Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Luận án Thạc sĩ Khoa học ngữ văn: Chủ nghĩa nhân đạo trong văn xuôi nghệ thuật của Nguyên Hồng trước cách mạng tháng tám

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (858.62 KB, 67 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
------------

CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO
TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 5. 04. 33

NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN ĐÌNH PHÙNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN HỮU TUẤN

TP. Hồ Chí Minh - 2000


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
------------

CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO
TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 5. 04. 33

NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN ĐÌNH PHÙNG


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN HỮU TUẤN

TP. Hồ Chí Minh - 2000


LỜI CẢM TẠ
Tôi xin chân thành cảm tạ và tri ân sự nhiệt tình giúp , đỡ của Ban Giám Hiệu Trường
Đại Học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Khoa Học Công Nghệ - Sau Đại Học, tập
thể Thầy, Cô Khoa Ngữ Văn, cùng tất cả các bạn đồng học, đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn tất
luận án.
Tôi xin đặc biệt tỏ lòng kính trọng Giáo Sư Trần Hữu Tả - một người thầy gương mẫu
đã tận tụy hướng dẫn cho tôi trong quá trình nghiên cứu - học tập và hoàn thành luận án.
Tuy chỉ được nghiên cứu trong thời gian ngắn, nhưng với nỗ lực của bản thân cùng sự
giúp đỡ tận tình của quý Thầy Cô và các bạn, tôi đã tiếp thu được một số kiến thức vô Cùng
quý báu.
Vấn đề của đề tài, đã được một số nhà nghiên cứu bàn luận và đánh giá. Luận án đã kế
thừa và phát triển những ý kiến của người đi trước để xây dựng một hệ thống luận điểm
tương đối hoàn chỉnh về những quan điểm và nội dung
Một lần nữa xin chân thành cảm tạ. .

An Giang - Tháng 05/2000

Nguyễn Đình Phùng

3


MỤC LỤC
LỜI CẢM TẠ ...................................................................................................................... 3
MỤC LỤC ........................................................................................................................... 4

PHẨN MỞ ĐẨU.................................................................................................................. 5
1. Lý do chọn đề tài: .......................................................................................................... 5
2. Lịch sử vấn đề: .............................................................................................................. 5
3. Nhiệm vụ nghiên cứu và giới hạn đề tài: ........................................................................ 8
4. Phương pháp nghiên cứu: .............................................................................................. 8
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................................ 10
Chương 1: Chủ nghĩa nhân đạo và con đường sáng tạo nghệ thuật của Nguyên Hồng .... 10
1.1. Từ thế giới của những người khốn khổ: ................................................................ 10
1.2. Nhà văn hiện thực với chủ nghĩa nhân đạo: ........................................................... 13
1.3. Sự kế thừa và phát huy truyền thống nhân đạo chủ nghĩa của văn học dân tộc và thế
giới: ............................................................................................................................. 15
1.4. Sự gặp gỡ giữa Nguyên Hồng và lý tưởng cách mạng: .......................................... 16
Chương 2: Chủ nghĩa nhân đạo và nhân vật của Nguyên Hồng ........................................ 19
2.1. Nhân vật đau thương:............................................................................................ 19
2.2. Nhân vật thánh thiện: ............................................................................................ 22
2.2.1. Sự chống trả mãnh liệt trước tình trạng tha hoá: ............................................. 22
2.2.2. Người phụ nữ thánh thiện:.............................................................................. 25
2.2.3. Những con người có niềm tin mãnh liệt: ........................................................ 29
Chương 3: Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng trong việc thể hiện chủ nghĩa nhân
đạo .................................................................................................................................. 33
3.1. Cốt truyện, tình huống: ......................................................................................... 33
3.1.1. Cốt truyện, tình huống trữ tình: ...................................................................... 33
3.1.2. Tình huống truyện là một chuỗi bất hạnh tăng cấp: ........................................ 41
3.2. Nghệ thuật trần thuật: ........................................................................................... 43
3.2.1. Cách trần thuật giàu tình cảm chủ quan và chất trữ tình:................................. 43
3.2.2. Độc thoại nội tâm được sử dụng như là một thủ pháp nghệ thuật quan trọng: . 47
3.2.3. Lời trữ tình ngoại đề: ..................................................................................... 50
3.2.4. Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật: ................................................................ 52
3.3. Cách thức xây dựng nhân vật: ............................................................................... 59
3.3.1. Nhân vật tích cực: .......................................................................................... 59

3.3.2. Nhân vật giàu chất tự truyện: ......................................................................... 61
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................. 66

4


PHẨN MỞ ĐẨU

1. Lý do chọn đề tài:
Nguyên Hồng là một h iện tượng tiêu b iểu cho trào lưu v ăn học h iện thực ở nước ta
trước Cách mạng tháng Tám (1945). Đó là một cây bút nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện
đại mà tên tuổi và tác phẩm từ bao năm nay đã rất thân thiết và đã làm rung động bao nhiêu
thế hệ người đọc Việt Nam. Đó còn là một nhà văn mà sự nghiệp văn học và cuộc đời lao
động sáng tạo mãi mãi là một tấm gương sáng cho tất cả những người làm công tác nghệ
thuật. Bằng một giọng văn tha thiết sôi nổi tràn đầy cảm xúc cất lên từ một trái tim dạt dào
yêu thương, Nguyên Hồng đã đem lại cho người đọc niềm tin yêu con người, tin yêu cuộc
đời, tin yêu ngày mai. Đọc tác phẩm của Nguyên Hồng, người đọc thấy nổi trội lên hai đặc
điểm, không thấy ở các nhà văn hiện thực cùng thời với ông. Hai đặc điểm ấy xuất hiện ngay
từ những sáng tác đầu tay cho đến những trang viết cuối cùng của nhà văn. Đó là:
-

Một chủ nghĩa nhân đạo thống thiết hướng về những tầng lớp cùng khổ nhất, "dưới
đáy" của xã hội thành thị ngày trước.

-

Một niềm tin không bao giờ lụi tắt ở phía ánh sáng của tâm hồn con người (29,18,19).
Vì vậy, nghiên cứu về chủ nghĩa nhân đạo trong các tác phẩm của Nguyên Hồng là đề


cập đến phần cốt lõi, phần cơ bản nhất trong sáng tác của nhà văn này. Chính vì thế, chúng
tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài "Chủ nghĩa nhân đạo trong văn xuôi nghệ thuật của Nguyên
Hồng ưước Cách mạng tháng Tám". Nghiên cứu đề tài này chúng tôi muốn tìm hiểu sâu sắc
hơn, toàn diện hơn vấn đề chủ nghĩa nhân đạo đã đưa Nguyên Hồng đến với con đường sáng
tạo văn chương như thế nào, ảnh hưởng ra sao đến phong cách nghệ thuật của ông, và đặc
biệt là chủ nghĩa nhân đạo với nội dung cảm động và sâu sắc ấy đã tạo ra một thế giới nhân
vật - thế giới của những con người cùng khổ trong đếm trường tăm tối của xã hội thực dân phong kiến.
Ngoài ra, khi nghiên ứu
c đ ề tài này, chúng tôi có đ iều kiện đ ể giảng d ạy tố t hơn tác
phẩm của ông trong chương trình phổ thông.

2. Lịch sử vấn đề:
Quá trình sáng tác ủc a Ng uyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám ch ỉ có chín năm
(1936 - 1945) nhưng đã để lại cho nền văn học dân tộc một di sản đầy đặn, trong đó có nhiều
tác phẩm bền vững với thời gian.
5


Từ trước đến nay, có nhiều bài phê bình nghiên cứu về Nguyên Hồng và tác phẩm của
ông. Những người viết đã nhìn nhận và đánh giá con người và sự nghiệp Nguyên Hồng từ
nhiều góc độ: Cuộc đời, tác phẩm, thế giới quan, phương pháp sáng tác, thể loại, phong cách,
những kỷ niệm riêng của người viết với nhà văn.. Có thể nói ở bất cứ góc độ nào các bài viết
đều đề cập đến tư tưởng nhân đạo của Nguyên Hồng.
Trước Cách mạng tháng Tám, nhà phê bình văn học, Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: "Bỉ
Vỏ của Nguyên Hồng là một quyển tiểu thuyết chứa chan nhân đạo, nó làm ta thương xót đến
cả những kẻ đầy tội lỗi... " "Đọc tập truyện ngắn Bảy Hựu tôi phải nhớ ngay đến những nhân
vật trong Bỉ vỏ , đến hạng người sống âm thầm, lẩn lút trong xã hội, mà người đời thường coi
là hạng táng tận lương tâm" (30, 63).
Vũ Ngọc Phan cũng đã khẳng định lòng yêu nhân loại và sự "thiết tha đến những người
bị xã hội ruồng bỏ" của Nguyên Hồng.

Nhà văn Thạch Lam, bằng cảm nhận tinh tế đã tìm thấy trong hồi ký Những Ngày Thơ
Ấu "sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại". Qua những trang viết của Nguyên
Hồng, ông thấy tình yêu tha thiết của con người.
Từ sau năm 1954 và nhất là từ ngày Nguyên Hồng qua đời (2/5/1982) cho đến nay
người ta thấy xuất hiện một loạt bài viết của các nhà phê bình, nghiên cứu văn học, nhà văn,
nhà thơ về Nguyên Hồng như: Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ, Nguyễn Hoành Khung,
Nguyễn Đức Đàn, Chu Nga, Nguyễn Tuân, Kim Lân, Như Phong, Lê Lựu, Nguyễn Minh
Châu, Huy Cận. Vũ Tú Nam..
Những bài nghiên cứu có giá trị và gây tiếng vang là các bài của các nhà nghiên cứu
Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ, Nguyễn Đức Đàn, Chu Nga, của các nhà văn như Nguyễn
Minh Châu, Như Phong..
Nguyễn Đức Đàn trong " Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam" (NXB
KHXH Hà Nội 1968) đã nhận xét Nguyên Hồng "có cái nhìn đồng cảm của các nhân vật bị
tha hóa. Sáng tác của Nguyên Hồng thể hiện lý tưởng cách mạng và tinh thần lạc quan cách
mạng, nhà văn gần gũi với cách mạng và đó chính là đóng góp lớn nhất của ông cho dòng
văn học hiện thực phê phán".
Chu Nga trong hai bài vi
ết "Đọc lại một số tác p hẩm củ a Ng uyên Hồng ( TCVH số
6/1971) và "Nguyên Hồng và quá trình sáng tác củ a anh" (Tác giả văn xuôi Việt Nam hiện
đại - NXB KHXH, Hà Nội 1977) đặc biệt chú ý đến vai trò mà bà cho là quyết định của tư
tưởng ch ín h trị đ ối v ới giá trị củ a tác phẩm củ a n hà văn. Ch ia tác phẩm chủ yếu theo nội

6


dung chính trị, xã hội, Chu Nga đã đánh giá c ác tác phẩm như Hơi Thở Tàn , Cuộc Sống ,
Miếng Bánh .. là nhạt nhẽo. Nhưng ý kiến đó chưa thật thỏa đáng.
Đọc bài viết "Vô cùng thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng" của Nguyễn Minh Châu thì
thấy ông có sự nhận xét và đánh giá sâu sắc, rõ ràng hơn khi ông so sánh quan điểm nghệ
thuật của Nguyên Hồng với quan điểm của Tự lực văn đoàn và một số cây bút tư sản, tiểu tư

sản cùng thời. Theo Nguyễn Minh Châu, Nguyên Hồng "không nghiêng xuống những người
nghèo khổ mà thương hại hoặc tô vẽ cho cuộc sống lao động cực nhọc một vẻ dịu dàng, nên
thơ, mà ông đã mô tả cho đến đã đời, cho đến mức thỏa thuê những nỗi cực khổ vô cùng vô
tận của những tầng lớp người "dưới đáy" đặc biệt là những kiếp người bị xã hội thực dân,
phong kiến giày đạp tàn nhẫn và đẩy đến bước đường cùng". (30,192).
Năm 1984, ưong Từ điển Văn học, ở mục từ Nguyên Hồng, nhà nghiên cứu Nguyễn
Hoành Khung đã khẳng định vị trí đầy vinh dự của Nguyên Hồng trong nền văn học nước
nhà. Ông đặc biệt lưu ý đến phong cách và bút pháp "chân thực giản dị và thấm đượm trữ
tình" của Nguyên Hồng.
Phan Cự Đệ trong giáo trình văn học Việt Nam 1900 - 1945 (NXB GD„ Hà Nội 1998 )
và lời giới th iệu Tuyển tập Ng uyên Hồng , Tập I, NXB VH, Hà Nội 1997 đã cho rằng chủ
nghĩa nhân đạo trong sáng tác của Nguyên Hồng kết hợp được truyền thống dân tộc và hiện
đại. Đó là "chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc" "chủ nghĩa nhân đạo thức tỉnh", "chủ nghĩa nhân đạo
lạc quan". Ông còn nhận xét, nhà văn Nguyên Hồng có phong cách "trữ tình lãng mạn", "trữ
tình sôi nổi".
Phan Cự Đệ cũng chỉ ra những hạn chế của tác phẩm Nguyên Hồng: "Do lối viết miêu
tả quá rườm rà chi tiết về ngoại cảnh, do một số nhân vật bị cường điệu hóa về tình cảm hoặc
bị chìm đi trong những hồi ức lãng mạn về quá khứ nên đọc những trang viết Nguyên Hồng
"...người ta có cảm giác nặng nề" và "không phải lúc nào Nguyên Hồng cũng viết bằng một
bút pháp hiện thực tỉnh táo và nói chung, ít khi anh sử dụng một lối viết nghiêng về trí tuệ. ở
anh, những yếu tố nội tâm, những tình cảm sôi nổi, dạt dào từ bên trong đôi lúc cứ muốn lấn
lướt, trùm lên cái hiện thực khách quan được miêu tả" (9,34)
Nguyễn Đăng Mạnh đã có những nhận định chính xác sâu sắc và tổng quát hơn cả về
tác giả Nguyên Hồng. ông nhận định toàn bộ sáng tác của Nguyên Hồng "thấm đượm một
tinh thần nhân đạo chủ nghĩa thiết tha" và Nguyên Hồng là "nhà văn của những người cùng
khổ" (30.38). Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng "nhiều nhân vật của Nguyên Hồng in đậm vào
cảm quan người đọc như những con người có tầm vóc thật lớn, không phải nhờ vào những tư
tưởng vĩ đại, nhờ những sự nghiệp, những chiến công phi thường, mà vì mang trái tim lớn có
sức hứng chịu những khổ đau chồng chất, những bất hạnh dồn dập" (29,21). Ông cũng nhận
7



thấy phong cách của Nguyên Hồng mang đậm màu sắc trữ tình và cảm hứng lãng mạn." Văn
của Nguyên Hồng bao giờ cũng đầy cảm xúc, đầy chất thơ. Ngòi bút ấy đã chế tạo cho mình
một chất thơ độc đáo, không phải từ mây gió trăng hoa, mà luyện bằng than bụi những nhà
máy, những bến tàu, bằng sỏi đá những đồi khô cỏ cháy, hòa với mồ hôi mặn chát và nóng
bỏng của những người lao động"( 30,38 ). Chất thơ trong văn xuôi là nét đặc sắc mà Nguyễn
Đăng Mạnh đã phát hiện ra trong tác phẩm của Nguyên Hồng.
Về cách xây dựng tình huống, tình tiết trong các tác phẩm của Nguyên Hồng, Nguyễn
Đăng Mạnh đánh giá: "Nguyên Hồng có thiên hướng xây d ựng [(...)] những tình huống dữ
dội (..) phù hợp với giọng văn thống thiết của tâm hồn nồng nhiệt giải bày trực tiếp trên trang
sách (30,42) Và truyện của Nguyên Hồng:" ...có sự đối lập dữ dội giữa ánh sáng và bóng tối,
giữa bão táp và nắng vàng, giữa quỉ dữ và thiên thần, giữa địa ngục và lò lửa" (30,44)
Nhìn lại toàn bộ các bài nghiên cứu về Nguyên Hồng, đặc biệt chung quanh vấn đề chủ
nghĩa nhân đạo ta thấy còn thiếu một công trình tập trung giải quyết sâu sắc và có hệ thống.
Tuy nhiên, những bài viết ch ung về con người và sự nghiệp của Nguyên Hồng thì khá phong
phú. Những bài viết này thường có cái nhìn tổng hợp, bao quát về Nguyên Hồng, trong đó có
nhiều ý kiến sâu sắc về tư tưởng chủ đạo, về thế giới nghệ thuật, về cá tính và phong cách
nghệ thuật của Nguyên Hồng. Những ý kiến ấy soi sáng rất nhiều cho chúng tôi khi nghiên
cứu đề tài "Chủ nghĩa nhân đạo trong văn xuôi nghệ thuật của Nguyên Hồng trước Cách
mạng tháng Tám".

3. Nhiệm vụ nghiên cứu và giới hạn đề tài:
Mục đích chủ yếu của luận án này là nghiên cứu "Chủ nghĩa nhân đạo trong văn xuôi
nghệ thuật của Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám".
Nguyên Hồng sáng tác tương đối liền mạch cả trước và sau Cách mạng tháng Tám.
Song trong luận án này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu những sáng tác của Nguyên Hồng
trước cách mạng mà thôi.

4. Phương pháp nghiên cứu:

 Phương pháp hệ thống
Sáng tác của mỗi nhà văn là một chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn, là một hệ thống chịu sự
quy định của tư tưởng và phong cách nghệ thuật của tác giả. Muốn tìm ra những nét đặc sắc,
những sáng tạo nghệ thuật có giá trị và nổi trội của nhà văn, tất nhiên phải bao quát toàn bộ
thế giới nghệ thuật của nhà văn ấy như là một hệ thống.

8


 Phương pháp phân tích – So sánh
Khi phân tích các tác phẩm của Nguyên Hồng, chúng tôi cố gắng so sánh Nguyên Hồng
với các sáng tác của một số tác giả cùng thời như Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao
để thấy được khía cạnh độc đáo trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyên Hồng.

 Phương pháp thống kê phân loại
Phân loại thống kê các biểu hiện cụ thể của văn xuôi nghệ thuật của Nguyên Hồng
trước cách mạng, luận án có thể cung cấp những cứ liệu xác thực giúp cho việc trình bày vấn
đề trở nên rõ ràng và có sức thuyết phục hơn.
Các phương pháp trên liên quan chặt chẽ và có ý nghĩa hỗ trợ lẫn nhau, được sử dụng
phối hợp trong quá trình nghiên cứu.

9


PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: Chủ nghĩa nhân đạo và con đường sáng tạo nghệ thuật của Nguyên
Hồng
1.1. Từ thế giới của những người khốn khổ:
Nói đến Nguyên Hồng, trước hết là nói đến một trong những đại diện xuất sắc nhất của

nền vãn học hiện thực phê phán Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Người ta gọi Nguyên
Hồng là nhà văn của những người cùng khổ. Điều này hoàn toàn có cơ sở vì thế giới nhân vật
của Nguyên Hồng toàn là những người thuộc loại cùng đinh trong xã hội. Bản thân tác giả
cũng là người nghèo khổ. Mở đầu Những Ngày Thơ Ẩu, Nguyên Hồng kể lại một cách giản
dị gia cảnh nhà mình:"Thầy tôi làm cai ngục. Mẹ tôi con một nhà buôn bán rau đậu, trầu cau
lần hồi ở các chợ và trên đường sông Nam Đinh - Hải Phòng. Tuổi thầy tôi hơn ba mươi. gấp
đôi tuổi mẹ tôi" (12,193). Đứa trẻ là Nguyên Hồng, éo le thay, lại là kết quả của mối duyên
ép uổng, lớn lên trong sự xa lánh và thù ghét của họ hàng.
Mười hai tuổi, người bố chết vì bệnh lao, mẹ lại đi bước nữa, xuôi ngược kiếm sống, có
lúc phải vào Vinh ở vú cho một viên Tây đoan. Đó là một người đàn bà xinh đẹp, dịu hiền
nhưng phải sống với chồng già nghiện ngập bằng một cuộc hôn nhân gượng ép. Thương con
vô bờ bến nhưng do cảnh ngộ ngang trái nên một thời gian dài sau khi chồng mất bà không
được gần con. Có thể nói những trang viết về người mẹ của Nguyên Hồng luôn luôn làm xúc
động lòng người . Truyện ngấn Mợ Du đã nói lên tâm trạng đau đớn của người mẹ trẻ bị gia
đình nhà chồng khinh ghét xua đuổi, không cho phép tự do gần gũi con mình. Viết thiên
truyện cảm động này tác giả gián tiếp giải bày nỗi niềm xót xa của mình đối với người mẹ bất
hạnh. Còn thân phận của một đứa bé mồ côi thì nhà văn đã thuật lại trong những trang tự
truyện thâm đâm nước mắt: Những Ngày Thơ Ấu " Ngày 12-11-1931! Phải nhớ cái tát và
câu rủa sả này cho đến chết:" Hồng ơi ! Bố mày nó chết đi, nhưng còn có mẹ mày nó dạy
mày. Cầm bằng mẹ mày đánh đĩ theo giai bỏ mày lêu lổng thì đã có chúng tao".
Mẹ ơi ! con khổ quá mẹ ơi ! Sao mẹ đi lâu thế ? Mãi không về ! Người ta đánh con vì
con dám cướp lại đồ chơi của con mà người ta đã giằng lấy. Người ta lại còn chửi con, chửi
cả mẹ nữa. Mẹ xa con, mẹ có biết không ?
Ngày 20-11-1931. Giá ai cho tôi m
ột xu nhỉ ? Chỉ mội xu thôi ! Để tôi mua xôi hay
bánh khúc. Giời rét thế này, đi học một mình , vừa đi vừa cắn ngon xiết bao ! Không! Không
ai cho Tôi cả , vì người ta có phải là mẹ tôi đâu ".

10



Hoàn cảnh ấy đã xô đẩy Nguyên Hồng vào môi trường những người nghèo khổ nhất
trong xã hội, chung đ ụng với đ ủ các hạng trẻ ng hèo đ ói d u đãng : Mư ời lăm tuổi, vừa đậu
xong tiểu học đã bị đày đọa trong các nhà lao Nam Định, Hà Nội, Phúc Yên. Đoạn đời bị hà
hiếp, bị đánh đập tàn nhẫn đó nhà văn đã viết trong tập ký - tiểu thuyết Tù Trẻ Con hơn 300
trang, năm 1939 khi Nguyên Hồng đi tù, bản thảo đã bị bọn mật thám đốt mất. Họ hàng nhà
chồng khinh bỉ người mẹ " cải giá" và những người xung quanh ghê sợ đứa con trai mới dúm
tuổi mà đã trải qua hết nhà lao này đến nhà lao khác.
Để tránh mọi thành kiến hẹp hòi, gia đình Nguyên Hồng tìm ra Hải Phòng - một thành
phố công nghiệp ồn ào đông đúc - tìm kế sinh nhai. Ông nhập hẳn vào cuộc sống của người
nghèo" dưới đáy" của xã hội thành thị. Những ngày lang thang nơi bến tàu Sáu Kho, nhà máy
xi măng, sở dầu Thượng Lý, hoặc chầu chực ở cổng các nhà máy cốt phát, Máy tơ, Máy chỉ,
Máy ống, lân la ở đầu đường xó chợ để tìm việc. "Vườn hoa đưa người "là nơi nghỉ sau cả
ngày chầu chực, xin việc, sau những buổi cơm chiều không có, đèn nhà hết dầu.. Ông đau
khổ buồn bã vô cùng. Nhìn dòng người thất nghiệp trên Hà Nội xuống, ở Nam Định ra, ngoài
Hòn Gai, Cẩm Phả về tụ tập tại đấy chầu chực kiếm ăn, trong những chuyến xe chở vội
những xác chết vô thừa nhận và những đám tù giải đi xử án, Nguyên Hồng lại càng buồn
thảm.
Tuy cuộc đời buồn khổ, cơ cực như vậy, nhưng Nguyên Hồng đã yêu cuộc sống một
cách thiết tha, say đắm. Ông yêu cuộc sống bằng tất cả tâm hồn và các giác quan của mình.
Ông yêu cả những cảnh vật thiên nhiên và những hoạt động của con người. Nhà văn Như
Phong trong bài viết Người bạn từ thuở đôi mươi đã kể lại: "Biết bao lần tôi đã thấy anh đứng
sững nhìn như nhìn thấy lần đầu trong đời một đứa trẻ lẫm chẫm đi, một vạt nắng rung rinh
trên mặt nhà quét vôi trắng, một cột khói lẩn vẩn tàn lửa phụt ra từ một đầu máy xe lửa, một
góc chợ đầy ắp hoa quả mùa hạ thơm lừng. Những thuyền bè, xà lan chen chúc nhau Ưên
khúc sông Hạ Lý trong ráng chiều đỏ rực, những dòng người từ các xưởng máy, kho hàng
bến cảng tỏa ra về sau tiếng còi tan tầm, lem luốc bụi than, dầu máy và mồ hôi, mệt mỏi, bơ
phờ nhưng vẫn phải hối hả, tất bật.. Chỉ riêng có Nguyên Hồng mới tìm thấy tất cả những cái
có vẻ tầm thường của cuộc sống ấy, một chất đẹp, một chất thơ mà người khác không nhìn
thấy " (29,74,75).

Chính lòng yêu cuộc sống và yêu con người là động lực thúc giục Nguyên Hồng cầm
bút viết văn.
Như thế là sau bao nhiêu tháng ngày bị đày đọa, tù tội lại thêm cảnh đói khổ, thất
nghiệp kéo dài, Nguyên Hồng càng đau khổ, bối rối, tưởng mình sẽ chết ở tuổi mười sáu. Và
người thanh niên khao khát tha thiết thèm sống lạ thường ấy đã nghĩ rằng dù có chết đi cũng
11


phải để lại cho cõi đời mà anh yêu mến một cái gì vừa tinh khiết, vừa tha thiết yêu thương
nhất của tâm hồn.
Lúc bấy giờ, với học thức nhỏ nhoi, gia cảnh suy tàn, Nguyên Hồng nghĩ chỉ có thể có
một cách tồn tại trong cuộc sống bằng cái cao quý. trong sạch của văn chương. Như vậy là từ
thế giới những người lao động cực khổ nhất trong xã hội, Nguyên Hồng đã đến với nghề văn.
Và ông bắt đầu viết, viết cả ngày lẫn đêm, say mê sáng tác bất chấp cái đói ê ẩm thấm thía vô
cùng trong đêm mưa hoang ắng.
v Ngu yên Hồng mải mê viết trong bất kỳ hoàn cảnh nào:
"một cái bàn kê bên khung cửa trông ra vũng nước đen ngầu bọt của bãi đất lấp dỡ dang và
một chuồng lợn ngập ngụa phân tro". Ông viết giữa tiếng tranh giành đay nghiến của những
người dân nghèo và ngay cả những ngày tháng lao tù ở trại tập trung Bắc Mê, dưới ánh đèn
dầu lạc tù mù. Viết văn đối với Nguyên Hồng là nguồn vui, lẽ sống, trách nhiệm, là hiến dâng
mọi tâm huyết và sức lực cho đời.
Cho đến những năm dài sau này, khát vọng sáng tạo vẫn cứ luôn luôn thôi thúc ông một
cách mạnh mẽ đến mức nhà văn nghĩ mình có thể chết dần chết mòn nếu không cầm bút được
nữa. Có thể nói Nguyên Hồng là một tấm gương sáng về tinh thần say mê lao động nghệ
thuật. Nói như Nguyên Đăng Mạnh: "ông là chúa Cơ đốc đã hiến dâng trọn vẹn cả thể xác lẫn
linh hồn cho một sự nghiệp văn chương vì cuộc sống, vì nhân dân (30,16). Con đườngsáng
tạo nghệ thuật của Nguyên Hồng thật đáng khâm phục, ông viết say sưa, viết như " cào xuống
giấy, những dòng chữ bị cằn xuống nét chữ thật to, thật đậm, gẩy góc, có chỗ rách cả giấy, có
chỗ mực chấm đầy quá rớt xuống xanh lè. Những dòng chữ xô vào nhau, gập ghềnh lên
xuống....''( 26,19 ). Còn sống là còn viết, ông đã nợ suốt đời và suốt đời tìm cách để trang trải

những " món nợ lòng". Nhà văn Nguyễn Tuân kể lại: "Nguyên Hồng là một người kiên trì
trong công việc sáng tác, có những ngày anh không hứng thú gì lắm - nói một cách văn hoa
thì chúng tôi gọi là " đầu ngòi bút không thấy động gió" - nhưng Nguyên Hồng vẫn cặm cụi
viết tự coi mình như một người thợ của ngôn ngữ phải hàng ngày đứng máy cho đủ giờ.
Riêng tôi những lúc gặp phải khó khăn về việc phản ánh thực tế tờ giấy trắng cứ như hất
ngang ngòi bút mìnhđi, cứ lặng tờ mà khước từ bất cứ ý tình câu cú nào định ươm ướm thả
xuống - thì tôi phải nghĩ đến Nguyên Hồng, lấy cái chịu thương chịu khó ở anh ra mà tự động
viên mình" ( 11,69,70 ). Quả thật để có được một bề dày văn hóa cần thiết, cách học chủ yếu
của Nguyên Hồng là ở trường đời, ở cuộc sống. Khao khát văn hóa, cần cù học hỏi, đó cũng
là nét quan trọng của cá tính Nguyên Hồng. Vừa học vừa viết, cặm cụi đọc sách tiếng Việt đã
đành, lại vật lộn với những trang sách tiếng Pháp. Với cuốn từ điển trong tay, người thanh
niên nghèo đói m
ới q ua trìn h đ ộ tiểu học ấy đ ã đ ọc k há n h ềi u tiểu thuyết và thơ củ a : H.
Malot, V. Hugo, A. Musset, A.Daudet, C.Dickens, M.Gorki ... Hình ảnh Nguyên Hồng tự học
làm ta nhớ đến cậu bé Aliôsa thời nhỏ đọc sách giữa trăng, cố tìm ra tiếng nói giữa các dòng
12


chữ. Ông "Gorki của Việt Nam " đã bắt đầu bước đường viết văn một cách khó nhọc như
vậy đấy.

1.2. Nhà văn hiện thực với chủ nghĩa nhân đạo:
Nguyên Hồng đã xác định: "Tôi sẽ viết về những cảnh đói khổ, về những sự áp bức, về
những nỗi trái ngược bất công. Tôi sẽ đứng về những con người bị lầm than, đày đọa, bị lăng
nhục. Tôi sẽ vạch trần ra những vết thương xã hội, những việc làm bạo ngược lộng hành của
xã hội thời bấy giờ. Tôi sẽ chỉ biết có ánh sáng" (18,107). Tự nguyện làm nhà văn của những
người cùng khổ, Nguyên Hồng muốn dùng ngòi bút tát cho cạn bớt cái bể khổ của cuộc đời,
phải viết ra thành chữ tất cả những gì chứa đựns, nung nấu, quằn quại, đau xót, bay bổng và
bát ngát của tâm hồn, của suy nghĩ.
Có thể nói ngay từ buổi đầu. những vầng sáng lung linh, choáng ngợp của Thế Lữ, Lưu

Trọng Lư, V. Hugo, A. Musset.. cộng với xúc cảm thiết tha, cái hưng phấn mãnh liệt của con
người, Nguyên Hồng sẽ kéo ngòi bút của ông về phía chủ nghĩa lãng mạn nhưng cuộc đời
khổ sở, cực nhọc và nhất là tấm lòng thương yêu vô hạn đối với con người đã giúp cho ngòi
bút của ông ngày càng cắm chắc vào mảnh đất của chủ nghĩa hiện thực.
Con đường sáng tạo nghệ thuật của Nguyên Hồng là con đường của một nhà văn hiện
thực với chủ nghĩa nhân đao mãnh liệt, lạc quan. Ông bước vào nghề văn là do sự thôi thúc
của nhu cầu vô tận nói lên sâu sắc nỗi thống khổ của loài người.
Trong hàng ngũ của các nhà văn hiện thực có tài thời bấy giờ cũng có nhiều người viết
về những con người nghèo khổ, bị đày đọa, áp bức và những nỗi ngang trái của xã hội, đã
đóng góp vào nền vãn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám những tác phẩm đầy giá trị,
trong đó có cả những kiệt tác, tuy vậy ít có ngòi bút nào đề cập đến những con người ấy một
cách da diết đến mức như ngòi bút Nguyên Hồng. Nói như nhà văn Nguyễn Minh Châu:
"Nhà văn của thập loại chúng sinh ấy từ trong lòng của xã hội thập loại chúng sinh bước ra,
cầm lấy cây bút sắt chấm vào mồ hôi, nước mắt và máu của mình mà viết ra văn chương của
mình" (6,192).
Tác phẩm của Nguyên Hồng đã phơi bày cuộc sống bần cùng, lam lũ của những người
lao động nghèo khổ ở các ngõ hẻm, các vùng ngoại ô của các thành phố lớn như ô Yên Phụ,
bãi Phúc Xáở Hà Nội hay xóm cấm, xóm chùa Đông Khêỡ Hải Phòng. Họ thường sống
trong những mái nhà tồi tàn, tối tâm với những ngọn đèn leo lết, mà chỉ với một cơn mưa
chiều nước đã ngập vào tận giường ngủ. Những nơi ấy luôn luôn ồn ào bởi tiếng cãi cọ, tiếng
kêu cướp giật, tiếng cười khiêu khích.

13


Khác với Ngô Tất Tố, Nam Cao..., Nguyên Hồng không miêu tả quá trình bần cùng hóa
của người nông dân, nhưng ông thấy rất rõ số đông dân nghèo ở Hải Phòng, Hà Nội là những
người phải lìa bỏ quê hương lên đây "sau mấy năm lụt lội, đói khát dịch tả liên tiếp, họ đâu
như đã bán nốt miếng đất cuối cùng của ông cha cho bọn kỳ Lý, cho Nhà Chung để gỡ nợ, để
chạy kiện, để thoát vạ rươu, để khỏi nhìn những cảnh đau tủi, uất ức mà đi tha hương cầu

thực, thử xem ngoài những nơi chôn nhau cắt rốn của họ đời họ có thay đổi được chút nào
không ?" (Ngọn Lửa)
Đó là những cô gái quê hiền lành, ngoan đạo bị gã bán, bị đày đọa bởi các hủ tục nặng
nề đã phải bỏ làng ra thành phố để rồi lại bị lừa gạt, trở thành lưu manh gái điếm như Tám
Bính trong Bỉ vỏ, Muống trong Quán Nải.
Nỗi khổ của loài người là một đề tài vô tận của văn học nghệ thuật. Biết bao nhà văn đã
khai thác nhưng có lẽ cho đến nay cũng chưa vơi cạn đi nhiều lắm. Ngay cả nh ững nhà văn vĩ
đại cũng mới chỉ nói được phần nào. Đạo Phật gọi là bể khổ, là biển trầm luân. Xuân Diệu đã
mượn ý tưởng ấy để sáng tạo nên hình ảnh.
Trái đất ba phần tư nước mắt
Đi như giọt lệ giữa không trung
Nhà thơ Tố Hữu cũng đã viết thật hay về nổi khổ của con người.
Nước mắt của chúng sinh đã đông thành những
lầu cao lóng lánh thủy tinh
(Rome - hoàng hôn)
Nguyên Hồng cũng góp phần khai thác đề tài ấy. Ông đặc biệt đi sâu vào những cuộc
đời như vợ chồng Nhân (Đây, Bóng Tối) mà hạnh phúc dù bé nhỏ và phải "gây dựng trên
từng vũng mồ hôi, vũng máu, vũng nước mắt " (11,84).
Có thể nói trước năm 1945, Nguyên Hồng chưa có ý thức rõ rệt về sự bóc lột, đến tận
xương tủy của giai cấp thống trị, mối quan hệ chó sói giữa người với người trong xã hội vô
nghĩa lý đương thời nhưng ông đã miêu tả trung thực sự bần cùng hóa và lưu manh hóa của
người dân nghèo thành thị. Những truyện Đây Bóng Tối; Hai Mẹ Con; Hơi Thở Tàn; Người
Con gái; Vực Thẳm; Giọt Máu., cho ta thây nhà văn là chứng nhân của những cảnh đời đầy
nước mắt ấy.
Nhà văn hiện thực Nguyên Hồng không dừng lại ở hiện tượng bên ngoài mà đi vào bản
chất bên trong của sự việc giúp người đọc nhìn vào cái sâu thẳm của cuộc đời họ, do đó càng
thông cảm với những đau khổ mà họ phải chịu đựng trong xã hội cũ. Với bút pháp hiện thực.
14



nhà văn đã phản ảnh sinh động cuộc sống quằn quại trong khổ đau của người dân nghèo
thành thị nhưng bao giờ họ cũng khát khao một cuộc sống công bằng, tốt đẹp, một sự đổi đời.
Dù bị dìm dưới bùn đen nhưng họ vẫn muốn "ngoi lên ánh sáng như những mầm cây xanh"
(Ngọn Lửa)

1.3. Sự kế thừa và phát huy truyền thống nhân đạo chủ nghĩa của văn học dân
tộc và thế giới:
Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm của Nguyên Hồng đã kế tục và phát huy truyền
thống nhân đạo chủ nghĩa trong văn học dân tộc. Những cô Kiều "ba chìm bảy nổi chín lênh
đênh", những người đàn bà mà "kiếp sinh ra thế biết là tại đâu" trong "Văn chiêu hồn" của
Nguyễn Du, những Ngọc Hoa, Cúc Hoa, Nguyệt Nga dịu hiền chung thủy và cả người vợ
đảm đang, tần tảo trong thơ Tú Xương:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Lúc bấy giờ, Nguyên Hồng cũng có điều kiện tiếp xúc với những tác phẩm nhân đạo
chủ nghĩa của phương Tây như Những Người Khốn Khổ của V.Hugo, David Copperfield
của C.Dickens, Thời Thơ Âu của M.Gorki và những truyện ngắn của A.Daudet...
Đọc những tác phẩm như Bỉ vỏ, Những Ngày Thơ ấu và những truyện ngắn đặc sắc
của Nguyên Hồng ta thấy ông ít nhiều chịu ảnh hưởng các tác phẩm kể trên.
Những nhân vật như Tám Bính (Bỉ vỏ), mụ Mão (Người Mẹ Không Con), nhà sư nữ
(Nhà Sư Nữ Chùa Âm Hồn) ... đều mang trái tim nhân hậu có sức chịu đựng những khổ đau
chồng chất, những bất hạnh dồn dập. Đó là tầm vóc của những nhân vật bất hạnh của tiểu
thuyết V.Huygo, M.Gorki ... Giữa Tám Bính và Fantile (Những người khốn khổ) có một cái
gì giống nhau về số phận và phẩm chất.
Tuổi thơ bất hạnh, bị đày đọa là một đề tài văn học khá phổ biến, được vận dụng khai
thác rộng rãi sâu sắc bởi nhiều tài năng dưới nhiều phương trời khác nhau. Văn chương nhân
loại đã có những tác phẩm Ưu tú của M.Gorki, C.Dickens, H.Malot, A.Daudet ... Người đọc
hôi ký tuyệt diệu Những Ngày Thơ Ấu của Nguyên Hồng hết sức cảm động trước cuộc đời
xót xa, cay đắng của bé Hồng và cũng thấy sự tiếp thu có sáng tạo của nhà văn trước những
hình tượng độc đáo: David Copperfield trong tác phẩm cùng tên của Dickens, Aliôsa trong

Thời Thơ Ấu của M.Gorki
Trong phạm vi đề tài này, người ta thường nói đến sự gặp gỡ ở một mức độ nào đó giữa
Nguyên Hồng với Gorki. Hai nhà văn này đều xây dựng được những hình tượng rất đẹp về
15


những bà mẹ đau khổ từ trong bóng tối của cuộc đời cũ vươn lên ánh sáng, đều quan tâm sâu
sắc đến vận mệnh những em bé bị vứt ra ngoài lề của xã hội, đi kiếm ăn lang thang dọc các
thành phố lớn ... Cả hai nhà văn từ buổi thiếu niên đã từng l ăn lộn trong tầng lớp phu phen,
thợ truyền, do đó họ đã viết rất say mê về lao động. Chính nguồn suối yêu thương đó của
những người đã từng lam lũ vất vả, từng đổ mồ hôi để tạo nên cuộc sống đã tạo nên ở họ một
chủ nghĩa lạc quan đầy sức sống, một nguồn tin yêu thắm thiết ở CON NGƯỜI.
Cầm bút viết văn, Nguyên Hồng chịu ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo . Trong sáng tác
Nguyên Hồng, trở đi trở lại nhiều lần hình ảnh Chúa Giêsu chịu nạn, khi thì "vác cây thánh
giá rất nặng, khi thì đầu đội mũ gai, hai bàn tay hai nốt đinh ròng ròng máu, một bên sườn
cũng ròng ròng máu", khi thì Giêsu với vẻ mặt nhân từ khiêm nhường, tay chỉ vào ngực áo
phanh ra, nơi ấy có một trái tim máu chảy với hàng chục lưỡi gươm xuyên qua.
Như vậy là việc Giêsu, thánh thiện gánh chịu đau thương, khước từ sự cám dỗ của ma
quỷ, khổ hạnh với một tinh thần khắc kỷ nghiêm ngặt nhưng vẫn đầy tin tưởng.., có ảnh
hưởng sâu sắc đến Nguyên Hồng, khiến ông dựng nên một hành trình nhất quán của con
người với đức tin: Đau thương - sức cám dỗ ma quỷ - tinh thần khắc kỉ - niềm lạc quan tin
tưởng.
Nhân vật và con người Nguyên Hồng đều chung một hành trình như thế và bao giờ
cũng đến đích.
Đúng là trong sự tiếp thu tôn giáo, Nguyên Hồng không bị cuốn đi bởi sự mê muội, mà
luôn luôn chắt lọc lấy phần nhân văn ca o cả của nó. Đó là tinh thần tôn giáo hiểu theo nghĩa
như là đức tin tuyệt đối và hy sinh cao cả. Ông đã đến với tinh thần ấy một cách hồn nhiên
nhất, như tiếp thu truyện cổ tích khi còn nhỏ, vì sấn trong thẳm sâu con người ông, trái tim
lúc nào cũng chỉ một nhịp đập dành cho những rung cảm của con người.


1.4. Sự gặp gỡ giữa Nguyên Hồng và lý tưởng cách mạng:
Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyên Hồng vốn chứa đựng một cốt lõi lạc quan vững chắc,
được củns cố mạnh mẽ khi nhà văn tiếp nhận lý tưởng cách mạng của giai cấp vô sản.
Từ mùa thu năm 1937, ở trụ sở chi nhánh báo "Thời Thế" ở Hải Phòng, Nguyên Hồng
đã tìm gặp những tù chính trị từ Côn Đảo, Sơn La trở về, đã vui sướng tìm đọc Tuyên ngôn
cộng sản của Mác và Ănghen, vấn đề dân cày của Qua Ninh và Vân Đình, Ngục Kontum
của Lê văn Hiến và những tác phẩm của M.Gorki.
Năm 1938, Nguyên Hồng sinh hoạt ở Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương và ở
trong ban biên ật p củ a các báo "Thế Giới", "Người Mới", "Mới". Các tờ báo trên cũng đã
16


đăng những truyện ngắn: Những Giọt Sữa, Những Mầm sống, Người Đần Bà Tàu ... của
Nguyên Hồng. Các đồng chí lãnh đạo cũng rất quan tâm đến việc bồi dưỡng chủ nghĩa Mác
Lênin cho những đoàn viên thanh niên.
Trong bài viết "Vài kỷ niệm về Nguyên Hồng" nhà văn Như Phong đã kể lại " Đầu tiên
anh Phan Bôi (tức là Hoàng Hữu Nam sau này) đưa cho tôi và Nguyên Hồng tập tuyển Mác
và Ănghen: "Về văn học nghệ thuật" và thỉnh thoảng chỉ dẫn thêm cho cách nghiên cứu. Rồi
đến lớp huấn luyện của anh Võ Nguyên Giáp mở đều đặn ở ngay nhà anh ở phố Ngõ Trạm.
Rồi đến những cuộc nói chuyện của anh Trường Chinh với chúng tôi, có thể coi là những
buổi huấn luyện sinh động và phong phú ở ngoài trời, trong những buổi đi tản bộ trên con
đường Phùng Hưng, trước cửa tòa soạn báo "Tin tức" . Anh Trường Chinh biết chúng tôi đã
có hoạt động văn học nên nói nhiều với chúng tôi về những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về văn hóa, văn nghệ và vận dụng những quan điểm ấy để đánh giá, nhận xét và phê
phán một số tác phẩm văn học đương thời, rất sinh động, khúc triết, đầy sức thuyết phục".
Tiếp nhận được ánh sáng của lý tưởng, ngòi bút Nguyên Hồng hướng về các đề tài
chính trị, về đời sống thơ thuyền (Bụi Đen, Người Đàn Bà Tàu), nông dân (Đến Cây số 13)
và những người nghèo khổ bị áp bức (Tù Trẻ Con, Tết Của Tù Đàn Bà). Ông thức tỉnh tinh
thần đấu tranh để tự giải phóng, hướng con người đến một niềm tin lãng mạn cách mạng ngày
mai (Những Mầm sống) . Nguyên Hồng cũng là nhà văn đầu tiên xây dựng hình tượng người
phụ nữ công nhân đấu tranh rất dũng cảm, giàu tình thương yêu giai cấp và tinh thần quốc tế

vô sản. (Người Đàn Bà Tàu).
Có thể nói một số tác phẩm của Nguyên Hồng thời kỳ này (Người Đà n Bà Tà u,
Những Giọt Sữa, Những Mầm sống ...) đã tiến gần với văn học cách mạng.
Năm 1939, báo chí tiến bộ bị đàn áp, ngày 29/9/1939 Nguyên Hồng bị thực dân Pháp
bắt giam ở Hải Phòng về tội truyền bá tư tưởng cộng sản và tàng trữ sách báo cách mạng.
Trong nhà tù, Nguyên Hồng được đồng chí Tô Hiệu hướng dẫn nghiên cứu Đề cương cách
mạng tư sản dân quyền. Chính nhờ vốn sống quý giá đó mà sau này Nguyên Hồng có tài liệu
để viết Địa Ngục Và Lò Lửa.
Tháng 6/1940 Nguyên Hồng bị giải lên trại tập trung Bắc Mê, Hà Giang. Nguyên Hồng
viết cả trưa, sau khi đi làm cỏ vê và gánh đá về, cả đêm khuya trên một cái hòm gỗ và dưới
ánh đèn dầu lạc tù mù. Thật đáng t iếc vì ba trăm trang của tiểu thuyết Xóm Cháy đã bị thực
dân Pháp thủ tiêu. Nguyên Hồng lại cặm cụi viết những mẩu ngắn giả làm thư và nhật ký. Đó
là những chất liệu giúp nhà văn viết thành tập Cuộc Sống.

17


Mùa hè năm 1943, Nguyên Hồng tham gia tổ chức Văn h óa cứu quốc và đọc Đề cương
văn hóa của Đảng. Những truyện Hơi Thở Tàn, Miếng Bánh, Ngọn Lửa, Buổi Chiều Xám ...
đã có những ảnh hưởng rõ rệt của Đề cương văn hóa. Đọc những thiên truyện này, chúng ta
cảm nhận được không khí bức bối của một xã hội đang ngạt thở và cái xã hội ấy đang chuyển
mình, hy vọng ở tương lai.
Từ khi tham gia tổ chức Văn hóa cứu quốc, chủ nghĩa nhân đạo mang tính chất chiến
đấu nỗi lên rất rõ trong tác phẩm của Nguyên Hồng. Những tác phẩm như Hai Dòng Sữa ,
Ngọn Lửa và Một Trưa Nắng là những truyện ngắn có luận đề. Người đọc thấy cảnh một nhà
văn nghèo khổ, một người đàn bà buôn thúng bán bưng, một người thợ không có việc làm,
một ông già kéo xe lê từng bước một trên con đường ra tỉnh " dưới thác lửa ngùn ngụt chói
lóa mặt trời". Cái xã hội tù túng, vô nghĩa lý ấy được miêu tả tượng trưng bằng nắng lóa hầm
hập " một biển lửa mênh mông" đang thiêu đốt hàng triệu người. Chủ nghĩa hiện thực chân
chính đó đã nói lên được những đau buồn, thương xót , mừng vui, khao khát, mong ước và tin

tưởng của đại chúng. Và không chỉ có lên án, tố cáo, nó còn phải "tìm thấy một con đường,
một chân trời êm mát tốt tươi qua những ngày mưa dầu nắng lửa".
Đặc biệt là khi viết Buổi Chiều Xám Nguyên Hồng tung hoành ngọn bút như chưa bao
giờ được như thế. Nhà văn tố cáo đanh thép chiến tranh phát xít đã làm cho hàng triệu người
dân lương thiện bị biến thành "bia thịt, những máy bắn chém người không tiếc tay, giày xéo
lên xác chết để làm giàu cho một lũ lái súng, khát vàng và máu". Lần đầu tiên ngòi bút
Nguyên Hồng đã kích trực diện vào thực dân Pháp và phát xít Nhật kêu gọi quần chúng đứng
lên khởi nghĩa: "Sự khốn nạn đã đến tột cùng rồi ! Đi bắn giết người, đi cướp đất người, đi
bóc lột của cải, vơ vét thóc gạo trong khi mùa màng mất và sự đói kém tàn hại hàng triệu sinh
linh, chưa đủ, lại còn hãm hiếp đàn bà một cách công nhiên nữa. A! Đồng bào Xan! Hơn hai
mươi triệu linh hồn máu mủ với Xan còn phải đợi những điều kiện nào mới vùng dậy, đập tan
những thống khổ".
Nguyên Hồng đã ghi lại những cảm xúc khi Buổi Chiều Xám được đăng trên tạp chí
Tiên Phong: "Tôi khôngứa nước mắt như những năm tôi bắt đầu vào đời văn, khi xong
những truyện ngắn, tiểu thuyết mà tôi đặt hết hy vọng của mình vào. Nhưng nước mắt vẫn vỡ
ra ở trong lòng tôi. Tôi vừa nghe thấy nước mắt rỉ mặn trong người, vừa cất thầm lên những
tiếng hát, vừa nghe dội lại rùng rùng, vang chuyển không biết bao nhiêu tiếng hát... " (16,27).
Có thể nói chính sự tiếp thu chủ nghĩa Mác, tham gia nhóm Văn hóa cứu quốc đã làm
cho tác phẩm Nguyên Hồng chứa đựng một chủ nghĩa nhân đạo có tính chiến đấu mạnh mẽ.

18


Chương 2: Chủ nghĩa nhân đạo và nhân vật của Nguyên Hồng
Thế giới nhân vật của Nguyên Hồng bao giờ cũng là sự thể hiện tập trung cảm quan
nghệ thuật của nhà văn. Nguyên Hồng là nhà văn của những người khốn khổ nhất trong xã
hội.
Viết về đòi sống thực của những người khổ đau với cả sự bất hạnh và vẻ đẹp trong bất
hạnh của họ, ngòi bút Nguyên Hồng rung lên thành những trang viết thống thiết, nồng ấm và
sâu sắc.


2.1. Nhân vật đau thương:
Thế giới nhân vật của Nguyên Hồng là cái nhân loại "dưới đáy" của xã hội thành thị
ngày trước. Đó là ông lão ăn mày, những dân "chạy vỏ" sống cuộc đời lang thang lẩn lút,
những phu bến tàu Sáu Kho, suốt ngày đun goòng, khuân vác. Đó là những người công nhân
mà chế độ lao động khổ sai đã khiến họ "như một cái máy, chỉ có cử động, chứ không một lời
nói", những người nông dân mà chế độ thuế khóa và thiên tai đã đẩy họ ra thành phố để bán
sức lao động một cách rẻ mạt, những gái điếm thân tàn ma dại, những người tù bị hành hạ vô
cùng tàn nhẫn trong các nhà lao đế quốc, những người đàn bà buôn thúng bán bưng đi hết
chợ này đến chợ khác bước chân "liền liền như dính vào nhau và quấn quít lấy mặt đất ...hết
năm này sang năm khác, những người trí thức nghèo cuộc sống bơ vơ, thất nghiệp, dù có ho ài
bão, có lý tưởng cũng thấy đời mình "càng đi sâu vào càng thấy trống rỗng và thê thảm".
Thật ra trong trào lưu văn học hiện thực phê phán ở nước ta không phải chỉ có Nguyên
Hồng mới là nhà văn của những người cùng khổ. Ngô Tất tố với Tắt Đèn, Mớ Rau Trong
Hòm, Cái Bánh Chưng ...Vũ Trọng Phụng với Vỡ Đê, Không Một Tiếng Vang, Cơm thầy
Cơm Cò .., Nam Cao với Chí Phèo, Lão Hạc, Một Đám Cưới, Đói : cũng xứng đáng với
danh hiệu ấy.
Nét độc đáo của nhân vật đau thương của Nguyên Hồng, trước hết là tinh thần chịu nạn,
tự nguyện gánh lấy những nỗi khổ trên đời, giống như đức Chúa vậy.
Trong tiểu thuyết Bỉ Vỏ, qua nhân vật Tám Bính, nhà văn muốn nói về nỗi thống khổ
đã dìm một cô gái trong trắng, lương thiện xuống bùn đen dơ bẩn. Những đoạn đời gái điếm,
lưu manh của Tám Bính như địa ngục trần gian mà cô gái bất hạnh bị ném vào.
Cũng trong tiểu thuyết này, Nguyên Hồng đã gợi lên trong tâm trí nhân vật Tám Bính
hình ảnh "Đức chúa Giêsu đứng lên an ủi dân vùng Giêruydalem giữa khi chính mình không
được ai ngỏ một câu ái ngại mà lại còn bị xỉ vả lại còn phải vác cây thập ác nặng nề". Có thể

19


nói tinh thần chịu nạn của nhân vật Nguyên Hồng chắc chắn có chịu ảnh hưởng của tinh thần

đức Chúa tự nguyện hành xác để chuộc tội cho chúng sinh.
Những nhân vật như mụ Đen trong Bố Con Lão Đen, mụ Mão trong Người Mẹ Không
Con đều có thể gọi là những nhân vật chịu nạn nhưng tiêu biểu nhất là nhân vật nhà sư nữ
trong truyện Nhà Sư Nữ Chùa Âm Hồn.
Đây là một thiên truyện hết sức ly kỳ. Nhân vật chịu nạn ở đây là một cô gái lấy chồng
mắc bệnh phong. Bố mẹ khuyên cô bỏ chồng về nhà. Cô không nghe bị bố chặt tay phải. Cô
gái cố luyện tập bàn tay trái làm lụng nuôi chồng. Nhà nước bắt chồng cô vào trại phong. Cô
liền đem chồng đi trốn. Cuối cùng cô giả làm một nhà sư của một ngôi chùa gọi là chùa Âm
Hồn và kín đáo giấu chồng ở đó. Ban ngày cô tụng kinh niệm Phật, ban đêm chăm sóc người
chồng hủi, bệnh tình càng ngày càng nặng hơn. Khi chồng chết cô tự nguyện chết theo chồng.
"Vào một đêm tối trời, nhà sư nữ đã đổ dầu vào đống củi, ngồi lên trên rồi châm lửa. Tới khi
ngọn lửa đã bốc lên cháy sáng rực một góc trời dân làng mới biết và chạy đến cứu chữa,
nhưng họ chỉ dập lửa bén sang nhà thờ chính , mà không dám động đến vị sư nhập định trong
khói lửa và một mùi khét lẹt.
Người chồng hủi kia chắc chết. Nhà sư nữ cụt tay muốn giữ kín bí mật thiêng liêng của
đời mình cùng cái xác thịt gớm ghiếc kia tự thiêu đi". (13-63)
Đây có lẽ là trường hợp cực đoan nhất của hình tượng chịu nạn của nhân vật Nguyên
Hồng. Một sự tự nguyện chịu mọi cực hình một cách gan góc đến kỳ lạ bởi tình nghĩa, một
tinh thần hy sinh xả kỷ được đẩy lên tới mức thần thánh. Nhà Sư Nữ Chùa Âm Hồn - có thể
xem là một truyện tử vì đạo của Nguyên Hồng, đạo tình nghĩa thủy chung.
Trong truyện Tiếng Nói , Nguyên Hồng lại tạo ra một hình tượng khác cũng rất kỳ lạ.
Giữa năm đói, người chết đầy đường đầy chợ, lúc đó miếng ăn không còn là chuyện bình
thường mà là chuyện sinh mệnh, chuyện sống chết và cho một người khác một miếng ăn là cả
một nghĩa cử to lớn.
Vậy mà có một người đói không chịu xin ăn, người ta cho cũng không ăn, thậm chí
cháo kề tận miệng vẫn kiên quyết từ chối. Con người đó cứ lặng lẽ ngồi bên hè phố, mọi
người "lấy làm lạ cho cái người đói ấy bị bệnh gì hành mà ngồi như thế, không ăn gì, không
xin ai", "hai hố mắt kia cứ nhì n, nhìn mà không hiểu để làm gì mà chẳng thấy ngước lên, lạy
van ai một tiếng".
Đây là một con người tự nguyện ngồi đợi cái chết đến dần, vì anh ta không muốn xin

ăn, không muốn ăn của bố thí, anh ta muốn đi làm, có việc làm.. Anh nói với mấy người đàn
bà đem đến cho anh bát cháo: "Các bà, xin cám ơn các bà ... Các bà cho tôi ... Xin cám ơn các
20


bà ... Nhưng tôi đã thề tôi không ăn tí gì nữa ... Giờ các bà thương tôi ... Nhưng mai ... mai thì
sao? Hay cho dẫu tôi lại được ăn ngày mai thì lại còn ... lại còn ngày kia ... Ngày kia ... Ngày
kìa các bà ... và mọi người có thể thương ... thương cho tôi mãi được đâu? kém đói! ăn mày ...
ăn mày ... không ! ... không ! ... Chúng tôi chỉ muốn đi làm ... đi làm thôi!".
Đây cũng có thể coi là một chuyện tử vì đạo khác của Nguyên Hồng. Hình ảnh một con
người ngồi lặng lẽ không nói một lời, không chịu ăn uống, không van xin ai, chỉ muốn được
làm việc, đã trở thành một biểu tượng độc đáo của con người tự nguyện hành xác chịu nạn để
nói lên tiếng nói câm lặng mà hùng hồn đòi quyền sống chính đáng, quyền sống trong nhân
phẩm của người lao động. Một nhân vật như thế chỉ có dưới ngòi bút Nguyên Hồng. Có thể
nói hầu hết nhân vật của Nguyên Hồng trước sự đau thương tột cùng của mình đều mang tinh
thần chịu nạn ở những mức độ khác nhau với những lý do khác nhau. Chẳng hạn như Bảy
Hựu, Chín Huyền trong những truyện ngắn cùng tên, tinh thần hy sinh mang dòng máu anh
hùng hảo hán kiểu Nguyên Hồng. Với Chín Huyền, một "bỉ vỏ" đã hoàn lương, vậy mà vì
tình xưa nghĩa cũ đã cởi trói cứu thoát một người "bạn giang hồ" dù có biết chắc chắn sẽ phải
trả giá bằng xiềng xích tù đày.
Ở nhân vật bà mẹ trong truyện Nhà Bố Nấu thì chấp nhận sự đau thương do xuất phát
từ lòng tự trọng. Bà cụ tự nguyện sống với con trai nghèo, hàng ngày chui ra chui vào một
túp lều rách nát, ban ngày thì mù mịt khói, ban đêm thì đầy muỗi, tuy rằng bà cụ hoàn toàn có
thể được sống nơi nhà cao cửa rộng với một cô con gái tuy làm "nghề me Tây" nhưng vẫn
yêu thương mẹ. Quan niệm của bà cụ là "đói cho sạch rách cho thơm". C ụ thẳng thừng bảo
con gái: "Cô sung sướng mặc cô. Tôi có rách mặc rách, quần lành áo tốt cô may cho tôi đấy
cô đem đi cho ai thì cho. Và tôi chẳng dám cầu cô đem tôi đi mà phụng dưỡng báo đáp. Tôi
chỉ ở chết già với thằng bố Nấu và các con của nó thôi".
Ở chị cu Năng trong Sông Máu, tinh thẫn "ch ịu nạn " lại gắn v ới tìn h mẫu tử, còn ở
nhân vật Tâm trong Lớp Học Lẩn Lút, tinh thần ấy lại được nuôi dưỡng bằng tình nghĩa đối

với những người lao động nghèo khổ nhưng tốt bụng ... Sau này khi Nguyên Hồng đã giác
ngộ cách mạng, thì nhân vật của ông sẽ là những chiến sĩ cộng sản tự nguyện chịu đựng mọi
gian khổ thậm chí hy sinh cả tính mạng của mình vì giai cấp và dân tộc
Nhắc đến nhân vật đau thương của Nguyên Hồng không thể không nhắc đến những trẻ
em nhà nghèo. Đó là những số phận tội nghiệp mà ông đã trải qua thời thơ ấu. Những Ngày
Thơ Ấu là tập hồi ký ghi ạl i những "rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại lạc loài
trong những lề lối khắc nghiệt của một gia đình sắp tàn" (Thạch Lam). Đàn Chim Non là tình
cảm thương yêu của ông dành cho những em bé mồ côi phải sớm bước vào đời để kiếm sống.
Trong bút ký Cuộc sống có những trang đầy rung cảm vẽ lại chân dung của một loạt đứa trẻ
21


nhà nghèo được gợi lên từ những tấm ảnh (Những mầm non). Trong Hơi Thở Tàn cũng có
những hình ảnh em bé hết sức đáng thương, chúng bồng bế nhau lê la trong cát bụi, lại bắt
chước cả giọng van xin thê thảm của người đàn ông mù dắt con đi ăn mày, nghe "rợn cả tâm
trí".
Đặc biệt là thiên truyện Giọt Máu viết về một em bé nhà nghèo. Cuộc sống cực khổ, tối
tăm, đầy những đe dọa của đói rét, của áp bức đã làm cho em lúc nào cũng rụt rè. sợ hãi ngay
cả khi ăn uống hay vui chơi. Bố mẹ đi làm cả ngày, em ở nhà làm đủ mọi việc: quét nhà, rửa
bát, bế em. Em còn cặm cụi vun xới hai luống ngô, mơ ước đến khi bẻ bắp sẽ đem ra phố bán
cho các cô thợ ở Máy Tơ, Sáu Kho để lấy tiền may áo tết cho em nhưng mụ chủ nhà độc ác,
tàn bạo đã bẻ trụi những bắp ngô non để trừ nợ tiền nhà của bố mẹ em. Chiều hôm ấy, dưới
trời mưa rét "cháu bé lẩn quẩn hết gốc ngô này đến gốc ngô khác, vuốt vuốt, chắp chắp, nối
nối và khóc. Nó khóc chỉ có tiếng nức nở chứ không thấy nước mắt. Nước mắt của nó bị hòa
hẳn dưới những trận mưa đổ rào rào xuống người nó run cầm cập và xám ngắt". (11 - 384)
Nguyên Hồng xứng đáng được gọi là nhà văn của trẻ em bị chà đạp, áp bức trong xã
hội cũ. Nhà văn đã tha thiết kêu gọi mọi người quan tâm một cách thiết thực đến đối tượng
đáng thương ấy. ông đòi phải có sữa cho trẻ em nghèo: "Sữa! Sữa! Hỡi những thiếu nữ! Hãy
dừng tiếng cười, dừng chân nhảy một phút! Kìa! Những bàn tay bé nhỏ đương vẫy các bạn,
những con mắt lờ đờ ướt át đương van lơn các bạn, những cặp môi mỏng đã héo quắt lại

trước khi cười với các bạn, những nụ cười ngây thơ và xinh tươi..."
"Sữa ! Sữa !
Người ta đang chờ ở một thi sĩ một bài thơ, ở một nhà văn một trang truyện kêu đòi sữa
cho trẻ con".(l2,2l4)

2.2. Nhân vật thánh thiện:
2.2.1. Sự chống trả mãnh liệt trước tình trạng tha hoá:
Đọc Nguyên Hồng, dường như thấy ông chồng chất lên vai nhân vật của mình những
nỗi thống khổ để thử thách sức bền của đức tin và lòng nhẫn nại gan góc của họ, để vĩnh cửu
hóa vẻ đẹp thánh thiện trong tâm hồn họ. về phương diện này, Nguyên Hồng đã tạo ra trong
các tác phẩm của mình " những tính cách lớn, không phải lớn về trí tuệ, về cải tạo thế giới mà
lớn về trái tim sục sôi, mãnh liệt, lớn về niềm tin yêu vô cùng đối với sự sống và lớn về sức
gánh chịu phi thường, những khổ đau oan trái ở đời " (29 - 41)
Trong đêm trường tăm tối của xã hội Việt Nam trước cách mạng, đói nghèo, tù túng là
căn nguyên của sự hủy hoại nhân tính, biến chất của tâm hồn con người. Cuộc sống cùng
22


kiệt, khốn quẫn có lúc biến họ thành ác quỷ đến nỗi Vũ Trọng Phụng đã quan niệm "Loài
người chỉ là lũ ăn cắp, hiếp dâm" (Giông Tố) "cái tiếng ăn gian, ăn cắp là cá tính của loài
người" (Cạm Bầy Người). Còn Nam Cao lại có cách nhìn con người mà "sự tha hóa đã làm
biến dạng đi, phải nhìn kỹ, suy ngẫm mới nhận ra được cái phẩm chất bên trong, vẻ đẹp tâm
hồn của họ như Lão Hạc, Chí Phèo
Hoàn toàn khác với quan niệm của Vũ Trọng Phụng và c ũng không thật giống Nam
Cao, nhân vật trong tác phẩm của Nguyên Hồng trước cách mạng không để cho hoàn cảnh
biến họ thành con vật, họ đấu tranh để giữ cho được bản chất người lương thiện của mình.
Đôi lú c họ đứng chênh vênh bên bờ vực thẳm của sự tha hóa, nhưng cuối cùng bao giờ họ
cũng chiến thắng.
Trong thế giới nhân vật của Nguyên Hồng có một loại người được ôns đặc biệt quan
tâm, nhất là trong những tác phẩm đầu tay: loại lưu manh gái điếm. Nhưng dưới ngòi bút

Nguyên Hồng, những con người ấy dù sống tr ong bùn, tâm hồn vẫn không chịu hoàn toàn
"hôi tanh mùi bùn",ở chỗ này, Ng uyên Hồng có một cái gì rất g ần g ũi v ới n hà v ăn Nga
M.Gorki. Có thể lấy thí dụ như truyện Con Chó Vàng chẳng hạn. ở truyện này có hai nhân
vật là hai đứa bé ăn cắp ( Điều, Tý Sáu ) rắp tâm cướp túi tiền của một ông lão ăn mày.
Chúng đã đánh bả chết con chó vàng và khi túi tiền đã nằm gọn trong tay, nhìn ông lão vật vã
bên xác con chó, chúng đã xúc động ném trả túi tiền và "ôm mặt khóc"
Ở những truyện như Bảy Hưu, Chín Huyền có những nhân vật lưu manh, chẳng những
tâm hồn không bị vấy bùn mà càng tỏ ra có nghĩa khí hơn người. Bảy Hưu là một người đàn
bà ăn cắp nhưng trước cảnh tượng nhục nhã của cánh đàn ông trong bọn. Bảy Hưu đã quyết
rửa nhục bằng một thủ đoạn sát nhân, việc không thành và Bảy Hưu bị hại. Chín Huyền là
một con người nghĩa khí, lòng thương bạn làm nàng quên cả thân đau ốm, quên cả sự hiểm
nghèo.
Biểu hiện sinh động nhất là Tám Bính trong Bỉ Vỏ. Cô phải chọn lựa giữa hai con
đường: sống yên ổn với thằng chồng mật thám hay mở cửa ngục cho Năm Sài Gòn và cùng
với hắn trở về cuộc sống đầy nguy hiểm. Tám Bính đã cứu Năm Sài Gòn vì bản chất vị tha và
tình nghĩa thủy chung của cô. Như vậy qua Bỉ Vỏ người ta thấy Nguyên Hồng không bao giờ
đánh mất niềm tin ở bản chất tốt đẹp của những người lao động.
Viết về những người phụ nữ làm nghề "mua vui cho thiên hạ bằng xác thịt của mình",
Nguyên Hồng cũng có cách nhìn nhận khác hẳn với nhiều nhà văn khác. Trọng Lang đã tàn
nhẫn khi viết "Đối đãi với gái nhảy với cô đầu, gái đĩ bằng tình thương người ta sẽ là nhà đạo
đức dớ dẩn (Hà Nội lầm than). Nhìn họ bằng con mắt kinh tởm, Trọng Lang chỉ thấy ở họ
cái bẩn thỉu, cái vô nghĩa trong kiếp sống của người đàn bà. Ngay cả Vũ Trọng Phụng cũng
23


thấy sự sa đọa của những người phụ nữ làm nghề này là do nguyên nhân sinh lý vàựslười
biếng, lao động mà thôi. (Làm đĩ, Lục xì) Nguyên Hồng không quan niệm như vậy. Trong
truyện ngắn "Một truyện bên người đàn bà" cũng có một nhân vật gái điếm. Nhưng đây là cô
gái tha hóa vì số phận, vì hoàn cảnh xã hội chứ không phải do bản chất, do tính cách. Trước
tình cảnh một thanh niên do ăn chơi lêu lổng quá đà đến nỗi phải thắt cổ tự vẫn, cô đã nói

những lời thật là đích đáng: "Mà việc gì phải tự tử ! Thân làm tội đời chứ ai làm mình ? Đua
đòi ăn mặc rồi đâm đầu đi chơi bời cho sung sướng lắm vào, chứ đói khổ, rách rưới, lo bữa
sớm, mất bữa tối, vì người này, người nọ nắng mưa, đêm hôm vất vả đầy đọa gì, Và chìm
đắm đau đớn, tủi nhục đến thế nào để đến nỗi phải tự tử ? Những hạng này mà như thiên hạ
thì chắc phải tự tử đến nghìn lần rồi, hay thiên hạ cũng thế thì người ta đến chết hết mất. Thôi
tỉnh dậy đi... chết làm gì ! ... Đời trai trẻ còn dài còn sung sướng chán mà !"
Cũng phải nói rằng, chất lưu manh côn đồ ở nhiều nhân vật của Nguyên Hồng dường
như hình thàn h do hoàn cảnh sống đặc biệt của những người dân tứ chiếng trên một thành
phố cảng. Là dân tứ chiếng gặp nhau, phần lớn lâm vào tình cảnh cùng đường mạt lô phải tha
phương cầu thực, cùng tự ném mình vào một cuộc vật lộn quyết liệt kiếm sống trên đồng đất
xứ người, họ chỉ còn trong cậy chủ yếu ở tài trí đảm lược của mình. Tình thế ấv buộc họ phải
can đảm đến táo tợn liều lĩnh. Nhân vật Nguyên Hồng vì thế thường có những "anh hùng hảo
hán" hay nói nôm na hơn là "ch
ất anh chị" (...). Những người phụ nữ cũng vậ y. Chẳng hạn
như vợ lão Đen làm phu khuân vác ở bến tàu Sáu Kho: "quại băng băng trên vai cả một tạ
gạo, thích cùi tay vào mạng mỡ người ta, đâm xỉa vào lá mía và cứ nhè chỗ hiểm lên gối"
(29,85,86)
Đó cũng là đặc điểm rất riêng của nhiều nhân vật Nguyên Hồng. Có thể nói, nhiều nhân
vật gọi là lưu manh trong tác phẩm của Nguyên Hồng đều ít nhiều có mang dòng máu hảo
hán và tinh thần nghĩa khí, nghĩa hiệp của người dân lao động thành phố cảng. Họ hung hăng
táo tợn phần nhiều là do cuộc sống bon chen, căng thẳng buộc phải thế. Đó là gai góc chĩa ra
ngoài hơn là bản chất bên trong của họ.
Từ khoảng 1939 đến 1945, ngòi bút Nguyên Hồng thường hướng về tầng lớp tiểu sản
trí thức nghèo và ta thấy nhiều khi ông cũng đặt nhân vật của mình vào tình huống như
thường thấy trong tác phẩm của Nam Cao về loại nhân vật này (Đời Thừa, Quên Điều Độ,
Nước Mắt...) Đó là tình huống "áo cơm gh ì sát đ ất". Nhưng kh ác với Nam Cao, Ng uyên
Hồng thường đặt nhân vật của mình trước cái đói và miếng ăn theo nghĩa đen của nó, nghĩa là
tình cảnh của những lớp người cùng khổ nhất, giống như nhân vật bà cái Tý trong Một Bữa
No củ a Nam Cao. Nhân vật củ a Ng uyên Hồng dù là tiểu tư sản cũng v ẫn thu ộc lớp ng ười
"dưới đáy" của xã hội thực dân phong kiến. Trong tình huống ấy, người ta thấy nhân vật của

24


Nguyên Hồng tuy nhiều khi cũng không giữ nỗi bản lĩnh, nhưng không bao giờ chịu chết hẳn
phần người như trường hợp bà cái Tý trong Một Bữa No, anh cu Lộ trong Tư Cách Mõ, hay
gã thèm rượu mất hẳn tư cách làm cha trong Trẻ Con Không Biết Ăn Thịt Chó. Người đọc
thấy trường hợp của nhân vật Hưng trong truyện Miếng Bánh đã hối hận đến đau đớn như thế
nào khi ăn vụng vợ một tấm bánh. Nhân vật Giang trong Ngọn Lửa cũng thế. Nhịn đói đã ba
bốn ngày, anh ta đành nhắm mắt đánh liều thò tay bốc trộm cơm nguội trong cái nồi của nhà
chủ đặt ở gầm giường ngủ của anh ta. Anh ta đã phải trả giá bằng biết bao đau đớn nhục nhã.
Nhưng khác nhân vật Nam Cao, nếu có xấu hổ thì cũng chỉ xấu hổ cho cái nhân cách hèn hạ
của bản thân mình thôi. ở nhân vật Nguyên Hồng sự xấu hổ còn có những lý do rộng lớn hơn:
xấu hổ khi nghĩ đến nhân dân, đến những người cách mạng nữa: "Không thể được! không thể
được! Tôi đã đến nỗi chết đói đâu mà phải ăn uống với sự nhắm mắt như thế? Tôi nghĩ đến
những thôn quê cùng cực trong những tháng ba ngày tám, mất mùa và lụt lội, hàng tháng chỉ
được có bát cháo cám, lưng củ chuối luộc. Tôi nghĩ đến em gái tôi bị tù đày tra tấn. Tôi nghĩ
đến những cuộc tuyệt thực năm ngày, bảy ngày ở những địa ngục Sơn La, Côn Lôn, Kontum,
Lao Bảo ... tôi nghĩ đến ... không! không! Tôi mới nhịn cơm có bốn ngày. Tôi còn nhịn được
năm ngày hay sáu bảy ngày nữa không ăn mới chết. Những người đói khổ kiệt quệ và ốm yếu
kia còn có thể chịu đựng cái đói như thế thì tôi ... ( 14, 51,52 )
Nhân vật của Nguyên Hồng bên bờ vực của sự t ha hóa thường có những cơn sám hối
dữ dội như thế. ở đây cũng có thể có ảnh hưởng của đạo Cơ đốc chăng? Có thể xem đó là
những giây phút thiên khải, thần khải từng biến kẻ sát nhân thành thánh nhân trong sự tích
các thánh của đạo Gia Tô? Có thể kể đến những nhân vật trong Ông Già Nghiện, Năm Dòng
Chữ Máu, Miếng Bánh, Sau Hai Mươi Năm, Ngọn Lửa ... và nhiều nhân vật khác trong Cửa
Biển sau này.

2.2.2. Người phụ nữ thánh thiện:
Có thể nói Nguyên Hồng xứng đáng là nhà văn của phụ nữ thuộc các tầng lớp bị bóc lột
trong xã hội cũ . Hìn h tượng ng ười phụ nữ ch iếm v ị trí nổi bật nhất trong các sáng tác củ a

Nguyên Hồng. Người ta thấy Nguyên Hồng đã dùng 3/4 số tác phẩm của mình để viết về phụ
nữ với tư cách là nhân vật chính.
Trước Cách mạng tháng Tám Nguyên Hồng có 2/3 tiểu thuyết viết về phụ nữ. Riêng về
truyện ngắn người ta thấy tập Bảy Hưu có 9/12 truyện, tập Miếng Bánh 5/6 truyện, Hai Dòng
Sữa 6/8 truyện ...
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh viết "Nguyên Hồng đã tạo ra trong nhiều tác phẩm
của mình những tính cách lớn, không phải lớn về tư tưởng, về trí tuê, về hành động cải tạo
25


×