Tải bản đầy đủ (.pdf) (199 trang)

Luận văn Thạc sĩ: Quan hệ hợp tác giữa các khối nước trong diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) với Việt Nam qua trường hợp khối Bắc Mĩ và khối ASEAN (1998 - 2005)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (785.95 KB, 199 trang )

Quan hệ hợp tác giữa các khối nước trong
diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình
Dương (APEC) với Việt Nam qua trường hợp
khối Bắc Mó và khối ASEAN (1998 -2005)

Đào Thị Ngọc Mộng


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT THEO TIẾNG ANH
ABAC
ABTC
ACMS
ADBC
AFSA
AFTA
AIA
AICO
AID
AIS
APEC
ARF
BAC
CAP
CEPT
CTI
EC

Hội đồng tư vấn doanh nhân APEC
APEC Business Advisory Council
Thẻ đi lại của doanh nhân APEC
APEC Business Travel Card


Nghiên cứu thị trường hàng hóa của ASEAN
ASEAN Commodities Markets Studies
Ngân hàng dữ liệu về hàng hóa của ASEAN
ASEAN Data Bank on Commodities
Hiệp định khung về khu vực tự do mậu dịch hóa ASEAN
Framework Agreemet on Services
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
ASEAN Free Trade Area
Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN
ASEAN Investment Area
Hiệp định khung về Hợp tác công nghiệp ASEAN
ASEAN Industrial Cooperation
Cơ quan phát triển quốc tế
Agency for International Development
Hội nghị thượng đỉnh không chính thức APEC
APEC Informal Summit
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
APEC Asia-Pacific Economic Cooperation forum
Diễn đàn khu vực ASEAN
ASEAN Regional Forum
Ủy ban về ngân sách và quản lý
Budget and Administrative Committee
Kế hoạch hành động tập thể
Collective Action Plan
Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
Common Effective Preferential on Tariff
Ủy ban thương mại và đầu tư
Committee on Trade and Investment
Ủy ban kinh teá
Economic Committee



GATT

Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
General Agreement on Tariffsand Trade
GST
Hệ thống thuế quan ưu đãi phổ cập
Generalized System of Preferences
IAP
Kế hoạch hành động quốc gia
Individual Action Plan
ISOM
Hội nghị không chính thức các quan chức cấp cao
Infomal Senior Officials Meeting
MFN
Quy chế tối huệ quốc
Most Favored Nation
NAFTA Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mó
North America Free Trade Agreement
NTR
Quan hệ thương mại bình thường
Normal Trade Relations
ODA
Viện trợ phát triển chính thức
Official Development Aid
OPTAD Tổ chức thương mại và phát triển Thái Bình Dương
Organization for Pacific Trade and Development
PECC
Hội đồng hợp tác kinh tế Thái Bình Dương

Pacific Economic cooperation Council
PNTR
Quan hệ thương mại bình thường viễnh viễn
Permanent Normal Trade Relations
SEAMEO Tổ chức Bộ trưởng giáo dục các nước Đông Nam Á
South East Asia Minister of Education Organization
SCCP
Tiểu ban thủ tục hải quan
Sub-Committee on Customs Procedures
SCSC
Tiểu ban tiêu chuẩn và chứng nhận hợp chuẩn
Sub-Committee on standards and Conformance
SOM
Hội nghị các quan chức cấp cao
Senior Officials Meeting
UNDP
Chương trình phát triển Liên hiệp quốc
The United Nations Development Programs
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
Word Trade Organization


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Từ khoảng hai thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, dưới tác động của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ, của xu thế hoà bình, ổn định, hợp tác và phát
triển cũng như của quá trình tự do hoá nền kinh tế ở các nước công nghiệp phát
triển, một số nước đang phát triển, và các nước xã hội chủ nghóa trước đây
chuyển sang nền kinh tế thị trường mở cửa như các nước thuộc Liên Xô cũ, Việt

Nam, Đông Âu, Trung Quốc… quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã
được hình thành và phát triển ngày càng mạnh mẽ. Toàn cầu hoá về kinh tế đã
trở thành trào lưu cuốn hút tất cả các quốc gia trên thế giới, vì vậy, hội nhập vào
nền kinh tế thế giới là xu thế tất yếu mà không nước nào, dù lớn hay nhỏ có thể
cõng lại được. Nó mang lại cơ hội nhưng cũng ẩn chứa những thách thức to lớn
đối với các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Do đó, vấn đề đặt ra đối
với các nước là hội nhập như thế nào để lợi nhiều hơn hại, để thử thách biến
thành cơ hội, Việt Nam cũng không nằm ngoài quá trình đó.
Song hành với toàn cầu hoá là xu thế khu vực hoá. Nhiều liên kết tiểu khu
vực và khu vực được hình thành. Việc liên kết toàn diện với các quốc gia có
cùng vị trí địa lý, trình độ phát triển kinh tế cũng như sự tương đồng về văn hoá
để hình thành một “siêu nhà nước” bao gồm nhiều quốc gia như EU hay tạo
dựng các khu vực mậu dịch tự do đang dần trở thành hướng đi chủ đạo của các
nước trong tiến trình hội nhập. Tuy nhiên, toàn cầu hoá và khu vực hoá không
phải là hai xu thế đối nghịch nhau. “Khu vực hoá được coi là một bước đệm, ở
một mức độ nào đó là sự tập hợp lực lượng giữa các nền kinh tế khu vực để đối
phó với những thách thức, cạnh tranh ở tầm toàn cầu” [46, tr 20]. Các nước châu
Á – Thái Bình Dương cũng không nằm ngoài xu thế hợp tác đó.
Thêm vào đó, những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 của thế kỷ
XX, châu Á - Thái Bình Dương nổi lên là một khu vực có mức tăng trưởng kinh
tế cao và phát triển năng động, nơi tập trung các nền kinh tế phát triển nhanh


nhất thế giới. Vì thế, có những dự báo lạc quan rằng thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ
châu Á – Thái Bình Dương.
Trong khi xu thế khu vực hoá phát triển ngày càng mạnh ở các khu vực
khác, thì ở châu Á – Thái Bình Dương, tuy có ổn định tương đối về chính trị,
năng động và có nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng lại chưa có một hình thức
liên kết nào có tính chính thức, liên chính phủ và toàn khu vực để bảo đảm lợi
ích của các nước trong khu vực trước sự gia tăng ngày càng mạnh của chủ nghóa

khu vực bảo hộ ở Tây Âu và Bắc Mó.
Đứng trước những tình hình đó, từ nửa cuối những năm 1980, để duy trì
tính năng động kinh tế của khu vực, đối phó với sự cạnh tranh quyết liệt về kinh
tế trên thế giới, một số nước châu Á – Thái Bình Dương đã đi đến nhận thức
chung là cần phải phối hợp và liên kết chặt chẽ với nhau trên cơ sở bảo đảm cho
nền thương mại, đầu tư thông thoáng, thực hiện chủ nghóa khu vực mở. Trong bối
cảnh đó, diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (Asia-Pacific
Economic Cooperation forum-APEC) được thành lập vào tháng 11 năm 1989 với
mục tiêu thúc đẩy sự tăng trưởng và hợp tác kinh tế của các nền kinh tế hai bên
bờ Thái Bình Dương. Cho đến nay, APEC đã có 21 nền kinh tế thành viên:
Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philippines, Singapore,
Brunei, Indonesia, New Zealand, Canada, Hoa Kì (năm 1989), Trung Quốc,
Hồng Công, Đài Loan (năm 1991), Mexico, Papua New Ghuine (năm 1993),
Chile (năm 1994), Peru, Liên bang Nga, Việt Nam (năm 1998).
Như vậy, APEC bao gồm các quốc gia lớn nhỏ có sự khác nhau rất lớn về
diện tích, dân số, chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế cũng như tôn giáo.
Trong APEC có hai khu vực kinh tế mạnh và năng động vào bậc nhất thế giới:
khu vực Đông Á và khu vực Bắc Mó với những nét đặc thù vô cùng đa dạng về
văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội. APEC thực sự là một tổ chức quốc tế đầu tiên
thời kỳ sau Chiến tranh lạnh.
Hoạt động của APEC xoay quanh 3 vấn đề chính là tự do hoá thương mại
và đầu tư, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, hợp tác kinh tế kỹ thuật. Nói
cách khác, mục tiêu của APEC không phải là xây dựng một khối thương maïi,


một liên minh quan thuế hay một khu vực mậu dịch tự do giống như EU,
AFTA… mà là một diễn đàn kinh tế mở, nhằm xúc tiến các biện pháp kinh tế,
thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các nền kinh tế thành viên trên cơ sở hoàn
toàn tự nguyện trong khi thực sự mở cửa đối với tất cả các nước và khu vực khác.
Là một quốc gia thuộc khu vực có mức tăng trưởng kinh tế cao, đồng thời,

Việt Nam cũng là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trên
thế giới cũng như trong khu vực. Châu Á – Thái Bình Dương có vị trí quan trọng
trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam. Các nền kinh tế thành viên APEC là các
đối tác chủ yếu về kinh tế, thương mại và đầu tư “chiếm 80% kim ngạch ngoại
thương của Việt Nam, 75% tổng số vốn đầu tư nước ngoài và là nguồn cung cấp
ODA lớn nhất cho Việt Nam” [55, tr12]. Vì thế, việc duy trì môi trường hoà bình,
ổn định và tăng cường quan hệ hợp tác cùng có lợi với các nước trong khu vực có
tầm quan trọng đặc biệt, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
xác định quan điểm: “tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết
khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lónh vực hoạt động
khác…" [51, tr17]. Chúng ta cũng nhận thức được rằng, Việt Nam đang trong quá
trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghóa và đang chủ động
tăng cường tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế. Điều đó có nghóa là xu
hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá được xem là cơ hội cho nước ta tham gia các
hoạt động hợp tác quốc tế tốt hơn, nhất là về kinh tế.
Nhận thấy tầm quan trọng của APEC đối với sự phát triển kinh tế các
nước trong khu vực nói chung và của Việt Nam nói riêng, phù hợp với đường lối
hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam, ngày 15/6/1996,
Chính phủ Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập APEC.
Ngày 14/11/1998, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao- Kinh tế của APEC
họp tại Malaysia, ba nước Việt Nam, Nga, Peru chính thức được kết nạp là thành
viên của diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương. Việc trở thành
thành viên chính thức của APEC là một bước đi sâu hơn vào con đường hội nhaäp


kinh tế quốc tế và khu vực, góp phần nâng cao vị thế và vai trò của Việt Nam
trong quan hệ quốc tế ở khu vực và thế giới, mở rộng kinh tế đối ngoại, tận dụng
các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nước.
Đó cũng chính là góp phần thực hiện đường lối mà Đảng và nhà nước đã
đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam: “chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội
chủ nghóa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc, bảo vệ môi trường” [52,tr120]. Đại hội Đảng lần thứ X cũng đã một lần nữa
xác định lại "'chính sách đối ngoại của chúng ta là độc lập, tự chủ, đa dạng hoá
và đa phương hoá, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế" [64].
Như vậy, trước xu thế khu vực hoá cũng như toàn cầu hoá không thể cưỡng
lại được, Việt Nam đã chủ động tham gia vào quá trình hội nhập nền kinh tế
quốc tế và khu vực. Quan hệ giữa APEC với Việt Nam, giữa từng quốc gia, từng
khối nước với Việt Nam trong khuôn khổ APEC ngày càng phát triển. Đối với
khối Bắc Mó, bao gồm các nước Hoa Kì, Canada, Mexico mà đại diện tiêu biểu
là Hoa Kì, với sự kết thúc của chiến tranh lạnh và sau khi Liên Xô sụp đổ, Hoa
Kì trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới còn lại với ưu thế vượt trội cả về
kinh tế, quân sự lẫn chính trị. Quan hệ giữa Hoa Kì với các nước ở châu Á – Thái
Bình Dương, nhất là với các nước như Nga, Nhật Bản, khối ASEAN… vẫn đang
trong quá trình vận động và hàm chứa nhiều phức tạp. Riêng đối với Việt Nam,
kể từ khi Hoa Kì bãi bỏ cấm vận và bình thường hoá quan hệ (1995), quan hệ
kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai quốc gia có nhiều bước phát triển rất đáng
kể. Hiện nay, hiệp định thương mại song phương Hoa Kìø - Việt Nam đã và đang
được thực hiện, quan hệ giữa hai nước tiếp tục được cải thiện trên nhiều mặt, dù
còn có những khác biệt trong nhìn nhận các vấn đề quốc tế cũng như trong quan
hệ giữa hai bên.
Đối với các nước là thành viên của Hiệp hội quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), quan hệ giữa ASEAN và Việt Nam có những bước thăng trầm. Từ khi


trở thành thành viên chính thức của ASEAN, quan hệ giữa các nước ASEAN và

Việt Nam đã thay đổi theo chiều hướng tích cực. Hiện nay, mô hình hợp tác ở
Đông Nam Á được xem là một hình mẫu thành công trong liên kết khu vực.
Trong khuôn khổ APEC, quan hệ giữa các nước thuộc khối ASEAN và Việt Nam
cũng có những điểm khác biệt so với quan hệ giữa các khối khác trong APEC
với Việt Nam.
Với những lý do trên, việc tìm hiểu về mối quan hệ hợp tác giữa các khối
nước trong APEC với Việt Nam qua trường hợp khối Bắc Mó và khối ASEAN,
giai đoạn từ 1998, tức là từ khi Việt Nam gia nhập diễn đàn này cho đến năm
2005 có ý nghóa vô cùng thiết thực. Nghiên cứu vấn đề này qua trường hợp khối
Bắc Mó và khối ASEAN, bao gồm những nước có nền kinh tế phát triển vào bậc
nhất thế giới với những nước đang phát triển sẽ cho chúng ta một cái nhìn khá
bao quát về quan hệ giữa Việt Nam với khối nước trên, cũng như thấy được
những mặt tích cực và hạn chế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Nghiên cứu vấn đề này cũng góp phần cho chúng ta thấy được đường
lối, chính sách của Đảng trong quá trình hội nhập quốc tế.
Việc nghiên cứu tổng quát về quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu của
các nước trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng giúp hiểu rõ hơn quan hệ
kinh tế giữa Việt Nam với khối Bắc Mó và các nước trong khối ASEAN trong
khuôn khổ APEC. Việc làm này cũng giúp chúng ta thấy được những bài học
kinh nghiệm của một số nước bước đầu thành công trong quá trình tham gia vào
quá trình toàn cầu hoá như Trung Quốc… Từ đó, chúng ta có thể rút ra được
những bài học kinh nghiệm cho đất nước trong hội nhập quốc tế.
Tìm hiểu quan hệ hợp tác giữa các khối nước trong APEC với Việt Nam
từ 1998 đến 2005, qua trường hợp khối Bắc Mó và khối ASEAN cũng giúp chúng
ta thấy được sự phát triển năng động của nền kinh tế thế giới và khu vực. Qua
đó, chúng ta thấy được chính sách kinh tế của các nước lớn, của các khối nước
trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương đối với Việt Nam, từ đó, rút ra được
những kinh nghiệm quý báu trong đường lối đối ngoại của quốc gia.



Hơn tất cả, việc nghiên cứu đề tài này còn có ý nghóa thực tiễn và khoa
học sâu sắc đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Thêm
vào đó, việc nghiên cứu và thực hiện đề tài có ý nghóa thiết thực và hữu ích đối
với bản thân. Nó góp phần giúp chúng tôi nhận thức sâu sắc hơn chính sách đối
ngoại, đường lối phát triển kinh tế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
Những kiến thức này rất có giá trị trong việc phục vụ công tác giảng dạy sau
này.
Với những ý nghóa trên, chúng tôi chọn vấn đề “Quan hệ hợp tác giữa
các khối nước trong diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
(APEC) với Việt Nam qua trường hợp khối Bắc Mó và khối ASEAN (1998 2005)” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Cho đến nay, hầu như chưa có một tác phẩm nào nghiên cứu toàn diện về
quan hệ hợp tác giữa các khối nước trong diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái
Bình Dương với Việt Nam. Có thể nói đây là một đề tài khá mới mẻ. Tuy nhiên,
chúng tôi xin giới thiệu một số công trình tiêu biểu, ít nhiều có đề cập đến một
số nội dung liên quan đến đề tài. Trước hết chúng tôi xin giới thiệu những tác
phẩm có liên quan đến đề tài ở việc cung cấp những kiến thức khái quát, sau đó
là những tác phẩm đi vào từng lónh vực, từng nội dung cụ thể, mà không trình
bày theo trình tự thời gian sách được xuất bản.
Có lẽ là thiếu sót khi nghiên cứu về quan hệ kinh tế của Việt Nam mà
không tìm hiểu qua tác phẩm Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam (1945 1995) (tập 2) của tác giả Lưu Văn Lợi. Trong công trình này, tác giả đã bao quát
nửa thế kỷ lịch sử ngoại giao của Việt Nam. Tác giả dành 95 trang để nói về quá
trình Việt Nam hội nhập khu vực, tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam –
Hoa Kì, Việt Nam lập quan hệ với các nước EU, Nga… cũng như quá trình nước
ta hội nhập châu Á – Thái Bình Dương. Đây là những kiến thức tổng quát rất bổ
ích đối với những ai nghiên cứu về đường lối đối ngoại của nước ta. Qua tác
phẩm, chúng ta thấy được chủ trương của Đảng và nhà nước Việt Nam “luôn


luôn mong muốn có quan hệ hữu nghị và hợp tác trên cơ sở các nguyên tắc cùng

tồn tại hoà bình” [18,tr250]. Tác giả cũng cho chúng ta thấy được việc bình
thường hoá quan hệ giữa Hoa Kì và Việt Nam không chỉ là vấn đề riêng của hai
nước. Đây là một nhân tố quan trọng có tác dụng giữ cân bằng lực lượng và duy
trì ổn định trong khu vực Đông Nam Á. Việt Nam quyết cùng các nước khác
gắng hết sức mình vì Đông Nam Á hoà bình, ổn định và phát triển, vì khu vực
châu Á – Thái Bình Dương phồn vinh. Tuy nhiên, do thời gian giới hạn từ 1945 –
1995, cho nên, tác giả chỉ nêu được những nét khái quát về quá trình Việt Nam
hội nhập khu vực, cũng như tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam – Hoa
Kì, mà không có những nghiên cứu sâu về quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với
các nước trên.
Năm 2003, nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội đã xuất bản quyển
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Các nhà ngiên
cứu đã cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết cơ bản về quá trình hình thành,
phát triển cũng như những mục tiêu, nguyên tắc hoạt động của APEC. Tác phẩm
nêu ra những mục tiêu hoạt động của APEC là tự do hoá thương mại và đầu tư,
thuận lợi hoá thương mại APEC, hợp tác kinh tế kỹ thuật (ECOTECH). Đây là
một tài liệu hữu ích, vì nó đã cung cấp những kiến thức khái quát, đầy đủ về
diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương. Đặc biệt, sách cũng dành
chương VI để giới thiệu về sự tham gia của Việt Nam vào APEC trong thời gian
qua. Các tác giả cũng vạch ra triển vọng quan hệ hợp tác của Việt Nam trong
APEC thời gian tới. Tuy vậy, như đã nói ở trên, do là tác phẩm cung cấp những
kiến thức khái quát về APEC, cho nên, vấn đề quan hệ kinh tế giữa APEC với
Việt Nam, giữa các quốc gia hay các khu vực cụ thể không được đề cập đến.
Trong quyển APEC – những thách thức và cơ hội do nhà xuất bản
Chính trị quốc gia Hà Nội xuất bản năm 1997, các tác giả thuộc viện nghiên cứu
Đông Nam Á - Singapore đã đề cập đến nhiều vấn đề về lý luận cũng như
những số liệu thực tế về quan hệ kinh tế của các nước lớn trong khối, đồng thời,
các tác giả cũng cho chúng ta thấy được động thái của các nước lớn, các khối
nước (như ASEAN, trong đó có Việt Nam), trong tiến trình hội nhập quốc teá.



Cho đến nay, hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ về quan
hệ kinh tế giữa khối Bắc Mó với Việt Nam. Đa phần các tác phẩm đều đề cập
nhiều đến quan hệ kinh tế giữa Hoa Kì với Việt Nam. Trong phạm vi nguồn tài
liệu có hạn, chúng tôi cũng chỉ xin giới thiệu về những công trình nghiên cứu có
liên quan đến đề tài, với Hoa Kì là một đại diện tiêu biểu của khối Bắc Mó gồm
ba nước Hoa Kì, Canada, Mexico.
Năm 2001, nhà xuất bản Thống kê xuất bản quyển Tìm hiểu về Hiệp
định giữa Cộng hoà xã hội chủ nghóa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
về quan hệ thương mại. Sách gồm 7 chương: thương mại hàng hoá, quyền sở
hữu trí tuệ, thương mại dịch vụ, phát triển quan hệ đầu tư, tạo thuận lợi cho kinh
doanh, các qui định liên quan đến tính minh bạch, công khai và quyền khiếu
kiện, những điều kiện chung cùng những phần phụ lục. Trong mỗi chương, sách
nêu lên những qui chế, những định nghiã, nghóa vụ , quyền lợi… của hai bên
tham gia vào hiệp định. Có thể nói, đây là một văn kiện có tính pháp lý, giúp
người đọc có những hiểu biết đúng đắn, chính xác về quan hệ thương mại giữa
hai nước.
Công trình nghiên cứu về Quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam
– Hoa Kỳ của tác giả Nguyễn Thiết Sơn do nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà
Nội xuất bản năm 2004, cũng đã cung cấp nhiều tài liệu bổ ích cho đề tài. Sách
trình bày một cách khái quát, có hệ thống tiến trình bình thường hoá quan hệ
kinh tế Việt Nam và Hoa Kì, những kết quả đạt được trong thương mại đầu tư
giữa hai nước và những vấn đề, những khó khăn mà Việt Nam bước đầu gặp
phải cũng như triển vọng quan hệ kinh tế giữa hai nước. Đặc biệt, tác giả đã
cung cấp một hệ thống bảng số liệu về quan hệ thương mại Việt Nam – Hoa Kì
từ năm 1992 – 2001. Đây là những số liệu đáng tin cậy, giúp chúng tôi có cơ sở
để phân tích những kết quả đạt được trong quan hệ thương mại giữa hai nước.
Trong cuốn Quan hệ kinh tế của Hoa Kì và Nhật Bản với Việt Nam từ
1995 đến nay của Bộ ngoại giao và Học viện quan hệ quốc tế cũng đề cập đến
quan hệ kinh tế giữa Hoa Kì với Việt Nam. Tuy nhiên, do thời gian giới hạn từ



1995 – 2001 cho nên, quan hệ kinh tế cũng như những triển vọng trong quan hệ
giữa hai nước thời gian sau đó không được các tác giả đề cập đến.
Năm 2000, tác giả Đỗ Đức Định đã có tác phẩm nghiên cứu về Quan hệ
kinh tế Việt Nam – Hoa Kìø do nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội phát hành. Sách
nêu lên tiến trình bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, đồng thời tác giả dành
chương V để nêu lên những lónh vực hợp tác giữa Hoa Kì và Việt Nam, nhất là
trong lónh vực kinh tế. Tuy nhiên, các tác giả chỉ chú trọng đến quan hệ đầu tư
giữa hai nước, mà ít nêu lên những mối quan hệ thương mại…
Ngoài ra, có rất nhiều công trình nghiên cứu về chính sách kinh tế cũng
như quan hệ của Hoa Kì với một số nước trên thế giới. Trong đó, đáng kể đến là
tác phẩm Quan hệ của Hoa Kì với các nước lớn ở khu vực châu Á– Thái Bình
Dương do tiến só Vũ Dương Huân chủ biên. Nội dung sách trình bày về tình hình
khu vực châu Á – Thái Bình Dương thời kỳ sau chiến tranh lạnh và mối quan hệ
giữa Hoa Kì với các cường quốc trong khu vực. Sách góp phần đánh giá về quan
hệ của các nước lớn hiện nay và xu thế phát triển trong quan hệ giữa các nước
lớn trong tương lai. Tuy không đề cập đến quan hệ kinh tế cũng như chính sách
của Hoa Kì đối với Việt Nam, nhưng các tác giả cho chúng ta cái nhìn khái quát
về quan hệ giữa các nước lớn trong khu vực, từ đó, chúng ta có thể áp dụng và
rút kinh nghiệm đối với thực tiễn đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế.
Với phạm vi giới hạn, TS Lê Khương Thuỳ (thuộc trung tâm nghiên cứu
Bắc Mó) đã cho chúng ta biết được Chính sách của Hoa Kìø đối với ASEAN
thời kỳ trong và sau chiến tranh lạnh trong tác phẩm cùng tên. Tác giả đã đi
sâu nghiên cứu một cách có hệ thống sự phát triển chính sách của Hoa Kì đối với
ASEAN thời kỳ trước và sau chiến tranh lạnh. Chiến lược và chính sách của Hoa
Kì đối với ASEAN có ảnh hưởng trực tiếp đến các nước thuộc khu vực Đông
Nam Á, trong đó có Việt Nam. Việc tìm hiểu chính sách của Hoa Kì đối với
ASEAN dưới góc độ lịch sử có ý nghóa thực tiễn đối với nước ta trong việc hoạch

định chính sách đối ngoại với Hoa Kì trên tất cả các lónh vực”


Quyển Mỹ điều chỉnh chính sách kinh tế do Nguyễn Thiết Sơn chủ biên,
xuất bản năm 2003, cũng rất hữu ích đối với chúng tôi khi thực hiện đề tài. Nội
dung cuốn sách trình bày trực tiếp những chính sách kinh tế và điều chỉnh chính
sách kinh tế cơ bản của Hoa Kì trong những năm 90 và định hướng chính sách
những năm đầu thế kỷ XXI. Đây là khoảng thời gian mà những thay đổi chính
sách của Hoa Kì có tác động rất lớn đến quan hệ giữa Hoa Kì và Việt Nam.
Cũng chính trong thời gian này, dươi nhiệm kỳ của tổng thống Bill Clinton, việc
bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kì đã được thực hiện, quan hệ giữa hai
nước ngày càng phát triển cao hơn khi hiệp định thương mại song phương được kí
kết.
Trước đó, năm 1996, tác giả Nguyễn Xuân Thắng thuộc trung tâm nghiên
cứu châu Á – Thái Bình Dương giới thiệu đến bạn đọc quyển Việt Nam và các
nước châu Á – Thái Bình Dương – các quan hệ kinh tế hiện nay và triển
vọng. Như tựa đề, sách đề cập đến quan hệ kinh tế của Việt Nam với một số
nước thuộc khối APEC như Hoa Kì, Nhật Bản… Đồng thời tác giả cũng cho
chúng ta thấy được vai trò, vị trí quan trọng của các nước châu Á – Thái Bình
Dương trong chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam và một số vấn đề cần
giải quyết. Tuy nhiên, triển vọng trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước lớn
trong APEC chưa được tác giả đi sâu phân tích.
Nghiên cứu quan hệ kinh tế giữa các nước thuộc khối ASEAN và Việt
Nam được rất nhiều tác giả quan tâm. Trong khuôn khổ có hạn của luận văn,
chúng tôi chỉ xin đề cập đến các tác phẩm tiêu biểu sau:
Năm 1996, trường Đại học tổng hợp TP.HCM xuất bản quyển ASEAN,
quá trình phát triển và hoạt động do tác giả Nguyễn Văn Lịch viết. Như tựa
đề, sách cung cấp cho người đọc những kiến thức khái quát về quá trình phát
triển và hoạt động của khối ASEAN, cũng như quan hệ ASEAN - Việt Nam từ
1967 đến thời điểm sách được xuất bản.

Năm 1997, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội đã tổ chức
hội thảo quốc tế với chủ đề: "ASEAN hôm nay và ngày mai" nhân dịp ASEAN


tròn 30 tuổi. Hội thảo đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu tham gia. Kỷ yếu hội thảo
gồm 2 tập. Tập 1 có chủ đề "ASEAN hôm nay và triển vọng trong thế kỷ XXI",
chủ đề của tập 2 là "ASEAN và Việt Nam". Kỷ yếu bao gồm nhiều bài viết liên
quan đến chủ đề của hội thảo của nhiều tác giả trong và ngoài nước, là nguồn tài
liệu tham khảo hữu ích khi chúng tôi thực hiện đề tài.
Năm 1998, Nhà xuất bản Tài chính xuất bản quyển Quan hệ thương mại
- đầu tư giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEAN, do Võ Thanh Thu
chủ biên. Qua tác phẩm, các tác giả cho chúng ta thấy được mối quan hệ thương
mại và đầu tư giữa các nước thành viên ASEAN, và những bài học thu hút vốn
đầu tư của các nước ASEAN đối với Việt Nam. Sách còn cung cấp cho người
đọc những bảng số liệu về trao đổi thương mại và đầu tư của các nước ASEAN
vào Việt Nam. Đây là những số liệu đáng tin cậy, giúp ích rất nhiều trong quá
trình chúng tôi thực hiện luận văn.
Năm 2001, các tác giả thuộc bộ môn Lịch sử thế giới-Khoa Lịch sửTrường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM đã thực hiện đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ với chủ đề Quan hệ Việt Nam - ASEAN và những
bài học kinh nghiệm, do Lê Văn Quang làm chủ biên. Đây là công ttrình
nghiên cứu công phu của những nhà sử học có tâm huyết với nghề. Sách nghiên
cứu về quan hệ giữa Việt Nam - ASEAN từ khi khối này thành lập cho đến năm
2000 và những bài học kinh nghiệm rút ra từ mối quan hệ đó. Tuy nhiên, do thời
gian giới hạn ở năm 2000, cho nên quan hệ giữa ASEAN và Việt Nam giai đoạn
sau chưa được các tác giả đề cập đến.
Một tác phẩm khác có ý nghóa đối với những ai nghiên cứu về quan hệ
kinh tế của Việt Nam đối với các nước khác: Những vấn đề kinh tế Việt Nam
– Thử thách của hội nhập do Phạm Đỗ Chí, Trần Nam Bình, Vũ Quang Việt
chủ biên, được xuất bản vào năm 2002. Sách tập hợp nhiều bài viết của nhiều
tác giả thuộc các cơ quan kinh tế, các trường đại học, các viện nghiên cứu trong

và ngoài nước, trong đó, tác giả Vũ Quang Việt hiện là chuyên viên cấp cao của
Liên hiệp quốc từ 1984, là nhóm trưởng nhóm nghiên cứu về phương pháp luaän


thống kê kinh tế quốc gia của Liên hiệp quốc. Nội dung của sách có 4 phần với
những chủ đề khác nhau.
Các tác giả giúp chúng ta có cái nhìn khái quát về bối cảnh quốc tế khi
Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và những bài học kinh nghiệm rút ra
từ một số nước bước đầu thành công trong quá trình toàn cầu hoá. Nó còn cung
cấp những vấn đề lý luận cũng như những số liệu thực tế trong quan hệ giữa Việt
Nam với một số nước.
Nhìn chung, có nhiều công trình nghiên cứu về quan hệ kinh tế giữa Việt
Nam và các nước ASEAN, giữa Hoa Kì và Việt Nam, hoặc chính sách kinh tế
của Hoa Kì, cũng như những chính sách của Việt Nam trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, đa số các sách chỉ nghiên cứu một khía cạnh trong
quan hệ kinh tế song phương, hoặc quan hệ thương mại, hoặc đầu tư, ít chú trọng
đến việc nghiên cứu quan hệ hợp tác giữa các khối nước trong APEC với Việt
Nam. Thêm vào đó, thời gian mà các tác phẩm, tác giả đề cập đến chủ yếu trong
phạm vi từ những năm 90 của thế kỷ XX đến khoảng năm 2001. Trong khi đó,
lịch sử mỗi ngày một thay đổi và có rất nhiều biến động, quan hệ hợp tác giữa
các khối nước trong APEC với Việt Nam trong khoảng thời gian từ 2001 – 2005
có nhiều diễn tiến mới chưa được các tác giả quan tâm nghiên cứu. Vì vậy, việc
tìm hiểu toàn diện quan hệ hợp tác giữa các khối nước trong APEC với Việt
Nam qua trường hợp khối Bắc Mó và các nước thuộc khối ASEAN là vô cùng
cần thiết.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi cũng thu được nguồn tài liệu
khá phong phú từ các bài viết của nhiều nhà nghiên cứu về các vấn đề liên quan
đến đề tài in rải rác trên các báo, tạp chí...
Ngoài các nguồn tư liệu sách, báo, tạp chí… khi nghiên cứu về vấn đề
này, chúng tôi cũng thu thập được nhiều thông tin từ các trang web của APEC,

AFTA, ASEAN, trang tin điện tử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghóa Việt Nam,
trang Web của Bộ Ngoại giao Việt Nam… trên mạng internet. Đây cũng là
những tư liệu vô cùng quý báu và có tính cập nhật cao khi thực hiện đề tài.


Về quan hệ hợp tác giữa hai thành viên còn lại của khối Bắc Mó là
Canada và Mexico với Việt Nam trong khuôn khổ APEC, hầu như có rất ít tác
phẩm đề cập đến. Với rất nhiều nỗ lực trong việc tìm tư liệu khi thực hiện đề tài,
chúng tôi cũng chỉ tìm được một số bài báo in rải rác trên các báo, và nguồn
thông tin tư liệu từ Thông tấn xã có đề cập đến quan hệ hợp tác giữa Canada,
Mexico với Việt Nam. Từ nguồn tài liệu ít ỏi này, chúng tôi sẽ cố gắng rút ra
những kết luận, những triển vọng trong quan hệ kinh tế giữa hai nước.
3. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
Trên cơ sở kế thừa các công trình của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng
tôi cố gắng làm rõ mối quan hệ hợp tác giữa các khối nước trong APEC với Việt
Nam qua trường hợp khối Bắc Mó và khối ASEAN. Khi nghiên cứu về quan hệ
hợp tác giữa khối Bắc Mó và khối ASEAN với Việt Nam trong khuôn khổ APEC,
chúng tôi chú trọng đến việc phân tích, đánh giá mối quan hệ kinh tế giữa hai
khối nước này với Việt Nam. Trên cơ sở phân tích, đánh giá những thành tựu đạt
được và những mặt chưa được trong quan hệ kinh tế cũng như trên các lónh vực
khác giữa khối Bắc Mó, khối ASEAN với Việt Nam trong khuôn khổ APEC để
có cái nhìn tổng quát về quan hệ giữa APEC và Việt Nam trong lónh vực này.
Việc lựa chọn nghiên cứu quan hệ kinh tế giữa khối Bắc Mó và ASEAN
với Việt Nam, vì đó là đại biểu cho hai khối nước phát triển và đang phát triển,
từ đó có cái nhìn toàn diện, đa chiều trong mối quan hệ kinh tế của các nhóm
nước với Việt Nam, cho phép chúng ta rút ra tính quy luật trong quan hệ kinh tế
giữa các nước và các khối nước trong APEC. Trong quan hệ kinh tế, chúng tôi
đặc biệt chú trọng đến quan hệ thương mại và đầu tư, vì đây là những nội dung
chủ yếu trong chương trình hành động của APEC.
Ở đây, khi nói đến khối ASEAN, chúng tôi chỉ đề cập đến 6 nước thành

viên ASEAN, đồng thời là những nước đang phát triển, tham gia vào tổ chức
APEC. Đó là Brunei, Singapore, Philippines, Indonesia, Malaysia, Thái Lan.
Ngoài khối ASEAN, không gian nghiên cứu vấn đề còn giới hạn ở khối Bắc
Mó, trong đó, Hoa Kì là một đối tác quan trọng của nước ta, cho nên, chúng tôi
cũng xin giới thiệu thêm về tiến trình bình thường hóa quan hệ kinh tế giữa Việt


Nam và Hoa Kì từ năm 1995. Đây cũng là khoảng thời gian mà Hiệp định thương
mại Hoa Kì - Việt Nam được kí kết (11/1997), đánh dấu bước tiến mới trong
quan hệ giữa hai nước, đồng thời mở ra cho Việt Nam những thử thách và cơ hội
mới trên tất cả các lónh vực kinh tế, chính trị, xã hội, đối ngoại… với Hoa Kì nói
riêng, với các nước trên thế giới nói chung.
Khối APEC ra đời từ năm 1989, nhưng đến năm 1998 Việt Nam mới chính
thức được kết nạp vào tổ chức này. Vì vậy, chúng tôi tập trung nghiên cứu mối
quan hệ hợp tác giữa APEC và Việt Nam qua trường hợp khối Bắc Mó và khối
ASEAN kể từ khi Việt Nam gia nhập đến năm 2005. Đây là khoảng thời gian
nước ta có nhiều nỗ lực để hội nhập nền kinh tế quốc tế và đạt được những thành
tựu quan trọng. Đồng thời, đây cũng là khoảng thời gian Việt Nam chuẩn bị
nhiều mặt để đăng cai hội nghị cấp cao APEC vào năm 2006.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghóa Mác - Lê-nin, trong quá trình thực
hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu chuyên ngành là phương
pháp lịch sử và phương pháp logic.
Phương pháp lịch sử giúp chúng tôi tái hiện lại tiến trình quan hệ hợp tác
giữa APEC và Việt Nam qua trường hợp khối Bắc Mó và khối ASEAN trong
khoảng thời gian từ 1998 đến năm 2005 trong bối cảnh quốc tế và khu vực có
nhiều biến động. Việc nghiên cứu quan hệ hợp tác giữa các nước trong khối Bắc
Mó và khối ASEAN với Việt Nam trong khuôn khổ APEC cho chúng tôi có cái
nhìn khái quát về quan hệ giữa tổ chức này với Việt Nam.
Phương pháp logic giúp chúng tôi lí giải những vấn đề phức tạp trong quan

hệ kinh tế giữa APEC và Việt Nam qua trường hợp khối Bắc Mó và khối
ASEAN. Việc làm này giúp chúng tôi rút ra được những nét bản chất, những đặc
điểm có tính quy luật trong quan hệ giữa APEC và Việt Nam.
Ngoài ra, chúng tôi cũng sử dụng phương pháp liên ngành như phương
pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế, phương pháp nghiên cứu kinh tế, phương pháp
thống kê, xử lý số liệu thu thập được nhằm đưa ra những kết luận chính xác về


những thành tựu đạt được trong quan hệ giữa khối Bắc Mó và Việt Nam trong
khuôn khổ APEC ở lónh vực kinh tế.
5. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung chính của luận văn chia
thành 4 chương:
Chương 1: Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương với Việt
Nam
1.1. Quá trình ra đời và các giai đoạn phát triển của APEC
1.2. Hoạt động của Việt Nam trong APEC
Chương 2: Quan hệ hợp tác giữa APEC với Việt Nam qua trường hợp khối
ASEAN (1998 – 2005)
2.1. Khối ASEAN với Việt Nam
2.2. Quan hệ hợp tác kinh tế ASEAN – Việt Nam trong khuôn khổ APEC
(1998-2005)
2.3. Các quan hệ khác
Chương 3: Quan hệ hợp tác giữa APEC với Việt Nam qua trường hợp khối
Bắc Mó (1998-2005)
3.1. Khái quát về khối Bắc Mó
3.2. Quan hệ hợp tác giữa Hoa Kì với Việt Nam trong khuôn khổ APEC
(1998-2005)
3.3. Quan hệ hợp tác Canada – Việt Nam trong khuôn khổ APEC (19982005) .........................................................................................................................
3.4. Quan hệ hợp tác Mexico – Việt Nam trong khuôn khổ APEC (19982005)

Chương 4: Đặc điểm, bài học kinh nghiệm, những cơ hội và thách thức trong
quan hệ hợp tác giữa APEC với VIỆT NAM qua trường hợp khối Bắc Mó và
khối ASEAN
4.1. Những đặc điểm của quan hệ hợp tác kinh tế giữa khối Bắc Mó, ASEAN
trong APEC với Việt Nam


4.2. Bài học kinh nghiệm
4.3. Những cơ hội và thách thức trong quan hệ hợp tác giữa khối Bắc Mó và
khối ASEAN với Việt Nam trong khuôn khổ APEC
4.4. Triển vọng quan hệ hợp tác APEC – Việt Nam qua trường hợp khối Bắc
Mó và khối ASEAN
4.5. Những kiến nghị, giải pháp


CHƯƠNG 1
DIỄN ĐÀN HP TÁC KINH TẾ CHÂU Á – THÁI BÌNH
DƯƠNG VỚI VIỆT NAM
APEC (Asia Pacific Economic Cooperation forum) là diễn đàn kinh tế đầu
tiên trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. APEC bao gồm 21 nền kinh tế
thành viên, trải ra trên bốn lục địa với hơn 1/3 dân số thế giới (2,5 tỉ người), trên
50% GDP và 47% thương mại thế giới. APEC được thành lập nhằm mục tiêu
thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững về kinh tế của các thành viên, tăng cường tinh
thần cộng đồng và các mối liên kết khu vực vì sự thịnh vượng chung của khu vực
châu Á – Thái Bình Dương. APEC hoạt động dựa trên 3 trụ cột chính: thuận lợi
hoá, tự do hoá thương mại và đầu tư, hợp tác kinh tế – kỹ thuật. Không giống
như nhiều tổ chức khu vực khác, APEC là một diễn đàn kinh tế mở, không có
các cam kết ràng buộc đối với các nền kinh tế thành viên. Cho đến nay, hợp tác
trong APEC ngày càng “thực chất” hơn. APEC ngày càng khẳng định vị trí, vai
trò của mình trong hệ thống thương mại đa phương, trong việc giải quyết các vấn

đề chung của khu vực và thế giới.
Năm 1998, cùng với Nga, Peru, Việt Nam chính thức trở thành thành viên
của APEC. Sau gần 10 năm tham gia diễn đàn, APEC đã mang lại cho Việt Nam
nhiều cơ hội thuận lợi, nhưng cũng không kém những thách thức trong quá trình
hợp tác và phát triển kinh tế.
1.1. QUÁ TRÌNH RA ĐỜI VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA
APEC.
1.1.1. QUÁ TRÌNH RA ĐỜI
1.1.1.1. Những nhân tố dẫn đến sự ra đời của APEC
Sự tăng trưởng cao liên tục của các nền kinh tế ở khu vực châu Á –
Thái Bình Dương
Từ những năm 1980, trong khi nền kinh tế thế giới bị suy thoái, các nước ở
khu vực châu Á luôn dẫn đầu thế giới về tốc độ phát triển kinh tế. Mức tăng
trưởng kinh tế gần 50%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế các khu


vực khác trên thế giới. Xuất khẩu là động lực tăng trưởng ở các nước thuộc khu
vực này. Trong những năm 1980 -1992, "xuất khẩu của các nước châu Á tăng
nhanh nhất thế giới, đạt tốc độ bình quân hàng năm trên 10% so với 4% của các
nước châu Âu và Mó Latinh và 6% của các nước công nghiệp phát triển" [55,tr
19].
Đặc biệt, ở châu Á, Đông Á đã trở thành khu vực có tiềm năng và sức tăng
trưởng nhanh nhất, đã thu hút nhiều sự chú ý của thế giới. Mức tăng trưởng kinh
tế bình quân của khu vực Đông Á trong khoảng 20 năm qua là trên 8%, trong khi
đó, mức tăng trưởng bình quân của toàn bộ các nước đang phát triển là 4,3%, của
các nước phát triển là 3% [34,tr17-18].
Chính sự phát triển nhanh trong buôn bán và đầu tư là một trong những
nhân tố quyết định góp phần vào sự tăng trưởng cao của các nền kinh tế ở khu
vực châu Á – Thái Bình Dương. Để đảm bảo cho sự phát triển kinh tế cao và ổn
định trong khu vực, hợp tác và liên kết kinh tế khu vực trở thành nhu cầu vô cùng

cấp thiết.
Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá phát triển mạnh
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, của xu thế hoà
bình , ổn định, hợp tác và phát triển cũng như quá trình tự do hoá nền kinh tế ,
kinh tế thị trường… quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã được hình
thành và phát triển mạnh mẽ từ khoảng hai thập niên cuối cùng của thế kỷ XX.
Đặc trưng cơ bản của toàn cầu hoá là mạng lưới sản xuất toàn cầu được
hình thành với những chủ thể chính là các tập đoàn kinh doanh toàn cầu- các
công ty xuyên quốc gia (TNCs). Cùng với nó là sự gia tăng và phát triển mạnh
mẽ của thương mại quốc tế, của đầu tư và tài chính quốc tế, của liên kết kinh tế
quốc tế. Nếu năm 1989, số lượng các hiệp định thương mại tự do là 26 thì năm
2002, con số này đã là 143 [34,tr40]
Bước sang những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, dưới tác dụng của làn sóng
mới của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ, của quá trình chuyển
sang nền kinh tế tri thức, của tự do hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình


toàn cầu hoá nền kinh tế có những bước phát triển mới. Xu hướng tự do hoá
trong các hoạt động kinh tế trở thành phổ biến, nhất là trong các lónh vực thương
mại và đầu tư. Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế sẽ phá vỡ những giới hạn của
điều kiện tự nhiên, hình thành hệ thống phân công lao động toàn cầu, và tuỳ
theo hoàn cảnh cụ thể cũng như trình độ phát triển ở mỗi nước, nóù sẽ lôi kéo tất
cả các nước trên thế giới tham gia vào quá trình này.
Tuy nhiên, trên thực tế, toàn cầu hoá kinh tế chưa thực sự tạo ra một hệ
thống kinh tế công bằng, chưa mang tính nhân bản, cho nên gặp phải nhiều
chống đối. Điều này có thể lý giải bởi nhiều nguyên nhân. Mặc dù là một quá
trình phát triển dựa trên cơ sở những cam kết, thoả thuận tự nguyện và phối hợp
điều tiết giữa các chủ thể chính như các nhà nước quốc gia dân tộc, các công ty
xuyên quốc gia và các tổ chức kinh tế thế giới cũng như khu vực, nhưng toàn cầu
hoá kinh tế hiện nay đang bị chi phối bởi các nước công nghiệp phát triển, đứng

đầu là Hoa Kì và Tây Âu. Vì vậy, nhiều người cũng cho rằng toàn cầu hoá kinh
tế là “Hoa Kì hoá, Tây hoá và Tư bản hoá”.
Điều này càng được khẳng định hơn khi chúng ta xem qua báo cáo của
Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP): "Kể từ khi làn sóng toàn cầu
hoá bùng nổ từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay, thì chỉ có 10 nước giàu
lên nhờ tận dụng được những cơ hội do xu hướng nhất thể hoá nền kinh tế thế
giới mang lại, trong khi đó có tới 130 nước nghèo đi, trong đó có 60 nước GDP
bình quân đầu người thấp hơn 10 năm trước”. Thêm vào đó, nếu những năm
1960, chênh lệch thu nhập của 20% dân số thuộc tầng lớp giàu nhất và nghèo
nhất là 30 lần, thì đến năm 1990 con số này đã tăng lên 60 lần, và năm 1997 là
74 lần. Các nước phát triển chiếm 1/5 dân số thế giới nhưng chiếm tới 86% GDP
toàn cầu, 4/5 thị trường xuất khẩu, 1/3 vốn đầu tư nước ngoài, trong khi đó, các
nước nghèo nhất với số dân tương ứng chỉ chiếm 1% GDP thế giới [57,tr12]. Như
vậy, chúng ta thấy rằng, trong nền kinh tế thị trường toàn cầu, lợi ích mà các
quốc gia thu được nhiều hay ít phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ công
nghệ, vốn, kinh nghiệm quản lý, chất lượng nguồn nhân lực…


Cùng với toàn cầu hoá và như một sự ứng phó với toàn cầu hóa, xu thế khu
vực hoá và địa phương hoá cũng sẽ phát triển mạnh mẽ cả về chiều sâu lẫn
chiều rộng. Đặc trưng chủ yếu của xu thế này là thành lập các khu vực kinh tế
mới, mở rộng các khu vực đang tồn tại, tăng vai trò của các nhóm cộng đồng và
các tổ chức phi chính phủ trong quản lý… Từ cuối những năm 1980, liên kết kinh
tế khu vực ở châu Âu và Bắc Mó đã được đẩy mạnh thêm một bước. Sự hợp tác
của các nước châu Âu liên tục phát triển theo một trình tự logic. Từ Cộng đồng
than thép châu Âu (CECS) ra đời năm 1951 đến Cộng đồng kinh tế châu Âu
(EEC) ra đời năm 1957, và sau đó là liên minh Châu u (EU) với một đồng tiền
chung, nghị viện chung, an ninh chung... Ngày 1/1/1999, đồng EURO chính thức
ra đời, đánh dấu sự hợp tác ngày càng chặt chẽ giữa các nước châu Âu, tạo điều
kiện thuận lợi để nâng cao vị thế của EU trên thế giơi. Và cho đến nay, liên

minh châu Âu đã vượt khỏi phạm vi một số nước ban đầu, mở rộng về phía đông
và nam Âu với tổng số nước tham gia là 25. Còn ở Bắc Mó, tháng 1/1989, Hoa Kì
và Canada chính thức kí Hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự do song
phương (CAFTA), và gần đây là khu vực mậu dịch tự do Bắc Mó (NAFTA) dự
định sẽ hình thành một khu vực mậu dịch tự do Tây bán cầu, trải dài từ Alaska
tới Tierra de Fuego trong năm nay.
Khu vực hoá và toàn cầu hoá vừa đối nghịch nhau, vừa bổ sung cho nhau.
Do có những cam kết và thỏa thuận ưu đãi riêng trong khu vực nên khu vực hoá
tạo nên sự cạnh tranh và phân biệt đối xử giữa những nước trong với những nước
ngoài khu vực cũng như giữa khu vực này với khu vực khác. Mặt khác, tất cả các
nước trong từng khu vực khác nhau lại bị chi phối lẫn nhau do cùng tham gia vào
hệ thống sản xuất toàn cầu thống nhất do các công ty xuyên quốc gia tạo thành.
Tất cả các nước đều hướng tới tự do hoá thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế.
Cho nên, “khu vực hoá chính là biểu hiện quá độ của quá trình hội nhập kinh tế
toàn cầu”.
Trước sự gia tăng ngày càng mạnh mẽ của liên kết ở các tiểu khu vực, thì
châu Á – Thái Bình Dương tuy có ổn định tương đối về chính trị, năng động về
kinh tế, có nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng lại chưa có một hình thức liên


kết nào có tính toàn khu vực, để bảo đảm cho sự phát triển ổn định của các quốc
gia trong khu vực. Đó cũng là vấn đề băn khoăn đối với các nước, nhất là các
nước phát triển ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Sự tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nền kinh tế
Sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong khu vực châu Á – Thái
Bình Dương ngày càng chặt chẽ hơn vào những năm 70 – 80 của thế kỷ XX. Ở
lónh vực thương mại, xuất khẩu hàng hoá của các nước châu Á - Thái Bình
Dương sang Hoa Kì chiếm 25,8% tổng giá trị xuất khẩu của họ, trong khi xuất
khẩu của Hoa Kì sang châu Á – Thái Bình Dương chiếm 30,5% tổng giá trị xuất
khẩu của Hoa Kì. Xuất khẩu của Nhật Bản sang Hoa Kì chiếm 34,2% giá trị xuất

khẩu của Nhật Bản và xuất khẩu của Hoa Kì sang Nhật Bản chiếm 12,3% tổng
giá trị xuất khẩu của Hoa Kì. Hoa Kì hiện nhập khẩu từ Singapore 18,2 tỉ USD
và xuất sang thị trường của nước này 16,3 tỉ USD hàng năm. Ở lónh vực đầu tư,
các dòng đầu tư lẫn nhau cũng tăng lên. Năm 2002, lần đầu tiên, Trung Quốc
thay thế Hoa Kì trở thành địa điểm đầu tư ở nước ngoài lớn nhất của Hàn Quốc.
Sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày một tăng đã tạo ra nhu
cầu gắn kết, phối hợp giữa các nền kinh tế trong khu vực với nhau.
Như vậy, đứng trước những bối cảnh quốc tế và khu vực, trong dòng chảy
không thể cưỡng lại được của xu thế quốc tế hoá nền kinh tế, diễn đàn hợp tác
kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) đã ra đời nhằm phối hợp các chính
sách về lónh vực kinh tế, thúc đẩy tự do hoá thương mại và đầu tư, tăng cường
hợp tác kinh tế, khoa học - kỹ thuật giữa các nền kinh tế thành viên, hướng tới
mục tiêu cao hơn là duy trì sự phát triển kinh tế cao và bền vững của khu vực
châu Á – Thái Bình Dương khi bước vào thế kỷ mới. APEC ra đời là kết quả tác
động của các nhân tố: sự tăng trưởng cao liên tục của các nền kinh tế ở khu vực
châu Á – Thái Bình Dương, xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá cũng như sự tuỳ
thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nền kinh tế.
1.1.1.2. Sự thành lập APEC
Những ý nghó đầu tiên về việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do ở
Thái Bình Dương đã được đưa ra từ rất sớm. Năm 1965, hai học giả người Nhật


là Kojima và Kurimoto đã đề nghị thành lập Khu vực mậu dịch tự do Thái Bình
Dương, mà thành viên là các nước công nghiệp phát triển, sau đó sẽ mở cửa cho
các nước đang phát triển ở khu vực tham gia. Tiếp đó, một số học giả khác đã
nhận thức được sự cần thiết về việc hợp tác kinh tế của khu vực. Hội đồng Hợp
tác kinh tế Thái Bình Dương (PECC) ra đời vào năm 1980 phần nào đáp ứng
được nhu cầu liên kết kinh tế trong khu vực.
Đến cuối những năm 1980, ý tưởng thành lập một diễn đàn hợp tác có tính
chất kỹ thuật về các vấn đề kinh tế trong khu vực đã được các quan chức chính

phủ Nhật Bản đưa ra. Mó lúc giờ ít quan tâm đến gợi ý này vì nhiều lý do. Riêng
thủ tướng Australia Bob Hawke đã nhận thức được tầm quan trọng của việc liên
kết kinh tế khu vực đối với sự phát triển kinh tế của đất nước mình. Vì vậy, đầu
năm 1989, tại Seoul - Hàn Quốc, Thủ tướng Bob Hawke đã nêu ý tưởng về việc
thành lập Diễn đàn Tư vấn kinh tế cấp Bộ trưởng ở châu Á - Thái Bình Dương
để chính phủ các nước thành viên có thể phối hợp hoạt động, nhằm thúc đẩy sự
phát triển kinh tế và hệ thống thương mại đa phương. Tháng 11/1989, các bộ
trưởng ngoại giao và kinh tế của các nước Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái
Lan, Malaysia, Philippin, Singapore, Brunei, Indonesia, New Zealand, Canada,
Hoa Kì đã quyết định chính thức thành lập APEC.
Sau đó, APEC kết nạp thêm Trung Quốc, Hồng Công, Đài Loan (1991),
Mexico, Papua New Ghuine (1993), Chileâ (1994), Peru, Lieân bang Nga, Việt
Nam (1998). Cho đến nay, APEC có tất cả 21 nền kinh tế thành viên, trải ra trên
bốn lục địa, với "hơn 1/3 dân số, trên 50% GDP và 47% thương mại thế giới"
[55,tr9].
1.1.1.3. Mục tiêu, nguyên tắc hoạt động của APEC
Mục tiêu
Mục tiêu ban đầu của APEC được tóm gọn trong hai từ: thương mại và
phát triển. APEC nhằm vào hai mục đích: thúc đẩy thương mại và đầu tư; kích
thích sự phát triển ở những khu vực ít phát triển hơn ở châu Á thông qua các hoạt
động chuyển giao nguồn lực. Vì vậy, ngay từ đầu, đã có những ý kiến muốn đặt
tên cho APEC là Tổ chức thương mại và phát triển (OPTAD) [48; 20]. Tuy


×