Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

CHIẾC NÓN BÀI THƠ XỨ HUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.18 KB, 6 trang )

Nón bài thơ xứ Huế - niềm tự hào đất cố đô
"Gió cầu vương áo nàng thôn nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ."
Nói đến sản phẩm đặc sắc của các làng nghề truyền thống ở Huế, có lẽ nón lá được nhiều người biết đến hơn cả.
Bởi hàng trăm năm nay, nón lá không chỉ là vật dụng thân thiết che nắng, che mưa gắn bó với đời sống hàng
ngày của mỗi người dân Huế, mà hơn thế nó đã trở thành một đặc sản văn hóa “nón bài thơ” gắn với hình tượng
của người con gái Huế.
Đến với mảnh đất cố đô, các bạn dễ dàng bắt gặp hình ảnh chiếc nón bài thơ - một vật dụng được xem là mang
cả vẻ đẹp của tâm hồn Huế. Để làm đẹp và tôn vinh thêm cho chiếc nón lá xứ Huế, các nghệ nhân còn ép bức
tranh của sông Hương, núi Ngự và vài dòng thơ vào giữa hai lớp lá:
“Ai ra xứ Huế mộng mơ
Mua về chiếc nón bài thơ làm quà”.
Nón bài thơ là một loại nón lá đặc biệt ở xứ Huế, tên gọi của nó bắt nguồn từ đặc điểm là khi soi lên ánh sáng
thì bạn có thể thấy một bài thơ hay hình ảnh hoa văn được tạo nên khéo léo, bố cục cân đối hiện lên giữa hai lớp
lá nón.
Theo một số tư liệu đã cho ta thấy được nghề nón lá đã ra đời khá lâu đời. Nghề nón lá xuất phát từ nhu cầu của
con người, vừa có thể che nắng che mưa trong khí hậu nóng ẩm của Việt Nam, giá thành lại rẻ, vì vậy nón lá khá
được ưa chuộng. Và ngày nay, nhiều du khách du lịch Huế từ Hải Phòng đến cũng khá thích thú với những
chiếc nón lá này.
Nhìn chiếc nón lá nhỏ gọn vậy thôi, nhưng những công đoạn làm ra nó thì không hề đơn giản, đòi hỏi một quá
trình vô cùng công phu và tinh tế. Là một sản phẩm thủ công, người làm hoàn toàn sử dụng công cụ là đôi tay
của mình. Người làm phải thực hiện 15 công đoạn từ lên rừng hái lá, rồi sấy lá, mở, ủi, chọn lá, xây độn vành,
chằm, cắt lá, nức vành, cắt chỉ,… để có một chiếc nón bài thơ vừa nhẹ vừa đẹp.
Nguyên liệu của chiếc nón là lá non của cây Bồ Quy Diệp sau khi hái trên rừng đem về phơi sương rồi nức vàng
và ủi cho phẳng. Sau đó, người làm phải khâu tạo khung và vành nón. Đây là công việc đòi hỏi người thợ có
nhiều kinh nghiệm, cẩn thận và khéo tay. Khung của nón lá sẽ bao gồm 12 thanh gỗ vát mảnh được ghép lại,
khớp nhau ở đỉnh, phía dưới khoảng cách đều nhau. 16 vành như 16 vầng trăng được ve thật nhanh, thật tròn,
thật nhẵn, thật điệu, sao cho cân đối và hài hòa nhất.
Những chiếc lá đực đầu tiên sẽ được xếp vào bên trong, tiếp đến là hình hoa văn – bài thơ phủ kín diện tích
xung quanh chiếc nón. Lá cái được xây ở ngoài cùng. Công đoạn này khá quan trọng đòi hỏi, động tác của
người nghệ nhân phải nhẹ nhàng khéo léo, chèn kỹ, đẹp và dằn chắc chắn, giữ cho mặt lá phẳng không xê dịch.


Công đoạn nào cũng đòi hỏi phải có kinh nghiệm, sự khéo léo và kỹ lưỡng để cho nên những sản phẩm là niềm
tự hào của xứ Huế.
Chiếc nón lá hiện diện khắp những cánh đồng Việt Nam. Nón lá theo người người nông dân ra đồng, cùng tham
gia sản xuất cho mùa màng bội thu. Ngoài ra, nón lá còn tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Nếu tà áo
dài Việt Nam tôn lên vẻ đẹp thướt tha, duyên dáng, thùy mị sang trọng của người con gái thì nón lá lại làm cho
người con gái mang một vẻ đẹp tiềm ẩn, kín kẽ và đậm đà hơn rất nhiều.
Những du khách đến với xứ Huế đều rất hào hứng với mỗi chiếc nón lá đội trên đầu với nụ cười rạng rỡ càng
làm cho chiếc nón lá trở nên ý nghĩa hơn bao giờ hết! Nón lá nay đã trở thành một món quà tạo sự gắn kết giữa
Việt Nam với nước bạn trên thế giới và nón lá đã đưa hình ảnh Việt Nam đi khắp bốn phương.
Chỉ là một chiếc nón lá đơn sơ và mộc mạc như chính tính cách con người Việt Nam nhưng lại vô cùng ý nghĩa.
Chiếc nón lá là hình ảnh của Việt Nam, là món quà mà chính bàn tay người Việt tạo ra, chiếc nón lá là cây cầu
nối tình bằng hữu giữa Việt Nam và nước bạn. Dù gì đi chăng nữa, chiếc nón lá vẫn mang trong mình màu sắc
của sự bình yên, dịu dàng và đầy tinh tế!


CHIẾC NÓN BÀI THƠ XỨ HUẾ
Chiếc nón bài thơ ra đời ở Tây Hồ như một sự tình cờ: Đó là vào khoảng năm 1959 - 1960, ông Bùi Quang Bặc
- một nghệ nhân chằm nón lá, cũng là một người yêu thơ phú trong làng đã có sáng kiến làm nên nón bài thơ
bằng cách, ép những câu thơ vào giữa hai lớp lá, tôn vinh thêm vẻ đẹp của chiếc nón (lúc đó, nón lá ở Huế chủ
yếu được bán vào thị trường của các tỉnh phía nam).
Hai câu thơ đầu tiên được ông Bặc ép vào chiếc nón là:
“Ai ra xứ Huế mộng mơ
Mua về chiếc nón bài thơ làm quà”.
Sao anh không về thăm quê em
Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên
Bàn tay xây lá, tay xuyên nón
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên
Nón lá đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lũ,Trống Đồng Đông Sơn, trên thạp đồng Đào Thịnh từ 25003000 năm về trước công nguyên. Người Việt cổ từ xưa đã biết lấy lá buộc lại làm vật che mưa, nắng. Ngày xưa
nón được sử dụng rất rộng rãi... Che nắng, mưa, gắn liền với hình ảnh người nông dân ra đồng, thậm chí làm
quạt khi nóng,đôi khi có thể múc nước rửa mặt.

Ngày nay nón lá cũng được xem làm quà cho du khách khi đến tham quan Việt Nam, một món trang sức hết sức
mộc mạc, giản dị mang đậm bản sắc dân tộc.
Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón của các cô gái với chiếc áo dài duyên dáng thể hiện nét dịu dàng, mềm mại
kín đáo của người phụ nữ Việt Nam đã nhiều lần xuất hiện và đều nhận được những tràng pháo tay tán thưởng
của khán giả.
Nghề làm nón nhìn có vẻ đơn giản nhưng đòi hỏi người làm nón phải cẩn thận và tỉ mỉ trong các khâu, đặc biệt
là khâu chằm nón. Để có một chiếc nón đẹp thì tất cả các công đoạn đều phải được làm một cách công phu.
Để có lá đẹp và tốt, người làm nón phải ra chợ, tự tay chọn lá. Lá được chọn thường là lá dừa hay lá gồi có màu
xanh nhẹ. Lá được ủi nhiều lần thật thẳng và thật láng. 16 vành nón được trắc thật tròn trịa. Xây và lợp lá cũng
đòi hỏi tay nghề tinh tế. Người thợ phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp, để nón
có thể thanh và mỏng, và đặc biệt các mũi kim phải đều, khít, sắc.
Tại xứ Huế, du khách có thể bắt gặp hình ảnh chiếc nón bài thơ - một vật dụng được xem là mang cả vẻ đẹp của
tâm hồn Huế.
Để làm đẹp và tôn vinh thêm cho chiếc nón lá xứ Huế, các nghệ nhân còn ép bức tranh của sông Hương, núi
Ngự và vài dòng thơ vào giữa hai lớp lá: “Ai ra xứ Huế mộng mơ. Mua về chiếc nón bài thơ làm quà”.
Nón lá Huế - Một nét duyên in đậm chất Huế.
Nói đến sản phẩm đặc sắc của các làng nghề truyền thống ở Huế, có lẽ nón lá được nhiều người biết đến hơn cả.
Bởi hàng trăm năm nay, nón lá không chỉ là vật dụng thân thiết che nắng, che mưa gắn bó với đời sống hàng
ngày của mỗi người dân Huế, mà hơn thế nó đã trở thành một đặc sản văn hóa “nón bài thơ” gắn với hình tượng
của người con gái Huế. “Gió cầu vương áo nàng thôn nữ/Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ...”(Đông Hồ).
Nghề làm nón lá hình thành và phát triển ở Huế từ hàng trăm năm nay, với rất nhiều làng nón nổi tiếng như: Dạ
Lê, Phú Cam, Đốc Sơ, Triều Tây, Kim Long, Sịa... Ngày nay nghề làm nón lá tuy không thịnh vượng như xưa,
nhưng vẫn còn đó những làng nghề, những người thợ tài hoa âm thầm gắn bó với nghề chằm nón. Mỗi năm các
làng nghề làm nón ở Huế cho ra thị trường hàng triệu chiếc nón, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ tại chỗ, mà
còn là món quà lưu niệm đặc sắc cho du khách bốn phương mỗi khi đến Huế. Nón lá Huế, đặc biệt là nón bài
thơ được nhiều du khách ưa chuộng bỡi sự thanh thoát nhẹ dàng, như không còn là chiếc nón đơn thuần mà là
một tác phẩm nghệ thuật thực sự. Để có được chiếc nón ưng ý đưa ra thị trường, các nghệ nhân làm nón Huế
phải trải qua nhiều công đoạn tỷ mỷ lắm, công đoạn nào cũng đòi hỏi sự cần mẫn khéo léo của đôi tay người
thợ. Từ chọn khung, uốn vành, lợp lá, cắt hoa văn, rồi đến chằm hoàn thiện chiếc nón và cuối cùng là đánh bóng
bảo quản, đưa ra thị trường.



Vì thế, trong các làng nghề làm nón, sự phân công lao động được thể hiện rất cụ thể, thợ làm khung, thợ chuốt
vành, thợ chằm nón...mỗi người một việc rất chuyên nghiệp. Làm khung chuốt vành là công đoạn đầu tiên quyết
định độ khum, độ tròn, hình dáng, kích cỡ của chiếc nón. Khung nón được làm bằng gỗ nhẹ, có mái cong đều
với nhiều kích cở, thường khung nón được làm một lần dùng vài chục năm, nếu không có sự thay đổi mẫu mã
theo nhu cầu thị trường. Vành nón được làm bằng thân cây lồ ô, cây mung có rất nhiều ở TT-Huế, được chẻ,
chuốt tròn thanh thoát, mỗi chiếc nón từ 15 - 16 vành, mà xưa nay nhiều người vẫn ví như “16 vành trăng”.
Lá làm nón ở Huế cũng là loại lá nón bình thường, nhưng được tuyển lựa xử lý qua nhiều khâu, hấp, sấy, phơi
sương, ủi phẳng sao cho mặt lá giữ được màu trắng xanh mới đạt tiêu chuẩn. Tiếp đến là công đọan lợp lá, đặt
hoa văn, biểu tượng giữa hai lớp lá sao cho cân đối hài hòa trong không gian của chiếc nón, để khi soi lên trước
ánh trời các hoa văn biểu tượng hiện rỏ cân đối. Biểu tượng ẩn hiện trong nón lá bài thơ thường là hình ảnh Cầu
Trường Tiền, Núi Ngự Bình, Ngọ Môn, Phu Văn Lâu, Cầu Ngói Thanh Toàn...Đi kèm theo các biểu tượng là
một số câu thơ nổi tiếng viết về Huế được cắt bằng giấy bóng ngủ sắc, nên càng nổi bật giữa nền xanh trắng của
lá nón. Chằm lá vào vành là công đoạn quan trọng nhất, đòi hỏi người thợ phải có sự cần mẫn khéo léo để
đường kim, mũi cước thẳng, đều mền mại theo độ cong của vành nón. Công đoạn này thường do người phụ nữ
thực hiện, vì thế ở các làng nón,con gái được dạy nghề rất sớm, 14 - 15 tuổi đã thành thạo nghề. Nón lá sau khi
hoàn tất được quét một lớp dầu bóng bằng nhựa thông pha cồn để tăng độ bóng, độ bền, chống thấm nước rồi
mới đưa ra chợ bán.
Chợ Huế nào hầu như cũng có hàng nón, từ các chợ lớn như Đông Ba, An Cựu, Bên Ngự... đến các chợ nhỏ như
Sịa, Phò Trạch ở đâu cũng có thể mua được chiếc nón lá Huế. Đặc biệt chợ Dạ Lê là chợ chuyên bán nón được
duy trì từ hàng trăm năm nay, là đầu mối lớn để nón Huế vào Nam, ra Bắc.
Hiện nay, du lịch đang phát triển mạnh ở Huế, nón lá trở thành mặt hàng lưu niệm mang nét văn hóa đặc sắc của
Huế được du khách ưa chuộng. Rất nhiều du khách đã về tận các làng nón để được tận mắt chứng kiến và tham
gia vào các công đoạn của nghề làm nón. Không ít người đã thực sự bất ngờ và thích thú khi được người thợ
nón lưu ảnh, tên của mình trên chiếc nón bài thơ mang về làm kỷ niệm. Chị Nguyễn Thị Thúy- một nghệ nhân
làm nón nổi tiếng ở làng nón Phú Cam, Người đã từng được mời sang Nhật Bản biểu diển và triển lãm nghề làm
nón Huế, cho biết:Không ngờ nón Huế mình lại được nhiều người biết và ưa thích như thế, cứ mỗi lần chằm nón
biểu diễn cho du khách xem là tui tự hào lắm... Quả thật, trên đường phố Huế, tôi đã gặp không ít nữ du khách
nước ngoài rất duyên dáng với chiếc nón Huế, không thua kém gì con gái Huế, cho nên nhiều người cho rằng

nón bài thơ là một nét duyên của Huế. Chính vì vậy, nón bài thơ Huế cũng là một kênh quảng bá hình ảnh Huế
rộng rãi mà hiệu quả nhất trong số các sản phẩm làng nghề truyền thống Huế hiện nay. Cầm chiếc nón lên, ta
không chỉ bắt gặp Huế trên từng đường kim, mũi cước của người thợ nón Huế, mà còn gặp cả chiều sâu văn hóa
Huế qua hình ảnh biểu tượng của Huế, qua những câu thơ đi cùng năm tháng với Huế “...con sông dùng dằng
con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu...”(Thu Bồn). Hay “...Sông Hương hoa rượu ta đến
uống/ Ta tỉnh đền đài ngã nghiêng say...”(Nguyễn Trọng Tạo)...
Dẫu bây giờ, trên đường phố Huế, nón lá không còn rợp bóng như ngày xưa mỗi buổi tan trường, nhưng nó đã
trở thành một nét văn hóa, một nét duyên không thể thiếu trong đời sống văn hóa Huế, đặc biệt là đối với người
phụ nữ Huế.

Thuyết minh về làng nghề nón lá xứ Huế - nón bài
thơ
Chiếc nón lá - hình ảnh thân thuộc, duyên dáng của người phụ nữ Việt Nam không biết tự bao giờ đã âm
thầm lặng lẽ đi vào thơ ca, được nhiều bạn đọc yêu thích. Nón lá từ lâu không chỉ là vật dụng chỉ để che
mưa, che nắng, mà nó còn là biểu tượng truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Để có được
những chiếc nón ấy, người thợ thủ công đã bỏ ra không ít công sức. Những làng nghề làm nón lá xuất
hiện, được nhiều người ưa chuộng, yêu thích. Huế là nơi nổi tiếng hơn cả.

"Gió cầu vương áo nàng thôn nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ."
(Đông Hồ)


Nghề làm nón ở Huế đã tồn tại và phát triển hàng trăm năm qua với nhiều làng nghề thủ công: Dạ Lê, Phú Cam,
Đốc Sơ, Triều Tây,....Mỗi năm sản xuất hàng triệu chiếc nón đáp ứng nhu cầu tiêu thụ. Những bàn tay nghệ
nhân khéo léo đan từng chiếc nón, trải qua nhiều công đoạn khác nhau để hoàn thành sản phâm.

Các công đoạn gồm: chọn khung, uốn vành, lợp lá,cắt hoa văn, chằm và đánh bóng bảo quản, cuối cùng đưa ra
thị trường. Vì gồm nhiều công đoạn như thế, nghề làm nón cũng chia ra làm nhiều thợ, mỗi người một việc: Thợ
làm khung, thợ chuốt vành, thợ chằm nón,...


Để định hình chiếc nón,người nghệ nhân bắt đầu làm khung. Công đoạn đầu tiên là chuốt vành, công đoạn này
yêu cầu người thợ phải khéo léo, chuốt sao cho các vành đều nhau, vừa vặn, không quá to hay quá nhỏ làm mất
vẻ đẹp của nón. Vành nón được làm bằng gỗ nhẹ, mảnh, các vành ghép lại tạo cho chiếc nón lá có độ khum, độ
tròn và có hình dáng nhất định. Mỗi chiếc nón thường có từ 15-16 vành, đường kính khoảng 50cm, làm từ gỗ
cây lồ ô, câu mung có nhiều ở Thừa Thiên - Huế. Vành nón có tuổi thọ khoảng vài chục năm tùy thuộc vào
người sử dụng. Có thể xem đây là công đoạn quan trọng nhất, quyết định rõ hình dạng chiếc nón lá, 16 vành nón
còn được người dân nơi đây đặt cho cái tên ấn tượng nhưng dễ nhớ: "16 vành trăng".

Tiếp theo là công đoạn lợp lá - một công đoạn quan trọng không kém. Lá dùng để lợp nón là loại lá nón bình
thường, nhưng chúng phải trải qua các giai đoạn chọn lọc tỉ mỉ và trải qua nhiều khâu: hấp, sấy, phơi sương, ủi
phẳng. Người nghệ nhân phải cân nhắc, cẩn thận sao cho lá nón giữ được màu trắng xanh mới đạt tiêu chuẩn.
Những chiếc lá nón được xếp đều lên vành, không bị chồng chéo nhau, tạo nên hình ảnh chiếc nón thanh mảnh,
đầy nữ tính. Những người nghệ nhân sẽ đính những chiếc lá này cố định lên vành nón bằng một loại "chỉ" đặc
biệt, cốt làm cho chiếc nón đẹp hơn, bền chắc hơn. Bình thường,mỗi vành nón xếp khoảng 24-25 chiếc lá đều
nhau. Đến đây, chiếc nón lá đã phần nào được định hình, các bộ phận đều khá đầy đủ.

Sau công đoạn lợp lá là công đoạn đặt hoa văn. Biểu tượng giữ hai lớp nón lá thường là hình ảnh cầu Trường
Tiền, núi Ngự Bình, cầu Ngói,.... được đặt hài hòa trong không gian nón, để khi soi dưới ánh nắng mặt trời, ta có
thể nhìn thấy những hình ảnh tuyệt đẹp ấy. Chưa hết, những bài thơ nổi tiếng viết về Huế cũng được in cạnh
bên, những bài thơ này thường được làm từ giấy bòng bảy màu, in nổi bật trên nền xanh trắng của lá nón. Nón lá
với hoa văn đẹp mắt, tinh tế đã cuốn hút không biết bao nhiêu người dân hướng về quê hương Huế mộng mơ
đầy yêu thương.

Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn quan trọng nhất: chằm nón. Công đoạn đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo của người nghệ
nhân, chính vì lí do này mà thợ chằm nón đa số đều là nữ. Từng đường kim mũi cước mềm mại uốn cong theo
vành nón, nhanh thoăn thoắt mà đều tăm tắp, đẹp biết bao nhiêu. Những đường cước mỏng viền quanh vành nón
không làm mất đi vẻ đẹp vốn có mà nó còn tô điểm thêm cho nón lá, đồng thời, cũng giúp làm tăng độ bền cho



nón. Nón lá sau khi hoàn tất sẽ được quét lên một lớp nhựa thông pha cồn để tăng độ bóng, không thấm nước.
Cuối cùng, những sản phẩm đặc biệt này sẽ có mặt trên thị trường, ở các chợ, các cửa hàng lưu niệm.

Ở Huế đâu đâu cũng có các hàng nón lá: chợ Đông Ba, Bến Ngự,...đến chợ Sịa, Phò Trạch,.... Với vẻ ngoài hấp
dẫn, chiếc nón đã trở thành một món hàng được nhiều người dân ưa chuộng, nhiều khách du lịch yêu thích. Ai
đã từng đến Huế, đều tự mua cho mình chiếc nón bài thơ - một dấu ấn mang đậm nét riêng của người dân nơi
đây. Hình ảnh chiếc nón lá được quảng bá khắp thị trường, các cô, các chị, ai cũng chuộng món hàng này, vừa
đơn giản, vừa đậm đà bản sắc dân tộc.

Cầm chiếc nón lá trên tay, ta không chỉ yêu từng đường kim mũi chỉ, từng đường nét hoa văn, mà còn yêu thêm
xứ Huế tình nghĩa đầy mộng mơ, yêu thêm những vẫn thơ mộc mạc đậm chất trữ tình:

"Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu..."
(Thu Bồn)
Nón bài thơ không chỉ là loại nón đơn thuần mà thực sự đã trở thành thương hiệu đặc sắc của dân tộc. Đây là
sản phẩm thủ công mĩ nghệ đầu tiên được Cục sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học Công nghệ) cấp chứng nhận bảo hộ
chỉ dẫn địa lí 8/2010.
Nón lá, đặc biệt là nón bài thơ đã đi sâu vào lòng người qua các bài thơ mộc mạc, yêu thương, trở thành một nét
riêng của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là nhân dân xứ Huế. Dẫu cho hiện tại, bóng dáng chiếc nón lá không còn
rợp bóng các con phố như ngày xưa, nhưng hình ảnh của nó vẫn tồn tại mại mã trong lòng người dân. Yêu thêm
chiếc nón lá, yêu thêm con người Huế, yêu thêm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam..... Và một điều chắc chắn
rằng, dù thời gian có trôi đi vô tận, hình ảnh chiếc nón lá cùng chiếc áo dài truyền thống mãi tồn tại sâu sắc
trong tâm khảm người dân. Chiếc nón lá mãi là biểu tượng của một dân tộc đầy yêu thương và sâu sắc.....

Về xứ Huế thăm làng nón bài thơ Tây Hồ
Ai ra xứ Huế mộng mơ
Mua về chiếc nón bài thơ làm quà
Chiếc nón bài thơ từ lâu đã làm xao xuyến bao tâm hồn người thi sĩ quốc dân, với hình ảnh cô gái Huế dịu
dàng, nghiêng nghiêng nón lá, không ít nhà văn nhà thơ đã xao động đến tốn bao nhiêu giấy mực. Ngoài vẻ đẹp

trầm mặc, mộng mơ của cảnh quan hay sự dịu dàng thùy mị của con gái xứ Huế thì chiếc nón bài thơ cũng đã
in dấu trong lòng nhiều người lữ khách. Yêu nón bài thơ là thế, nhưng để tìm ra xuất xứ của chiếc nón lá mỏng
manh này thì mấy ai đã đến được.
Nón lá Huế là không chỉ là kết tinh của những chiếc lá tro mềm mại mà còn chứa đựng sự khéo léo, công phu từ
bàn tay người nghệ nhân. Bởi vậy, khi ra thăm xứ Huế, tâm hồn ta bỗng lặng khi nghe khúc tự tình của người
con gái đan nón bài thơ:
“Sao anh không về thăm quê em


Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên
Bàn tay xây lá, tay xuyên nón
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên”
Những vần thơ lao động mượt mà, khỏe khắn đó xuất phát từ làng nón Tây Hồ, cái nôi của những chiếc nón bài
thơ gây thương nhớ. Nằm bên dòng sông Như Ý, làng Tây Hồ (xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên –
Huế) từ lâu đã nổi tiếng với nghề chằm nón lá truyền thống. Nghề chằm nón lá đã hình thành cách đây hàng
trăm năm và nón bài thơ – một nét đặc trưng của Huế cũng xuất phát từ làng nón Tây Hồ (vùng đất đã từng nổi
danh có nhiều cô gái xinh đẹp, làm say đắm biết bao chàng trai trong vùng).
Có lẽ chiếc nón bài thơ Tây Hồ ra đời cũng là do một sự tình cờ, khoảng những năm 60 của thập kỉ trước có một
nghệ nhân tên là Bùi Quang Bặc ở xứ Tây Hồ đã nảy ra ý tưởng ép những vần thơ mượt mà, dịu dàng nơi xứ
Huế để làm tôn lên vẻ đẹp thanh tao của chiếc nón lá Huế. Được khá nhiều du khách yêu thích và trân trọng,
nón bài thơ bỗng nổi lên như cồn và chưa bao giờ là lỗi thời.
Người con gái xứ Huế, khi bước vào tuổi thanh xuân, mấy cô đã biết đan nón lá, với bàn tay khéo léo, mềm mại
của mình, họ đã làm nên những chiếc nón không thể chê vào đâu, từng chiếc lá và nan nón được đan đều và đẹp
đến lạ lùng. Ở làng Tây Hồ, những người phụ nữ họ có thể theo nghề làm nón suốt đời, còn những người đàn
ông thường ngày họ đi làm việc đồng áng, những thời gian rảnh thì chẻ tre, làm khung nón, một cái lạ lùng đó là
những nghệ nhân ở nơi đây không bao giờ cảm thấy mệt mỏi với công việc hằng ngày mà luôn cảm thấy vui khi
được tạo ra những sản phẩm tuyệt vời như chiếc nón bài thơ.
Tuy nhiên, để làm nên những sản phẩm hoàn hảo như vậy không phải điều dễ dàng gì, nếu không quen tay có
thể đan lệch và không đều. Với mỗi cái nón, họ chuốt từng sợi tre thành 16 nan vành một cách công phu; sau đó
uốn thành vòng thật tròn trịa và bóng bẩy. Người phụ nữ thì nức vành và ủi lá. Để có được lá đẹp, người thợ

thường chọn lá nón vẫn giữ được màu xanh nhẹ, ủi lá nhiều lần cho phẳng và láng.
Khâu là công đoạn quan trọng nhất, nó quyết định vẻ đẹp của sản phẩm. Người thợ sẽ khâu từ trên xuống đến
vành 15, cứ 1 cm 3 mũi cước trong suốt. Vành cuối cùng khâu cước trắng, 2 mũi kim cách nhau 2 cm. Đường
chằm phải mềm mại, thanh nhẹ, dịu dàng.
Khi khâu xong, người ta đính thêm cái “xoài” trên chóp để tôn lên nét đẹp của nón. Công đoạn cuối cùng là quét
dầu lên nón để sản phẩm được bóng, mượt và bền đẹp. Điều làm nên nét đặc biệt của nón ở Tây Hồ là nét nón
mỏng manh, thanh thoát, màu nón nhã nhặn và đặc biệt đây là cái nôi của những bài thơ được cài trong chiếc
nón.
Bên cạnh những bài thơ lãng mạn, đầy tính thi vị thì người Huế còn đính những bức tranh, hình ảnh dòng sông
Hương, núi Ngự Bình trong mỗi chiếc nón. Điều này khiến du khách vô cùng thích thú mỗi khi cầm lên tay
chiếc nón bài thơ, đến đây một lần nếu không mua nón bài thơ về tặng người thân bạn bè dường như người lữ
khách sẽ cảm thấy thiếu thiếu một thứ gì đó trong cuộc hành trình.
Từ Tây Hồ, chiếc nón bài thơ được gieo đi khắp mọi nẻo, những cô gái duyên dáng, dịu dàng của xứ Huế hay
bất cứ một vùng miền nào trong tổ quốc cũng ưa thích chiếc nón như một đồ trang sức làm tăng nét thùy mị của
con gái tuổi mười tám, đôi mươi. Từ những chiếc nón giản dị, không có gì cao sang nhưng lại làm nên nét thanh
thoát, dịu dàng đậm chất Á Đông, một cô gái khi cầm chiếc nón bài thơ trên tay cũng làm ngây ngất biết bao gã
si tình.



×