MỤC LỤC
1.2.2. Các văn bản dưới luật
....................................................................................................
16
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
AFTA
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
BĐS
Bất động sản
CD
Chuyên dùng
DA
Dự án
DN
Doanh nghiệp
DVTM
Dịch vụ thương mại
GPMB
Giải phóng mặt bằng
KCN
Khu công nghiệp
KĐT
Khu đô thị
KKT
Khu kinh tế
KTTT
Kinh tế thị trường
NĐCP
Nghị định – Chính phủ
NSNN
Ngân sách nhà nước
QĐCP
Quyết định Chính phủ
QSDĐ
Quyền sử dụng đất
SDĐ
Sử dụng đất
TĐC
Tái định cư
TNMT
Tài nguyên môi trường
TTCN
Tiểu thủ công nghiệp
UBND
Ủy ban nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG
1.2.2. Các văn bản dưới luật
....................................................................................................
16
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu các ngành kinh tế.................................................................
........................................................................................................................ ..........26
Biểu đồ 2.2: So sánh nguồn thu từ giao đất, cho thuê đất ở thành phố Việt Trì..
........................................................................................................................ ..........48
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Đất đai luôn là nguồn tài nguyên quý của mọi quốc gia, là tư liệu sản xuất
quan trọng để sản xuất ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người; đồng thời, đất đai là nguồn tài nguyên có hạn về số lượng, nên việc
quản lý, sử dụng đất có hiệu quả nhất luôn là vấn đề mà Chính phủ của các quốc
gia quan tâm và được bảo vệ chặt chẽ bằng luật pháp.
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng
(WTO, AFTA...), quá trình đô thị hóa đang diễn ra một cách nhanh chóng. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế (tăng bình quân khoảng 7,5% trong suốt hơn 10 năm qua) đã
mang lại nhiều thành quả cho xã hội. Tuy nhiên để có được những thành tựu như
vậy đã có khoảng 2 triệu hecta đất (Nông nghiệp và phi nông nghiệp) bị thu hồi
phục vụ cho việc xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kỹ
thuật, hạ tầng xã hội phục vụ lợi ích quốc gia. Mỗi năm có khoảng 200.000 ha đất
nông nghiệp bị thu hồi phục vụ các mục đích phi nông nghiệp [19].
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, trước yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội, việc thu hồi đất để phục vụ đô thị hóa là một yêu cầu khách quan mang tính tất
yếu. Trong những năm qua cơ sở hạ tầng phục vụ đô thị hóa ngày càng được hoàn
thiện và đồng bộ. Hàng triệu lao động được giải quyết việc làm với mức thu nhập
ổn định góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nhanh và ổn định.
Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, Việt Nam có lợi thế hơn so với một
số quốc gia khác trong khu vực nhờ vào giá thuê đất thấp, nguồn lao động trẻ và dồi
dào, chi phí nhân công rẻ luôn hấp dẫn các các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.
Tuy nhiên, sự thay đổi và phát triển nhanh chóng của các KCN, KĐT, kết cấu hạ
tầng kinh tế xã hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia đã nảy sinh
1
nhiều vấn đề mới trong quản lý đất đai. Giá trị gia tăng từ đất mang lại từ tiến trình
đô thị hóa vẫn chưa được phân bổ hợp lý, mà theo nhận định của nhiều người,
thường rơi vào “túi” của các nhà đầu tư, các hộ dân mua đất trước và trong quá trình
đầu tư dự án hoặc có vị trí bám sát các trục đường giao thông mới mở rộng. Nguồn
thu cho ngân sách nhà nước chưa tương xứng, lợi ích của người có đất bị thu hồi
chưa được đảm bảo so với yêu cầu thực tế. Nếu như giá trị gia tăng từ đất trong
trường hợp này được phân bổ trở lại cho nhà nước đúng mức, sẽ góp phần tái tạo
vốn đầu tư cho các công trình hạ tầng khác và chi trả xứng đáng cho những hộ phải
hy sinh ra đi, do giải tỏa di dời, cũng như dành một phần hỗ trợ các chương trình xã
hội khác.
Thành phố Việt Trì là trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế xã hội, an ninh
quốc phòng của tỉnh Phú Thọ. Để đáp ứng nhu cầu phát triển thành phố Việt Trì
trong những năm tới trở thành đô thị loại I, nhiều dự án đầu tư xây dựng khu đô thị,
kết cấu hạ tầng, các công trình công cộng đã và đang được triển khai với quy mô
lớn, nhỏ khác nhau. Hàng trăm Hecta đất đã được thu hồi để phục vụ phát triển
thành phố. Tuy nhiên, công tác điều tiết lợi ích tăng thêm từ đất vẫn đang là bài toán
nan giải đối với các cấp lãnh đạo thành phố.
Nhằm góp phần vào sự phát triển chung của thành phố, kịp thời đưa ra hướng
giải quyết những bất cập nêu trên, đề tài “Nghiên cứu đề xuất giải pháp điều tiết
phần giá trị tăng thêm từ đất không do người sử dụng đất mang lại tại một số
dự án ở thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ” là rất cần thiết.
2
2. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc phân phối giá trị tăng thêm từ
đất trong điều kiện đất đai thuộc sở hữu toàn dân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghiên cứu thực trạng công tác điều tiết lợi ích tăng thêm từ đất tại một số
dự án ở thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ.
Đề xuất giải pháp về cơ chế, chính sách, mô hình điều tiết giá trị tăng thêm từ
đất.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
1. Tổng quan các vấn đề lý luận và thực tiễn về phân phối giá trị tăng thêm
từ đất trong điều kiện đất đai thuộc sở hữu toàn dân trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Điều tra, khảo sát thực trạng thu hồi, bồi thường, hỗ trợ giải quyết việc
làm, tái định cư tại một số dự án của thành phố Việt Trì.
3. Nghiên cứu thực trạng phân phối giá trị tăng thêm từ đất do đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng phục vụ tiến trình đô thị hóa. (lấy ví dụ tại một số dự án)
4. Đề xuất giải pháp về cơ chế, chính sách, mô hình phân phối giá trị tăng
thêm từ đất do đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp kế thừa:
3
Thu thập và nghiên cứu tài liệu trong nước liên quan tới vấn đề nghiên cứu.
Kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của các chương trình, dự án, đề tài
khoa học có liên quan.
Phương pháp khao sat, đi
̉
́ ều tra thực tế:
Đề tài tiến hành điều tra khảo sát nhằm thu thập thông tin định lượng về thực
trạng giá trị tăng thêm từ đất do đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng tại một số dự án,
kết quả thực hiện chính sách tài chính và thuế đối với đất đai.
Phương pháp chuyên gia:
+ Trao đổi với các chuyên gia trong nước nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý
luận, các ý tưởng về giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra thuộc phạm vi nội dung
nghiên cứu.
Phương pháp phân tích tổng hợp:
Phân tích tổng hợp các kết quả điều tra khảo sát tại một số dự án, tổng hợp
thực tiễn kết hợp với lý luận đề ra giải pháp hoàn thiện.
Kết quả nghiên cứu của đề tài được trình bày trong 71 trang báo cáo. Ngoài
phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, đề tài gồm 3 phần chính sau:
Chương 1: Tổng quan chính sách của Nhà nước trong việc điều tiết phần giá
trị tăng thêm từ đất khi thực hiện các dự án đầu tư phát triển.
Chương 2: Nghiên cứu thực trạng công tác điều tiết phần giá trị tăng thêm từ
đất không do người sử dụng đất mang lại tại một số dự án ở thành phố Việt Trì.
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp điều tiết, phân phối giá trị tăng thêm từ
đất không do người sử dụng đất mang lại nhằm đảm bảo ổn định và công bằng xã
hội.
4
Chương 1:
TỔNG QUAN CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC ĐIỀU
TIẾT PHẦN GIÁ TRỊ TĂNG THÊM TỪ ĐẤT KHI THỰC HIỆN CÁC DỰ ÁN
ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN.
1.1. Vai trò của đất đai trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
1.1.1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Ở nươc ta, l
́
ựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
xuât phat t
́
́ ừ nhân th
̣
ưc, chu tr
́
̉ ương đung đăn và v
́
́
ận dụng xu thế vận động khách
quan của kinh tế thị trường cua Đang ta. Đây là m
̉
̉
ột kiểu kinh tế thị trường mới
trong lịch sử phát triển của kinh tế thế giới, trong đo kinh t
́
ế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là đăc thu riêng đ
̣
̀
ược vân dung
̣
̣ ở nươc ta b
́
ởi no phù h
́
ợp với điều
kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam. No không ph
́
ải là kinh tế thị trường tự do
5
theo kiểu tư bản chủ nghĩa, cũng không phải là kinh tế kiểu kê hoach hoa tâp trung.
́ ̣
́ ̣
Vi vây, hoat đông kinh doanh, th
̀ ̣
̣
̣
ương mai, dich vu, tai chinh, ngân hang....
̣
̣
̣ ̀ ́
̀
ở nươc ta
́
hiên đang đ
̣
ược vân dung nh
̣
̣
ưng đăc tinh
̃
̣ ́ ưu việt cua cac nên kinh tê khac nhau trên
̉
́ ̀
́ ́
thế giới. Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa việc thực
hiện công bằng xã hội không chỉ dựa vào chính sách điều tiết và phân phối lại thu
nhập của các tầng lớp dân cư mà còn phải thực hiện tốt các chính sách phát triển xã
hội, nhằm giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội, phát huy sức mạnh của toàn
dân tộc. Như vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường thì đất đai trở thành đối tượng
của sự trao đổi, mua bán, chuyển nhượng và hình thành nên thị trường đất đai.
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự
tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trò tích cực của
kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sản xuất, cải tiến kỹ thuật công
nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải, góp phần làm giàu cho xã
hội và cải thiện đời sống nhân dân. Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh
tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được
dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên
cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội lần thứ X của Đảng đã làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản
của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta với 4
tiêu chí cơ bản sau:
Thứ nhất, về mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta nhằm: thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng
6
văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao
đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn
lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
[27]
Thứ hai, về phương hướng phát triển, phát triển nền kinh tế nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo;
kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân. [27]
Thứ ba, về định hướng xã hội và phân phối: Phải thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh
tế phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào
tạo... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện
chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo
mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. [27]
Thứ tư, định hướng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực quản lý: Phát huy quyền
làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết kinh tế của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, người lao động là người chủ xã hội. Người
công nhân dù làm trong xí nghiệp tư nhân vẫn là người làm chủ đất nước, làm chủ
xã hội. Vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự thể hiện rõ rệt định hướng xã hội chủ nghĩa.
[27]
Định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu, là sự lựa chọn phù hợp với nội
dung của thời đại thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới. Định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhằm mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với xã hội chủ nghĩa thể hiện trong toàn bộ các lĩnh vực
7
của đời sống xã hội. Đây không chỉ là một tất yếu về chính trị và nguyện vọng
mong muốn của nhân dân ta, mà còn là một tất yếu kinh tế, văn hóa, xã hội.
1.1.2. Thị trường quyền sử dụng đất ở Việt Nam
Hiến pháp và các văn bản pháp luật về đất đai khẳng định đất đai thuộc sở
hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Nhà nước thực hiện đầy đủ các
quyền của chủ sở hữu đó là: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt.
Đối với quyền sử dụng, nhà nước không sử dụng toàn bộ đất đai mà giao đất cho
các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng vào các mục đích khác nhau thông qua
các hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, không thu tiền sử dụng đất và cho
thuê đất. Quyền sử dụng đất là loại hàng hóa đặc biệt, được giao dịch trong khuôn
khổ các quy định của pháp luật. Các giao dịch về quyền sử dụng đất như chuyển
đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, quyền thế chấp, bảo
lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất từng bước được mở rộng và ngày càng hoàn
thiện đã thúc đẩy sự phát triển của thị trường quyền sử dụng đất.
Thị trường quyền sử dụng đất nước ta gồm 2 loại hình:
+ Thị trường sơ cấp: là thị trường Nhà nước cung đất cho nhu cầu sử dụng
phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được quyết định, xét duyệt thông qua việc
giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất.
+ Thị trường thứ cấp: là thị trường giao dịch quyền sử dụng đất giữa những
người sử dụng đất thông qua việc thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo
lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Trước đây, hoạt động của thị trường sơ cấp chỉ là những quyết định hành
chính mang tính bao cấp, “xin – cho” về đất. Theo Luật Đất đai năm 2003, thị
trường sơ cấp có những cơ chế hoạt động phù hợp với kinh tế thị trường như đấu
giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất, tổ chức phát triển quỹ đất
8
thay mặt Nhà nước chuyển quỹ đất đã thu hồi theo quy hoạch vào thị trường thứ
cấp phù hợp với cơ chế thị trường, thu hẹp diện Nhà nước thu hồi đất, khi thu hồi
đất Nhà nước bồi thường theo giá đất được quy định sát với giá thị trường, mở rộng
diện nhà đầu tư tự thoả thuận với người sử dụng đất thông qua nhận chuyển
nhượng, thuê, nhận góp vốn để có đất thực hiện dự án, v..v.. Hoạt động của thị
trường thứ cấp luôn phản ảnh đầy đủ tính chất của hoạt động theo cơ chế thị
trường. Trước đây, Nhà nước còn có những can thiệp chưa phù hợp gây trở ngại cho
thị trường như nhà đầu tư nhận chuyển nhượng của người đang sử dụng đất xong
lại phải làm thủ tục thuê đất của Nhà nước. Nay theo Luật Đất đai năm 2003, Nhà
nước không can thiệp vào các hoạt động của thị trường, Nhà nước chỉ quản lý mục
đích sử dụng đất đối với các loại đất quan trọng gồm đất nông nghiệp, đất chuyên
trồng lúa, đất có rừng, đất phi nông nghiệp giao không thu tiền sử dụng đất, đất phi
nông nghiệp giao có thu tiền sử dụng đất, đất ở.
* Vai trò của thị trường QSDĐ trong nền KTTT định hướng XHCN:
Thị trường QSDĐ có liên quan đến lượng tài sản lớn trong nền kinh tế quốc
dân của mỗi nước, do đó thị trường QSDĐ có vị trí và vai trò quan trọng trong nền
kinh tế, cụ thể là:
Hoạt động của thị trường QSDĐ góp phần phân bổ và sử dụng có hiệu quả
một trong những yếu tố hàng đầu của sản xuất đó là đất đai (nguồn tài nguyên quí
và ngày càng trở nên khan hiếm) và các bất động sản trên đất.
Thị trường QSDĐ hoạt động tạo ra những kích thích tới tăng trưởng kinh tế
khi đầu tư vào bất động sản như đất đai, nhà xưởng... tạo sự năng động trong
chuyển dịch lao động giữa các ngành, các vùng lãnh thổ thông qua việc đầu tư, sử
dụng đất đai và các bất động sản khác một cách hợp lý.
9
Tác động trực tiếp của thị trường QSDĐ tới phát triển thị trường tài chính.
Việc chuyển bất động sản hàng hoá thành tài sản tài chính góp phần huy động các
nguồn lực cho nền kinh tế.
Phát triển thị trường QSDĐ một cách thông thoáng sẽ tạo điều kiện cho
việc hình thành giá cả đất đai một cách khách quan và được phản ánh đầy đủ vào
chi phí sản xuất. Đây là điều kiện rất quan trọng để đảm bảo sự cạnh tranh bình
đẳng trong nền kinh tế. Điều này càng có ý nghĩa trong điều kiện hội nhập kinh tế
khu vực và quốc tế.
Sự tăng trưởng kinh tế, tốc độ đô thị hoá cao gây sức ép về cầu bất động sản
nói chung và về nhà ở nói riêng. Phát triển thị trường QSDĐ thông thoáng sẽ tạo động
cơ phấn đấu và cơ hội có nhà ở cho đại đa số dân chúng lao động với giá cả chấp nhận
được.
Đối với các nước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ
chế thị trường thì thị trường QSDĐ còn đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế trong kinh doanh và hạch toán giá đất vào giá thành sản phẩm, gắn thị
trường đất đai với các chính sách lớn của Nhà nước như cổ phần hoá, bán, khoán,
cho thuê... các doanh nghiệp nhà nước.
1.1.3. Địa tô và quan hệ lợi ích kinh tế xã hội đối với Nhà nước, nhà đầu
tư và người có đất bị thu hồi
1.1.3.1. Lý thuyết về địa tô và quyền năng đối với đất đai
Địa tô là một phạm trù kinh tế gắn liền với chế độ sở hữu đất đai, là hình
thái dưới đó quyền sở hữu đất đai được thực hiện về mặt kinh tế tức là đem lại thu
nhập cho người sở hữu. Vì đất không được sinh ra, thị trường đất đai phản ứng đối
với việc đánh thuế khác hẳn so với thị trường lao động và thị trường hàng hóa do
con người sản xuất ra. Thuế giá trị đất hoàn thiện một cách lý tưởng có thể không
ảnh hưởng tới chi phí cơ hội trong việc sử dụng đất, hơn thế, nó có thể làm giảm
10
giá trị của quyền sở hữu đất hợp pháp (chủ nghĩa George). Theo các nha kinh t
̀
ế học
thi các chi phí ph
̀
ải thanh toán để sử dụng đất đai gọi là địa tô (ngày nay thông
thường gọi là thuế sử dụng đất). Theo thuật ngữ của kinh tế học cổ điển, địa tô là
một dạng hình đặc trưng của thu nhập mà chủ sở hữu đất đai nhận được. Theo
C.Mác và Henry George thì địa tô được coi như là một hình thức của sự bóc lột. Chủ
sở hữu đất đã có thể nhận “một cái gì đó từ hư không” chỉ bởi vì họ kiểm soát được
những tài nguyên quan trọng đó. Đối với C.Mác, chủ sở hữu đất nhận được một
phần lợi nhuận siêu ngạch (lợi nhuận là hình thái biểu trưng của giá trị thặng dư)
được tái phân bổ từ khu vực công nghiệp. [16]
Liên quan đến vấn đề địa tô, quyền sở hữu và quyền sử dụng phải được
phân định rõ giữa các chủ thể (quy định trong các đạo luật như Bộ Luật Dân sự,
Luật Sở hữu trong công nghiệp, có thể cả trong Hiến pháp...). Quyền sở hữu bao
gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt của chủ sở hữu theo quy
định của pháp luật. Còn quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa
lợi, lợi tức từ tài sản; quyền này chỉ là một trong ba quyền của chủ sở hữu.
Đối với Viêt Nam, quy
̣
ền sở hữu đất đai thuộc về Nhà nước còn công dân, tổ
chức, doanh nghiệp..v..v.. (thường gọi là người sử dụng đất) chỉ có quyền sử dụng
trên mảnh đất được Nhà nước giao. Hiểu theo khái niệm trên thì những người đang
có QSDĐ không có quyền trong việc thu địa tô hay địa tô thặng dư. Điều này trên thực
tiễn đã và đang làm cho các chủ thể tham gia quan hệ đất đai gặp phải những vấn đề
phức tạp từ việc sử dụng đất thực tế cho đến quản lý vĩ mô trong nền KTTT định
hướng XHCN. Đặc biệt là việc xuất hiện tư tưởng và hành vi “độc quyền” trong
việc giao đât, cho thuê đât, đ
́
́ ịnh giá bồi thường khi thu hồi đất, hạn mức sử dụng đất,
thời hạn sử dụng đất…và khi những cơ chế, chính sách liên quan quy định bât h
́ ợp lý,
tất yếu dẫn tới việc kìm hãm sự vân đông cua hàng hoá QSDĐ, th
̣
̣
̉
ị trường BĐS; đông
̀
11
thơi nó còn làm phát sinh tiêu c
̀
ực cung nh
̃
ư nhưng ph
̃
ản ứng “bât th
́ ương” c
̀
ủa người
SDĐ trong đơi sông xa hôi.
̀ ́
̃ ̣
1.1.3.2. Quan hệ lợi ích kinh tế xã hội đối với Nhà nước, nhà đầu tư và
người sử dụng đất
Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh những điều kiện,
phương tiện nhằm đáp ứng nhu cầu về vật chất của mỗi chủ thể do đó lợi ích kinh
tế còn là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất và do quan hệ sản xuất quyết
định. Đối với lợi ích xã hội là cơ sở để đảm bảo công bằng thực sự, vững chắc cho
sự phát triển đúng hướng và cho sự phát triển của các lợi ích khác. [16]
Cho dù cách phân chia lợi ích có thể khác nhau nhưng các lợi ích kinh tế bao
giờ cũng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Có thể thấy một phần nguồn lực đất
đai vẫn chưa được sử dụng có hiệu quả, tác động đến mục tiêu kinh tế xã hội,
tăng trưởng kinh tế và gây thất thu cho ngân sách nhà nước mà nguyên nhân chủ yếu
còn chưa giải quyết được quan hệ lợi ích kinh tế xã hội trong các quan hệ đất đai.
Quan hệ hài hòa lợi ích giữa nhà nước, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi (3 bên)
nhằm đảm bảo sử dụng đất đai không chỉ chú trọng đến lợi ích trước mắt như lợi
nhuận từ đất đai (do quy hoạch) mang lại các chủ thể cứ ra sức khai thác chuyển
đổi, chuyển nhượng, cho thuê, chuyển đổi nhiều diện tích đất đai màu mỡ sang các
loại đất phi nông nghiệp dẫn đến người dân thiếu việc làm, chuyển đổi nghề
nghiệp chưa được coi trọng. Thực tế quan hệ lợi ích giữa 3 bên hiện nay còn nhiều
bất cập với người sử dụng đất bị thu hồi luôn mong muốn được bồi thường thỏa
đáng, trong khi các nhà đầu tư muốn tối đa hóa lợi nhuận bằng mọi cách, Nhà nước
chỉ thực hiện thu các khoản thuế và lệ phí từ các giao dịch đất đai. Do vậy, vai trò
của Nhà nước càng trở nên quan trọng trong điều tiết quan hệ lợi ích ba bên trong sử
dụng đất đai bền vững.
12
Giải quyết lợi ích giữa 3 bên là động lực của sự phát triển và phải đạt mục
tiêu hài hòa về lợi ích giữa các bên, không triệt tiêu bất cứ bên nào và lợi ích của các
bên cần được tôn trọng và bảo vệ. Nếu giải quyết tốt lợi ích thì sẽ phát triển còn
nếu giải quyết không tốt thì trở thành đối kháng và mâu thuẫn trong xã hội.
Nhận thức rõ quan điểm phát triển kinh tế gắn liền với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội trên cơ sở
xem xét các yếu tố khách quan và chủ quan một cách khoa học, đánh giá đúng mức
lợi ích giữa các bên từ đó tìm ra cách giải quyết hài hòa lợi ích, tăng sự đồng thuận,
phù hợp với xu hướng của xã hội hiện đại.
Cũng như các loại tài nguyên thiên nhiên khác, đất đai hàm chứa những giá trị
khác nhau: giá trị sử dụng trực tiếp (ví dụ giá trị về quyền sử dụng đất trên thị
trường…) giá trị sử dụng gián tiếp (giá trị sinh thái, duy trì và bảo vệ một hệ sinh
thái nào đó…) và giá trị vô hình (giá trị mang tính tâm linh, đất thiêng …). Vì vậy,
mức bồi thường cho người dân khi bị thu hồi đất như thế nào cho hợp lý và hài hòa
lợi ích cần được giải quyết trong thực tế quản lý và sử dụng đất của chúng ta.
Trên thực tế, nhiều trường hợp sau khi thu hồi đất của nông dân với giá bồi
thường có khi chỉ vài chục ngàn đồng trên một m2, doanh nghiệp đầu tư xây dựng
hạ tầng, khu đô thị, khu nhà ở dân cư và cho thuê hoặc chuyển nhượng có nơi lên
đến vài triệu đồng trên một m2 mang lại lợi nhuận rất lớn. Tuy nhiên, cộng đồng
dân cư bị mất đất chưa được hưởng lợi ích của sự phát triển này mà đúng ra, lợi ích
của dự án phát triển kinh tế phải được phân chia một cách công bằng giữa ba nhà:
Nhà nước, nhà đầu tư và nhà nông. Việc Nhà nước ban hành các chính sách bồi
thường hợp lý sẽ buộc các doanh nghiệp sử dụng đất tiết kiệm phát triển theo
hướng bền vững nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, đổi mới công nghệ theo hướng
thân thiện môi trường.
13
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng một trong những mục đích cốt
lõi của hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận và đó cũng là cơ sở cho sự tồn
tại, phát triển của doanh nghiệp. Chính vì vậy, để góp phần vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước các doanh nghiệp là những nhà đầu tư tiền của,
công sức, trí tuệ để tạo ra giá trị thặng dư, tạo công ăn việc làm ổn định cho người
lao động, góp phần đưa giá trị quyền sử dụng đất trở thành nguồn vốn, nguồn nội
lực quan trọng cho đất nước. Do đó, việc đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước,
nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi cần được xác định rõ ràng trên cơ sở Nhà
nước điều tiết lợi ích giữa nhà đầu tư với người bị thu hồi đất đảm bảo nhà đầu tư
vẫn có lãi trong khi người bị thu hồi đất chấp thuận, ổn định đời sống.
1.2. Các chính sách của Nhà nước trong việc điều tiết và quản lý phần
giá trị tăng thêm từ đất khi thực hiện các dự án đầu tư phát triển
1.2.1. Các văn bản luật
Các văn bản luật là các văn bản do Quốc hội ban hành bao gồm: Hiến pháp,
Luật Đất đai.
+ Hiến pháp là văn bản luật cao nhất của nhà nước ta, đã được ban hành lần
thứ tư. Trong đó, hiến pháp lần thứ ba (quốc hội thông qua ngày 18/12/1980) và hiến
pháp lần thứ tư (quốc hội thông qua ngày 15/4/1992) đã quy định về quyền sở hữu
của nhà nước và nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai. Trong đó có quy định
tại điều 18 hiến pháp 1992 là: “Tổ chức, cá nhân được chuyển quyền sử dụng đất,
đươc nhà nước giao theo quy định của pháp luật” là nguyên tắc quan trọng và là căn
cứ pháp lý để soạn thảo luật đất đai về giá đất, định giá đất và thị trường bất động
sản. Bên cạnh đó, điều 23 Hiến pháp cũng quy định: “Trong trường hợp thật cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc
14
trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị
trường” [17]
+ Luật Đất đai:
Nhà nước Việt Nam đã ban hành 3 văn bản Luật Đất đai vào các năm 1987,
1993, 2003. Trong đó, Luật Đất đai 2003 đã giải quyết được những vấn đề mà thực
tiễn đặt ra, tháo bỏ những ách tắc ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, ổn định chính
trị xã hội. Luật đã quy định nhiều nội dung mới phù hợp với nền kinh tế thị trường
như các vấn đề: kinh tế đất, thị trường bất động sản, về quyền của người sử dụng
đất…
Luật Đất đai 2003, được Quốc hội khoá 11 kỳ họp thứ 4 thông qua ngày
26/11/2003 bao gồm 7 chương 146 điều. Các điều luật có liên quan đến điều tiết và
quản lý các nguồn lợi từ đất:
Khoản 3 điều 5 Luật Đất đai 2003 đã chỉ rõ “Nhà nước thực hiện quyền điều
tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính sách tài chính về đất đai như sau:
Thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất
Thu thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất
Điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử
dụng đất mang lại” [18]
Để đảm bảo lợi ích chung của toàn xã hội và lợi ích của người sử dụng, tùy
thuộc vào đối tượng và mục đích sử dụng mà Nhà nước áp dụng các hình thức giao
đất không thu tiền, có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất (điều 33, 34).
Các vấn đề liên quan đến thu hồi đất cũng được quy định rất rõ trong Luật
Đất đai 2003, một số quy định đáng quan tâm là:
+ Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng sau
khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được công bố hoặc khi dự án đầu tư có nhu
15
cầu sử dụng đất phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xét duyệt. (Điều 39)
+ Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển
kinh tế trong trường hợp đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu
kinh tế và các dự án đầu tư lớn theo quy định của Chính phủ. (Điều 40)
+ Đối với dự án sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã
được xét duyệt thì nhà đầu tư được nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất,
nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của các tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân
mà không phải thực hiện thủ tục thu hồi đất (Điều 40).
+ Người bị thu hồi loại đất nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới
có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường
bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi (Điều 42).
1.2.2. Các văn bản dưới luật
Các văn bản dưới luật là các văn bản hướng dẫn thi hành luật do trung ương
và địa phương ban hành.
Trên cơ sở Nghị định 188/2004/NĐ CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 của
Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất, Chính phủ
ban hành Nghị định 123/2007/NĐ CP ngày 27 tháng 7 năm 2007 có sửa đổi, bổ xung
một số điều, trong đó có quy định UBND cấp tỉnh hàng năm phải điều chỉnh lại loại
đất, loại đường phố và vị trí đất khi có những thay đổi do quy hoạch, đầu tư nâng
cấp hoặc xây dựng mới kết cấu hạ tầng làm thay đổi loại đất, hạng đất, loại
đường phố và vị trí đất đã phân loại trước đó, cũng như là quy định cụ thể những
trường hợp mà UBND cấp tỉnh phải điều chỉnh giá.
Trên cơ sở Luật Đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003 Chính phủ ban hành Nghị
16
định 197/2004/NĐCP ngày 03 tháng 12 năm 2004 về bồi thường, hỗ trợ tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất gồm 7 chương, 51 điều.
Nghị định 197/2004 và Nghị định 22/1998 có bố cục về cơ bản thống nhất
với nhau, nhưng Nghị định 197 đã khắc phục được những tồn tại trong Nghị định
22, trong đó quy định “giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích đang sử
dụng” do UBND tỉnh quy định.
Nghị định số 84/2007/NĐCP ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ quy
định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực
hiện quyền sử dụng đất, trình tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.
Khắc phục những bất cập trong bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người
dân bị thu hồi đất mới đây Nghị định 69/2009/NĐCP ngày 13 tháng 8 năm 2009 của
Chính phủ, quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ tái định cư là một trong những chính sách được người dân mong mỏi,
đón chờ nhất. Trong Nghị định còn chỉ rõ “Nhà nước điều tiết một phần lợi ích từ
việc thu hồi, chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện các khoản hỗ trợ cho
người có đất bị thu hồi” quy định tại Điều 17 Nghị định này. Chi tiết các khoản hỗ
trợ cho người dân có đất bị thu hồi được quy định trong các Điều 18, 19, 20, 21, 22
và Điều 23.
1.3. Kinh nghiệm một số nước trên thế giới về việc chia sẻ lợi ích từ đất
1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Cũng giống như Việt Nam, Trung Quốc không thừa nhận tư hữu đối với đất
đai. Dưới hệ thống kinh tế kế hoạch xã hội chủ nghĩa, quyền sở hữu tài sản đối với
tài nguyên thiên nhiên và các phương tiện sản xuất phần lớn đều bị quốc hữu hóa.
Tuy nhiên, việc quốc hữu hóa toàn bộ đất đô thị của nước này chỉ chính thức hoàn
tất sau khi Hiến pháp 1982 được ban hành. Đất đô thị thuộc về Nhà nước và được
17
quản lý bởi nhà nước Trung Quốc – người chịu trách nhiệm trước toàn xã hội.
Quyền sở hữu đối với bộ phận đất đai này được chính thức gọi là sở hữu toàn dân
XHCN. [16]
Việc đưa đất đai vào quan hệ thị trường khởi nguồn từ những cải cách trong
hệ thống SDĐ cuối những năm 1980. Từ việc cho thuê đất ở Thượng Hải, Luật
Quản lý nhà nước về đất đai năm 1986 đã quy định cơ cấu SDĐ thông qua việc giao
và cho thuê có đền bù, từ đây đã tạo nền tảng cho việc hình thành thị trường đất đai.
Cuộc cách mạng trong phân phối đất đai bắt đầu từ năm 1987 và kéo dài hơn một
thập kỷ trải qua ba giai đoạn.
Tháng 11/1987, Hội đồng Nhà nước của Trung Quốc đã ban hành quyết định
cải cách đất đai ở một số thành phố lớn như Thượng Hải, Thẩm Quyến, Quảng
Châu… Đặc khu kinh tế Thẩm Quyến là thành phố đầu tiên ở Trung Quốc thừa
nhận giá trị hàng hóa của đất đai. Như vậy, tại Thẩm Quyến, QSDĐ tham gia vào
thị trường như các tài sản khác lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc và đã khởi
xướng cho việc chuyển giao QSDĐ của Nhà nước bằng phương thức đấu thầu, đấu
giá.
Tháng 4/1988, Quốc vụ viện Trung Quốc sửa đổi Hiến pháp, trong đó bổ
sung quyền chuyển nhượng QSDĐ theo quy định của pháp luật, hủy bỏ quy định
cấm cho thuê đất và ban hành Quy chế tạm thời về việc giao và chuyển nhượng
bằng hợp đồng, đấu thầu, đấu giá. Như vậy, từ cơ chế giao đất không thu tiền
chuyển sang có thu tiền; từ việc không giới hạn thời gian SDĐ chuyển sang xác định
thời hạn SDĐ, hệ thống SDĐ của Trung Quốc đã đạt được những thành tựu khả
quan. Thời kỳ của Kế hoạch 5 năm lần thứ 9, việc cải cách hệ thống SDĐ được
tiến hành sâu rộng hơn, từ nguyên tắc năng động cân bằng cho việc khai thác SDĐ
nông nghiệp (năm 1996) đến những chính sách ổn định lâu dài trong việc tăng cường
quản lý nhà nước đối với đất đai. Tất cả những cải cách nổi bật đối với hệ thống
18
SDĐ này đã dọn đường cho việc thành lập và hoàn thiện thị trường đất đai Trung
Quốc.
Việc sửa đổi Hiến pháp và pháp luật liên quan đến đất đai không chỉ giúp duy
trì bản chất tự nhiên của hàng hóa đất đai thuộc sở hữu nhà nước ở cấp độ luật, mà
còn đánh dấu sự khởi đầu của quá trình “thương mại hóa” trong quản lý nhà nước
về đất đai ở Trung Quốc. Với việc thành lập thị trường đất đai, đất đai ở hầu hết
các thành phố và địa phương khác ở Trung Quốc đã được chuyển giao theo phương
thức phải trả tiền cho Nhà nước.
Ngay từ khi thiết lập hệ thống kinh tế thị trường, nguyên tắc chuyển giao đất
và xác định giá đất theo cơ chế thị trường phát triển mạnh như Quảng Đông,
Jiangsu, Zhijang. Việc thành lập thị trường đất đai như hệ thống lưu trữ về mua bán
đất đai ở Hàng Châu, Chợ địa ốc ở Quảng Đông, Zhejiang là cơ sở định hướng để
cải cách hệ thống SDĐ. Những hoạt động trên có vai trò to lớn của Bộ Đất đai và
Tài nguyên Trung Quốc. Năm 1998, Bộ này đã ban hành Thông tư về khuyến khích
việc chuyển QSDĐ của Nhà nước bằng đấu thầu và đấu giá đã góp phần dẫn đến
giai đoạn thứ hai trong việc thành lập thị trường đất đai Trung Quốc.
Ngày 01/01/2000, Bộ Đất đai và Tài nguyên đã ban hành Thông tư về việc
thành lập Thị trường đất đai thực và khuyến khích các loại giao dịch QSDĐ tiêu
chuẩn nhằm mục đích thành lập, hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước đối với giao
dịch đất đai và tiêu chuẩn hóa các hoạt động của thị trường đất đai. Trong đó nhấn
mạnh Bộ sẽ tập trung thiết lập và hoàn thiện hệ thống quản lý đất đai, tiêu chuẩn
hóa thị trường đất đai theo trình tự: kiểm soát toàn bộ hệ thống nguồn cung đất đai
phục vụ cho mục đích xây dựng; công khai hệ thống các giao dịch QSDĐ và ban
hành; cải tiến một cách thường xuyên hệ thống giá đất tiêu chuẩn (giá đất tiêu
chuẩn được ban hành mới theo định kỳ ba năm một lần và được điều chỉnh cho phù
19
hợp với những thay đổi của thị trường); thiết lập hệ thống đăng ký đất đai theo yêu
cầu; thực hiện hệ thống quyết định tập thể.
Năm 2001, hệ thống các biện pháp mới trong quản lý tài sản đất đai đã hình
thành với quan điểm tăng cường quản lý tài sản đất đai trong lĩnh vực tài nguyên.
Hệ thống thị trường “thực” về đất đai, giá đất tiêu chuẩn và thông tin công khai về
đất đai,… được thiết lập tại nhiều thành phố ở Trung Quốc. Những hệ thống cơ
bản đảm bảo tiêu chuẩn vận hành của thị trường đất đai phục vụ như những công
cụ tiêu chuẩn hóa trật tự thị trường này.
Ở Trung Quốc, đất đai sử dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài thuộc một trong những trường hợp SDĐ phải trả tiền đầu tiên. Luật Đầu tư
nước ngoài của Trung Quốc về hình thức đầu tư liên doanh giữa bên nước ngoài và
Trung Quốc ban hành năm 1979 quy định đầu tư của phía Trung Quốc được thực
hiện bằng QSDĐ, và “khi mà QSDĐ không phải là phần vốn góp của bên doanh
nghiệp Trung Quốc, doanh nghiệp liên doanh phải trả cho Nhà nước khoản phí về
việc SDĐ”; diện tích đất được sử dụng cho doanh nghiệp liên doanh này có thể
được chuyển giao thông qua việc ký kết hợp đồng với cơ quan quản lý nhà nước về
đất đai, trong đó xác định rõ mục đích, thời gian và khoản phí cho việc sử dụng. Nếu
như trước năm 1990, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có đất sử dụng chủ yếu
thông qua con đường ký hợp đồng và trả phí cho việc SDĐ của mình thì sau Nghị
định 55, 56, họ có thể có được QSDĐ thông qua hình thức chuyển nhượng.
Như vậy, nếu so sánh với Việt Nam, xuất phát điểm và chính sách đất đai
của Trung Quốc không có sự khác biệt nào đáng kể. Thậm chí, việc chính thức quốc
hữu hóa đất đai đối với đô thị ở Trung Quốc (năm 1982) còn chậm hơn so với
trường hợp Việt Nam (năm 1980). Tuy nhiên, việc đưa đất đai vào quan hệ thị
trường của nước này lại diễn ra trước so với Việt Nam. Cũng cần phải thừa nhận
một thực tế rằng, dù thời điểm chính thức “thị trường hóa đất đai” ở Trung Quốc
20
(theo Hiến pháp sửa đổi 1988) diễn ra trước so với Việt Nam không lâu (theo Hiến
pháp 1992) nhưng những gì mà quốc gia này làm được đối với lĩnh vực đất đai thì
chúng ta còn phải nỗ lực nhiều mới có thể theo kịp. Luật quy hoạch nông thôn và đô
thị của Trung Quốc có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2008. Luật này nhấn mạnh
trong khu vực quy hoạch không được chiếm dụng đất nông nghiệp để xây dựng
doanh nghiệp, cơ sở công cộng, công trình công cộng và khu nhà ở; nghiêm cấm bất
kỳ đơn vị, cá nhân tùy tiện thay đổi quy hoạch và trước khi sửa đổi quy hoạch, cơ
quan tổ chức thiết kế quy hoạch phải tổng kết tình hình thực hiện quy hoạch ban
đầu đồng thời báo cáo lên cơ quan phê duyệt; các quy hoạch trong thôn làng phải
được hội nghị toàn thôn hoặc hội nghị đại biểu của thôn thảo luận thông qua trước
khi đăng ký phê duyệt, bất kỳ đơn vị cá nhân nào cũng có quyền tố cáo hoặc buộc
tội các hành vi vi phạm quy hoạch.
Từ kinh nghiệm của Trung Quốc, những yếu tố trước mắt mà Việt Nam cần
phải có để xây dựng một thị trường đất đai (hay thị trường QSDĐ) lành mạnh chính
là: một hệ thống quản lý đất đai có đủ năng lực mà trong đó các cơ quan lập quy
hoạch, cơ quan định giá, cơ quan đăng ký đất đai phải đảm bảo được tính hiệu quả
và minh bạch trong hoạt động của mình; một chính sách đất đai cởi mở, không còn
phân biệt đối xử giữa các loại chủ thể SDĐ, phù hợp hơn với quá trình hội nhập,
chẳng hạn như việc áp dụng hình thức "giao đất" cho nhà đầu tư nước ngoài như
Trung Quốc đã làm; một hệ thống các yếu tố trung gian với quy chế pháp lý đầy đủ,
rõ ràng để có thể hỗ trợ một cách hiệu quả cho thị trường QSDĐ. Trung Quốc, thuế
đất chiếm khoảng 2,4% tổng nguồn thu của Chính phủ.
Việc khuyến khích xây dựng các doanh nghiệp địa phương là một trong
những giải pháp quan trọng của Trung Quốc nhằm giải quyết vấn đề việc làm do bị
thu hồi đất ở nông thôn, góp phần ổn định đời sống, giảm sức ép về việc làm cho
các đô thị lớn. Đây là một bài học bổ ích cho chúng ta, nhất là đối với giai đoạn đô
21
thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở nước ta hiện nay. Xây dựng các đô thị quy mô vừa
và nhỏ để giảm bớt lao động nhập cư ở các thành phố lớn.
Đối với Trung Quốc, mục tiêu bao trùm lên chính sách bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư là hạn chế đến mức tối đa việc thu hồi đất, GPMB cũng như số lượng
người bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư. Nếu việc
thu hồi đất không thể tránh khỏi thì việc chuẩn bị phương án đền bù rất cẩn thận
trên cơ sở tính toán đầy đủ lợi ích của Nhà nước, tập thể và cá nhân, đảm bảo
những người bị thu hồi đất có thể khôi phục lại hoặc cải thiện mức sống so với
trước khi bị thu hồi đất. Việc đền bù nhà ở cho người dân ở thành phố khác với
việc bồi thường cho người dân ở nông thôn bởi có sự khách nhau về hình thức sở
hữu đất đai ở thành thị và nông thôn. Đối với nhà ở của người dân thành phố thì nhà
nước bồi thường bằng tiền là chính với mức giá do thị trường bất động sản quyết
định qua các tổ chức trung gian để đánh giá, xác định giá. Với người dân nông thôn,
nhà nước thực hiện theo những cách thức linh hoạt hơn với mỗi đối tượng khác
nhau sẽ có cách bồi thường khác nhau...
Nhằm hạn chế hoạt động tích trữ đất đai của các công ty bất động sản, Bộ
Đất đai và Tài nguyên cùng Bộ Nhà ở và Xây dựng thành thị nông thôn Trung Quốc
cho biết: các công ty bất động sản bị cấm tham gia đấu giá để mua thêm đất đai,
nếu họ đã có đất để không trong hơn một năm... yêu cầu chính quyền các địa
phương cần ưu tiên các dự án xây dựng nhà ở giá hợp lý và đặc biệt ít nhất 70%
nguồn cung đất cần được dành cho các dự án nhà ở công cộng hoặc các khu căn hộ
nhỏ. Nếu các chính quyền địa phương không đạt được mục tiêu này, sẽ bị cấm chào
bán đất cho các dự án xây nhà cao cấp.
Trong phát triển các Khu kinh tế, khu công nghiệp, Trung Quốc đã có những
chính sách về đất đai, hài hòa lợi ích của nhà đầu tư:
22
Việc sử dụng đất để đầu tư các công trình, dự án trong KKT, KCN đều
được thực hiện theo hình thức đấu thầu. Trong quá trình đấu thầu, để khuyến khích
đầu tư, Nhà nước kiểm soát giá thành ở mức hợp lý để đảm bảo giá trúng thầu xây
dựng không thấp hơn giá thành xây dựng để nhà đầu tư có lợi nhuận. Nhà nước giữ
quyền đưa ra mức giá thấp nhất làm cơ sở cho việc đấu thầu để đảm bảo giá đất
xây dựng không thấp hơn mức giá sàn.
Về vấn đề đền bù đất đai: Nhà nước đảm bảo đời sống lâu dài cho người
dân bằng cách:
+ Không đưa toàn bộ số tiền đền bù cho người dân mà thanh toán tiền cho
người dân làm nhiều lần hoặc hỗ trợ người dân sử dụng phần tiền giữ lại để góp
vốn kinh doanh, tạo thu nhập và việc làm lâu dài;
+ Đào tạo nghề, tạo việc làm thích hợp cho người dân;
+ Thiết lập hệ thống bảo hiểm xã hội của nông dân mất đất và ngành bảo
hiểm xã hội nhà nước phải xây dựng hệ thống bảo hiểm nhiều loại theo các lứa tuổi
khác nhau, thiết lập nhà dưỡng lão, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
người nghèo...
+ Mời nông dân mất đất hưởng một phần thành quả và thu lợi của công
nghiệp hoá và đô thị hoá bằng cách thu hút nông dân mất đất tham gia cổ phần. Tại
Thượng Hải, chính quyền đảm bảo đời sống và việc làm cho người dân bằng cách
thành lập các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất mà thành viên tham gia là người dân bị
mất đất, giao đất cho họ để họ tổ chức sản xuất kinh doanh. Để tập hợp người dân,
lãnh đạo chính quyền địa phương tại nơi mất đất được chỉ định làm chủ doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất.
Vấn đề quy hoạch sử dụng đất phục vụ cho phát triển KKT, KCN được
Chính phủ Trung Quốc triển khai quyết liệt, đặc biệt là công tác đền bù, trưng thu
đất. Công tác tổ chức đền bù, giá đền bù, kế hoạch đền bù được Nhà nước phê chuẩn
23