Phần I:
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay chúng ta phải đối mặt với hàng loạt các vấn đề, như lạm phát,
thất nghiệp, tỷ lệ gia tăng dân số, khí hậu …vv.Trong đó “ khí hậu” là vấn đề
môi trường bức xúc trên phạm vi toàn cầu, bao gồm: sự biến đổi khí hậu
(BĐKH), suy thoái đa dạng sinh học (ĐDSH), suy thoái nguồn tài nguyên nước
ngọt, suy thoái tầng Ôzôn, suy thoái đất và hoang mạc hóa, ô nhiễn các chất
hữu cơ độc hại khó phân hủy …vv. Những vấn đề này có mỗi tương tác lẫn
nhau và đều ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống con người cũng như sự phát
triển của xã hội. Trong đó dù ở mức độ quốc gia hay phạm vi toàn cầu thì
BĐKH luôn được xem là vấn đề môi trường nóng bỏng nhất và hơn thế nữa nó
còn được coi là vấn đề quan trọng tác động tới tiến trình phát triển bền vững
hiện nay của toàn thế giới.
Gần đây nhất, Thảm họa kép động đất, sóng thần và một loạt những
dư trấn xảy ra tại đảo Sulawesi (Indonesia ) với số người thiệt mạng trong
động đất, sóng thần kinh hoàng khoảng hơn 1.300 người. Theo ước tính, ít
nhất 65.000 ngôi nhà bị phá hủy và khoảng 60.000 người rơi vào cảnh màn
trời chiếu đất. Hiện có hơn 48.000 người phải rời bỏ nhà cửa đi lánh nạn.
Phải chăng đây là sự “lên tiếng” của thiên nhiên bởi những hành động phá
hoại thiên nhiên của con người. (Theo Nguồn tin Cơ quan Giảm nhẹ Thiên tai
Quốc gia Indonesia )
Việt Nam nằm trong 10 nước bị ảnh hưởng nặng nề
nhất của BĐKH 20 năm qua vì bão, lũ và sạt lở đất (chuồi), theo Chỉ số Rủi
ro Khí hậu do tổ chức Germanwatch (Đức) công bố tháng 12/2015. Trong đó,
ĐBSCL là 1 trong 3 đồng bằng trên thế giới dễ bị tổn thương nhất do nước
biển dâng, bên cạnh đồng bằng sông Nile (Ai Cập) và đồng bằng sông Ganges
(Bangladesh). Tác động của BĐKH đến Việt Nam rất nghiêm trọng, là nguy
cơ hiện hữu đối với mục tiêu xoá đói giảm nghèo, mục tiêu thiên niên kỷ và
sự phát triển bền vững. Theo Ủy ban liên chính phủ về BĐKH, khi nước biển
dâng cao 1m, ước chừng 5,3% diện tích tự nhiên, 10,8% dân số, 10,2% GDP,
1
10,9% vùng đô thị, 7,2% diện tích nông nghiệp và 28,9% vùng đất thấp sẽ bị
ảnh hưởng.
Vì vậy việc nghiên cứu đề tài: “ Biến đổi khí hậu toàn cầu và ứng phó
của Việt Nam” là một yêu cầu và nhiệm vụ quan trọng và cần thiết hiện nay.
Phần II:
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
1.1. Khái niệm về biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí
quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi
các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo.
Theo công ước chung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu:
Biến đổi khí hậu là “những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu”,
là những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh
hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của
các hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ
thống kinh tế xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người.
1.2. Nguyên nhân biến đổi khí hậu
Có hai nguyên nhân chính tác động đến biến đổi khí hậu là do các yếu tố tự
nhiên và do các yếu tố nhân tạo. Tuy nhiên các nguyên nhân gây ra biến đổi khí
hậu do tự nhiên đóng góp một phần rất nhỏ vào sự biến đổi khí hậu và có tính
chu kỳ kể từ quá khứ đến hiện tại. Vì vậy, tác động lớn nhất là do chính con
người.
1.2.1. Nguyên nhân khách quan (do sự biến đổi của tự nhiên)
Bao gồm: sự biến đổi các hoạt động của mặt trời, sự thay đổi quỹ đạo trái
đất, sự thay đổi vị trí và quy mô của các châu lục, sự biến đổi của các dạng
hải lưu, và sự lưu chuyển trong nội bộ hệ thống khí quyển.
1.2.2. Nguyên nhân chủ quan (do sự tác động của con người)
Xuất phát từ sự thay đổi mục đích sử dụng đất và nguồn nước và sự gia
tăng lượng phát thải khí CO2 và các khí nhà kính khác từ các hoạt động của con
người.
2
Như vậy, biến đổi khí hậu không chỉ là hậu quả của hiện tượng hiệu
ứng nhà kính (sự nóng lên của trái đất) mà còn bởi nhiều nguyên nhân khác.
Tuy nhiên, có rất nhiều bằng chứng khoa học cho thấy tồn tại mối quan hệ
giữa quá trình tăng nhiệt độ trái đất với quá trình tăng nồng độ khí CO2 và các
khí nhà kính khác trong khí quyển, đặc biệt trong kỷ nguyên công nghiệp.
Trong suốt gần 1 triệu năm trước cách mạng công nghiệp, hàm lượng khí
CO2 trong khí quyển nằm trong khoảng từ 170 đến 280 phần triệu (ppm).
Hiện tại, con số này đã tăng cao hơn nhiều và ở mức 387 ppm và sẽ còn tiếp
tục tăng với tốc độ nhanh hơn nữa. Chính vì vậy, sự gia tăng nồng độ khí
CO2 trong khí quyển sẽ làm cho nhiệt độ trái đất tăng và nguyên nhân của
vấn đề biến đổi khí hậu là do trái đất không thể hấp thụ được hết lượng khí
CO2 và các khí gây hiệu ứng nhà kính khác đang dư thừa trong bầu khí quyển.
Khí hậu Trái đất chịu ảnh hưởng rất lớn của cân bằng nhiệt khí quyển.
Khi yếu tố này bị ảnh hưởng sẽ tác động rất lớn gây biến đổi khí hậu. Cân
bằng nhiệt xảy ra nhờ các khí nhà kính như CO2, CH4, NOx… hấp thụ bức xạ
hồng ngoại do mặt đất phát ra, sau đó, một phần lượng bức xạ này lại được
các chất khí đó phát xạ trở lại mặt đất, qua đó hạn chế lượng bức xạ hồng
ngoại của mặt đất thoát ra ngoài khoảng không vũ trụ và giữ cho mặt đất
khỏi bị lạnh đi quá nhiều, nhất là về ban đêm khi không có bức xạ mặt trời
chiếu tới mặt đất. Nếu không có các chất khí nhà kính tự nhiên, trái đất của
chúng ta sẽ lạnh hơn hiện nay khoảng 33 oC, tức là nhiệt độ trung bình trái đất
sẽ khoảng 18 oC. Hiệu ứng giữ cho bề mặt trái đất ấm hơn so với trường hợp
không có các khí nhà kính được gọi là “Hiệu ứng nhà kính” (greenhouse
effect).
1.3. Những hiện tượng biến đổi khí hậu chủ yếu:
Sự biến đổi khí hậu toàn cầu làm cho các hiện tượng thời tiết biến
chuyển theo chiều hướng cực đoan, khắc nghiệt hơn trước. Khắp các châu
lục trên thế giới đang phải đối mặt, chống chọi với các hiện tượng thời tiết
cực đoan: lũ lụt, khô hạn, nắng nóng, bão tuyết… Dự báo của IPCC (Ủy ban
Liên chính phủ về thay đổi khí hậu) chỉ ra, thế giới sẽ còn phải đón nhận
những mùa mưa dữ dội hơn vào mùa hè, bão tuyết khủng khiếp hơn vào mùa
đông, khô hạn sẽ khắc nghiệt hơn, nắng nóng cũng khốc liệt hơn.
Mực nước biển tăng cao, nước biển đang dần ấm lên
3
Sự nóng lên của toàn cầu không chỉ ảnh hưởng tới bề mặt của biển mà
còn ảnh hưởng tới những khu vực sâu hơn dưới mặt biển. Theo đó, ở vùng
biển sâu hơn 700m, thậm chí là nơi sâu nhất của đại dương, nhiệt độ nước
đang ấm dần lên. Nhiệt độ gia tăng làm nước giãn nở, đồng thời làm tan chảy
các sông băng, núi băng và băng lục địa khiến lượng nước bổ sung vào đại
dương tăng lên.
Hiện tượng băng tan ở hai cực và Greenland
Trong những năm gần đây vùng biển Bắc Cực nóng lên nhanh gấp 2 lần
mức nóng trung bình trên toàn cầu, diện tích của biển Bắc Cực được bao phủ
bởi băng trong mỗi mùa hè đang dần thu hẹp lại.
Nền nhiệt độ liên tục thay đổi
Nhiệt độ trung bình mỗi năm của thập niên 90 cao hơn nhiệt độ trung
bình của thập niên 80. Bước sang thế kỷ XXI, mỗi một năm qua đi, nhiệt độ
trung bình lại cao hơn. Theo thống kê, 10 năm đầu của thế kỷ XXI đánh dấu
sự gia tăng nhiệt độ lớn với sức nóng kỷ lục của Trái đất. Nhiệt độ trung bình
toàn cầu tính trên mặt đất và mặt biển đã tăng khoảng 0,74 độ C trong thế kỷ
qua.
Nồng độ carbon dioxide trong khí quyển đang tăng lên
Theo phân tích các bong bóng khí trong băng ở Nam Cực và Greenland,
các nhà khoa học đã đưa ra kết luận rằng, 650.000 năm qua, nồng độ khí
carbon dioxide (CO2) dao động từ 180 300ppm (đơn vị đo lường để diễn đạt
nồng độ theo khối lượng, tính theo phần triệu).
1.4. Các biểu hiện của biến đổi khí hậu
Sự nóng lên của khí quyển và Trái đất nói chung.
Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường
sống của con người và các sinh vật trên Trái đất.
Sự dâng cao mực nước biển do băng tan, dẫn tới sự ngập úng ở các vùng
đất thấp, các đảo nhỏ trên biển.
Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng
khác nhau của Trái đất dẫn tới nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh vật,
các hệ sinh thái và hoạt động của con người.
4
Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu
trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.
Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành
phần của thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển.
1.5. Tác động của biến đổi khí hậu đến kinh tế xã hội
1.5.1. Tác động của biến đổi khí hậu đến nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất. Nước biển
dâng làm mất diện tích đất canh tác. Gây ra các hiện tượng thời tiết cựa đoan
như: hạn hán, lũ lụt, sa mạc hóa… Cường độ lạnh trong mùa đông giảm dần,
thời gian nắng nóng dài hơn gây ảnh hưởng đến sợ phát triển của các loài cây
trên các vùng miền. Nước biển dâng còn gây ra hiện tượng xâm nhập mặn,
khả năng tiêu thoát nước giảm gây khó khăn cho công tác thủy lợi.
Biến đổi khí hậu làm thay đổi điều kiện sinh sống của các loài sinh vật,
dẫn đến tình trạng biến mất của một số loài và ngược lại làm xuất hiện nguy
cơ gia tăng các loài “thiên địch”. Biến đổi khí hậu có thể tác động đến thời
vụ, làm thay đổi cấu trúc mùa, quy hoạch vùng, kỹ thuật tưới tiêu, sâu bệnh,
năng suất, sản lượng; làm suy thoái tài nguyên đất, đa dạng sinh học bị đe
dọa, suy giảm về số lượng và chất lượng do ngập nước và do khô hạn, tăng
thêm nguy cơ diệt củng của động vật, làm biến mất các nguồn gen quý hiếm.
1.5.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến lâm nghiệp
Nhiệt độ và lượng bốc hơi tăng cùng với hạn hán kéo dài sẽ làm thay
đổi sự phân bố và khả năng sinh trưởng của các loài thực vật và động vật
rừng. Nhiều loài cây nhiệt đới ưa sáng sẽ di cư lên các vĩ độ cao hơn và các
loài cây á nhiệt đới sẽ mất dần. Số lượng quần thể các loài động thực vật
quý hiếm sẽ ngày càng suy kiệt và nguy cơ tiệt chủng tăng. Nhiệt độ tăng và
hạn hán kéo dài sẽ làm tăng nguy cơ cháy rừng, nhất là các rừng trên đất than
bùn, vừa gây thiệt hại tài nguyên sinh vật, vừa tăng lượng phát thải khí nhà
kính, làm gia tăng BĐKH và tạo điều kiện cho một số loài sâu bệnh hại rừng
phát triển.
BĐKH làm thay đổi số lượng và chất lượng hệ sinh thái rừng, đa dạng
sinh học. Chức năng và dịch vụ môi trường (điều tiết nguồn nước, điều hòa
khí hậu, chống xói mòn …) và kinh tế của rừng bị suy giảm.
5
Nước biển dâng và hạn hán làm giảm năng suất và diện tích cây trồng
dẫn tới nhu cầu chuyển đổi rừng sang đất sản xuất nông nghiệp và khai thác
thủy sản tăng cũng như nhu cầu di cư lên vùng cao, làm gia tăng nạn phá rừng.
1.5.3.Tác động của biến đổi khí hậu đến thủy sản
Tác động của biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến môi trường thủy sinh
trên biển. Nhiệt độ nước biển tăng gây bất lợi về một số thủy sản, quá trình
khoáng hóa và phân hủy nhanh hơn ảnh hưởng đến nguồn thức ăn của sinh
vật, làm cho thủy sinh tiêu tốn hơn trong quá trình hô hấp và hoạt động khác,
ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng thương phẩm của thủy sản; thúc
đẩy quá trình suy thoái của san hô hoặc thay đổi quá trình sinh lý và sinh hóa
trong quan hệ cộng sinh giữa san hô và tảo. Mất nơi sinh sống thích hợp của
một số loài thủy sản nước ngọt trong các rừng ngập mặn. Ao hồ cạn kiệt
trước thời kỳ thu hoạch, sản lượng nuôi trồng giảm đi rõ rệt.
Nước mặn lấn sâu vào nội địa, làm mất nơi sinh sống thích hợp của
một số loài thủy sản nước ngọt; Rừng ngập mặn hiện có bị thu hẹp ảnh
hưởng đến nơi cư trú của một số loài thủy sản; khả năng cố định chất hữu
cơ của HST rong biển giảm dẫn đến giảm nguồn cung cấp sản phẩm quang
hợp và chất dinh dưỡng cho sinh vật đáy. Do đó chất lượng môi trường sống
của nhiều loài thủy sản xấu đị.
1.5.4. Tác động của biến đổi khí hậu đến công nghiệp
Phần lớn các khu công nghiệp đều trên vùng đồng bằng thấp
trũng dễ bị tổn thương trước nguy cơ biến đổi khí hậu đặc biệt là
nước biển dâng; vùng nguyên liệu công nghiệp cũng sẽ có nhiều thay đổi về
quy mô sản xuất cũng như về khối lượng sản phẩm. Công nghiệp chế biến
lương thực, thực phẩm cũng gặp nhiều trở ngại đối với quá trình chế biến
sản phẩm trồng trọt, sản phẩm chăn nuôi, chế biến hải sản, thủy sản.
1.5.5. Tác động của biến đổi khí hậu đến năng lượng
Biến đổi khí hậu kéo theo gia tăng cường độ lũ, cả đỉnh lũ và trong một
số trường hợp cực đoan, các nhà máy thủy điện buộc phải xả lũ và các sông
đang ở mức báo động rất cao. Hạn hán làm giảm thời gian phát điện và hiệu
suất điện năng trong trường hợp hạn hán khốc liệt. Sa sút về tiềm năng điện
6
gió. Có khả năng làm giảm tiềm năng của những nguồn năng lượng khác
trong tương lai.
Biến đổi khí hậu tác động tiêu cực đến cung ứng và nhu cầu năng lượng.
Khó khăn hơn cho hệ thống vận chuyển dầu và khí từ dàn khoan trên biển đến
các nhà máy hóa – lọc dầu; làm trội thêm chi phí thông gió và làm mát hầm lò
khai thác than và làm giảm hiệu suất của các nhà máy điện.Tiêu thụ điện cho các
thiết bị sinh hoạt như điều hòa nhiệt độ, quạt điện, bảo quản lương thực, thức
ăn gia tăng theo nhiệt độ. Chi phí tưới và tiêu trong sản xuất lúa, cây công nghiệp
gia tăng.
1.5.6. Tác động của biến đổi khí hậu đến giao thông vận tải
Biến đổi khí hậu ảnh hưởng xấu đến cơ sở hạ tầng giao thông vận tải.
Nhiều đoạn đường sắt, quốc lộ, đường giao thông nội bộ, cảng biển và cảng
hàng không có thể bị ngập. Xói lở nền móng, phá vỡ kết cấu cầu đường, nhất
là ở vùng núi, các công trình giao thông đường bộ, đường sắt cũng như
đường ống.Thúc đẩy sự thoái hóa và hư hại của các công trình giao
thông vận tải các loại và tăng chi phí bảo trì, tu bổ các công trình và phương
tiện giao thông vận tải. Tăng nguy cơ rủi ro đối với giao thông vận tải, Ảnh
hưởng đến nhiều hoạt động giao thông bao gồm thiết bị, động cơ và phương
tiện. Tăng chi phí điều hòa nhiệt độ, nhất là trong vận chuyển hành khách.
1.5.7. Tác động của biến đổi khí hậu đến du lịch
Mực nước biển dâng khiếnmột số công trình trên các bãi biển đều phải
dần dần nâng cấp để thích ứng. Gây nguy hiểm và ảnh hưởng đến sức khỏe
của du khách bởi những tác động không mong muốn của thời tiết. Ảnh hưởng
của các tia tử ngoại. Biến đổi khí hậu gây nhiều khó khăn cho sự nghiệp phát
triển du lịch bền vững. Biến đổi khí hậu tác động mạnh mẽ đến cả ba yếu tố
bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về tài nguyên thiên
nhiên và điều kiện tự nhiên và do đó gián tiếp tác động đến sự nghiệp phát
triển du lịch
II. ẢNH HƯỞNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU
2.1. Biến đổi khí hậu toàn cầu
Do sự nóng lên của khí hậu toàn cầu nên các lớp băng tuyết sẽ bị tan
nhanh trong những thập niên tới. Trong thế kỷ XX, mực nước biển tại châu Á
7
dâng lên trung bình 2,4 mm/năm, riêng thập niên vừa qua là 3,1 mm/năm, dự
báo sẽ tiếp tục dâng cao hơn trong thế kỷ XXI khoảng 2,8mm 4,3 mm/năm.
Mực nước biển dâng lên có thể nhấn chìm nhiều vùng rộng lớn, nơi ở
của hàng triệu người sống ở các khu vực thấp ở Việt Nam, Bangladesh, Ấn
Độ và Trung Quốc,… làm khan hiếm nguồn nước ngọt ở một số nước châu Á
do biến đổi khí hậu đã làm thu hẹp các dòng sông băng ở dãy Hymalayas.
Theo Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO), nhiều loại hình thiên tai và
thời tiết cực đoan diễn ra với quy mô và tần suất ngày càng lớn. Tại Hội nghị
LHQ về BĐKH (COP 23) ở Born, Đức (11/2017), số liệu thống kê cho thấy
trên toàn thế giới, từ 19962016, thiên tai do BĐKH làm chết 520.000 người,
gây thiệt hại kinh tế 3.160 tỷ USD.
2.2. Biến đổi khí hậu tại Việt Nam hiện nay
Thứ nh ất, nguy c ơ thi ếu n ướ c ng ọt và xâm nhậ p mặ n: Vi ệt Nam có
hai vùng châu thổ r ộng l ớn là châu thổ sông Hồ ng, di ệ n tích 17.000km2
và châu thổ sông Cửu Long (Mê Kông), di ệ n tích gầ n 35.000km2. Châu
thổ sông Cửu Long là vùng ch ịu ảnh h ưở ng m ạnh nh ất c ủa ch ế độ thủ y
triề u t ừ bi ển truy ền vào vùng hạ lưu qua nh ững con sông và kênh rạ ch
ch ằng ch ịt nh ư: sông Tiề n, sông Hậ u hoặc nh ư Gành Hào, Bồ Đề …
Thủy triều t ừ v ịnh Thái Lan qua các sông Cái L ớn, Bả y Háp, Đông Cung,
Ông Đố c, Cửa L ớn… S ự xâm nhậ p mặn do tri ều Bi ển Tây ít hơ n so với
triề u Bi ển Đông. Hậu qu ả c ủa quá trình xâm nhậ p mặ n sâu là gây hạ n
trên ph ạm vi ngày càng r ộng h ơn, nh ất là vụ lúa đông xuân bởi không thể
lấy n ướ c nhiễm mặn ở kênh rạ ch để tướ i. Nướ c mặ n tràn lên sẽ làm
ch ế t hàng loạt cây cối trên những cánh đồ ng rộ ng lớn. Ngay c ả khi độ
mặn th ấp h ơn 1% cũng làm giả m năng suất cây tr ồ ng và thủ y sả n n ướ c
ngọt. Ngoài ra, s ự xâm nhập m ặn còn gây ra vấ n nạn thi ếu n ướ c s ạch
sinh ho ạt ở các vùng dân cư.
Khô hạn kéo dài, mưa ít thì xâm nhập mặn càng sâu hơn. Chẳng hạn,
vào năm 2005, trên sông Tiền, sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên mức độ xâm
nhập mặn đã tiến sâu vào tới 60 – 80 km ; tuyến sông Hậu 60 – 70km. Ở các
sông Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông xâm nhập sâu tới 120 – 140km gây thiệt hại
rất lớn. Tỉnh Long An, thiệt hại 16 tỷ đồng; hơn 14.000ha mía giảm năng suất
từ 5 – 10%; hơn 1.000ha lúa ở huyện Đức Hòa đã chết trắng, do bị nhiễm
8
mặn. Tỉnh Sóc Trăng thiệt hại 46 tỷ đồng. Tỉnh Hậu Giang 9.000 ha bị xâm
nhập mặn, thiệt hại 11,4 tỷ đồng…
Thứ hai, bão và nước dâng do bão: Những năm gần đây do biến đổi khí
hậu, thời tiết có những diễn biến thất thường nên thiên tai xảy ra dồn dập
với cường độ ngày càng cao hơn. Nhiều trận bão tàn phá nặng nề, gây thương
vong người, phá hoại nhà cửa, thuyền bè và cướp trắng mùa màng, phá hủy
hàng nghìn kilômét đê sông, đê biển, đường bờ biển cũng bị hạ thấp nhanh
chóng, nước dâng cao và xâm nhập mặn càng sâu hơn. Trong thời gian 30 năm
qua, người ta ghi nhận được có một nửa trong tổng số các cơn bão đổ bộ vào
Việt Nam đã làm dâng cao mực nước trên 1m và có 11% số cơn bão làm dâng
cao mực nước biển trên 2m.
Thứ ba, nguy c ơ xói lở: Hầ u hế t b ờ bi ển n ướ c ta đang bị xói lở với
cườ ng độ từ vài mét tới hàng chụ c mét mỗ i năm và có xu hướ ng gia tăng
mạnh trong m ột th ập niên gần đây. Bờ biển nướ c ta ch ỉ có 2.800km đê
biển, trong đó có 1.400 km đê tr ực ti ếp v ới bi ển và khoả ng 1.400km đê
cửa sông. Hệ thống đê hầ u hế t đượ c đắ p bằ ng đấ t theo phươ ng pháp thủ
công để lấn bi ến, ngăn mặ n, ph ần l ớn đã xuố ng cấ p. Nế u vì lý do nào đó
mà các con đê bị v ỡ thì ruộ ng đồ ng sẽ bị nướ c bi ển làm cho nhiễ m mặn
không th ể gieo tr ồng đượ c trong nhiều năm. Trên các tuyế n đê biển củ a
mi ền Bắc trong 5 năm qua đã có tới 165 v ị trí sạ t lở tổ ng cộng t ới
252km, đe dọa tr ực ti ếp đế n an toàn các khu vực thành phố , thị xã và khu
tập trung dân cư… Ng ập úng ở vùng châu thổ diện rộng vào mùa mưa lũ,
các dòng sông gia tăng cườ ng độ xâm thực ngang, gây sạ t lở l ớn ở các
vùng ven b ờ trên nhiề u khu v ực t ừ B ắc vào Nam. Ở các vùng ven biển đã
thấy rõ hiệ n t ượ ng vùng ngập tri ều c ửa sông mở rộ ng hình phễ u trên
diện rộng, nhất là ở hạ du các hệ thố ng sông nghèo phù sa như các hệ
thống sông Thái Bình, Bạch Đằ ng, ven bi ển H ải Phòng, Quả ng Ninh và
hệ th ống sông Đồ ng Nai ở vùng ven bi ển Bà Rị a – Vũng Tàu và Thành
phố H ồ Chí Minh. B ờ bi ển mi ền Trung t ừ Qu ảng Ngãi đế n Bình Thuậ n
cũng đang bị sóng bi ển xâm thực khá mạ nh, nhiề u khu v ực t ốc độ sạ t lở
bờ bi ển t ừ 1530m/năm.
Thứ tư, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy, hải sản và du lịch suy
giảm. Các vùng ven biển Việt Nam có số dân khoảng 18 triệu người, chiếm
gần 1/4 dân số cả nước, trong đó diện tích đất sử dụng chiếm 16% tổng diện
tích cả nước. 58% số dân vùng ven biển chủ yếu sống dựa và nông nghiệp và
9
đánh bắt thủy sản, khoảng 480.000 người trực tiếp làm nghề đánh bắt hải
sản, 10.000 người chế biến và 2.140.000 người cung cấp các dịch vụ liên
quan đến nghề cá. Biến đổi khí hậu sẽ gây đe dọa ở nhiều cấp độ, nhiều lĩnh
vực kinh tế – xã hội. Đặc biệt, hầu hết nông dân Việt Nam có rất ít đất canh
tác, đặc biệt là nông dân vùng ven biển. Vì vậy, việc mất đi một phần rất lớn
quỹ đất trồng do biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, cùng quá trình đô thị
hóa và công nghiệp hóa sẽ đặt Việt Nam trước một thách thức rất nghiêm
trọng.
Thứ năm là, sự tổn hại về đa dạng sinh học và hệ sinh thái. Theo đánh giá
của Ngân hàng Thế giới đối với các sinh cảnh tự nhiên quan trọng ở Việt
Nam dựa trên những kịch bản nước biển dâng, cứ 1m nước biển dâng lên có
thể ảnh hưởng tới 27% sinh cảnh tự nhiên, trong đó 33% ở khu bảo tồn, 23%
các vùng có đa dạng sinh học chủ chốt. Những tác động tiềm tàng này đang
tăng lên từ 1/4 đến 1/3 tất cả các vùng sinh cảnh tự nhiên then chốt ở Việt
Nam. Những khu vực này phần lớn là các khu bảo tồn và đề nghị bảo tồn
hiện nay của Việt Nam, thường tập trung trên các đảo và khu vực bờ biển. Rõ
ràng là đa dạng sinh học Việt nam đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng
khi nước biển dâng.
Ngoài những ảnh hưởng xấu vừa nêu, biến đổi khí hậu – nước biển
dâng cao sẽ nhấn chìm và phá hủy kết cấu hạ tầng và tài nguyên du lịch, từ
đó làm giảm lượng khách và ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của hàng triệu
người, trong đó đa phần là người nghèo.
Thứ sáu là, sự phá hủy các công trình giao thông và kết cấu hạ tầng. Theo
IPCC (Công ước khung về biến đổi khí hậu), do tác động của biến đổi khí
hậu toàn cầu, khả năng mực nước biển sẽ dâng cao 1m vào cuối thế kỷ XXI,
hệ quả là hằng năm Việt Nam có 40.000km2 vùng ven biển sẽ chịu ảnh
hưởng nặng nề, trong đó có 90% thuộc Đồng bằng sông Cửu Long bị ngập
hoàn toàn, thiệt hại về tài sản có thể lên tới 17 tỷ USD.
Tại 24 tỉnh, thành phố vùng duyên hải nước ta có 266 cảng biển lớn,
nhỏ; lại là nước có nhiều tiềm năng về dầu khí trong khu vực. Nước biển
dâng cao kèm theo mưa bão lớn sẽ đe dọa tàn phá các kết cấu hạ tầng quan
trọng, gây ngập lụt các tuyến đường sắt ở vùng duyên hải, sân bay, phá hủy
cầu cống và hệ thống ống dẫn cùng nhiều công trình kết câu hạ tầng giao
thông khác.
10
Thứ bảy là, ô nhiễm nguồn nước sạch và suy thoái môi trường. Mực nước
biển dâng còn ảnh hưởng trực tiếp đến đến nguồn nước sạch và vệ sinh môi
trường. Do ngập lụt trong thời gian dài, các loại phân bón, thuốc trừ sâu, chất
thải từ các nhà vệ sinh, chuồng trại chăn nuôi, các chất thải khác… bị rửa trôi,
xuống hồ ao, sông suối trôi nổi khắp nơi, dịch bệnh dễ xảy ra và khó kiểm
soát, sức khỏe của người dân sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Các công trình cấp
nước sạch tập trung bị hư hỏng hoặc do nguồn nước cấp b ị ô nhiễm gây khó
khăn cho việc xử lý nước, cung cấp nước sạch cho nhân dân.
2.2.1. Tình hình biến đổi khí hậu của Việt Nam hiện nay
Việt Nam được dự đoán bị tác động nặng nề nếu khí hậu tăng lên 1oC
và nước biển dâng cao 1m. Trong 45 năm (19562000) có 311 cơn bão và áp
thấp ảnh hưởng đến Việt Nam. Mỗi năm chính phủ phải chi hàng nghìn tỷ
đồng để khắc phục hậu quả thiên tai. Chỉ riêng năm 2007, thiên tai đã làm
thiệt hại 11.600 tỷ đồng, hơn 400 người chết, mất tích; làm ngập và hư hại
113.800 ha lúa, phá huỷ 1.300 công trình đập, cống thủy lợi. Đặc biệt, theo
các kịch bản BĐKH của Việt Nam, đến cuối thế kỷ XXI, sẽ có 40% diện tích
vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), 11% diện tích vùng Đồng bằng
sông Hồng và 3% diện tích của các địa phương ven biển khác sẽ bị ngập
nước. Khi đó sẽ có 1012% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, tổn thất 10% GDP.
Đặc biệt, 20% diện tích TPHCM sẽ bị ngập.
Bên cạnh đó, từ năm 1987 đến nay, Việt Nam đã tham gia ký kết
nhiều công ướ c quốc tế v ề b ảo v ệ môi trườ ng và ứng phó biế n đổ i khí
hậu toàn cầu. Đây là một trong những c ơ sở pháp lý để Việt Nam thực
hiện lồng ghép các yếu tố bảo vệ môi trườ ng, ứng phó với biế n đổ i khí
hậu vào mục tiêu và chiến lượ c phát triển kinh tế xã hội. Việt Nam là
một trong 5 nước sẽ chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu
(BĐKH) và nước biển dâng. Theo tính toán của các chuyên gia nghiên cứu
BĐKH, đến năm 2100, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam có thể tăng lên
300C và mực nước biển có thể dâng 1m. Theo đó, khoảng 40 nghìn km2
đồng bằng ven biển Việt Nam sẽ bị ngập. Theo dự đoán của Chương trình
phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP), các tác động trên sẽ gây thiệt hại
khoảng 17 tỷ đồng mỗi năm và khiến khoảng 17 triệu người không có
nhà.
11
Nước biển dâng lên làm giảm diện tích rừng ngập mặn ven biển tác
động xấu đến hệ sinh thái rừng tràm và rừng trồng trên đất nhiễm phèn ở
ĐBSCL. Trong những năm gần đây, tuy rừng có tăng lên về diện tích nhưng
tỷ lệ rừng nguyên sinh vẫn chỉ khoảng 8%.
Theo nghiên cứu của ngân hàng thế giới (WB), Nước ta với bờ biến dài
và hai vùng đồng bằng lớn, khi mực nước biển dâng cao từ 0,2 0,6m sẽ có từ
100.000 đến 200.000ha đất bị ngập và làm thu hẹp diện tích đất sản xuất
nông nghiệp. Nước biển dâng lên 1m sẽ làm ngập khoảng 0,3 0,5 triệu ha
tại Đồng bắng sông Hồng (ĐBSH) và những năm lũ lớn khoảng 90% diện
tích của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bị ngập từ 4 5 tháng, vào mùa
khô khoảng trên 70% diện tích bị xâm nhập mặn với nồng độ lớn hơn 4g/l.
Ước tính Việt Nam sẽ mất đi khoảng 2 triệu ha đất trồng lúa trong tổng số 4
triệu ha hiện nay, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực Quốc gia và
ảnh hưởng đến hàng chục triệu người dân.
2.2.2. Nguyên nhân ảnh hưởng lớn của biến đổi khí hậu bởi hai nguyên
nhân:
Thứ nhất: Việt Nam là quốc gia có đường bờ biển dài với hai đồng
bằng châu thổ lớn là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long.
Việc nước biển dâng cao, bão, lũ lụt, hạn hán hay xói lở bờ biển và xâm nhập
mặn là thảm họa nghiêm trọng đối với con người và phát triển kinh tế. Việt
Nam có đa dạng sinh học (ĐDSH) cao, các hệ sinh thái (HST) phong phú. Tuy
nhiên trong thời gian qua, do những nguyên nhân khác nhau mà ĐDSH và các
HST. Đặc biệt là các HST rừng có (ĐDSH) cao bị suy thoái trầm trọng.
Thứ hai: Nước ta là một nước có thu nhập ở mức trung bình thấp với
hơn 60% dân số sinh sống ở khu vực nông thôn và sinh kế chủ yếu dựa vào
môi trường thiên nhiên. Hậu quả của thiên tai sẽ làm thay đổi sinh kế và đời
sống của hàng triệu hộ gia đình nông dân, đặc biệt là các hộ nghèo. Người
nghèo có thể sẽ trở thành người nghèo cùng cực và những người đang ở
ngưỡng nghèo hay vừa thoát nghèo sẽ lại trở thành những người nghèo nếu
họ phải đối mặt với những rủi ro do thiên nhiên gây ra. Các tác động của biến
đổi khí hậu có nguy cơ làm phá vỡ các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội,
ảnh hưởng lớn đến mục tiêu phát triển của đất nước, đặc biệt trong công tác
12
xóa đói giảm nghèo, phổ cập giáo dục, bình đẳng giới và chăm sóc sức khỏe
cho người dân...
III. CÁC GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ
HẬU Ở VIỆT NAM
Việt Nam là nước đang phát triển, phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính
ở mức độ còn thấp nhưng lại phải hứng chịu nhiều tác động của BĐKH.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (2007), Việt Nam là một trong số các
nước sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng của BĐKH và nước biển dâng, trong đó
vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long bị ngập chìm nhiều
nhất. Nếu mực nước biển dâng 1m sẽ có 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp,
tổn thất khoảng 10% GDP, nếu nước biển dâng 3m sẽ có khoảng 25% dân số
bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất khoảng 25% GDP.
Để ứng phó, Chính phủ Việt Nam đã và đang tiến hành nhiều hoạt
động như xây dựng thể chế, xây dựng Chương trình, Mục tiêu quốc gia, giao
nhiệm vụ điều phối các hoạt động ứng phó với BĐKH cho các Bộ, Ngành.
Đồng thời Việt Nam mở rộng nhiều kênh thông tin về BĐKH trong cộng
đồng và phối hợp, hợp tác với các tổ chức quốc tế, nhà tài trợ trên nhiều lĩnh
vực về BĐKH. Nhà nước và nhiều địa phương đã phối hợp với các nhà tài trợ
tạo lập được cơ chế khuyến khích sử dụng và phát triển năng lượng tái tạo
như: năng lượng khí sinh học (biogas, phế thải trong nông nghiệp ở nông
thôn); năng lượng mặt trời (thiết bị đun nước nóng, chiếu sáng bằng pin mặt
trời), khí gas (bãi rác đô thị); năng lượng gió (phát điện, bơm nước vào ruộng
muối ở vùng ven biển, hải đảo); thủy điện, đặc biệt là thủy điện nhỏ và cực
nhỏ với công suất lắp đặt lên tới hàng nghìn MW (phát điện ở vùng sâu, vùng
xa hoặc phối hợp điều tiết, cấp nước, tưới tiêu), ... Đặc biệt một dự án thí
điểm xây dựng chi trả hấp thụ carbon trong lâm nghiệp đã được triển khai ở
huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, nhằm chuẩn bị cho việc tham gia thị trường
carbon của Việt Nam. Để ứng phó với BĐKH, Chính phủ Việt Nam còn triển
khai các dự án về sản xuất điện năng không thải CO2. Đó là dự án xây dựng
nhà máy điện hạt nhân đầu tiên ở Việt Nam sẽ được khởi công vào năm 2015
ở Ninh Thuận. Đây là những bước ứng dụng công nghệ năng lượng mới phù
hợp với điều kiện của Việt Nam mà không ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế
trong dài hạn, không gia tăng lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính.
13
Tuy nhiên, đây mới chỉ là những hoạt động mở đầu, chúng ta còn phải
thực hiện ngay những hành động cụ thể như quy hoạch và tiến hành nâng cấp
hệ thống đê biển, đê cửa sông bảo đảm chống được mức nước triều tần suất
5% ứng với gió bão cấp 9 (năm 2015) và cấp 10 (năm 2020) đối với các tỉnh
từ Quảng Ninh đến Quảng Nam. Từng bước thực hiện bốn nhân tố chính là
vấn đề buôn bán lượng khí thải, hợp tác kỹ thuật, giảm phá rừng, ứng phó
với BĐKH nhằm đạt được những mục tiêu dài hạn để góp phần vào mục tiêu
chung của toàn cầu. Dù còn nhiều thách thức nhưng đến nay những chương
trình, kế hoạch đã được triển khai, nhất là công tác thông tin, truyền thông
nâng cao nhận thức cộng đồng và đã tạo được nhiều giống cây trồng mới
thích nghi với sự BĐKH. Cùng với sự quan tâm và hợp tác của các tổ chức
quốc tế, các Quốc gia trong khu vực và thế giới, Việt Nam sẽ ứng phó và
thích ứng thành công với BĐKH, hạn chế thiên tai, phát triển bền vững.
Các nhà khoa học cho biết: Tạm tính với diện tích 1.000.000 ha nếu chỉ
50% diện tích có rừng cây thân gỗ thì mỗi năm rừng ở dãy Trường Sơn giữ
được 22 25 triệu tấn CO2, góp phần đáng kể vào giảm hiệu ứng nóng lên
toàn cầu mà không cần đầu tư gì ngoài bảo vệ rừng. Bảo tồn đa dạng sinh
học, đặc biệt là đảm bảo an ninh môi trường sẽ là một chiến lược thích ứng
lợi hại của Việt Nam nói chung và Tây Nguyên nói riêng trước thảm họa
BĐKH. Bởi rừng có vai trò không thể thay thế trước đe dọa của BĐKH. Rừng
làm chậm các tác động tiêu cực do BĐKH tạo ra. Nguồn dược liệu, dự trữ
gen và thiên địch có ở trong rừng có khả năng giảm nhẹ các bệnh dịch cho con
người, vật nuôi và cây trồng bùng phát do BĐKH.
3.1. Nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu vào chính sách phát
triển
Các chương trình đã đưa ra quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo chung cho
việc đưa các nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu vào chính sách phát triển
kinh tế xã hội cụ thể như sau:
Một là, nội dung của quản lý rủi ro thiên tai, ứng phó với biến đổi khí
hậu phải được chủ động tích hợp, gắn kết vào tất cả các bước của quá trình
xây dựng, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của ngành, địa
phương.
Hai là, lồng ghép hài hòa các nhóm giải pháp phi công trình (nhóm giải
pháp về thể chế chính sách, nhóm giải pháp về quản lý và nhóm giải pháp trợ
giúp cho quản lý) và nhóm giải pháp công trình.
14
Ba là, các giải pháp ưu tiên được lựa chọn phải đồng bộ, thiết thực,
hiệu quả, phù hợp với loại hình và đặc điểm của mỗi loại thiên tai cũng như
mức độ ảnh hưởng có thể có của biến đổi khí hậu, phù hợp với điều kiện và
khả năng thực tế của từng ngành, từng địa phương.
Bốn là, thiết kế chính sách theo hướng khuyến khích tính chủ động của
các tỉnh nằm trong các vùng thường xuyên xảy ra thiên tai. Cân đối giữa chính
sách hỗ trợ của Trung ương, tỉnh và các nguồn khác. Tăng cường sự tham gia
của cộng đồng một cách toàn diện (đóng góp ý tưởng sáng tạo, đóng góp vật
chất, sức lao động)... Xây dựng hệ thống chính sách phòng chống, giảm nhẹ
thiên tai từ dưới lên có sự tham gia của các bên liên quan và đặc biệt là từ đề
xuất của các tỉnh, huyện, xã và các ngành. Các chính sách phòng chống và giảm
nhẹ thiên tai, các kế hoạch hành động phải có quan hệ chặt chẽ với chương
trình xây dựng nông thôn mới, chiến lược an sinh xã hội và các quy hoạch phát
triển của ngành.
Năm là, đảm bảo tính đồng bộ, toàn diện nhưng có ưu tiên. Đảm bảo
lồng ghép một cách đồng bộ và toàn diện các giải pháp giảm nhẹ rủi ro thiên
tai vào kế hoạch phát triển 5 năm và hằng năm của các ngành, các chương
trình, dự án và được xây dựng trên cơ sở đánh giá mức độ thiệt hại của
ngành, khả năng ứng phó của ngành và cộng đồng. Các giải pháp phải được
xếp hạng ưu tiên trước khi lồng ghép vào kế hoạch phát triển. Chú trọng cả
các hoạt động phòng ngừa, ứng cứu và hồi phục, giải pháp về tổ chức thể
chế, công trình và phi công trình, cơ chế điều phối giữa các cơ quan ban
ngành. Lấy đó làm căn cứ lồng ghép vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
của từng cấp.
Sáu là, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ kế hoạch các ngành, các
cấp về kỹ năng lập kế hoạch và kỹ năng lồng ghép giảm nhẹ rủi ro thiên tai.
Trong đó bao gồm các kỹ năng: đánh giá mức độ thiệt hại; đánh giá năng lực
ứng phó của ngành, cộng đồng; phân tích rủi ro thiên tai; lập kế hoạch…
Bảy là, thể chế hóa việc lồng ghép giảm nhẹ rủi ro thiên tai vào kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội và kế hoạch phát triển của các ngành từ
Trung ương đến địa phương.
3.2. Một số chính sách phát triển đã đưa nội dung ứng phó với
biến đổi khí hậu của Việt Nam
Trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 2020, Đảng ta chủ
trương: “phát triển kinh tế xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện
15
môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu”. Nhận thức được các
nguy cơ và thách thức của BĐKH, Việt Nam đã chủ động triển khai xây dựng
và ban hành một cách hệ thống các chủ trương, chính sách nhằm ứng phó có
hiệu quả với tác động của BĐKH. Ngày 3/6/2013 tại Hội nghị lần 7, BCH
TƯ khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 24NQ/TW về “Chủ động ứng phó
với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường” . Nghị quyết
là cơ sở cho việc thống nhất nhận thức và hành động, hoàn thiện thể chế,
chính sách, pháp luật, bố trí nguồn lực của Nhà nước về ứng phó với BĐKH,
quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, hướng tới mô hình phát triển mới
để đạt được nền kinh tế xanh, phát triển bền vững ở nước ta trong tương lai.
Để triển khai đồng bộ, Chính phủ cũng ra Nghị quyết số 08/NQCP
(23/1/2014) ban hành Chương trình hành động nhằm mục tiêu đến 2020, về
cơ bản chủ động được trong thích ứng với BĐKH, phòng tránh thiên tai, giảm
phát thải KNK; phải đạt được những chuyển biến cơ bản trong khai thác, sử
dụng tài nguyên theo hướng hợp lý, hiệu quả và bền vững… hướng tới nền
kinh tế xanh, thân thiện với môi trường. Thủ tướng cũng ký Quyết định ban
hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì
sự phát triển bền vững ngày 10/5/2017. Đó là kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài
hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi
trường, chủ động ứng phó với BĐKH, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự
an toàn xã hội và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia.
Đặc biệt, nhận thức được nguy cơ, thách thức từ BĐKH, đòi hỏi một
tầm nhìn, định hướng chiến lược với các giải pháp toàn diện, đồng bộ, huy
động tối đa các nguồn lực để ứng phó với BĐKH và phát triển bền vững
ĐBSCL, ngày 17/11/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 120/NQCP
về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH. Theo dự báo của Bộ Tài
nguyên và Môi trường, nếu mực nước biển dâng thêm 1m, ĐBSCL sẽ ngập
chìm từ 1938%, riêng Bến Tre sẽ ngập tới 50,1% diện tích...Căn cứ vào các
chủ trương, chính sách ứng phó với BĐKH đã đề ra, thời gian qua, các cơ
quan trung ương và địa phương đã hành động tích cực nhằm hiện thực hóa
chủ trương, chính sách thành các giải pháp ứng phó với BĐKH như:
+ Tuyên truyền, phổ biến, tạo sự chuyển biến về nhận thức, nâng cao ý
thức ứng phó với BĐKH: theo nguyên tắc “toàn diện, tích cực và hiệu quả”:
lồng ghép các thông điệp chính và các thông tin phù hợp liên quan đến biến
16
đổi khí hậu vào kế hoạch bài giảng phòng ngừa thảm hoạ dành cho cấp xã,
đồng thời qua đó giới thiệu hậu quả của BĐKH có tác động trực tiếp đến
toàn bộ hành tinh của chúng ta.
+ Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước, phát triển nguồn nhân lực về
ứng phó với BĐKH
+ Tăng cường nỗ lực để giảm thiểu hiện tượng khí thải gây hiệu ứng
nhà kính: bằng cách đưa ra chiến lược thiết thực giảm carbon. Định giá cho
phát thải carbon. Chuyển nhu cầu sang các nguồn năng lượng carbon thấp.
+ Xây dưng các công cụ pháp lý. Hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp
luật, Đổi mới, hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực thi chính sách, phát luật về
ứng phó với BĐKH;
+ Phục hồi của các hệ sinh thái, trồng rừng, bảo tồn các hệ sinh thái
động thực vật, Thích nghi với biến đổi khí hậu
+ Phát triển kinh tế xã hội dựa trên các nguyên tắc bền vững.
+ Phát huy vai trò của khoa học và công nghệ trong ứng phó với BĐKH:
Đẩy mạnh hợp tác, hội nhập quốc tế và mở rộng đối tác chiến lược về ứng
phó với BĐKH như đẩy mạnh tham gia các điều ước quốc tế, thỏa thuận
song phương, đa phương về BĐKH, chủ động xây dựng các thỏa thuận, hiệp
định đa phương và song phương, tăng cường vai trò của Việt Nam tại các
diễn đàn quốc tế về BĐKH cũng như chủ động hợp tác với các quốc gia phát
triển về BĐKH như Hà Lan để xây dựng Kế hoạch châu thổ ĐBSCL...
+ Tăng cường huy động nguồn lực tài chính cho ứng phó với BĐKH
như tăng đầu tư và chi thường xuyên từ ngân sách Nhà nước cho công tác ứng
phó BĐKH, khai thác hiệu quả nguồn hỗ trợ phát triển chính thức…
+ Triển khai rất nhiều mô hình nhà đa năng tránh bão, lũ; kè, kênh thủy
lợi kết hợp đường giao thông nông thôn; xử lý nước mặn thành nước ngọt;
trồng rừng ngập mặn ven biển, trồng rừng và bảo vệ rừng phòng hộ đầu
nguồn, xây dựng hệ thống cảnh báo thiên tai… kết hợp giải pháp sinh kế cho
người dân.
+ Để bảo vệ môi trường, giảm thiểu thiệt hại do biến đổi khí hậu gây
ra, trong quá trình hoạch định chính sách, từng ngành, từng địa phương cần
tiếp tục lồng ghép nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu vào từng mục tiêu
phát triển, quy hoạch, kế hoạch, chương trình theo những định hướng
17
3.3. Xây dựng và triển khai nhóm giải pháp ứng phó biến đổi khí
hậu tại Việt Nam hiện nay cụ thể như sau:
3.3.1. Nhóm giải pháp về chiến lược, chính sách gồm: xây dựng, bổ
sung, sửa đổi các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức quản lý, tổ
chức thực hiện Công ước về Biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto và Cơ
chế Phát triển sạch (CDM). Biến đổi khí hậu được coi là vấn đề vừa có tính
trước mắt, vừa có tính lâu dài, phức tạp và liên quan đến tất cả các ngành,
trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Vì thế, việc xây dựng các chương trình
quốc gia và công tác chỉ đạo thực hiện cần được nghiên cứu ở tất cả các cấp
độ: các vùng, các lĩnh vực và trong tất cả các ngành, quan trọng nhất là năng
lượng, giao thông, công nghiệp, nông lâm nghiệp, thủy sản, du lịch, tài nguyên
và môi trường; ở tất cả các địa phương liên quan, nhất là các vùng đồng bằng
ven biển. Quản lý tổng hợp vùng ven biển được coi là giải pháp thích ứng phù
hợp để đối phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao.
Các quy hoạch về phát triển vùng ven biển, các kế hoạch di dời, tái định
cư phải được tính toán cẩn thận khi đối chiếu với mực nước biển dâng.
Trong các quy hoạch chiến lược đê biển ứng phó với nước biển dâng, các quy
hoạch nuôi trồng thuỷ hải sản cần phải xây dựng các mô hình thích ứng và
giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu tuỳ theo từng khu vực. Quản lý hiệu
quả nguồn tài nguyên nước, điều hòa, chia sẻ và cân đối nguồn nước giữa các
lưu vực, có kế hoạch phù hợp trong quản lý hoạt động của các hồ chứa nước
ở thượng lưu nhằm điều tiết dòng chảy cho vùng hạ lưu, hạn chế xâm nhập
mặn. Xây dựng và hoàn thiện các chính sách hỗ trợ cho vùng bị ảnh hưởng
nghiêm trọng, đặc biệt là đối với người nghèo.
3.3.2. Nhóm giải pháp về khoa học và công nghệ: nhằm đạt được các
kết luận khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định các quy hoạch, chiến lược
và chính sách cho sự phát triển bền vững. Thành lập các nhóm chuyên gia, các
tổ chức, viện nghiên cứu, trường đại học, trung tâm nghiên cứu liên quan để
thực hiện các nghiên cứu, dự án về biến đổi khí hậu; xây dựng các kịch bản
biến đổi khí hậu tại Việt Nam; xây dựng, đánh giá các phương án giảm nhẹ
phát thải khí nhà kính và đề xuất các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu.
Đầu tư cho các chương trình nghiên cứu và đánh giá tính tổn thương của các
hệ sinh thái các vùng ven biển; xây dựng các kịch bản nước biển dâng cho
18
Việt Nam cho giai đoạn 2010 – 2020 kết nối với các chương trình quốc tế và
tiếp nhận sự trợ giúp quốc tế. Hợp tác về chuyển giao công nghệ… Khai thác
và ứng dụng công nghệ mới trong các lĩnh vực liên quan đến biến đổi khí hậu
và phát triển bền vững. Quy hoạch lại đất đai, tài nguyên nước, xây dựng kết
cấu hạ tầng tại các vùng nhạy cảm, dễ bị ảnh hưởng. Nghiên cứu và tìm ra
các giống cây trồng trong nông nghiệp thích ứng với môi trường.
3.3.3. Nhóm giải pháp về tài chính nhằm tạo quỹ phục vụ cho các
biện pháp làm sạch môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu: Có cơ chế
để tăng nguồn lực tài chính trong nước và mở rộng khả năng tiếp cận những
nguồn tài chính khác, hỗ trợ cho việc triển khai các hoạt động bảo vệ môi
trường như: Chương trình Tín dụng Xanh do các ngân hàng nước ngoài tại
Việt Nam cung cấp, Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam, Quỹ Tín dụng Xanh
do Chính phủ Thuỵ Sĩ tài trợ, Quỹ DANIDA của Chính phủ Đan Mạch, Chính
phủ Hà Lan, Quỹ Môi trường toàn cầu Ngân hàng Thế giới. Ngoài ra, còn các
chương trình, dự án hợp tác quốc tế huy động từ nguồn phi chính phủ và tư
nhân. Cần đa dạng hóa các hình thức cho vay, hỗ trợ vốn, cho vay với lãi suất
ưu đãi, tài trợ hoặc cho vay có hoàn trả; thế chấp tài sản để thực hiện các
chương trình, đề án, dự án thử nghiệm, nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực
nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên, xóa đói giảm nghèo…
3.3.4. : Nhóm giải pháp nâng cao năng lực thông tin và truyền thông:
Đây được coi là giải pháp quan trọng để nâng cao nhận thức của cộng đồng
về biến đổi khí hậu ở Việt Nam để có cách thích ứng. Cần đẩy mạnh truyền
thông để người dân nhận thức được biến đổi khí hậu là vấn đề hiện hữu, là
mối đe dọa trực tiếp đến sức khỏe và cuộc sống của con người. Qua đó, góp
phần thay đổi hành vi của họ với môi trường như tiết kiệm và sử dụng hiệu
quả năng lượng và tài nguyên nước, bảo vệ rừng ngập mặn, trồng và bảo vệ
các loại rừng phòng hộ ven biển…
Cùng với đó là hoạt động đào tạo và nâng cao năng lực cho các nhà quản
lý, các nhà hoạch định chính sách và ra quyết định ở các cấp, địa phương.
Củng cố năng lực để xây dựng và thực hiện các chiến lược thích ứng cho
cộng đồng thông qua phòng chống thiên tai, lồng ghép với phòng và giảm
thiểu rủi ro, thiệt hại vào các kế hoạch phát triển ở địa phương.
19
Coi trọng việc tạo ra những thay đổi trong lối sống và hành vi. Xây dựng
một kênh truyền thông riêng nhằm cung cấp thông tin đầy đủ nhất về các vấn
đề biến đổi khí hậu nghiêm trọng.
3.3.5. Nhóm giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế về ứng phó với
biến đổi khí hậu. Tăng cường hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế
trong lĩnh vực biến đổi khí hậu và cơ chế phát triển sạch để đạt được các
thỏa thuận hợp tác. Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác tài chính, công nghệ và xây
dựng năng lực trong thời kỳ hậu Kyoto, tích cực tham gia các cuộc hội thảo,
hội nghị và đàm phán quốc tế về các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu.
Qua đó yêu cầu các nước phát triển hỗ trợ tài chính và chuyển giao công nghệ
mới, thân thiện với môi trường nhằm phục vụ mục tiêu phát triển bền vững
đồng thời sẵn sàng phối hợp với các nước phát triển trong việc xây dựng và
thực hiện các dự án CDM tại Việt Nam phục vụ phát triển bền vững và giảm
phát thải khí nhà kính. Xây dựng các danh mục dự án để kêu gọi tài trợ và tiếp
nhận chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển. Hợp tác quốc tế trong
đào tạo, nâng cao năng lực thông qua đầu tư trực tiếp, tư vấn và xây dựng các
hệ thống cảnh báo sớm. Đẩy mạnh hợp tác xây dựng Chương trình hành
động thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng của Việt Nam./.
3.4. Giải pháp chiến lược giảm nhẹ biến đổi khí hậu trong các lãnh vực
3.4.1. Giải pháp giảm nhẹ, thích ứng biến đổi khí hậu trong nông nghiệp
Giảm phát thải KNK trong quản lý và cải thiện kỹ thuật nông nghiệp
nhằm cải tiến quản lý tưới tiêu lúa nước, chế độ bón phân các loại, chăn nuôi gia
súc. Bồi dưỡng đất hữu cơ bị mất dinh dưỡng. Bồi hoàn và phục dưỡng đất thoái
hóa các loại.
Giải pháp sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học nhằm Phân tích các
quan hệ giữa BĐKH và an ninh lương thực. Quy hoạch cây trồng và mùa vụ
sản xuất nhiên liệu sinh học. Quy hoạch vùng chế biến nhiên liệu sinh học.
Đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật.
Điều chỉnh cơ cấu cây trồng và thời vụ phù hợp với hoàn cảnh BĐKH
Đa dạng hóa hoạt động xen canh, luân canh
Cải thiện hiệu quả tưới tiêu nông nghiệp
Tổ chức cảnh báo lũ lụt, hạn hán
20
3.4.2. Giải pháp giảm nhẹ, thích ứng biến đổi khí hậu trong thủy sản
Thích ứng với BĐKH trên đới bờ biển và trong nghề cá biển
Thích ứng với BĐKH trong lĩnh vực kinh tế thủy sản
Thích ứng với BĐKH trong nghề cá nước ngọt và nước lợ
3.4.3. Giải pháp giảm nhẹ, thích ứng biến đổi khí hậu trong lâm nghiệp
Hạn chế khai phá rừng, trồng rừng và tái tạo rừng
Phòng chống cháy rừng có hiệu quả
Tăng cường trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, bảo vệ và
phát triển rừng ngập mặn
Bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng tự nhiên
Tổ chức phòng chống cháy rừng có hiệu quả
Nâng cao hiệu suất sử dụng gỗ và kiềm chế sử dụng nguyên liệu gỗ
Bảo vệ giống cây trồng quý hiếm, lựa chọn và nhân giống cây trồng
thích hợp với từng địa phương
3.4.4. Giải pháp giảm nhẹ, thích ứng với biến đổi khí hậu trong năng
lượng, công nghiệp, giao thông vận tải, du lịch
Điều chỉnh kế hoạch phát triển phù hợp với tình hình biến đổi khí hậu
Nâng cấp và cải tạo các công trình năng lượng, công nghiệp và giao
thông vận tải trên các địa bàn xung yếu
Điều chỉnh quy hoạch và các hoạt động du lịch biển, sinh thái và vùng
núi
Sử dụng điện tiết kiệm trong sinh hoạt đời sống của các gia đình.
Sử dụng thiết bị chiếu sáng và thiết bị điện hiệu quả hơn và tiết kiệm
ở cơ quan, công sở,… quy định sử dụng điện hợp lý hơn trong các tòa nhà ở
và tòa nhà thương mại.
Sử dụng nồi hơi, động cơ, lò nung sử dụng năng lượng hiệu quả hơn,
cải tiến hoạt động quản lý năng lượng, thực hiện kiểm toán năng lượng trong
hoạt động công nghiệp.
21
Thu hồi nhiệt dư, chuyển đổi nhiên liệu, tái chế và thay thế nguyên liệu
trong các ngành sử dụng nhiều năng lượng (sắt, thép, xi măng, giấy, hóa chất,
…).
Sử dụng phương tiện có hiệu quả nhiên liệu cao hơn, chuyển đổi sử
dụng nhiên liệu sạch hơn trong ngành giao thông, sử dụng động cơ điện trong
giao thông đường bộ,…
Từng bước chuyển đổi phương thức đi lại, từ đường bộ sang đường sắt,
từ phương tiện cá nhân sang công cộng,…
Quy hoạch giao thông, chiếu sáng công cộng hợp lý hơn.
22
PHẦN III: KẾT LUẬN
Biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu, là thách thức nghiêm trọng đối với
toàn nhân loại trong thế kỷ 21. Ứng phó với biến đổi khí hậu phải được đặt
trong mối quan hệ toàn cầu; không chỉ là thách thức mà còn tạo cơ hội thúc
đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển bền vững. Phải
tiến hành đồng thời thích ứng và giảm nhẹ, trong đó thích ứng với biến đổi
khí hậu, chủ động phòng, tránh thiên tai là trọng tâm. Chủ động ứng phó với
biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường phải trên cơ
sở phương thức quản lý tổng hợp và thống nhất, liên ngành, liên vùng. Vừa đáp ứng
yêu cầu trước mắt, vừa bảo đảm lợi ích lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản.
Vừa bảo đảm toàn diện, vừa phải có trọng tâm, trọng điểm; có bước đi phù hợp
trong từng giai đoạn; dựa vào nội lực là chính, đồng thời phát huy hiệu quả nguồn
lực hỗ trợ và kinh nghiệm quốc tế.
Theo nghiên cứu của các chuyên gia cho đến nay thì Trái Đất là hành
tinh duy nhất trong hệ Mặt Trời có hiện diện sự sống. Thiên nhiên đã ban
tặng cho con người những ngọn núi hùng vĩ, những dòng sông êm ả và những
cánh rừng bát ngát, một hệ động thực vật vô cùng phong phú và đa dạng phải
trải qua một quá trình tiến hóa lâu dài…tất cả tạo nên một hành tinh xanh.
Thế nhưng do sự khai thác sử dụng quá mức những món quà mà thiên nhiên
ban tặng, cùng với sự phát triển và tham vọng của loài người, một loạt những
hiện tượng thiên tai xảy ra như mưa axit, bão lũ, nạn hồng thủy, cháy rừng,
hạn hán….mà chúng ta gọi đó là “ ảnh hưởng của biến đổi khí hậu”. Con
người tác động tiêu cực vào thiên nhiên một cách từ từ, thiên nhiên ghi nhận
và đã đến lúc thiên nhiên đáp trả. Ngôi nhà chung c ủa mọi loài sinh vật đang
bị đe dọa mà trách nhiệm phục hồi nó thuộc về con người chúng ta. Những nỗ
lực ngăn chặn các khí thải nhà kính, hạn chế khai thác các nguồn tài nguyên
không tái tạo được, sử dụng những nhiên liệu không gây ô nhiễm môi trường,
các nước tham gia Hội nghị, cùng bàn bạc về vấn đề biến đổi khí hậu đã cho
thấy phần nào sự quyết tâm của chúng ta trong việc khắc phục hậu quả. Song
bên cạnh đó, đây không chỉ là vấn đề của những nhà lãnh đạo cấp cao mà
23
ngay đến một công dân bình thường cũng có thể góp phần vào việc bảo vệ
Trái Đất, bảo vệ ngôi nhà chung bằng những hành động đơn giản dễ làm như
tiết kiệm điện, tham gia trồng cây xanh, tự tìm hiểu và nâng cao nhận thức
của mình trong thời đại “Biến đổi khí hậu toàn cầu”
Tài Liệu Tham Khảo
Môi trường khí quyển
Tạp chí cộng sản
Tài liệu của viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Môi trường
24