trách nhiệm về tính chính xác  
của việc kê khai. Trường hợp cơ  sở  kinh doanh đã gửi tờ  khai cho cơ  quan  
thuế, sau đó phát hiện có sự  sai sót về  số  liệu kê khai trước thời hạn nộp  
thuế, cơ  sở  phải thông báo cho cơ  quan thuế  biết đồng thời lập lại tờ  khai  
thay cho tờ  khai không đúng. Trường hợp phát hiện sai sót sau thời hạn nộp  

thuế thì cơ sở điều chỉnh vào tờ khai của tháng tiếp sau[37]. 
Từ kỳ kê khai tháng 07/2013, công văn 8355/BTC­TCT ngày 28/06/2013  
của Bộ Tài chính về việc triển khai thực hiện một số quy định có hiệu lực từ 
01/7/2013 tại Luật sửa  đổi, bổ  sung một số   điều của Luật quản lý thuế 
hướng dẫn như sau:
“Đối tượng khai thuế GTGT theo quý:
­ Khai thuế theo quý áp dụng đối với người nộp thuế giá trị gia tăng có  
tổng doanh thu bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ của năm trước liền kề  từ  
20 tỷ đồng trở xuống.
Trường hợp người nộp thuế  mới bắt  đầu hoạt động sản xuất kinh  
doanh, việc khai thuế giá trị gia tăng được thực hiện theo tháng. Sau khi sản  
xuất kinh doanh đủ  12 tháng thì từ  năm dương lịch tiếp theo sẽ  căn cứ  theo  
mức doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ  của năm trước liền kề  để  thực hiện  
khai thuế giá trị gia tăng theo tháng hay theo quý.
Người nộp thuế có trách nhiệm tự xác định thuộc đối tượng khai thuế  
theo tháng hay kê khai thuế theo quý để thực hiện khai thuế theo quy định.
Trường hợp người nộp thuế đủ điều kiện khai thuế GTGT theo quý thì  
không phải kê khai thuế GTGT tháng 7/2013 mà thực hiện kê khai quý III/2013  
(thuế GTGT phải nộp ngân sách tháng 7, tháng 8, tháng 9/2013) chậm nhất là  
ngày 30/10/2013. Trường hợp không đủ điều kiện khai theo quý thì thực hiện  
khai thuế GTGT tháng 7/2013 chậm nhất là ngày 20/8/2013 theo quy định hiện  
hành.
22


Trường hợp người nộp thuế   đủ  điều kiện và  thuộc diện khai thuế  
GTGT theo quý muốn chuyển sang khai thuế theo tháng thì gửi thông báo cho  
cơ  quan thuế  quản lý trực tiếp chậm nhất là cùng với thời hạn nộp tờ  khai  
thuế GTGT của tháng 7/2013.
Thời kỳ khai thuế theo quý:

Việc thực hiện khai thuế  theo quý hay theo tháng được  ổn định trọn  
năm dương lịch và ổn định theo chu kỳ 3 năm. Riêng chu kỳ ổn định đầu tiên  
được xác định tính kể từ ngày 1/7/2013 đến hết ngày 31/12/2016.
Cách xác định doanh thu bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ  năm trước  
liền kề làm điều kiện xác định đối tượng khai thuế giá trị gia tăng theo quý:
Doanh thu bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ   được  xác  định là  Tổng  
doanh thu trên các Tờ  khai thuế  giá trị  gia tăng của các kỳ  tính thuế  trong  
năm dương lịch (bao gồm cả doanh thu chịu thuế giá trị gia tăng và doanh thu  
không chịu thuế giá trị gia tăng).
Trường hợp người nộp thuế  thực hiện khai thuế tại trụ sở chính cho  
đơn vị  trực thuộc thì doanh thu bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ  bao gồm cả  
doanh thu của đơn vị trực thuộc.”
Cơ sở phải kê khai đầy đủ, đúng mẫu tờ khai thuế và chịu trách nhiệm 
về  tính chính xác của việc kê khai. Trường hợp cơ  sở  kinh doanh đã gửi tờ 
khai cho cơ quan thuế, sau đó phát hiện có sự sai sót về số liệu kê khai trước  
thời hạn nộp thuế, cơ sở phải thông báo cho cơ quan thuế biết đồng thời lập 
lại tờ khai thay cho tờ khai không đúng. Trường hợp phát hiện sai sót sau thời  
hạn nộp thuế thì cơ sở điều chỉnh vào tờ khai của tháng tiếp sau.[8] 
+  Nộp thuế, quyết toán thuế giá trị gia tăng
Đối tượng nộp thuế  GTGT có trách nhiệm nộp thuế  GTGT đầy đủ, 
đúng hạn vào Ngân sách Nhà nước (NSNN). Trình tự, thủ tục nộp thuế thực hiện  
như sau:
Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế sau khi nộp 
tờ khai thuế giá trị gia tăng cho cơ quan Thuế phải nộp thuế giá trị gia tăng vào 
NSNN. Thời hạn nộp thuế chậm nhất là theo thời hạn nộp tờ khai theo tháng  
hoặc theo quý.
Cơ sở kinh doanh mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng làm thủ tục nộp 
23



thuế bằng giấy nộp tiền vào NSNN, thời gian nộp thuế vào NSNN được tính  
từ ngày Ngân hàng nhận và làm thủ tục trích chuyển tiền từ tài khoản của cơ 
sở vào NSNN, được Ngân hàng ghi trên giấy nộp tiền vào NSNN[8]
  Cơ  sở  kinh doanh có trách nhiệm nộp số  thuế  GTGT còn thiếu vào 
NSNN sau 10 ngày kể  từ  ngày nộp báo cáo quyết toán thuế, nếu nộp thừa  
được trừ  vào số  phải nộp của kỳ  tiếp sau, hoặc được hoàn thuế  nếu cơ  sở 
thuộc trường hợp và đối tượng được hoàn thuế.
1.2.2.2. Hoàn thuế giá trị gia tăng
Đối tượng và trường hợp được hoàn thuế giá trị gia tăng
­ Cơ  sở  kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế  theo phương pháp khấu  
trừ thuế được xét hoàn thuế trong các trường hợp sau:
+ Cơ sở kinh doanh trong 3 tháng liên tục trở lên (không phân biệt theo 
quý của năm dương lịch cũng như  niên độ kế  toán) có số  thuế  đầu vào chưa  
được khấu trừ  hết. Số  thuế  được hoàn là số  thuế  đầu vào chưa được khấu  
trừ  hết của thời gian xin hoàn thuế. Trường hợp này áp dụng cho cả  cơ  sở 
kinh doanh có đầu tư mới, đầu tư chiều sâu[37].
+ Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu nếu có 
số  thuế  GTGT đầu vào của hàng hoá xuất khẩu phát sinh trong tháng chưa  
được khấu trừ từ 200 triệu đồng trở lên thì được xét hoàn thuế theo tháng. Cơ 
sở  kinh doanh trong tháng vừa có hàng hoá, dịch vụ  xuất khẩu, vừa có hàng 
hoá, dịch vụ bán trong nước, nếu số  thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch 
vụ xuất khẩu phát sinh trong tháng chưa được khấu trừ từ 200 triệu đồng trở 
lên, nhưng sau khi bù trừ với số thuế GTGT đầu ra của hàng hoá, dịch vụ bán 
trong nước, nếu số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ trên tờ khai thuế 
GTGT của tháng phát sinh nhỏ hơn 200 triệu đồng thì cơ sở kinh doanh không 
được xét hoàn thuế  theo tháng, nếu số  thuế  GTGT đầu vào chưa được khấu 
trừ trên tờ khai thuế GTGT của tháng phát sinh từ 200 triệu đồng trở lên (thuế 
24



GTGT đầu vào chưa được khấu trừ  hết bao gồm cả thuế  đầu vào của hàng  
hoá, dịch vụ bán trong nước) thì cơ sở kinh doanh được hoàn thuế GTGT theo 
tháng. Đối với trường hợp uỷ thác xuất khẩu, gia công chuyển tiếp, hàng hoá 
xuất khẩu để  thực hiện dự  án đầu tư  ra nước ngoài, đối tượng hoàn thuế  là  
cơ sở có hàng hoá uỷ thác xuất khẩu, gia công chuyển tiếp xuất khẩu, doanh  
nghiệp đầu tư ra nước ngoài hoặc doanh nghiệp được uỷ thác xuất khẩu[37].
­ Đối với cơ sở kinh doanh đầu tư mới đã đăng ký kinh doanh, đăng ký 
nộp thuế  theo phương pháp khấu trừ thuế đang trong giai đoạn đầu tư, chưa 
đi vào hoạt động, chưa phát sinh thuế đầu ra, và thời gian đầu tư từ một năm 
trở lên thì cơ sở kinh doanh vẫn phải lập tờ khai thuế hàng tháng và được xét 
hoàn thuế  đầu vào theo từng năm dương lịch. Nếu số  thuế  GTGT đầu vào 
của tài sản đầu tư được hoàn có giá trị lớn từ 200 triệu đồng trở lên thì được  
xét hoàn thuế theo quý (3 tháng liên tục không phân biệt theo năm dương lịch) 
[37].
­ Đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp 
khấu trừ thuế  có dự  án đầu tư  của cơ  sở  sản xuất đang trong giai đoạn đầu 
tư, chưa đi vào hoạt động, chưa đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế, cơ sở 
kinh doanh phải lập tờ  khai thuế  mẫu số  01B/GTGT, lập hồ  sơ  hoàn thuế 
riêng cho dự  án đầu tư  theo từng năm, nếu có số  thuế  GTGT của hàng hoá,  
dịch vụ  sử  dụng cho dự  án đầu tư  từ  200 triệu đồng trở  lên được xét hoàn 
thuế theo quý (3 tháng liên tục không phân biệt theo năm dương lịch). Khi dự 
án đầu tư  thành lập doanh nghiệp mới đã hoàn thành và hoàn tất các thủ  tục 
về đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế, cơ sở kinh doanh là chủ dự án đầu  
tư  phải tổng hợp số  thuế  GTGT phát sinh, số  thuế  GTGT đã hoàn, số  thuế 
GTGT chưa được hoàn của dự  án để  bàn giao cho doanh nghiệp mới thành 
lập để  doanh nghiệp mới thực hiện kê khai, nộp thuế  và đề  nghị  hoàn thuế 
GTGT theo quy định với cơ quan thuế quản lý trực tiếp[37]. 
25



×