Tải bản đầy đủ (.pdf) (194 trang)

Luận án tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm hội chứng chuyển hóa theo các tiêu chuẩn khác nhau ở người tiền đái tháo đường và kết quả can thiệp cộng đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 194 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng chuyển hoá (HCCH) là một tập hợp một số yếu tố
nguy cơ (YTNC) tim mạch và chuyển hóa. Các yếu .nj8t6dxtố
thường xuyên xuất hiện trong HCCH bao gồm: Rối loạn dung nạp
glucose (RLDNG), béo phì đặc biệt là béo bụng, rối loạn lipid
(RLLP) gây xơ vữa động mạch, tăng huyết áp (THA) [ Mai Thế Trạch,
Nguyễn Thy Khuê (2007), “Hội chứng chuyển hóa”, Nội tiết học đại cương, Nhà
xuất bản y học, Hà Nội, tr. 503 – 507.], [ Alberti K.G.M., Eckel R.H., Grundy S.M.,
et al. (2009), “Harmonizing the metabolic syndrome” Circulation, 120(16), pp.
1640-1645.]. Các yếu tố nguy cơ này nếu kết hợp với nhau sẽ làm

tăng nguy cơ bệnh tim mạch, đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2 và một
số bệnh liên quan đến chuyển hóa khác.
Hiện nay có nhiều hiệp hội và các tổ chức đưa ra tiêu chuẩn
khác nhau để chẩn đoán hội chứng chuyển hóa như: Tổ chức y tế Thế
giới (WHO), Hiệp hội đái tháo đường quốc tế (IDF), Nhóm nghiên cứu
về kháng insulin Châu Âu (EGIR), Hội các nhà nội tiết lâm sàng Mỹ
(AACE) và Chương trình giáo dục về cholesterol quốc gia của Hoa
Kỳ (NCEP ATPIII) phù hợp với điều kiện thực tế của từng vùng lãnh thổ,
châu lục, chủng tộc,… Tỷ lệ hội chứng chuyển hóa thay đổi khi sử
dụng các tiêu chuẩn chẩn đoán khác nhau. Mỗi tiêu chuẩn tuy có các
tiêu chí khác nhau nhưng đều phục vụ mục đích như sàng lọc hoặc
điều trị,dự phòng. Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng chuyển hóa theo
IDF, AACE và NCEP ATPIII nhằm mục đích sàng lọc hội chứng chuyển
hóa tại cộng đồng. Tiêu chuẩn của WHO và EGIR được gắn vào điều trị
vì liên quan đến cơ chế bệnh sinh là kháng insulin. Theo ước tính của
Hiệp hội đái tháo đường quốc tế, trên thế giới có khoảng 20% - 25%
dân số mắc hội chứng chuyển hóa [International Diabetes Federation
(2006), The IDF consensus worldwide definition of the metabolic syndrome, pp.


1-23.]. Nghiên cứu của Ford E.S. tại Hoa kỳ, phân tích số liệu của 8814


2

đối tượng trên 20 tuổi ghi nhận tỷ lệ hội chứng chuyển hóa theo tiêu
chuẩn NCEP ATPPIII ước tính ở người trưởng thành là trên 20% [Ford E.S.,
Giles W.H., Dietz W.H. (2002), "Prevalence of the metabolic syndrome among US
adults: findings from the third National Health and Nutrition Examination
Survey", JAMA, pp. 287- 356. ]. Theo Parika P.L., Eriksson J.G. và cộng sự, tỷ

lệ hội chứng chuyển hóa theo tiêu chuẩn chẩn đoán của WHO ở đối
tượng tăng glucose máu lúc đói ở nam là 74%, ở nữ là 52,2%, rối loạn
dung nạp glucose tương ứng ở nam là 84,8%, ở nữ là 65,4% [ Parikka
.P.I., Eriksson J.G., et al (2004), “Prevanlence of metabolic syndrome and Its
Components”, Diabetes Care,27(9),pp. 2135 - 2140.].

Tiền đái tháo đường (TĐTĐ) là tình trạng trung gian giữa bệnh lý
và bình thường. Người tiền đái tháo đường có nguy cơ cao chuyển
thành đái tháo đường thực sự. Hàng năm có 5% đến 10% đối
tượng tiền đái tháo đường xuất hiện đái tháo đường mới và cũng
một tỷ lệ tương tự glucose máu trở về bình thường [ Tabák A. G.,
Herder. C., Rathmann W., Brunner E. J., et al. (2012), “Prediabetes: a high-risk
state for diabetes development”, The Lancet, 379(9833), pp. 2279-2290.].

Các biện pháp can thiệp vào hội chứng chuyển hóa và tiền
đái đáo tháo đường chủ yếu là tiết chế dinh dưỡng (TCDD) và rèn
luyện thể lực (RLTL), ngoài ra còn có các biện pháp khác như dùng
thuốc hoặc phẫu thuật. Việt Nam là quốc gia đang phát triển nên
cũng có các yếu tố làm gia tăng hội chứng chuyển hóa và tiền đái

tháo đường. Theo nghiên cứu của Tran Q.B, Pham T.P và cộng sự điều
tra tại đồng bằng sông Hồng ở 2443 đối tượng ghi nhận tỷ lệ hội
chứng chuyển hóa là 16,3% [Tran Q.B., Pham T.P., et al. (2014), “Metabolic
syndrome among a middle – sgad population in the River Delta region of
Vietnam”, BMC Endocrinology Disorders, pp. 14-77.]. Nghiên cứu của Le

N.T.D.S, Kunii S. và cộng sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ hội chứng


3

chuyển hóa là 12% [Le N.T.D.S., Kunii D., et al. (2005), “The metabolic
syndrome: prevalence and risk factors in theurban population of Ho Chi Minh
City”, Diabetes Reseach and clinical practice, (67), pp. 243 - 250.].

Trên thế giới có nhiều tổ chức khác nhau đưa ra các tiêu chuẩn
chẩn đoán hội chứng chuyển hóa và tỷ lệ cũng thay đổi theo từng tiêu
chuẩn. Tại Việt Nam nên sử dụng tiêu chuẩn chẩn đoán nào để xác
định hội chứng chuyển hóa ở người tiền đái tháo đường, đây vẫn là câu
hỏi mang tính thời sự. Chính vì vậy, việc khảo sát hội chứng chuyển
hóa ở người tiền đái tháo đường cần thiết, làm cơ sở áp dụng các biện
pháp can thiệp nhằm giảm sự tiến triển của hội chứng chuyển hóa và
tiền đái tháo đường sang các giai đoạn tiếp theo.
Ninh Bình là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ bao gồm cả vùng
đồng bằng và bán sơn địa, vừa có công nghiệp, nông nghiệp, du
lịch, có sự chuyển đổi ngành nghề, do vậy việc nghiên cứu tiến
hành tại Ninh Bình sẽ cung cấp số liệu đại diện cộng đồng sống ở
vùng đồng bằng trung du Bắc bộ.
Đề tài“Nghiên cứu đặc điểm hội chứng chuyển hóa theo
các tiêu chuẩn khác nhau ở người tiền đái tháo đường và kết

quả can thiệp cộng đồng” nhằm mục tiêu sau:
1.

Nghiên cứu tỷ lệ, đặc điểm hội chứng chuyển hoá theo tiêu chuẩn của
IDF, NCEP-ATP III, EGIR, AACE ở người tiền đái tháo đường tại tỉnh Ninh
Bình (2011-2012).

2.

Đánh giá hiệu quả can thiệp tại cộng đồng sau 2 năm ở người
tiền đái tháo đường tại Ninh Bình (2012-2014).


4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. DỊCH TỄ HỌC, CHẨN ĐOÁN, YẾU TỐ NGUY CƠ VÀ TIẾN TRIỂN
CỦA TIỀN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
1.1.1. Dịch tễ học tiền đái tháo đường
Tiền ĐTĐ là tình trạng suy giảm chuyển hóa glucose, bao gồm
tăng giới hạn glucose máu lúc đói và giảm dung nạp glucose, cả 2 tình
huống này đều tăng glucose máu nhưng chưa đạt mức chẩn đoán ĐTĐ
thực sự. Tuy nhiên, ở giai đoạn TĐTĐ đã xuất hiện tình trạng kháng
insulin, là bước khởi đầu trong tiến trình xuất hiện bệnh ĐTĐ typ 2 [Trần
Hữu Dàng (2011), “Tiền Đái tháo đường”, Tạp chí Nội tiết - Đái tháo đường, (2),
tr. 15 – 21.]. Những trường hợp này được phát hiện khi tiến hành xét

nghiệm glucose máu lúc đói hoặc làm nghiệm pháp dung nạp glucose
máu bằng đường uống hoặc đường tĩnh mạch. Trước đây người ta gọi

tình trạng này là “Đái tháo đường tiềm tàng”, “Đái tháo đường sinh
hóa”, “Đái tháo đường tiền lâm sàng” [ Tạ Văn Bình (2007), “Đại cương về
đái tháo đường và tăng Glucose máu”, Những nguyên lý nền tảng bệnh Đái tháo
đường bệnh tăng glucose máu, Nhà xuất bản y học, Hà Nội, tr. 11 - 52. ]. Năm

2009 WHO cùng các tổ chức y tế khác trên Thế giới thống nhất và đưa
ra khái niệm “Tiền đái tháo đường” để chỉ tình trạng có rối loạn chuyển
hóa glucose của cơ thể.
Có 3 hình thái tiền đái tháo đường đó là:
- Tăng glucose máu lúc đói.
- Rối loạn dung nạp glucose.
- Hoặc kết hợp cả 2 trạng thái trên.


5

Năm 2010, Hiệp hội đái tháo đường thế giới (IDF) báo cáo có
khoảng 344 triệu người trên thế giới bị RLDNG, chiếm khoảng 7,9% ở
nhóm tuổi từ 20 đến 79 tuổi, chủ yếu ở các quốc gia có thu nhập vừa
và thấp. Dự báo đến năm 2030 sẽ tăng lên 472 triệu người chiếm
8,4% dân số thế giới [Colagiuri S., (2011), “Epidemiology of Prediabetes”,
Med Clin N Am (95), pp. 299–307. ]. Năm 2007 - 2008 tại Trung Quốc, Yang

W., Lu J., Weng J. và cộng sự đã thực hiện một điều tra quốc gia tại
14 tỉnh thành tham gia với 46.239 người lớn trên 20 tuổi ghi nhận tỷ
lệ TĐTĐ là 15,5% (nam giới: 16,1%; nữ 14,9%) tương đương 148,2
triệu người (76,1 triệu nam giới; 72,1 triệu nữ giới) [ Yang W., Lu J., Weng
J., et al (2010), “Prevalence of diabetes among men and women in China”, N
Engl J Med (362), pp. 1090 – 101 ]. Ở khu vực Châu Á, Deepa M., Grace M.


và cộng sự khảo sát ở 3 thành phố lớn tại Châu á với cõ mẫu 16.288
đối tượng trên 20 tuổi (Chennai: 6906, Delhi: 5365,và Karachi: 4017)
cho thấy tỷ lệ tiền đái tháo đường tại Chennai là: 17,6%; Delhi:
33,7% và Karachi: 14,6%. Tỷ lệ TĐTĐ cao ở nhóm 20 -24 tuổi sau đó
giảm và ổn định ở độ tuổi sau 45 tuổi tại thành phố Chennai, Delhi
và sau 55 tuổi ở Karachi. Tỷ lệ TĐTĐ tương đương ở cả 2 giới theo
các nhóm tuổi và tỷ lệ này ở nữ cao hơn nam ở thành phố Chennai
[Deepa M., Grace M., Binukumar B. (2015), “High burden of prediabetes and
diabetes in three large cities in South Asia: The center for Cardio-metabolic Risk
Reduction in South Asia (CARRS) Study”. Diabetes researcher and cilincal
practice, pp. 6462]. Năm 2016 Kumar A., Wong R. và cộng sự báo cáo

kết quả điều tra ở những người lớn tại Mexico ghi nhận tỷ lệ TĐTĐ tại
cộng đồng là 44,2%, tỷ lệ bệnh ĐTĐ không được chẩn đoán là 18,0%


6

và tỷ lệ bệnh ĐTĐ là 21,4% [Kumar A., Wong R., Ottenbacher K. J., et al.
(2016), “Prediabetes, undiagnosed diabetes, and diabetes among Mexican
adults: findings from the Mexican Health and Aging Study”, Annals of
epidemiology, 26(3), pp. 163-170.].

Tại Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu về bệnh ĐTĐ và TĐTĐ,
từ năm 2011 đến 2013 Pham N.M và cộng sự điều tra tại cộng đồng
ở phía Bắc Việt Nam với số đối tượng tham gia điều tra là 5602 nam
và 10680 nữ cho thấy tỷ lệ TĐTĐ là 13,5%, bệnh ĐTĐ là 6,0%, với sự
gia tăng dân số ước tính đến năm 2035 thì tỷ lệ TĐTĐ 15,7% và tỷ lệ
bệnh ĐTĐ 7,0% [Pham N.M., Eggleston K. (2016), “Prevalence and
determinants of prediabetes among Vietnamese adults”, Diabetes researcher

and cilincal practice, pp. 6526 ]. Năm 2011 Đỗ Thanh Bình và cộng sự

điều tra cắt ngang tại 30 xã tỉnh Quảng Bình với 2119 đối tượng
tham gia nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc TĐTĐ là: 14,87% (Rối loạn
dung nạp glucose: 8,4%; rối loạn glucose máu lúc đói: 6,47%) [ Đỗ
Thanh Bình, Nguyễn Thị Tố Nga, Nguyễn Văn Tẩn và cs (2011), "Tình hình bệnh
Đái tháo đường, tiền đái tháo đường ở Quảng Bình năm 2011",Tạp chí Nội tiết Đái tháo đường, (6), tr. 33-38. ]. Năm 2011 tại tỉnh Quảng Ngãi, Phạm

Hồng Phương và cộng sự điều tra 2033 đối tượng độ tuổi 30 - 69 ghi
nhận tỷ lệ mắc TĐTĐ là 21,4% (nam: 20,5% và nữ: 22,3%) [ Phạm
Hồng Phương, Lê Quang Toà và cộng sự (2012), "Thực trạng bệnh Đái tháo
đường týp 2, và tiền đái tháo đường tại tỉnh Quảng Ngãi năm 2011", Tạp chí Nội
tiết - Đái tháo đường, (6), tr. 48-55. ]. Năm 2014, Nguyễn Thị Thanh Thuần

và cộng sự báo kết quả nghiên cứu thực trạng ĐTĐ, TĐTĐ ở người
trung niên và cao tuổi tại Thái Nguyên. Đây là nghiên cứu mô tả cắt
ngang được điều tra 2678 đối tượng từ 45 đến 69 tuổi có các YTNC


7

cao mắc bệnh ĐTĐ ghi nhận tỷ lệ RLDNG là 6,6%, RLGLĐ là 4,3%, tỷ
lệ RLDNG tăng dần theo tuổi và cao nhất ở nhóm 65 - 69 tuổi là 9,4%
[Nguyễn Thị Thanh Thuần, Phạm Ngọc Minh, Tô Văn Học (2014), “Thực trạng đái
tháo đường, tiền đái tháo đường ở người trung niên và cao tuổi tại Thái Nguyên”,
Tạp chí y học thực hành, (929+930), tr. 67- 73.].

1.1.2. Chẩn đoán tiền đái tháo đường
Tiền đái tháo đường trước đây người ta gọi tình trạng này là
“Đái tháo đường tiềm tàng”, “Đái tháo đường sinh hóa”, “Đái tháo

đường tiền lâm sàng” [Tạ Văn Bình (2007), “Đại cương về đái tháo đường và
tăng Glucose máu”, Những nguyên lý nền tảng bệnh Đái tháo đường bệnh tăng
glucose máu, Nhà xuất bản y học, Hà Nội, tr. 11 - 52. ]. Năm 2009, WHO

cùng các tổ chức y tế khác trên Thế giới thống nhất và đưa ra khái
niệm “tiền đái tháo đường” để chỉ tình trạng có rối loạn chuyển hóa
glucose của cơ thể. Có nhiều tổ chức khác nhau đưa ra các tiêu
chuẩn để xác định TĐTĐ, trong nghiên cứu của chúng tôi xin được
giới thiệu một số tiêu chẩn chẩn đoán TĐTĐ.
Bảng 1.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán tiền đái tháo đường của WHO năm
2010
Biểu hiện

Glucose máu

Rối loạn glucose máu lúc đói

6,1 - 6,9 mmol/l

(sau ăn 8 giờ)

(110 -25 mg/dl)

Rối loạn dung nạp glucose
(glucose huyết tương sau 2 giờ làm nghiệm
pháp dung nạp glucose đường uống)

7,8 - 11,0 mmol/l
(125 -198 mg/dl)



8

* Nguồn: Theo Bộ y tế (2015) [Bộ Y Tế (2015), “Bệnh Đái
tháo đường”, Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh Nội tiết –
Chuyển hóa, Nhà xuất bản y học, Hà Nội, tr. 174-182.]
Tiêu chuẩn chẩn đoán TĐTĐ theo WHO năm 2010 là một trong
những tiêu chuẩn được sử dụng rộng rãi trên thế giới, có nhiều ưu
điểm và nhược điểm, chỉ sử dụng kết quả glucose máu, không nhất
thiết phải làm xét nghiệm HbA1c, chỉ số glucose máu để chẩn đoán
TĐTĐ ở giới hạn cao hơn các tiêu chuẩn khác nên việc sàng lọc các
đối tượng tại cộng đồng sẽ ít hơn dẫn đến chi phí cho thực hiện tại
cộng đồng sẽ giảm và phù hợp với các nước nghèo và các nước đang
phát triển.
Bảng 1.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán tiền đái tháo đường của ADA năm
2010
Biểu hiện
HbA1c (%)
Rối loạn glucose máu lúc đói

Tiêu chuẩn
5,7 - 6,4%
5,6 - 6,9 mmol/l

(sau ăn 8 giờ)
Rối loạn dung nạp glucose- IGT

(110 - 125 mg/dl)

(glucose huyết tương sau 2 giờ làm


7,8 - 11,0 mmol/l

nghiệm pháp dung nạp glucose đường

(125 - 198 mg/dl)

uống)
* Nguồn: Theo American Diabetes Association 2010 [ American
Diabetes Association (2010), “Standards of medical care in Diabetes”, Diabetes
care, 33 (l 1), pp. S11 -S61.]


9

Chúng ta thấy các tiêu chuẩn chẩn đoán TĐTĐ của WHO và
ADA cũng có những điểm khác biệt, vì vậy khi làm nghiên cứu hay
khi sàng lọc trên cùng một quần thể sẽ cho các kết quả khác nhau.
1.1.3. Yếu tố nguy cơ của tiền đái tháo đường
Tiền đái tháo đường thường xuất hiện ở những người có yếu tố
nguy cơ mắc dù không được coi là nguyên nhân nhưng TĐTĐ hay
xuất hiện ở các đối tượng dư cân, có cuộc sống tĩnh tại ít hoạt động
thể lực và có chế độ ăn và tập luyện không hợp lý.
Dựa vào các yếu tố nguy cơ của TĐTĐ đã được khẳng định,
ADA năm 2012 đã nêu ra chỉ định chung để sàng lọc TĐTĐ và ĐTĐ
týp 2.
+ Sàng lọc cho tất cả các đối tượng ≥ 45 tuổi có hay không có
kèm theo YTNC ít nhất 3 năm / lần.
+ Sàng lọc cho tất cả các đối tượng < 45 tuổi nếu có một hoặc
nhiều trong số các YTNC sau:

- BMI ≥ 25 kg/m2.
- Ít vận động thể lực
- Tiền sử tăng glucose máu lúc đói hoặc rối loạn dung nạp
gluocse.
- Chủng tộc: Người Mỹ gốc Tây Ban Nha, gốc Phi, gốc châu Á,
người châu Úc.
- Tiền sử gia đình có ĐTĐ (bố, mẹ, anh, chị, em ruột).
- Tiền sử THA hoặc đang điều trị THA.
- Tiền sử bệnh lý mạch máu.
- Tiền sử RLLP: HDL-C < 35 mg/dl và/hoặc triglycerid >
250mg/dl.
- Biện hiện kháng insulin: vòng eo > 90 cm ở nam, > 80 ở nữ.


10

- Phụ nữ có hội chứng buồng trứng đa nang.
- Tiền sử ĐTĐ thai kỳ hoặc sinh con nặng > 3,5 kg.
* Dư cân: Béo phì là biểu hiện đặc trưng bởi sự tăng khối mỡ
thường biểu hiện tăng triglycerid dưới dạng mô mỡ [ Đỗ Trung Quân
(2005), “Bệnh béo phì”, Bệnh nội tiết thường gặp, Nhà xuất bản y học, Hà Nội, tr.
381 – 400.], [Mai Thế Trạch, Nguyễn Thy Khuê (2007), “Béo phì”, Nội tiết học
đại cương, Nhà xuất bản y học, Hà Nội, tr. 649 – 653. ]. Ở người béo phì, mỡ

phân phối ở bụng nhiều dẫn đến tỷ lệ vòng bụng /vòng mông tăng
hơn bình thường. Béo bụng có liên quan chặt chẽ với hiện tượng
kháng insulin do thiếu hụt sau thụ thể, dẫn đến sự thiếu insulin
tương đối do giảm số lượng thụ thể ở mô ngoại vi (chủ yếu mô cơ,
mô mỡ). Do kháng insulin cộng với giảm tiết insulin dẫn đến giảm
tính thấm màng tế bào với glucose ở tổ chức cơ và mỡ, ức chế quá

trình phosphoryl hoá và oxy hoá glucose, làm chậm quá trình chuyển
carbohydrate thành mỡ, giảm tổng hợp glycogen ở gan, tăng tân tạo
đường mới, dễ dẫn đến tiền đái tháo đường và sau đó là bệnh ĐTĐ
xuất hiện.
Các kết quả nghiên cứu dịch tễ học từ năm 2003 đến 2004
cho thấy khoảng 32% người Mỹ trưởng thành mắc béo phì và
khoảng 34% số người khác thừa cân [ Nguyễn Khoa Diệu Vân (2012),
“Béo phì”, Nội tiết học trong thực hành lâm sàng, Nhà xuất bản y học, Hà Nội, tr.
392 – 413.].

Tại Việt Nam, kết quả nghiên cứu của Trần Đức Thọ và cộng sự
cho thấy những người có BMI > 25 kg/m 2 có nguy cơ bị bệnh ĐTĐ týp
2 nhiều hơn gấp 3, 74 lần so với người bình thường. Theo nghiên cứu
của Thái Hồng Quang ở những người béo phì độ 1 tỷ lệ mắc bệnh
ĐTĐ tăng lên 4 lần, béo phì độ 2 tăng lên gấp 30 lần so với người


11

bình thường. Có khoảng 70 - 80% người bệnh ĐTĐ týp 2 bị béo phì.
Béo phì là một trong những nguy cơ có thể phòng tránh. Nghiên
cứu của Hu F.B. và cộng sự năm 1980 - 1986 thực hiện trên
84.941 phụ nữ không bị bệnh ĐTĐ tại thời điểm bắt đầu nghiên
cứu, kết quả cho thấy thừa cân và béo phì là nguy cơ số 1 gây
tình trạng TĐTĐ và là tiền đề cho sự phát triển thành bệnh ĐTĐ
týp 2 sau 6 năm theo dõi [ Hu F.B., Manson J.E., Stampfer M.J., et al. (2001),
“Diet, lifestyle, and the risk of type 2 diabetes mellitus in women”, New England
journal of medicine, 345(11), pp.790-797.].

* Hoạt động thể lực: Nhiều nghiên cứu khác nhau trên thế giới

đã cho thấy việc tập luyện thể lực thường xuyên có tác dụng giảm
nhanh chóng nồng độ glucose huyết tương ở người TĐTĐ và bệnh
nhân ĐTĐ týp 2, đồng thời giúp duy trì sự bình ổn của lipid máu,
huyết áp, cải thiện tình trạng kháng insulin và giúp cải thiện tâm lý.
Sự phối hợp hoạt động thường xuyên và điều chỉnh chế độ ăn có thể
giúp làm giảm 58% tỷ lệ mới mắc ĐTĐ týp 2.
Đã có nhiều bằng chứng cho rằng hoạt động thể lực có rất nhiều
lợi ích trên chuyển hóa, trao đổi chất của một số mô và cơ quan bao
gồm cả mô cơ xương, mỡ, gan, tuyến tụy và cả não. Đã có nhiều
nghiên cứu đưa ra việc đi bộ nhanh khoảng 150 phút mỗi tuần giúp
giảm nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 khoảng 60% gấp 2 lần so với hiệu
quả của can thiệp bằng metformin [Riddell M., Fowles J., (2010), “How to
treat prediabetes whith exercise - effectively”, Clinical practice guide Diabetes,
pp. 10 – 20.]. Có nhiều loại hình hoạt động thể lực can thiệp ở đối tượng

TĐTĐ nhưng hoạt động đi bộ nhanh là một loại hình phù hợp nhất ở
đối tượng thừ cân trung niên và cao tuổi.


12

* Chế độ ăn: Kết quả nghiên cứu nhận thấy tỷ lệ bệnh ĐTĐ
tăng cao ở những người có chế độ ăn giàu chất béo bão hoà, nhiều
carbohydrate tinh chế. Ngoài ra thiếu hụt các yếu tố vi lượng hoặc
vitamin góp phần làm thúc đẩy sự tiến triển bệnh ở người trẻ và
cao tuổi. Người già mắc bệnh ĐTĐ có sự tăng sản xuất gốc tự do,
nếu bổ sung các chất chống oxy hoá như vitamin C, vitamin E thì
phần nào cải thiện được hoạt động của insulin và quá trình chuyển
hoá carbohydrat. Một số người cao tuổi mắc ĐTĐ bị thiếu magie và
kẽm, khi được bổ sung những chất này đã cải thiện chuyển hoá

glucose theo chiều hướng tốt. Chế độ ăn nhiều xơ, ăn ngũ cốc ở
dạng chưa tinh chế (khoai, củ), nhiều rau làm giảm nguy cơ mắc
bệnh ĐTĐ.
* Stress gắn liền với lối sống hiện đại hóa: Các nghiên cứu khác
nhau trên thế giới cho thấy bệnh ĐTĐ tăng nhanh ở những nước
đang phát triển, có tốc độ đô thị hoá nhanh. Đó cũng là những nơi
đang có sự chuyển tiếp về dinh dưỡng, lối sống. Ví dụ: tỷ lệ bệnh
ĐTĐ ở Trung Quốc nói chung là 2% trong khi đó người Trung Quốc
sống ở Mauritius có nền kinh tế rất phát triển tỷ lệ mắc bệnh là 13%.
Khả năng tiến triển thành bệnh ĐTĐ týp 2 của những người
RLDNG là rất cao. Theo Harris M.I và cộng sự nghiên cứu năm 1989 ở
Mỹ cho thấy, tỷ lệ RLDNG gặp khá nhiều và tăng dần theo tuổi ở
người da trắng và nam giới da đen nhưng giảm ở phụ nữ da đen trên
54 tuổi, có thể do tỷ lệ béo bụng ở phụ nữ da đen cao làm xuất hiện
sớm bệnh ĐTĐ ở người có RLGLĐ [ Harris M.I., (1989), “Impaired Glucose
Tolerance In the US Population ”, Diabetes care,12(7), pp. 464 – 474. ]. Theo

Saad M.F. và cộng sự RLDNG có nguy cơ phát triển thành bệnh ĐTĐ
týp 2 cao gấp 6,3 lần so với người bình thường [ Saad M.F., Knowler W.C.,
Pettitt D.J., et al. (1988), “The natural history of impaired glucose tolerance in


13

the Pima Indians”, New England journal of medicine, 319(23), pp. 1500-1506.].

Điều chỉnh chế độ ăn, sinh hoạt và tăng cường hoạt động thể lực ở
những người có RLDNG vẫn là cách dự phòng bệnh ĐTĐ có hiệu quả
nhất.
1.1.4. Tiến triển và điều trị tiền đái tháo đường

1.1.4.1. Tiến triển tiền đái tháo đường
Tiền ĐTĐ là tình trạng trung gian giữa ĐTĐ týp 2 và biểu hiện
glucose máu ở mức bình thường. Trong trường hợp không được phát
hiện và can thiệp, bệnh thường diễn biến đến ĐTĐ thực sự. Tình
trạng bắt đầu tăng glucose máu ở người TĐTĐ sẽ diễn biến đồng thời
với thương tổn chức năng tế bào β và tăng đề kháng insulin ở ngoại
vi sẽ gia tăng nguy cơ biến chứng tim mạch. Thương tổn tim mạch có
thể xẩy ra nhiều năm trước khi biểu hiện lâm sàng của bệnh ĐTĐ.
Khi kiểm soát glucose máu sớm chức năng tế bào β sẽ được bảo vệ
và góp phần làm giảm biến chứng tim mạch [ Trần Hữu Dàng (2011),
“Tiền Đái tháo đường”, Tạp chí Nội tiết - Đái tháo đường, (2), tr. 15 – 21.].

Sơ đồ 1.1. Diễn biến tiền đái tháo đường [Trần Hữu Dàng (2011),
“Tiền Đái tháo đường”, Tạp chí Nội tiết - Đái tháo đường, (2), tr. 15 –
21.]
* Nguồn: Theo tạp chí Nội tiết – Đái tháo đường 2011[Trần Hữu Dàng
(2011), “Tiền Đái tháo đường”, Tạp chí Nội tiết - Đái tháo đường, (2),
tr. 15 – 21.]


14

Người TĐTĐ là đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh ĐTĐ, hàng
năm có khoảng 5% đến 10% người TĐTĐ chuyển thành bệnh ĐTĐ và
cũng một tỷ lệ tương đương có glucose máu trở về bình thường
[Tabák A. G., Herder. C., Rathmann W., Brunner E. J., et al. (2012), “Prediabetes:
a high-risk state for diabetes development”, The Lancet, 379(9833), pp. 22792290.]. Tuy vậy, trong thời gian tồn tại của TĐTĐ thì vẫn có nguy cơ

đối với sự xuất hiện các biến cố tim mạch, biến chứng mắt, thận và
hệ thần kinh thậm chí vẫn có thể xuất hiện biến chứng thận dẫn đến

tàn phế hoặc tử vong nhất là khi TĐTĐ tồn tại trong khoảng thời gian
dài kèm theo các YTNC. Nếu TĐTĐ tiến triển tự nhiên thì tình trạng
kháng insulin sẽ ngày càng gia tăng, chức năng tiết insulin của tế
bào β sẽ giảm và khi chức năng tiết insulin chỉ còn < 50 % sẽ xuất
hiện ĐTĐ týp 2. Ngược lại, nếu được áp dụng các biện pháp như tiết
chế ăn uống, luyện tập thể dục, sử dụng thuốc sẽ làm giảm được
mức độ kháng insulin và nồng độ glucose máu có thể trở về bình
thường. Tiền ĐTĐ có nguy cơ chuyển sang ĐTĐ týp 2 tăng cao 3-10
lần so với những đối tượng bình thường. Nếu phối hợp đồng thời
TGMLĐ và RLDNG thì nguy cơ đó sẽ tăng gấp 2 lần so với chỉ có biểu
hiện đơn độc 1 trong 2 tình trạng trên.
1.1.4.2. Điều trị tiền đái tháo đường
Hiện nay, tỷ lệ TĐTĐ đang gia tăng trên toàn thế giới, đây là
tình trạng trung gian giữa người bình thường và người bệnh ĐTĐ.
Chính vì vậy, việc can thiệp vào nhóm đối tượng này là cần thiết
nhằm giảm tỷ lệ mắc ĐTĐ. Có nhiều nghiên cứu đã đưa ra biện pháp
khác nhau nhằm can thiệp vào nhóm TĐTĐ như thay đổi lối sống,
giảm cân hoặc sử dụng thuốc (metformin, arcabose,…) với mục đích
giảm tỷ lệ mắc bệnh tim mạch và bệnh ĐTĐ.


15

* Thay đổi lối sống: Hoạt động thể lực là yếu tố quan trọng giúp
giảm các YTNC mắc bệnh mạn tính. Hoạt động thể lực đã được
chứng minh làm giảm nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ týp 2, có nhiều bằng
chứng rất có ích với các đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh ĐTĐ.
Warburton D.R. đã chứng minh hoạt động thể lực giúp giảm 6% nguy
cơ mắc bệnh ĐTĐ týp 2. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh tỷ lệ bệnh
ĐTĐ týp 2 giảm rõ rệt ở những người có nguy cơ cao sau can thiệp

bằng lối sống [Warburton D.E., Nicol C.W., Bredin S.S.D. (2006), “Health
benefits of physical activity: the evidence”, CMAJ 2006 (174), pp. 801 – 810. ].

Người TĐTĐ nếu không được can thiệp thì 37% sẽ trở thành bệnh
ĐTĐ sau 4 năm, việc can thiệp bằng lối sống sẽ giảm 20% nguy cơ
mắc bệnh ĐTĐ týp 2 [Tuso P. (2014), “Prediabetes and lifestyle modification:
Time to prevent a preventable disease”, The permanente Jounal, 18 (3), pp 88 –
93.]. Trong Chương trình phòng chống bệnh ĐTĐ những đối tượng

hoạt động thể lực khoảng 30 phút mỗi ngày giảm 5% đến 7% trọng
lượng có thể sẽ giảm 58% nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 [ Knowler W.C.,
Connor E. B., Fowler S.E., et al. (2002), “Reduction in the incidence of type 2
diabetes with lifestyle intervention or metformin”, N Engl J Med, (346), pp. 393–
403]. Giảm cân đã được chứng minh làm chậm tiến triển thành bệnh

ĐTĐ đặc biệt ở những đối tượng béo phì [Shehab Eldin W.S., Emara M.,
Shoker A. (2008), “Prediabetes: a must to recognise disease state”, Clinical
practice, 62 (4), pp. 642 – 648.]. Một nghiên cứu khoảng trên 43581 phụ

nữ tham gia vào nghiên cứu Nurses’ Health Study đã cung cấp các
thông tin về vòng eo, vòng hông và cân nặng đưa ra kết luận rằng chỉ
số BMI, vòng bụng, vòng hông là công cụ hữu ích để nhân viên y tế tư
vấn cho bệnh nhân nhằm giảm thiểu nguy cơ tiến triển thành bệnh
ĐTĐ không phụ thuộc insulin [Carey V.J., Walters E.E., et al (1997), “Body fat


16

distribution and risk of non-insulin-dependent diabetes mellitus in women” The
Nurses’ Health Study, Am J Epidemiol, (145), pp. pp. 614– ]. Một nghiên cứu


trên khoảng 100.000 nữ y tá ở độ tuổi 30 đến 55 tuổi cho thấy mối liên
quan giữa cân nặng và yếu tố nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ đã ghi nhận
trong 10 năm những phụ nữ giảm 5kg sẽ giảm 50% nguy cơ mắc bệnh
ĐTĐ, giảm 5 kg – 7,9 kg sẽ giảm khoảng 1,9 lần nguy cơ mắc bệnh,
những người giảm 8 kg – 10,9 kg sẽ giảm khoảng 2,7 lần nguy cơ mắc
bệnh [Granham A. G., Walter C.W, et al. (1995), “Weight Gain as a Risk Factor
for Cilical Diabetes Mellitus in Women”, Ann Intern Med, 122, pp. 481 – 486. ].

* Sử dụng thuốc: Năm 2002, Knowler W.C. và cộng sự đã đưa ra
những bằng chứng cho thấy lợi ích của sử dụng thuốc để ngăn ngừa
bệnh ĐTĐ từ những người TĐTĐ. Nhóm biguanide trong đó
metformin được xác định cho thấy lợi ích làm giảm tỷ lệ bệnh ĐTĐ
mặc dù thấp hơn so với can thiệp thiệp lối sống [ Knowler W.C., Connor E.
B., Fowler S.E., et al. (2002), “Reduction in the incidence of type 2 diabetes with
lifestyle intervention or metformin”, N Engl J Med, (346), pp. 393–403 ].

Metformin là thuốc an toàn, có đặc dụng làm giảm BMI, lipid máu và
kháng insulin [Salpeter S.R., Buckley N.S., Kahn J.A., et al. (2008), “Metaanalysis: metformin treatment in persons at risk for diabetes mellitus”, Am J
Med, 121(2), pp. 149-57.]. Một số nghiên cứu cho thấy metformin có lợi

hơn ở nhóm người có BMI cao. Thiazolidinenediones (troglitazone,
rosiglitazone và pioglitazone) cũng đã được chứng minh làm giảm
nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ ở những người có nguy cơ cao, tuy nhiên các
yếu tố bất lợi như nhiễm độc gan, tăng cân, phù và suy tim lại hay
gặp [Gerstein H.C., Mohan V., Avezum A., et al (2011), “Longterm effect of
rosiglitazone and/or ramipril on the incidence of diabetes”, Diabetologia Mar,


17


54(3), pp. 487-95.], [Zinman B., Harris S.B., Neuman J., et al (2010), “Lowdose
combination therapy with rosiglitazone and metformin to prevent type 2
diabetes mellitus (CANOE trial): a double-blind randomised controlled study”,
Lancet 2010 Jul 10, 376 (9735), pp. 103-11.].

* Ngoại khoa: Dư cân, béo phì là yếu tố nguy cơ hàng đầu cho
những rối loạn chuyển hóa diễn ra ở bệnh nhân TĐTĐ. Ngoài các
nguyên nhân liên quan đến ăn uống, luyện tập chưa hợp lý thì còn yếu
tố gen có thể dẫn đến dư cân, béo phì mà các biện pháp được áp dụng
phổ biến không thể điều chỉnh được. Trong những trường hợp đó có thể
phải áp dụng biện pháp can thiệp ngoại khoa. Can thiệp ngoại khoa
như là một biện pháp điều trị chỉ áp dụng cho đối tượng béo phì có BMI
> 35 kg/m2 mà không điều chỉnh được nếu chỉ áp dụng các biện pháp
như dinh dưỡng tiết chế, luyện tập thể lực và sử dụng thuốc. Mục tiêu
điều trị ngoại khoa béo phì là giảm khả năng hấp thu các chất ở dạ dày
trong đó có glucose, lipid. Biện pháp điều trị ngoại khoa điều chỉnh cân
nặng làm giảm thể tích của dạ dày chứa thức ăn tuy vẫn có cảm giác
no sau ăn nhưng số lượng thức ăn chứa trong dạ dày hạn chế nên
việc chuyển hóa, hấp thu cũng sẽ giảm đáng kể. Các biện pháp can
thiệp dạ dày bao gồm tạo vách đứng, tạo vách đơn giản vả phẫu
thuật cầu nối dạ dày trong đó phẫu thuật chỉnh hình dạ dày tạo
vách đứng được áp dụng rộng rãi và hiệu quả hơn cả. Tuy vậy, dù đối
tượng có được áp dụng can thiệp chỉnh hình dạ dày vẫn phải tuân
thủ dinh dưỡng tiết chế và hoạt động thể lực mới đảm bảo duy trì kết
quả đạt được.
Leccesi L. và cộng sự năm 2013 công bố kết quả phẫu thuật
tạo vách ngăn dạ dày cho 50 trường hợp tuổi 18-60 có 35 ≤ BMI <
55 kg/m2. Sau 1 năm phẫu thuật giảm được 16.9% thể trọng; BMI
giảm từ 42.24 ± 3.43 xuống 34.65 ± 4.58 kg/m2; 53.5% có glucose



18

bình thường trước can thiệp; 4.6% RLGM lúc đói; 27.9% RLDNG; 23%
phối hợp cả 2; 11.6% ĐTĐ týp 2. Sau 1 năm có 86% trường hợp
glucose máu bình thường; 2.3% RLGM lúc đói; 11.6% RNDNG; không
có trường hợp nào phối hợp cả 2 trạng thái; không có bệnh nhân
ĐTĐ týp 2 [Leccesi L., Panunzi S., et al. (2013), “Effects of Transoral
Gastroplasty on Glucose Homeostasis in Obese Subjects”, J Clin Endocrinol
Metab, 98 (5), pp. 1901-1910. ]. Một nghiên cứu ở Thụy Điển đưa ra kết

luận, phẫu thuật giảm cân dường như có hiệu quả hơn so với chăm
sóc thông thường giúp giảm tỷ lệ ĐTĐ týp 2 ở người béo phí [ Carlsson
L.M.S, Peltonen M., et al. (2012), “Bariatric Surgery and Prevention of Type 2
Diabetes in Swedish Obese Subjects”, The New England Journal of Medicine, pp.
695-704.].

1.2. HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA
1.2.1. Dịch tễ học hội chứng chuyển hóa
Trong những năm gần đây, thuật ngữ Hội chứng chuyển hóa
(HCCH) được đề cập và quan tâm nhiều hơn, bản chất của HCCH là
tập hợp các yếu tố nguy cơ tim mạch và rối loạn chuyển hóa [ Mai Thế
Trạch, Nguyễn Thy Khuê (2007), “Hội chứng chuyển hóa”,

Nội tiết học đại

cương, Nhà xuất bản y học, Hà Nội, tr. 503 – 507. ]. Tùy từng Hiệp hội đã đưa

ra những tiêu chuẩn khác nhau để xác định HCCH theo những mục

tiêu nghiên cứu của riêng mình như WHO, IDF, NCEP-ATPIII …
HCCH được biết đến rất sớm từ những năm 1920, Morgagni là
người đầu tiên mô tả các dấu hiệu của hội chứng này, thuật ngữ “Hội
chứng chuyển hóa” quay trở lại vào cuối thế kỷ 20 và phổ biến vào
những năm 70 của thế kỷ 20. Các thuật ngữ "Hội chứng chuyển
hóa", "Hội chứng kháng insulin", và "Hội chứng X" bây giờ được sử
dụng đặc biệt để xác định một nhóm các yếu tố bất thường liên


19

quan với tăng nguy cơ cho sự phát triển của bệnh ĐTĐ và bệnh xơ
vữa động mạch (bệnh tim mạch và đột qụy).
Ngày nay HCCH đang được sử dụng rộng rãi và được đề cập
nhiều trong các hội nghị y học Thế giới về ngăn chặn và phòng
ngừa các bệnh mạn tính không lây nhằm giảm tỷ lệ tử vong do
các biến cố tim mạch gây ra. Theo ước tính của IDF, hiện nay trên
Thế giới có khoảng 20% – 25 % dân số mắc HCCH, tỷ lệ tử vong do
nhồi máu cơ tim, đột quỵ não ở nhóm đối tượng này cao gấp 2 đến 3
lần so với người không có HCCH [ International Diabetes Federation (2006),
The IDF consensus worldwide definition of the metabolic syndrome ]. Hiện nay,

có nhiều tổ chức đưa ra các tiêu chí khác nhau, tùy thuộc nhóm đối
tượng để xác định HCCH. Nghiên cứu của Ervin R.B. và cộng sự phân
tích dữ liệu từ 3423 người lớn có độ tuổi trên 20 từ năm 2003 – 2006,
sử dụng tiêu chuẩn của NCEP ATPIII cho thấy khoảng 34% người mắc
HCCH, nam và nữ ở nhóm 40 đến 59 tuổi mắc HCCH cao gấp 3 lần so
với nhóm 20 đến 39 tuổi, ở nhóm trên 60 tuổi tỷ lệ nam cao hơn nữ
khoảng 4 lần và cao hơn khoảng 6 lần so với nhóm tuổi trẻ [ Ervin R. B.
(2009), “Prevalence of metabolic syndrome among adults 20 years of age and

over, by sex, age, race and ethnicity, and body mass index: United States”,
National health statistics reports, 13, pp. 1-8.]. Một nghiên cứu tại Ấn Độ

của Prasad D.S., và cộng sự cỡ mẫu 1178 người từ 20 đến 80 tuổi
được lựa chọn ngẫu nhiên từ 37 phường, xã tại Orissa - Ấn Độ, tỷ lệ
mắc HCCH là 43,2%, ở nam 52,2% cao hơn nữ 34,2% [ Prasad D. S.,
Kabir Z., Dash A.K., et al. (2012) “Prevalence and risk factors for metabolic
syndrome in Asian Indians: A community study from urban Eastern India”,
Journal of Cardiovascular Disease Research, 3(3), pp. 204 – 211. ]. Năm 2005

Gu D., Reynolds K. và cộng sự công bố kết quả nghiên cứu cắt ngang


20

cỡ mẫu 15540 người có độ tuổi từ 35 đến 74 tuổi trong 2 năm, sử
dụng tiêu chuẩn theo NCEP ATPIII, thừa cân được xác định khi BMI ≥
25 kg/m2, cho thấy tỷ lệ HCCH là 9,8% ở nam và 17,8% ở nữ, tỷ lệ
thừa cân 26,9% ở nam và 31,1% ở nữ; tỷ lệ HCCH và thừa cân béo
phì phía bắc cao hơn phía nam, thành thị cao hơn nông thôn [ Gu D.,
Reynolds K., Wu, X., et al. (2005), “Prevalence of the metabolic syndrome and
overweight among adults in China”, The Lancet, 365(9468), pp. 1398-1405.].

Tại Việt Nam, có một số nghiên cứu đánh giá và xác định tỷ lệ
mắc HCCH. Le N.T.D.S và cộng sự nghiên cứu điều tra tại thành phố
Hồ Chí Minh với 611 đối tượng tham gia đã ghi nhận tỷ lệ HCCH thô
là 18,5% và tỷ lệ này sau khi đã chuẩn hóa theo tuổi và giới là:
12,0% [Le N.T.D.S., Kunii D., et al. (2005), “The metabolic syndrome:
prevalence and risk factors in theurban population of Ho Chi Minh City”,
Diabetes Reseach and clinical practice, (67), pp. 243 - 250. ]. Năm 2007, Trần


Văn Huy và cộng sự đã báo cáo kết quả nghiên cứu 204 đối tượng
tăng huyết áp phát hiện tại cộng đồng và chia làm hai nhóm nhóm
có HCCH và nhóm không có HCCH, tiêu chuẩn HCCH theo NCEP
ATPIII điều chỉnh theo người Châu Á Thái Bình Dương ghi nhận tần
suất HCCH ở bệnh nhân THA trong cộng đồng tại Nha Trang - Khánh
Hòa là 38,2% theo tiêu chuẩn NCEP ATPIII chuẩn và 47,5% theo tiêu
chuẩn của NCEP ATPIII điều chình trong đó nữ 67,0%, nam 33,0%
[Trần Văn Huy, Huỳnh Viết Khang (2007), “Nghiên cứu tần suất và ảnh hưởng
của hội chứng chuyển hóa ở bệnh nhân tăng huyết áp tại Khánh Hòa”, Tạp chí Y
học Việt Nam, (2), tr. 34-41.]. Năm 2013 Võ Lê Diễm và cộng sự đã công

bố kết quả nghiên cứu tần suất và đặc điểm HCCH trong cộng đồng
năm 2010, đây là nghiên cứu mô tả cắt ngang với 1408 đối tượng
trên 20 tuổi đang cư trú ở Long An ghi nhận tỷ lệ mắc HCCH theo


21

IDF, NCEP ATPIII và NCEP ATPIII điều chình lần lượt là 10,4%; 12,4%;
và 17,2%. Tỷ lệ mắc HCCH tăng dần theo quá trình tích tuổi, nữ mắc
cao hơn nam, các yếu tố thường gặp là tăng triglycerid, giảm HDLC[Võ Thị Diễm, Lê Thanh Liêm (2013), “Tần Suất và đặc điểm hội chứng chuyển
hóa trong cộng đồng tại tỉnh Long An năm 2010”, Tạp chí Y học thực hành, (1),
tr. 13-17.]. Năm 2011, Viên Văn Đoan và cộng sự

nghiên cứu 132

bệnh nhân ĐTĐ được điều trị và theo dõi tại khoa khám bệnh Bệnh
viện Bạch Mai ghi nhận tỷ lệ HCCH theo WHO 1988 là 87,9% theo
ATPIII là 80,3% [Viên Văn Đoan, Đồng Văn Thành, Nguyễn Thị Hồng Vân

(2011),“Nghiên cứu hội chứng chuyển hóa trên bệnh nhân đái tháo đường type
2”,Tạp chí Nội tiết – Đái tháo đường, (2), tr. 262 -266.].

1.2.2. Chẩn đoán hội chứng chuyển hóa
*Tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới 1999
Để chẩn đoán xác định có hội chứng chuyển hóa, buộc phải có
tiêu chí A (một trong 4 điểm của A) thêm vào từ 2 điểm trở lên của
tiêu chí B.
+ Tiêu chí bắt buộc là kháng insulin (tiêu chí A): được xem là
kháng insulin khi có một trong các biểu hiện sau:
- ĐTĐ týp 2; Rối loạn dung nạp glucose máu; Suy giảm dung
nạp glucose lúc đói; Glucose máu bình thường nhưng có
kháng insulin (đánh giá bằng kỹ thuật kẹp insulin).
+ Các tiêu chí khác (tiêu chí B)
- THA tâm thu ≥ 140mmHg và/hoặc tâm trương ≥90mmHg
- Rối loạn lipid:
Triglycerid (≥1,7mmol/l;150mg/dl) và/hoặc


22

HDL-Cholesterol (<0.9mmol/l; 35mg/dl đối với nam;
<1mmol/l;39mg/dl đối với nữ)
- Béo bụng (nam: tỉ lệ vòng eo/vòng hông > 0,9; nữ: tỉ lệ
vòng eo/vòng hông > 0,85) và hoặc BMI > 27 với người
Châu Á.
- Microalbumin niệu dương tính: (tỷ lệ bài xuất albumin niệu
≥ 20µg/phút hoặc tỉ lệ albumin/creatinin niệu ≥ 30 mg/g).
Theo tiêu chuẩn này sự kháng insulin là cần thiết. Tuy nhiên
cũng tương tự như ATP III, đái tháo đường týp 2 không bị loại trừ khỏi

chẩn đoán. Trong thực hành lâm sàng sự xác định kháng insulin cũng
như microalbumin niệu là khó khăn, khó áp dụng [ Tạ Văn Bình (2004),
“Hậu quả của béo phì”, Bệnh béo phì, Nhà xuất bản y học, Hà Nội, tr. 35 - 51. ],

[Tạ Văn Bình (2007), “Hội chứng chuyển hóa”, Những nguyên lý nền tảng bệnh
Đái tháo đường bệnh tăng glucose máu, Nhà xuất bản y học 2007, tr. 667 – 706.]

, [Parikh R.M., Mohan V. (2012), “Changing definition of metabolic syndrome”,
Indian Jounal of Endocrinology and Metabolism (16), pp. 7-12. ], [World Health
Organization (1999), “Definition, Diagnosis and Classification of Diabetes
Mellitus and its Complications.Report of a WHO consultation, Geneva: World
Health Organization 1999, pp. 31-33.].

* Tiêu chuẩn của Hiệp hội Đái tháo đường quốc tế (International
Diabetes Federation- IDF-2005)
Tiêu chuẩn chẩn đoán HCCH theo IDF-2005 khi thỏa mãn các điều
kiện sau:
+ Tiêu chí bắt buộc là phải có béo trung tâm (được xác định bằng
tăng số đo vòng eo*), số đo này khác nhau theo các chủng tộc.
+ Kết hợp với bất kỳ 2 trong 4 tiêu chí sau:
­ Tăng triglycerid máu:


23

TG ≥ 1,7mmol/l (150mg/dl) hoặc đã điều trị RLLP máu bằng
thuốc.
­ Giảm HDL-cholesterol máu:

Nam: <1,03mmol/l(150mg/dl) hoặc

Nữ: <1,29mmol/l(50mg/dl)
hoặc đã điều trị các rối loạn lipid máu bằng thuốc.
­ THA:

Huyết áp tâm thu ≥ 130 hoặc huyết áp tâm trương ≥
85mmHg
Hoặc đang điều trị THA.
­ Tăng glucose máu lúc đói:

Glucose máu lúc đói ≥ 5,6mmol/l (100mg/dl) hoặc
Đã được chẩn đoán ĐTĐ typ2 trước đó.
Nếu BMI >30kg/m2, béo trung tâm có thể được xác định mà
không cần đo vòng eo.
Tiêu chuẩn chẩn đoán HCCH của IDF được đưa ra vào năm
2005. Béo trung tâm là một tiêu chí bắt buộc trong tiêu chuẩn này,
biểu hiện qua số đo vòng eo. Số đo này khác nhau theo các dân
tộc và khi đánh giá phải dựa vào tiêu chuẩn sinh lý của chính quần
thể của quốc gia đó. Tiêu chuẩn của IDF một lần nữa xem béo
trung tâm có tương quan rất rõ với kháng insulin, do đó không cần
phải xét nghiệm tốn kém để đánh giá kháng insulin [ Tạ Văn Bình
(2007), “Hội chứng chuyển hóa”, Những nguyên lý nền tảng bệnh Đái tháo
đường bệnh tăng glucose máu, Nhà xuất bản y học 2007, tr. 667 – 706. ],

[Alberti K.G.M., Zimmet P., et al. (2005), “The metabolic syndrome-a new
worldwide definition”, The Lancet, 366 (9491), pp. 1059.], [Grundy S.M.,
Cleeman J.I., Daniels S.R., et al (2005), “Diagnosis and management of the


24


metabolic syndrome”, Circulation, 112(17), pp. 2735-2752.], [Parikh R.M.,
Mohan V. (2012), “Changing definition of metabolic syndrome”, Indian Jounal of
Endocrinology and Metabolism (16), pp. 7-12.].

* Tiêu chuẩn của nhóm nghiên cứu về kháng insulin Châu Âu (European
group for the study of insulin resistance - EGIR).
Tiêu chuẩn của EGIR là:
+ Tiêu chí bắt buộc có kháng Insulin và/hoặc tăng insulin máu lúc
đói (nồng độ insulin máu ở khoảng tứ phân vị thứ nhất của những
người không bị ĐTĐ) (tiêu chí A)
+ Các tiêu chí khác (tiêu chí B)
- Tăng glucose máu: Glucose máu lúc đói ≥ 6,1 mmol/l (nhưng
không bao gồm ĐTĐ).
- Tăng huyết áp khi:
HATT ≥ 140mmHg và/hoặc HATTr ≥90mmHg
Hoặc đã điều trị thuốc hạ áp.
- Rối loạn chuyển hóa lipid khi:
Triglycerid > 2,0mmol/l(178mg/dl) và/hoặc
HDL-cholesterol <1,0mmol/l(39mg/dl)
Hoặc đã điều trị rối loạn chuyển hóa lipid.
- Béo bụng khi: vòng eo ≥ 94cm (đối với nam) và ≥ 80cm (đối
với nữ).
Để chẩn đoán xác định phải có tăng insulin máu (tiêu chí A) với
ít nhất hai điểm của tiêu chí B.
Công bố định nghĩa của WHO về HCCH vào năm 1999, EGIR đưa
ra một phiên bản sửa đổi chỉ áp dụng cho những người không bị ĐTĐ,
tiêu chuẩn của EGIR dễ áp dụng hơn trong nghiên cứu dịch tễ vì không
đòi hỏi kỹ thuật kẹp glucose để đánh giá mức độ nhậy cảm của insulin.
EGIR đã đề nghị sử dụng nồng độ insulin lúc đói để đánh giá kháng



25

insulin và áp dụng RLĐM lúc đói như là một tiêu chuẩn thay thế cho
RLDNG. Tiêu chuẩn của EGIR có sự thay đổi về giá trị các chỉ số như
THA, RLLP cũng như giá trị của vòng eo, đã sử dụng chu vi vòng eo để
đánh giá béo bụng. Hơn nữa, nếu một người đã được điều trị THA hoặc
RLLP được coi như có các bất thường tương ứng [Tạ Văn Bình (2004), “Hậu
quả của béo phì”, Bệnh béo phì, Nhà xuất bản y học, Hà Nội, tr. 35 - 51. ], [Tạ
Văn Bình (2007), “Hội chứng chuyển hóa”, Những nguyên lý nền tảng bệnh Đái
tháo đường bệnh tăng glucose máu, Nhà xuất bản y học 2007, tr. 667 – 706. ],

[Grundy S.M., Cleeman J.I., Daniels S.R., et al (2005), “Diagnosis and
management of the metabolic syndrome”, Circulation, 112(17), pp. 2735-2752.]

, [Parikh R.M., Mohan V. (2012), “Changing definition of metabolic syndrome”,
Indian Jounal of Endocrinology and Me C., Pimenta W., Woerle H.J., (2006), “Different
mechanisms for impaired fasting glucose and impaired postprandial
glucose tolerance in humans”, Diabetes care, 29(8), pp. 1909-1914.

101. Parikh R.M., Mohan V. (2012), “Changing definition of metabolic
syndrome”, Indian Jounal of Endocrinology and Metabolism (16), pp. 712.

102. Parikka .P.I., Eriksson J.G., et al (2004), “Prevanlence of
metabolic syndrome and Its Components”, Diabetes Care,27(9),pp.
2135 - 2140.


×