ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ TUYẾT NGÂN
HIỆN TƯỢNG GIẢ DỐI
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA HỌC
Chuyên ngành: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 62.31.70.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2016
Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Hữu Tá
Phan biên 1.
̉
̣
Phan biên 2.
̉
̣
Phan biên 3.
̉
̣
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đanh gia lu
́
́ ận án tiến sĩ
cấp cơ sở đào tạo họp tại Trường Đại học KH XH&NV, ĐHQG
TP.HCM vào hồi … giờ … ngày … tháng … năm 2016
Có thể tìm hiểu luận án tại:
1. Thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
2. Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
3. Thư viện tổng hợp TP. Hồ Chí Minh
4. Thư viện khoa Văn hóa học Trường Đại học KH XH&NV,
ĐHQG TP.HCM
DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Giả dôi la môt hiên t
́ ̀ ̣
̣ ượng phổ biến và co t
́ ừ rât lâu đ
́
ời, đa đ
̃ ược ghi nhận
nhiều lần trong các loai hinh văn h
̣ ̀
ọc dân gian như truyên cô tich, thân thoai, thanh
̣
̉ ́
̀
̣
̀
ngư, tuc ng
̃ ̣
ư... Theo
̃
quan niêm
̣ phổ biến xưa nay, giả dôi luôn b
́
ị đánh giá là
không tốt, được xem la phan gia tri, do vây đ
̀ ̉
́ ̣
̣ ương nhiên cung đ
̃ ược xem la phi văn
̀
hoa, luôn bi ngăn câm va han chê s
́
̣
́
̀ ̣
́ ử dung, gi
̣
ới khoa học thì ít quan tâm nghiên cứu.
Trong khi trên thực tế thì, cho tơi nay, trong t
́
ất cả các nền văn hóa từ Đông đến
Tây, giả dôi không nh
́
ững không mất đi mà có nơi có lúc còn có vẻ như ngày càng
phô biên va phat triên đa dang h
̉
́ ̀ ́
̉
̣
ơn. Điêu nay cho thây thái đ
̀ ̀
́
ộ chống đối nó lâu nay
của xa hôi và l
̃ ̣
ảng tránh nó của giới khoa học là sai lầm. Có cơ sở để giả định là,
rất có thể, trong chiều sâu của thời gian và chiều rộng của không gian, hiên t
̣ ượng
nay có nh
̀
ững cơ sở khoa học sâu xa về văn hoá cần được khám phá và lý giải.
Từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Hiện tượng giả dối từ
góc nhìn văn hóa học” để làm đối tượng nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu và những đóng góp
Giả dôi la hiên t
́ ̀ ̣ ượng giao tiếp, ứng xử năm trong khu v
̀
ực giap ranh cua nhiêu
́
̉
̀
nganh khoa hoc khac nhau, do v
̀
̣
́
ậy hướng tới nhiều mục đích khác nhau và có
những cach đanh gia khac nhau.
́
́
́ ́
Trong pham vi luân án này, chung tôi đ
̣
̣
́
ặt ra mục tiêu là xac đinh ban chât va
́ ̣
̉
́ ̀
nhưng đăc điêm chu yêu
̃
̣
̉
̉ ́ cua hiên t
̉
̣ ượng giả dôi, trong đó quan tr
́
ọng là đánh giá
một cách khách quan mặt gia tri
́ ̣ và phi gia tri
́ ̣ của nó đê, trên c
̉
ơ sở đo,
́ phân tích
cách thức con người tận dụng mặt gia tri
́ ̣ ( = văn hóa) cũng như cách thức ứng phó
với mặt phi gia tri
́ ̣ ( = phi văn hóa) của giả dối, đưa ra nhưng
̃ dự đoan vê t
́ ̀ ương lai
cua no, cung nh
̉
́ ̃
ư gop phân điêu chinh, h
́
̀
̀
̉
ương dân d
́
̃ ư luân
̣ trong viêc s
̣ ử dung no.
̣
́
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1. Giả dôi (bao g
́
ồm làm giả và nói dối) có thể xem la s
̀ ự đánh giá được gán
cho một hành động, một cách thức hoạt động, một trạng thái của con người trong
ứng xử với tự nhiên và xã hội.
Trong lĩnh vực ứng xử với tự nhiên, chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu nào nghiên
cứu trực tiếp về vấn đề này; còn trong lĩnh vực ứng xử xã hội giưa con ng
̃
ươi v
̀ ơí
con ngươi, gi
̀ ả dối được nhắc đến trong cac công trình nghiên c
́
ứu triết học, tâm lý
học, giao duc h
́
̣ ọc, đao đ
̣ ưc h
́ ọc, khoa học giao tiếp và trong cac sách vi
́
ết về lôí
sông
́ , sách “học làm người”... Tuy nhiên, nhắc đến thì có, còn nghiên cưu sâu và
́
trực tiêp vê gi
́ ̀ ả dôi nh
́ ư một đối tượng của hoạt động khoa học trong các ngành
này thì cũng không nhiêu. Các nghiên c
̀
ứu chủ yếu là của các tác giả phương Tây;
một số tài liệu bằng tiếng Việt ít nhiều có đề cập đến giả dối thì chủ yếu là
những tài liệu dịch hoặc biên dịch, soạn lại từ tiếng nước ngoài. Trong số các tài
liệu không nhiều ấy, mảng phong phú hơn cả thuộc về khoa học giao tiếp, đặc
biệt là tâm lý học giao tiếp. Song những nghiên cứu này chủ yếu hướng tới những
quan hệ nội văn hóa, giao tiếp bằng ngôn từ, nói dối là chủ yếu; lĩnh vực làm giả
có thể nói là gần như còn hoàn toàn để trống.
2. Những nghiên cứu chuyên sâu về hiện tượng này thuộc về các nhà khoa học
Nga. Với truyền thống hàn lâm của mình, các học giả Nga đã đi vào nghiên cứu các
vấn đề mang tính lý luận như “Lừa dối. Phân tích triết học – Tâm lý học ” của
Д.И. Дубровский (Обман. Философскопсихологический анализ, 2010), “Hiện
tượng lừa dối trong giao tiếp liên nhân” của М. Л. Красников (Феномен лжи в
межличностном общении, 1999), hay “Sự tự lừa dối diễn ra như thế nào” của Ю.
А. Разинов (Как возможен самообман, 2004). Tác phẩm sau cùng xem xét việc tự
dối lòng như một hiện tượng văn hóa đặc biệt của con người từ bản chất, những
nghịch lý, triết lý của những cảm nhận chạy trốn khỏi bản thân để lý giải tâm lý
con người trong những trạng thái mâu thuẫn đặc biệt. В.Я. Пропп nghiên cưu
́ giả
dối giải trí như một trường hợp của giả dối trong các tác phẩm văn học nghệ
thuật (1999).
3. Cùng là nghiên cứu tâm lý con người khi thực hiện hành động giả dối, các
nhà khoa học Mỹ thiên về khía cạnh thực dụng của vấn đề (Lieberman D. 2008;
Brooks Jackson và Kathleen Hall Jamieson 2008; Kevin D. 2002; The Arbinger
Institute 2009). Các sách này đều có đặc điểm chung là tìm hiểu tâm lý của người
giả dối và đối tác của họ trong các trường hợp thực tiễn cụ thể để rút ra bài học.
D. Lieberman (2008) quan sát các mối quan hệ cá nhân và các tình huống trong
công việc, khám phá tám khía cạnh khác nhau của việc giả dối và đưa ra các giải
pháp giúp tìm ra chân lý và giành quyền kiểm soát tình hình. Brooks Jackson và
Kathleen Hall Jamieson (2008) phân tích các trường hợp giả dối theo chủ đề để kết
luận về các thủ đoạn lừa dối được hình thành dựa trên các quy luật tâm lý của con
người, từ đó chỉ ra các phương thức nhận biết những điều dối trá, những kỹ thuật
bịp bợm, cũng như cách thức để kiểm tra nhằm tìm được sự thật. D. Kevin (2002)
vốn là một tin tặc (hacker) từng phải ngồi tù, qua nghiên cứu tâm lý của các đối
tượng quản lý mạng đã trình bày những kinh nghiệm của mình và các cách giả dối
để có thể lấy mật khẩu thâm nhập vào trang quản trị của các website. Viện
Arbinger (2009) nghiên cứu cách thức quản lý trong giới lãnh đạo phương Tây và
phát hiện ra rằng cách thức quản lý được duy trì lâu nay là dựa trên sự tự lừa dối,
từ đó phân tích để đưa ra những phương án, giải pháp thiết thực nhằm tự giải
phóng mình. Từ những nghiên cứu tâm lý này, các nhà khoa học kỹ thuật Mỹ đã
đưa ra hàng loạt những cách thức phát hiện giả dối và sáng chế ra cả các máy móc
giúp phát hiện giả dối trong những trường hợp nghiêm trọng cần giải quyết bằng
pháp luật.
Một số bai viêt v
̀
́ ề giả dối trên các website, mạng cá nhân thường chi là gi
̉
ới
thiệu, đưa tin về một vài khía cạnh của các kết quả nghiên cứu, dưng lai
̀
̣ ở việc
nêu hiện tượng; đôi khi nếu có giải thích cac khia canh tâm ly, đao đ
́
́ ̣
́ ̣ ức thì cũng là
những giải thích mang tính phổ cập. Chúng tôi khai thác những bai viêt ki
̀
́ ểu này
với tư cách là nguồn cung cấp tư liệu.
4. Đôi t
́ ượng và phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng tôi xác định đôi t
́ ượng nghiên
cứu của luận án là hiện tượng giả dối từ góc nhìn văn hóa học.
Vì là một nghiên cưú trên bình diện lý thuyết nên giới hạn phạm vi nghiên
cứu về mặt không gian trên lý thuyết được mở rộng ra các nền văn hóa nhân loại,
còn trên thực tế chủ yếu giới hạn ở văn hóa mẹ đẻ (Việt Nam), những nền văn hóa
lớn mà tác giả có thể tiếp cận được qua các nguồn thông tin (như Trung Quốc),
hoặc các nền văn hóa mà tác giả am hiểu (như Nga, Bồ Đào Nha − tác giả từng
học ngữ văn Bồ Đào Nha ở Nga).
Về mặt thời gian, phạm vi nghiên cưú cũng được mở rộng, song trên thực tế
thì thời quá khứ xa chủ yếu giới hạn ở việc khai thác các tư liệu dân gian, thời cận
đại có tài liệu nhiều hơn, tư liệu nghiên cưú thời hiện đại là nhiều nhất.
Hiện tượng giả dối là đối tượng có thể nghiên cứu từ nhiều chuyên ngành
khác nhau với những trọng tâm nghiên cưú khác nhau.Từ góc nhìn văn hóa học,
luận án tập trung đi tìm các giá trị của giả dối để giải thích lý do tồn tại của nó và
xác định cách thức con người đối phó với những phi giá trị của nó.
5. Y nghia khoa hoc va th
́
̃
̣
̀ ực tiên
̃
Về mặt khoa học, luận án góp phần tìm hiểu hiện tượng giả dối dưới góc
nhìn văn hóa học, giúp làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về cách ưng x
́ ử với
các hiện tượng văn hóa xã hội giáp ranh, những hiện tượng mang tính hai mặt rõ
rệt nằm trong khu vực giáp ranh giữa gia tri
́ ̣ và phi gia tri
́ ̣, văn hóa và phi văn hóa.
Về mặt thực tiễn, luận án có thể góp phần giúp các cấp quản lý hoạch định
các chính sách trong những lĩnh vực hoạt động liên quan đến văn hóa ứng xử, định
hướng các chuẩn gia tri, chu
́ ̣
ẩn đạo đức trong xa hôi nói chung và các ngành ngh
̃ ̣
ề
có liên quan mật thiết tới các lĩnh vực ứng xử, giao tiếp mà ở đó giả dối đang là
hiện tượng phổ biến nói riêng.
Đồng thời luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy về lý luận văn hoá, văn hóa ứng xử, văn hoá xã hội, văn hóa ngôn từ nói
chung và văn hoá ưng x
́ ử hoăc văn hoa ngôn t
̣
́
ừ cua ng
̉
ươi Viêt nói riêng.
̀
̣
6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Do đây là một hiện tượng văn hóa xã hội có độ phủ rộng, nên không thể nhìn
nhận giả dối ở một góc độ cục bộ nào đó, mà phải nghiên cứu theo cách tiếp cận
liên ngành, tổng hợp các thành tựu của nhiều ngành như triết học, xã hội học, tâm
lý học, ngôn ngữ hoc, khoa h
̣
ọc giao tiếp, v.v. dưới một điểm nhìn thống nhất là
văn hóa học.
Để có thể đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án trước hết sử dụng
phương pháp quan sát thực tế để phân tích, tìm hiểu cach th
́
ưc
́ ưng x
́
ử cua con
̉
ngươi va nh
̀ ̀ ưng dâu hiêu, đăc điêm ngôn t
̃
́
̣
̣
̉
ừ, cử chỉ khi thực hiên hanh vi gi
̣
̀
ả dôi.
́
Thứ hai, vận dụng phương pháp so sánh loại hình để nghiên cứu cơ sở hình
thành và đặc điểm của hanh vi gi
̀
ả dôi trong cac lo
́
́ ại hình văn hoá, các nhom chu
́
̉
thê, cac khu v
̉ ́
ực không gian va cac giai đoan th
̀ ́
̣
ơi gian khac nhau. Th
̀
́
ứ ba, sử dụng
phương pháp hệ thống cấu trúc để phân tích tổng hợp, sắp xếp các hiện
tượng giả dôi vô cùng đa d
́
ạng, phức tạp vào các thành tố cấu thành để nghiên cứu,
khái quát hóa lên thành một hệ thống chung.
Nguồn tư liệu để nghiên cứu giả dôi mà chúng tôi s
́
ử dụng là những lời nói,
việc làm, sảm phẩm được ghi lại, văn ban hóa
̉
dưới nhiều dạng khác nhau.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án được chia làm bốn chương, xoay
quanh hai nội dung chính là hành động giả dối và cách đánh giá của xã hội về hành
động này. Dưới góc độ hành động, giả dối được xem xét ở chương 1 và chương 2
theo ba bình diện nhận thức, tổ chức và ứng xử. Dưới góc độ cách đánh giá của
xã hội, giả dối được xem xét trong chương 3 và chương 4 theo các bình diện văn
hóa tận dụng giả dối, văn hóa lưu luyến giả dối và văn hóa đối phó với giả dối.
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHẬN THỨC VỀ HIỆN TƯỢNG GIẢ DỐI
1.1. Định nghĩa giả dối
1.1.1. Trên thế giới, người ta nói đến “giả dối” thì nhiều nhưng định nghĩa nó
một cách khoa học thì trong các tài liệu mà chúng tôi tiếp cận được chưa thấy có.
Các bộ từ điển bách khoa lớn củng không một bộ nào có định nghĩa khai niêm
́ ̣ này.
Do vậy, dưới đây phải dùng đến các từ điển ngôn ngữ và xem xét 11 định nghĩa
trong năm ngôn ngữ khác nhau.
Trong tiếng Việt, “giả dối” là một tính từ (Ví dụ: Thái độ giả dối, lời tán
tụng giả dối). Theo “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên (1992), “giả
dối”có nghĩa là “không thật, nhằm mục đích đánh lừa”. Hầu hết các ngôn ngữ
phương Tây đều dùng từ có gốc từ tiếng Latin falsus với nét nghĩa là sai, lừa đảo.
1.1.2. Các đinh nghia v
̣
̃ ề giả dối nêu trên của mọi ngôn ngữ đều tập trung sự
chú ý vào đặc trưng coi giả dối là không đúng sự thật, luôn có song song sự thật
để so sánh. Cách hiểu rộng coi giả dối là tất cả mọi thứ không đúng sự thật.
Cách hiểu trung gian coi giả dối là cố ý làm không đúng sự thật. Cách hiểu hẹp
nhất chú ý đến tính chất cố ý làm không đúng sự thật, và nhấn mạnh vào mục đích
để lừa, đánh giá ý thức đạo đức của chủ thể về việc xâm hại đến lợi ích của
khách thể hoặc cộng đồng, thu hẹp hơn nữa phạm vi của khai niêm
́ ̣ “giả dối”.
Trong luận án này, chúng tôi chọn cách hiểu khai niêm
́
̣ “giả dối” theo hướng
thứ hai − không quá rộng, cũng không quá hẹp − làm đối tượng nghiên cứu và đưa
ra một định nghĩa để làm việc như sau: Giả dối là sự đánh giá được gán cho hành
động tương tác mà trong đó chủ thể đưa ra cái sai sự thật một cách cố ý khiến
khách thể tiếp nhận như sự thật.
1.2. Giả dối trong quan hệ với văn hoá, giá trị và sự thật
1.2.1. Giả dối với văn hoá và giá trị: Giá trị được hình thành qua quá trình so
sánh, đánh giá và lựa chọn cụ thể có ý nghĩa tích cực đối với đời sống, được cá
nhân đồng tình và xã hội chấp nhận. Theo Trần Ngọc Thêm (2016), giá trị văn hóa
có ba đặc trưng cơ bản là tính có ích, tính chủ quan và tính tương đối.
Giả dối là hành vi có chủ ý nhằm mưu cầu một lợi ích nhất định. Giả dối là
một cách đánh giá chủ quan, do vậy mục đích của hành động quyết định tính giá trị
của nó. Lợi ích thu được từ giả dối thuộc về đối tượng nào trong tương tác là quan
trọng đối với cách đánh giá của xã hội.
1.2.2. Giả dối vớisự thật và những khai niêm liên quan: Gi
́
̣
ả dối là khai niêm
́
̣
đối lập với “sự thật”. Chân lý là sự nhận thức đúng đắn hiện thực trong bộ óc
con người. Chân lý luôn là sự phản ánh đúng hiện thực khách quan. “Chân” luôn
đúng và vận động theo cuộc sống, còn thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Hạn chế
về nhận thức, kỹ năng thể hiện, kỹ năng truyền tin khiến cho người ta trên thực tế
truyền cho nhau không phải là sự thật trọn vẹn, mà chỉ là một phần của sự thật, sự
thật không đầy đủ – nửa sự thật. Điều này liên quan mật thiết đến tính chủ quan
của con người trong tính cách và trong việc sắp xếp, thể hiện vốn tri thức của
mình trong quan hệ với tính khách quan của hiện thực. Chính sự thật không đầy đủ
trong nhận thức, trong giao tiếp ứng xử là một trong những tiền đề dẫn đến sự
hình thành các hành vi giả dối của con người.
1.2.3. Khả năng và điều kiện để giả dối có giá trị văn hóa: Giả dối không thể
và không bao giờ có thể trở thành giá trị phổ quát, giá trị vĩnh cửu do thiếu tính
Chân (thật). Giả dối tồn tại và phát triển do con người luôn hướng tới cái tốt,
cái đẹp phù hợp với thực tiễn và hài hòa với môi trường xung quanh. Xu hướng
nghệ thuật cho thấy, con người dễ dàng đồng cảm và học hỏi từ những hình ảnh,
tấm gương tốt đẹp gần giống với cuộc sống hiện tại của mình. Mức độ gia tri
́ ̣
của hiện tượng giả dối phụ thuộc vào những nhu cầu do điều kiện, cách thức tổ
chức đời sống của mỗi cá nhân/ cộng đồng quy định. Tùy theo độ phù hợp của
hành vi giả dối với chuẩn mực, đạo đức cộng đồng mà hiện tượng giả dối sẽ
được đánh giá là thiên về giá trị hay phi giá trị. Giả dối được coi là có gia tri văn
́ ̣
hóa khi mang lại lợi ích cho xã hội. Các hiện tượng giả dối được cộng đồng
chấp nhận và duy trì lâu dài sẽ trở thành thói quen, nếp sống.
1.3. Điều kiện tồn tại giả dối
1.3.1. Điều kiện tiền đề dân đên gi
̃ ́ ả dối: Sau khi phân tích các điều kiện xúc
tác dẫn đến giả dối, các tiền đề được xem xét ở hai lĩnh vực lớn là các tiền đề tự
nhiên và các tiền đề xã hội.
Các tiền đề tự nhiên thể hiện trong hai bình diện: Ở bình diện thế giới khách
quan, tiền đề dẫn đến giả dối là tính bất khả tri của thực tế, tính tương đồng và
dị biệt của các vật thể; ở bình diện con người chủ thể, tiền đề dẫn đến giả dối là
sự tiến hóa bộ não của con người và khả năng thể hiện ý tưởng, mô phỏng
thực tế giúp con người cố ý tạo nên những trùng lặp tất nhiên (giả dối) sao cho
càng giống với trùng lặp ngẫu nhiên càng tốt. Ở bình diện thế giới chủ quan, tiền
đề quan trong nhât d
̣
́ ẫn đến hiên t
̣ ượng giả dôi la nhân th
́ ̀ ̣
ưc non yêu, hay la
́
́
̀ sự
thiêu hiêu biêt cua khách th
́
̉
́ ̉
ể.
Các tiền đề xã hội tập trung vào sự phát triển của xã hội, kích thước các cộng
đồng ngày càng lớn, quy mô ngày càng to, số lượng ngày càng nhiều, các mối quan
hệ ngày càng đa dạng khiến cho con người ngày càng khó tiếp cận với sự thật. Các
quy luật xã hội tạo nên những khuôn mẫu tư duy của mình theo những chuẩn
mực ngầm định của cộng đồng thành những chuẩn mực tạo nên thói quen, nếp
ứng xử. Những điều này đã khiến con người luôn gặp phải những tình huống
một lúc phải đóng nhiều vai trong xã hội, làm tiền đề cho giả dối phát huy tác
dụng.
1.3.2. Điêu kiên đê th
̀
̣
̉ ực hiện thành công hành động giả dôi: Đ
́ ề hành động giả
dối thành công cần có bốn điều kiện. Điều kiện thứ nhất là chủ thể phải tìm ra
lĩnh vực thiếu hiểu biết (vùng ẩn) của khách thể về lĩnh vực ứng xử đang hướng
tới. Điều kiện thứ hai là chủ thể phải là người có năng lực tư duy tốt bao gồm tư
duy trừu tượng tốt để có thể lợi dụng sáng tạo ra các biến thể của sự thật và trí
nhớ tốt nhằm tìm ra đối tượng để định hướng hành động giả dối đồng thờigiúp các
hành vi giả dối đã thực hiện không bị phát hiện, khi chủ thể tiếp tục biến báo để
duy trì chúng. Điều kiện thứ ba là năng lực tư duy tốt trong một cơ thể khỏe mạnh,
minh mẫn đảm bảo đủ khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi.
Điều kiện thứ tư là chủ thể giả dối phải có năng lực điều khiển hành vi tốt đủ để
khéo léo mô phỏng sự thật khiến đối tác nhầm lẫn. Chỉ cần thiếu một trong bốn
yếu tố trên thì hành động giả dối có nguy cơ bị phát hiện và chủ thể phải trả giá
cho hành động của mình.
1.4. Các bình diện của giả dối
1.4.1. Xét theo phương tiện tương tác, giả dối có hai loại chính là nói dối, làm
giả và cùng với chúng là loại thứ ba, loại hỗn hợp vừa có làm giả vừa có nói dối.
Làm giả là hình thức giả dối lâu đời nhất. Làm giả sử dụng hành động, cử chỉ
tương tác để đối tác hiểu sai sự thật không có yếu tố ngôn ngữ đi kèm. Giả dối phi
ngôn từ dùng hình thức để đánh lừa người khác nên cũng dễ bị phát hiện bằng cách
quan sát. Nói dối dưới dạng ngôn từ hay văn bản thuộc nhóm hành vi giao tiếp
(giao tiếp ứng xử), sử dụng ngôn ngữ truyền thông tin sai sự thật nhằm lừa người
khác. Nói dối bị giới hạn đối tượng là những người cùng chung một ngôn ngữ.
Giả dối hỗn hợp sử dụng cả hai phương tiện nên phổ biến và thông dụng hơn cả
vì kết hợp nhiều yếu tố phối hợp với nhau để đạt được hiệu quả cao hơn nhưng
cũng dễ bị phát hiện hơn. Người ta có thể phát hiện giả dối hỗn hợp bằng các cách
riêng lẻ của giả dối phi ngôn từ và giả dối ngôn từ.
1.4.2. Xét theo phương thức tương tác thì có thể phân biệt hai loại giả dối là
giả dối trực tiếp và giả dối gián tiếp. Giả dối trực tiếp là hình thức giả dối mà
trong quá trình tương tác, chủ thể và khách thể cùng đối mặt với nhau, có sự tương
tác tại chỗ giữa các đối tác. Các thành viên giao tiếp có thể thay đổi vai với nhau
thường xuyên, tạo nên những tác động bất ngờ làm thay đổi diễn tiến của hành
động giả dối. Giả dối gián tiếp là hình thức tương tác có sử dụng giả dối khi các
đối tác không nhìn thấy nhau, các cử chỉ, hành động, cảm xúc tương tác bị hạn chế
rất nhiều, không có không gian xung quanh rộng hơn để kiểm chứng.
1.4.3. Giả dối xét theo chủ thể: Theo đối tượng tham gia tương tác, có thể
phân biệt giả dối xét theo chủ thể và theo khách thể. Giả dối có chủ thể là cá nhân
(giả dối cá nhân) là trường hợp thường xảy ra nhất vì chủ thể tương tác là người
chủ động và vì vậy có thể giữ bí mật sự thật ở mức độ cao. Trường hợp đặc biệt
là khi chủ thể và khách thể là một. Đó là hiện tượng dối lòng, dối mình, tự lừa
dối xảy ra rất phổ biến trên toàn thế giới (tiếng Pháp: se mentir à soimême, tiếng
Nga: самобман, сам обманываться). Giả dối khi chủ thể là một tập thể ( giả
dối tập thể) là trường hợp khá đặc biệt vì nhận thức của các cá nhân trong tập thể
không giống nhau. Để có được hành vi giả dối tập thể thì bao giờ cũng phải có sự
bàn bạc, thỏa thuận trước, và đề cử cá nhân hoặc nhóm đại diện thực hiện. Hiện
tượng giả dối khi cả chủ thể và khách thể đều là tập thể thì việc giả dối này được
gọi là giả dối chính thức.
1.4.4. Giả dối xét theo khách thể: Đối tác của con người trong hoạt động giả
dối rất đa dạng: các yếu tố tự nhiên, siêu nhiên, hay chính bản thân con người. Với
đối tượng là người cùng cộng đồng, đây là lối giao tiếp nội văn hóa. Những người
cùng cộng đồng mặc định là cùng chung ngôn ngữ nên hiện tượng nói dối là phổ
biến. Với đối tượng là người ngoài cộng đồng, đây là lối ứng xử xuyên văn hóa.
Đại đa số các hành vi giả dối là làm giả bằng các hành động và các phụ kiện hỗ
trợ. Với đối tượng là thế giới siêu nhiên và thế giới tự nhiên, đây là lối ứng xử
xuyên loài. Trong mối quan hệ với thế giới siêu nhiên, con người dùng nhiều cách
để qua mặt ma quỷ, thánh thần, các thế lực linh thiêng. Trong mối quan hệ với thế
giới tự nhiên xung quanh, con người với sự phát triển tư duy vượt trội đã không
dừng ở các cách đánh lừa thô sơ để săn mồi làm thức ăn, mà phát triển vượt bậc về
thủ thuật, kinh nghiệm và công cụ phục vụ việc câu, bẫy thành nghề kiếm sống.
1.4.5. Giả dối xét theo tình huống ứng xử: Xét theo tình huống, giả dối bao
gồm giả dối chủ động và giả dối bị động. Giả dối chủ động là hình thức ứng xử
mà trong đó chủ thể chủ ý làm hay nói sai sự thật nhằm đánh lạc hướng khách thể.
Có thể nói tính chủ động (vụ lợi) của hiện tượng giả dối càng giới hạn trong một
hệ tọa độ có quy mô nhỏ về chủ thể thời gian không gian bao nhiêu thì tính phi
gia tri / phi văn hoá c
́ ̣
ủa nó càng lớn bấy nhiêu. Giả dối đồng thời là công cụ giúp
cho chủ thể đối phó với sự bất tiện của sự thật trong cuộc sống (sự thật mất
lòng), giả dối trở thành một bộ phận của văn hoá đối phó với những sai sót, khiếm
khuyết, bất tiện trong cuộc sống con người, trở thành giả dối bị động.
1.5. Tiểu kết
Trên cơ sở 11 định nghĩa ở năm ngôn ngữ khác nhau, chúng tôi đã phân tích các
ý nghĩa cấu thành và đưa ra một định nghĩa làm việc về giả dối với ba đặc trưng
cơ bản: (a) Về hinh
̀ thưc,
́ là sự đánh giá được gán cho hành động tương tác;
(b) Về tinh
́ chât́ của nội dung, là chủ thể đưa ra cái sai sự thật; (c) Về động
cơ, là cố ý khiến khách thể tiếp nhận như sự thật. Đồng thời xác định hai đối
tượng quan trọng cần khảo sát là (a) Hành động giả dối và (b) Kết quả đánh giá
hành động giả dối.
Từ các khái niệm“văn hóa”, “giá trị”, “sự thật”, luận án đã đưa ra cách phân
biệt “nửa sự thật giả dối” (do cố ý làm sai lệch so với hiện thực) và nửa sự thật
do hạn chế của nhận thức và diễn giải. Từ đó lý giải tính giá trị và phi giá trị của
giả dối, đồng thời xác định khả năng các giá trị giả dối trở thành giá trị văn hóa
trong đời sống con người.
Lý do tồn tại của hành động giả dối được trình bày dưới dạng năm tiền đề tự
nhiên và ba tiền đề xa hôi cùng b
̃ ̣
ốn điều kiện đê th
̉ ực hiện thành công hành động
giả dôi. Đây là các đi
́
ều kiện cần và đủ để hành động giả dối tồn tại trong cuộc
sống.
Căn cứ vào các thành tố tham gia chi phối hành động tương tác, ứng xử, luận
án đã đề xuất năm bình diện (năm cách phân loại) các hiện tượng giả dối: (a) Giả
dối xét theo phương tiện tương tác, (b) Giả dối xét theo phương thức tương tác, (c)
Giả dối xét theo chủ thể, (d) Giả dối xét theo khách thể, và (e) Giả dối xét theo
tình huống ứng xử. Điều này cho thấy các nhóm hành động giả dối rất đa dạng,
phong phú và chúng hoạt động tích cực như một cách ứng xử với tự nhiên và xã
hội bên ngoài cũng như bên trong đời sống xã hội của con người.
Chương 2:
HIỆN TƯỢNG GIẢ DỐI
NHÌN TỪ VĂN HÓA TỔ CHỨC VÀ ỨNG XỬ
2.1. Tổ chức hoạt động giả dối trong ứng xử xuyên loài với các
lực lượng siêu nhiên
2.1.1. Tổ chức hoạt động giả dối trong các phong tục liên quan đến sự thay đổi
vị thế tự nhiên của chủ thể: Vị thế tự nhiên của con người gắn với bản thân đứa
trẻ sinh ra theo quy luật tự nhiên (trời sinh), như ngày giờ sinh, nơi sinh, cha mẹ.
Khi lỡ sinh ra phải giờ xấu, người Việt thường làm lễ cúng xin đổi tuổi, còn gọi là
“Lễ đổi mệnh”, “Lễ cải mệnh”, hay làm “lễ thay cung, hoán số" thay đổi một vài
thông số trong số phận như cho con, bán làm con nuôi, hoặc bỏ đường bỏ chợ, bán
khoán đứa trẻ..., thực chất là thay tên giả, dùng tuổi giả, người giả thế mạng, tìm
thêm bố mẹ giả cho người sinh vào giờ xấu.
2.1.2. Tổ chức hoạt động giả dối trong các phong tục liên quan đến sự thay đổi
vị thế xã hội của chủ thể: Trong đời sống hàng ngày, để qua mặt các hiện tượng
siêu nhiên, người ta thường hạ thấp vai trò, tầm quan trọng của mình để tránh sự
chú ý của ma quỷ, hy sinh một phần quyền lợi của đứa trẻ để bảo vệ chính nó,
giảm nhẹ vai trò của những đứa trẻ trong gia đình, che giấu những điều cao quý,
đẹp đẽ của đứa trẻ đi để ma quỷ khỏi ghen tức mà làm hại đứa bé. Đối với việc
hôn nhân và gia đình thì với những trường hợp cô dâu chú rể không hợp tuổi, gia
đình sẽ giấu đi việc trái ý trời đất bằng cách cố ý làm dối như: tổ chức cưới hai
lần, làm đám cưới giả, đổi vợ, đổi chồng… hay hợp thức hoá bằng cách không
theo đầy đủ các lễ nghi truyền thống để qua mặt tổ tiên và các vị thần linh. Để
thay đổi tình trạng kinh tế nhằm lừa ma quỷ, người ta có thể mượn tuổi của người
thân hoặc mượn người cúng thay, dùng các vật giả hoặc cỗ giả để cúng cho ma
quỷ như đốt vàng mã.
2.2. Tổ chức hoạt động giả dối trong ứng xử với các lực lượng
tự nhiên
2.2.1. Tổ chức hoạt động giả dối trong hoạt động săn bắt: Giả dối với đối tác
là động vật thể hiện rõ nhất trong việc con người làm các loại cạm, bẫy săn bắt
thú. Con người sáng tạo ra hiện trường giả khéo léo sao cho giống như thật nhằm
đánh lừa con vật bằng các loại bẫy, mồi, bả.. Từ ghép “cạm bẫy” với nghĩa “bố trí
sẵn để lừa” được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày. Kỹ năng cơ bản để
có thể che giấu sự can thiệp của con người và các công cụ đánh bắt từ xa là ngụy
trang, biến có thành không. Người ta có thể ngụy trang người và các vật dụng hòa
lẫn vào môi trường xung quanh, hoặc biến hình thành thứ khác hấp dẫn hoặc đe
dọa, ngăn cản động vật đến gần, xâm phạm vào tài sản của con người.
2.2.2. Tổ chức hoạt động giả dối trong hoạt động thuần hóa và chăn nuôi: Để
có thể thuần hóa được các loài hoang dã, con người tạo ra một môi trường giả
tương tự, đưa một môi trường mô phỏng vào thay thế nhằm bắt động vật phát
triển theo ý con người bằng cách can thiệp vào thức ăn, chỗ ở tùy theo thói quen
và cách thức sinh hoạt của các loài. Trong quá trình chung sống, con người luôn có
những biện pháp can thiệp và điều chỉnh cuộc sống của vật nuôi theo ý muốn của
mình, tùy mục đích lấy thịt, trứng, sữa, da, lông… mà có chế độ chăm sóc khác
nhau.
2.3. Tổ chức hoạt động giả dối trong ứng xử nội loài xuyên văn
hóa
2.3.1. Kỹ thuật che giấu: Trong chiến tranh, đặc biệt là đấu tranh vũ trang,mục
tiêu chiến đấu là tiêu diệt sinh lực địch, giành thắng lợi bằng mọi cách. Các biện
pháp giả dối chủ yếu được sử dụng để che giấu là: biến có thành không, biến
không thành có, phóng đại hoặc thu nhỏ lại nhằm đánh lừa đối phương. Về hình
thức, trong quân sự, ngụy trang là biện pháp tránh đối đầu trực diện, giành thế chủ
động chọn thời điểm tấn công. Quan trọng nhất là đánh lừa thị giác đối phương
bằng cách thay đổi ngoại hình của bản thân và các vật thể liên quan để chúng lẫn
vào môi trường xung quanh.
2.3.2. Kỹ thuật nghi binh: Kỹ thuật nghi binh thực chất là những hoạt động giả
nhằm đánh lạc hướng đối phương để che giấu ý đồ, bảo đảm thành công trong các
trận chiến đấu. Ở Trung Hoa, Hàn Phi Tử đã có câu nói nổi tiếng: “ Binh bất yếm
trá” (việc binh tha hồ dối trá). Để đảm bảo chiến thắng trong đánh giặc thì phải
Binh giả, quỷ đạo giã (Dùng binh đánh giặc là hành động dối trá). Trong lịch sử
chống giặc ngoại xâm, quân đội Việt Nam đã nhiều lần dùng chiến thuật nghi binh
để chống lại các lực lượng thiện chiến và trang bị đầy đủ hơn của quân thù.
2.3.3. Kỹ thuật giả dối trong hoạt động du kích: Chiến tranh du kích là cách
đánh của kẻ yếu bắt buộc phải đương đầu với kẻ mạnh nên cần dùng cách đánh
khôn khéo. Đánh du kích là cách giữ bí mật lực lượng của ta, nghiên cứu kỹ tình
hình quân địch, tìm ra điểm yếu, những sơ hở để lừa địch bằng mưu kế, tránh hoặc
giảm thiểu đối đầu mà vẫn đạt mục đích là tiêu diệt sinh lực địch. Đây chính là
dùng giả dối gián tiếp để tránh đối đầu.
2.3.4. Kỹ thuật giả dối trong hoạt động gián điệp: Đặc thù của nghề gián điệp
là làm việc trong lòng địch. Do vậy, yếu tố quan trọng nhất là bí mật (= che giấu
sự thật). Vì tính chất này mà gián điệp buộc phải có lý lịch giả, có nhiều tên giả
với các giấy tờ, hồ sơ giả tương ứng, khai báo thông tin giả về nhân thân, và trong
quá trình hoạt động không ngừng phải giả dối, nói sai sự thật để thực hiện nhiệm
vụ và đối phó với nguy cơ bị phát hiện, với triết lý phục vụ lợi ích chính đáng
của cộng đồng, trong trường hợp nghề gián điệp là chống giặc ngoại xâm, giành
độc lập dân tộc.
Ngược lại, để đối phó với hệ thống gián điệp thì bộ phận phản gián luôn tìm
cách phát hiện gián điệp trong hàng ngũ của mình, cũng phải sử dụng thuật giả dối
để phá án (= chống giả dối).
2.3.5. Kỹ thuật giả dối trong hoạt động ngoại giao: Nhà ngoại giao nhiều khi
phải nói dối để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ đến cùng lợi ích quốc gia và dân tộc.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà ngoại giao được đinh nghia m
̣
̃ ột cách khôi hài là
“người trung thực được cử ra nước ngoài để nói dối vì lợi ích quốc gia”. Vì danh
dự quốc gia, các nhân viên trong ngành ngoại giao phải tuân thủ các quy tắc thành
văn và bất thành văn trong những giao tiếp quốc tế đa văn hóa. Trong hầu hết các
trường hợp, các nhà ngoại giao phải phân thân, quên đi những suy nghĩ, mong
muốn của cá nhân mình, mà nhập vai vì quyền lợi lâu dài của quốc gia và “dĩ bất
biến, ứng vạn biến” để bảo vệ sự độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ trong
mọi diễn tiến kinh tế, chính trị, quân sự khu vực và quốc tế.
2.4. Tổ chức hoạt động giả dối trong ứng xử nội văn hóa
2.4.1. Tổ chức hoạt động giả dối phục vụ lợi ích tập thể, cộng đồng: Xã hội
tồn tại và phát triển nhờ có hệ thống chuẩn mực và đạo đức xã hội cùng với luật
pháp giúp điều chỉnh để xã hội vận hành theo đúng hướng, tạo điều kiện cho con
người sống bình an, hạnh phúc. Các hành động giả dối được sử dụng để chống lại
hành động phá vỡ chuẩn mực, làm rối loạn xã hội, gây nguy hiểm cho cá nhân và
tập thể, đi ngược lại với lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng cần bị trấn áp để tránh
hậu họa cho dân lành nói riêng và cả xã hội nói chung, giải quyết các mâu thuẫn
đối kháng giữa cá nhân với tập thể hoặc mâu thuẫn giữa các tập thể với nhau theo
các quy ước chung của từng tập thể, được cộng đồng chấp nhận.
2.4.2. Tổ chức hoạt động giả dối phục vụ lợi ích cá nhân: Các hành động giả
dối mang lại lợi ích cá nhân đồng thời phải không làm tổn hại đến tập thể, xã hội
mới có thể được cộng đồng chấp nhận. Loại này có thể quy về ba nhóm: (1) các
hành động giả dối mang tính giải trí được đưa ra trình diễn, công bố cho đông đảo
quần chúng thưởng thức mang lại giá trị tinh thần, sự hứng khởi cho người thưởng
thức (như ảo thuật, kịch, điện ảnh…); (2) Các hành động giả dối vì lòng tốt, nhân
ái hỗ trợ, giúp đỡ những người xung quanh mình, đặc biệt là những người yếu
thế gặp khó khăn, khiếm khuyết hoặc bị đẩy ra ngoài lề xã hội (như bác sĩ – bệnh
nhân…) và (3) hành động tự lừa dối bản thân (dối lòng).
2.5. Tiểu kết
Trên cơ sở phân tích khái niệm ứng xử và giả dối trong hệ thống ứng xử, xét
về mức độ mâu thuẫn trong tương tác thì giả dối hoạt động tốt trên cả hai lĩnh vực
tương tác dựa trên mâu thuẫn và tương tác trung tính (không mâu thuẫn).
Trong ứng xử xuyên loài với siêu nhiên là những thế lực vô hình, con người sử
dụng hai cách giả dối: cách thay thế các yếu tố tự nhiên trong đời sống những con
người kém may mắn, yếu đuối cần bảo vệ, bằng các yếu tố khác tương tự và cách
thay đổi vị thế xã hội của họ bằng cách tăng, giảm hoặc sử dụng đồ giả kém hơn
để lừa các thế lực siêu nhiên.
Trong ứng xử xuyên loài với giới tự nhiên, con người có hai mục đích khác
nhau: săn bắt và thuần dưỡng vật nuôi. Trong hai hình thức này thì cách chủ yếu là
dùng bẫy, mồi nhử và ngụy trang để lừa con vật vào thế do con người chủ động
đặt ra. Sự khác biệt chủ yếu là đối với vật nuôi, quá trình diễn ra từ từ, lặp lại có
cải tiến khiến cho con vật bị thuần dưỡng dần dần từ thú hoang thành vật nuôi
hoàn toàn phụ thuộc vào con người.
Trong ứng xử nội loài xuyên văn hóa, giả dối có giá trị khi mang lại lợi ích cho
dân tộc trong trường hợp ứng xử giải quyết mâu thuẫn giữa các quốc gia, dân tộc.
Đây là loại ứng xử sử dụng các phương tiện và cách thức tương tự như ứng xử
với tự nhiên trong trường hợp săn bắt, song chúng tinh vi hơn và triệt để hơn ở chỗ
triển khai đồng thời trên nhiều mặt trận: đấu tranh vũ trang (kỹ thuật che giấu và
nghi binh), đấu tranh du kích, đấu tranh gián điệp và đấu tranh ngoại giao.
Trong ứng xử nội văn hóa, tất cả các hành động giả dối mang lại lợi ích cho
cộng đồng để đảm bảo quyền lợi của số đông trong việc duy trì và phát triển cuộc
sống. Ở đây, xem xét, phân tích một số hoạt động mang tính nghiệp vụ của công
an, các nhà lãnh đạo – quản lý xã hội. Đối với những giá trị của hành động giả dối
mang lợi ích cá nhân cần phân tích rõ từng trường hợp, trong đó điều kiện tiên
quyết là không ảnh hưởng tới lợi ích tập thể.
Chương 3:
HIỆN TƯỢNG GIẢ DỐI
NHÌN TỪ VĂN HOÁ TẬN DỤNG VÀ LƯU LUYẾN
3.1. Các đặc trưng bản chất của giả dối
3.1.1. Tính chủ động của giả dối: Giả dối là loại hành động có sự tham dự của
trí tuệ, sự sắp đặt trước đã tạo ra bước tiến vượt bậc hướng tới mục đích bảo vệ
những thứ mình đang có, đồng thời tăng thêm lợi ích và vị thếcho mình. Người ta
có thể thiết kế từng hành động đơn lẻ, và cũng có thể xây dựng các tổ hợp hoặc
các chương trình lớn dựa trên các hành động giả dối như một chiến dịch lừa đảo.
Giả dối là công cụ giúp con người đạt được thành công trên cả hai bình diện bảo
vệ và tấn công, trong đó thiên về tấn công hơn. Giả dối là hành động có động cơ
được xác định trước của chủ thể và có đích tới là khách thể bị lừa, do vậy giả dối
có tính chủ động cao, có mục đích hướng tới kết quả là lừa người khác.
3.1.2. Tính phổ biến của giả dối: Giả dối có thể xuất hiện mọi lúc, mọi nơi.
Tính phổ biến của giả dối được ghi nhận trong nhiều tài liệu khác nhau như kho
tàng tục ngữ của nhiều dân tộc, trong Kinh Thánh, trong các kết quả nghiên cứu
điều tra và cả những nhận xét của các nhà văn, người nổi tiếng… Ngày nay, do
ảnh hưởng của giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trên thế giới và việc ứng dụng
khoa học kỹ thuật tiên tiến vào cuộc sống khiến xã hội phát triển ngày càng nhanh
mà quan niệm về đạo đức, giá trị cũng có nhiều thay đổi. Cách nhìn nhận về giả
dối cũng có nhiều sự khác biệt so với truyền thống càng khiến giả dối càng trở nên
phổ biến hơn.
3.1.3. Tính nhất thời của giả dối: Giả dối luôn thiếu tính chân thật, và do vậy,
nó không thể và không bao giờ có thể trở thành giá trị phổ quát, giá trị vĩnh cửu.
Bản chất của giả dối là thiếu tính chân thật, nên giả dối luôn chỉ có giá trị nhất
thời do sự biến động của bối cảnh, chuẩn mực xã hội ở từng thời điểm khác nhau.
Giả dối và các giá trị của nó mang tính nhất thời, khi những giá trị này thay đổi và
không còn phổ biến nữa, có nguy cơ biến mất, thì người ta có xu hướng hồi tưởng,
ghi nhớ để trao truyền cho các thế hệ sau.
3.1.4. Tính tương đối của giá trị giả dối: Giá trị của giả dối được đánh giá dựa
trên cơ sở triết lý, kinh nghiệm sống và thang đo của các cá nhân, cộng đồng tiếp
nhận, và kết quả rất khác nhau. Tính giá trị phái sinh phụ thuộc vào đối tác trong
tương tác, dễ bị thay đổi khi có các yếu tố bên ngoài tác động vào khiến cho cách
đánh giá giá trị của giả dối biến đổi theo thời gian, phụ thuộc vào quan niệm đạo
đức xã hội và những quy định, pháp luật. Xét về mặt không gian, giá trị của giả dối
phụ thuộc vào loại hình văn hóa, thể chế chính trị, năng lực kinh tế văn hóa.
3.2. Các công dụng của giả dối
3.2.1. Tránh căng thẳng, mâu thuẫn nhất thời: Khi sự thật thô bạo, phũ phàng
và bất tiện, giả dối là phương tiện để đối phương không biết sự thật, giúp cho quá
trình nhận biết sự thật chậm lại, giúp tránh căng thẳng, tránh mâu thuẫn nhất thời.
Giả dối được con người lựa chọn như một cách làm cho cuộc sống của mình dễ
chịu hơn, tránh gây tổn thất cho các bên đối tác, tránh làm người khác đau lòng, bất
bình. Trong giao tiếp trực tiếp, nói dối hiển nhiên là có tác dụng rất lớn trong việc
tránh căng thẳng, mâu thuẫn, trong khi nói thẳng, nói thật có thể gây mất lòng, mất
thể diện cho đối tác, gây hoang mang, mất tình cảm, đoàn kết giữa các bên.
3.2.2. Điều chỉnh và làm chủ quá trình tương tác: Để có cuộc sống ổn định, để
bảo vệ khu vực riêng tư cần tôn trọng, trong một số trường hợp, giả dối có thể
tận dụng như một công cụ hữu hiệu nhằm điều chỉnh và làm chủ mối quan hệ
giữa các bên theo đúng phạm vi cho phép của cá nhân cũng như của môi trường và
hoàn cảnh xã hội để làm cho cuộc sống của mình dễ chịu hơn. Bằng cách không
cung cấp thông tin thật và mức độ khác biệt giữa sự thật và giả dối có thể cho
thấy mức độ tình cảm hay sự gần gũi trong các mối quan hệ giữa các đối tượng
tham gia tương tác. Tùy theo ý muốn chủ quan của mình, chủ thể có thể điều chỉnh
mức độ, khoảng cách theo ý muốn. M.L. Krasnikov gọi chức năng này của giả dối
là “phương tiên điêu chinh giao ti
̣
̀
̉
ếp cá nhân”.
3.2.3. Chỉ báo khoảng cách giữa các đối tác: Giả dối là hiện tượng tương tác
không cùng chung mục đích khi tồn tại mâu thuẫn không thể giải quyết giữa các
đối tác. Khách thể muốn tìm hiểu sự thật, nhưng chủ thể lại xây dựng, mô phỏng
sự thật để che giấu mục đích của mình. Giả dối được sử dụng để điều chỉnh
khoảng cách và đồng thời làm chỉ báo khoảng cách xa hôi
̃ ̣ (mức độ thân mật)
giữa các đối tác thông qua nội dung của hành động ứng xử. Chủ đề của câu
chuyện giao tiếp giữa các thành viên nói lên mối quan hệ thân – sơ/ gần – xa giữa
họ. Trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên, việc dùng các loại bẫy khác nhau
thể hiện các mối quan hệ khác nhau. Tương tự, người ta dùng dùng mồi để bắt
sống con vật, còn dùng bả để lừa giết con vật. Trong chiến tranh để tiêu diệt đối
phương, người ta sử dụng các loại bẫy sát thương vì chúng là kẻ thù không đội
trời chung trong cuộc chiến một mất một còn. Trong các cuộc chiến chống tội
phạm, dù là tội phạm nguy hiểm, cảnh sát, công an chỉ dùng các biện pháp lừa tội
phạm nhẹ nhàng hơn, ít gây thương tích nặng.
3.2.4. Đánh lạc hướng đối tác: Ích lợi quan trọng thứ tư, và cũng có vẻ rõ ràng
nhất của giả dối, là đánh lạc hướng đối tác, hướng đối tác đi chệch ra khỏi mục
tiêu để không biết sự thật. Chính vì chức năng này mà giả dối còn được gọi là lừa
dối (lừa bằng thủ đoạn giả dối).Điều này có thể thực hiện khi thiết kế thêm các
mục tiêu giả song song với mục tiêu thật làm phân tâm đối tác. Sử dụng thuật nghi
binh làm rối loạn tầm kiểm soát và đánh lạc hướng của đối phương được sử dụng
nhiều trong quân sự.
3.2.5. Khuyến khích suy nghĩ năng động và khả năng bao quát: Giả dối làm nên
những lợi ích phù hợp và tiện dụng theo thời gian, song lại dễ thay đổi, mang tính
nhất thời. Tính chủ động, sự năng động, uyển chuyển của giả dối mang lại những
lợi ích mới, thay thế, đào thải những yếu tố cũ, lạc hậu, thuận lợi cho việc tiếp
thu cái mới trong giao lưu. Giả dối, vì thế, có tác dụng phá vỡ sự trì trệ của xã hội
và kích thích xã hội phát triển, khuyến khích suy nghĩ năng động và khả năng
bao quát được con người tận dụng để phục vụ cho cuộc sống của mình. Công
dụng này của giả dối được thể hiện rõ trong các hoạt động giáo dục, chính trị,
nghệ thuật…
3.3. Cách giáo dục giả dối
3.3.1. Giáo dục giả dối trong gia đình: Ngay từ khi còn nhỏ, đứa trẻ đã được
tiếp xúc với giả dối bằng những câu chuyện cổ tích, ngụ ngôn với khá nhiều tình
huống mà trong đó xuất hiện hiện tượng nói dối hoặc làm giả, những trò chơi mô
phỏng thực tế cuộc sống xã hội với nhân vật do các em tự đóng vai. Trẻ em được
ông bà, cha mẹ hướng dẫn cách dạy không làm phiền người khác, kiềm chế cảm
xúc, làm vui lòng người khác… khiến những đứa trẻ tinh khôn có thể thực hành
những hành động lừa dối từ rất nhỏ. Mặt khác, những hành động, lời nói của
người lớn là khuôn mẫu để trẻ học theo.
3.3.2. Giáo dục giả dối ở trường học: Trong trường học, học sinh cũng được
làm quen với giả dối từ rất sớm. Trong các sách ở bậc tiểu học đã có một số bài
học chứa các hành động làm giả hay nói dối với mục tiêu là thông qua đó để dạy
lối sống trung thực hoặc dạy cách tận dụng giả dối để phục vụ cho cuộc sống của
mình. Các em được khuyến khích học theo hành động giả dối được xem là khôn
ngoan trong các truyện được đưa vào sách giáo khoa các cấp. Một số hoạt động
thường xuyên trong các trường phổ thông được tập luyện, phân công dàn dựng
trước… vô tình trở thành bài học về cách sống giả dối đối với học sinh.
3.3.3. Giáo dục giả dối ngoài xã hội: Người ta học được nhiều bài học về nói
dối, làm giả từ truyền thống văn hóa dân tộc và những việc làm đang xảy ra ngoài
xã hội. Những hành động giả dối mang lại giá trị văn hóa trong ứng xử là những
bài học trực quan, gần gũi dễ thực hành. Trong đời sống xã hội có rất nhiều các đồ
giả, các trò chơi giải trí đi vào cuộc sống giúp ích cho con người. Ngày nay, khoa
học kỹ thuật phát triển, truyền thông thông minh, “xã hội ảo” ra đời đem lại những
điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp thông tin không đúng sự thật. Trong đời
sống hàng ngày, người ta cũng bày cho nhau những cách thức bảo vệ bản thân, gia
đình, tài sản có những yếu tố nói dối hay làm giả.
3.4. Văn hóa lưu luyến giả dối
3.4.1. Lưu luyến giả dối trong các loại hình nghệ thuật: Những quan tâm, gắn
bó với giả dối, làm giả khiến người ta lưu giữ trong nhiều loại hình nghệ thuật và
bằng nhiều hình thức khác nhau. Về mặt nội dung, các loại hình âm nhạc, điện
ảnh, văn học, đặc biệt là văn học dân gian lưu giữ khá nhiều kinh nghiệm liên quan
tới giả dối mang tính hai mặt: Một mặt là cảnh báo, lên án, phê phán các hiện
tượng giả dối, nhưng mặt khác cũng khẳng định sự cần thiết của giả dối trong
cuộc sống, khuyến khích việc tận dụng nó.
3.4.2. Lưu luyến giả dối trong đời sống thực tiễn: Các loại hình nghệ thuật
đến lượt mình ảnh hưởng trở lại thực tiễn khiến cho cuộc sống phát triển đa dạng
hơn, phong phú hơn dưới các hình thức mới phục vụ cho con người. Ở nhiều nước
trên thế giới còn lưu luyến, lưu giữ được hình ảnh những sản phẩm liên quan đến
hành vi giả dối bằng các lễ hội như lễ hội bù nhìn, lễ hội Halloween, ngày nói dối
Cá tháng Tư, các lễ hội hóa trang giúp giải tỏa cuộc sống khỏi các ràng buộc xã
hội. Và cái hại của sự giả dối cũng được ghi nhận, nhắc nhở, nhằm đưa con
người hướng tới sự trung thực như cảnh báo sự trừng phạt giả dối bằng biểu
tượng cậu bé gỗ Pinocchio mũi dài.
3.5. Tiểu kết
Giả dối như một hành động thuộc hệ thống ứng xử mang lại lợi ích xét từ góc
độ tình cảm trong những tình huống cụ thể có bốn đặc trưng bản chất: (a) Tính
chủ động, (b) Tính phổ biến, (c) Tính nhất thời, (d) Tính tương đối.
Trên cơ sở khai thác các đặc trưng này phục vụ cho lợi ích của mình, văn hoá
tận dụng giả dối đã phát huy năm ích lợi (giá trị) cơ bản của giả dối là: (a) Tránh
căng thẳng, mâu thuẫn nhất thời, (b) Điều chỉnh và làm chủ quá trình tương tác, (c)
Chỉ báo khoảng cách giữa các đối tác, (d) Đánh lạc hướng đối tác, và (e) Khuyến
khích suy nghĩ năng động và khả năng bao quát.
Để phát huy được các ích lợi (giá trị) của giả dối, văn hoá tận dụng giả dối
của các dân tộc đã tiến hành việc giáo dục giả dối trên ba bình diện: (a) Giáo dục
trong gia đình; (b) Giáo dục ở trường học; (c) Giáo dục ngoài xã hội
Bên cạnh văn hoá tận dụng, văn hóa lưu luyến giả dối đã lưu giữ lại các đặc
tính, các ý nghĩa và bản thân các hiện tượng giả dối trong những liên tưởng tới các
hiện tượng khác khiến người ta nghĩ đến giả dối trong hai bình diện: (a) Lưu
luyến giả dối trong các loại hình nghệ thuật; (b) Lưu luyến giả dối trong đời sống
thực tiễn.
Chương 4:
HIỆN TƯỢNG GIẢ DỐI NHÌN TỪ VĂN HOÁ ĐỐI PHÓ
4.1. Tính phi gia tri c
́ ̣ ủa giả dối
4.1.1. Tính phi gia tri c
́ ̣ ủa giả dối nhìn từ quan hệ: Xã hội được xây dựng ổn
định dựa trên niềm tin, sự tin tưởng, gắn kết lẫn nhau giữa các thành viên. Giả dối
là hành động nói hay làm không đúng sự thật, đánh lừa đối tác, sẽ gây hiểu nhầm,
dẫn đến làm mất lòng tin, gây những xáo trộn đáng kể trong quản lý con người và
cơ cấu xã hội. Đây là sự vi phạm đạo đức rất lớn khiến nó trở thành yếu tố phi giá
trị, phi văn hoá. Về mặt cá nhân, hành động giả dối xúc phạm nghiêm trọng thể diện
của khách thể. Trong xã hội hiện đại đang công nghiệp hoá, đô thị hoá, thiếu sự quản
lý chặt chẽ tạo môi trường lý tưởng cho giả dối phát triển, đặc biệt là giả dối phi văn
hoá.
4.1.2. Tính phi gia tri c
́ ̣ ủa giả dối nhìn từ suy nghĩ, tình cảm: Để tránh bị phát
hiện và trừng phạt, khi thực hiện hành vi giả dối nói chung và nói dối nói riêng −
nhất là nói dối chủ động − người bình thường sẽ phải trải qua nhiều cảm xúc tâm
lý căng thẳng và phức tạp. Các nhà tâm lý học Nga đã tổng kết bốn loại cảm xúc có
thể xảy ra khi làm giả hoặc nói dối tương ứng với bốn giai đoạn của hành động , đó là:
(1) Cảm giác tội lỗi; (2) Nỗi sợ hãi; (3) Phân kích do căng thăng cam giac toan năng;
́
̉
̉
́
̀
(4) Xâu hô.
́ ̉ Ngoai ra, cac ap l
̀
́ ́ ực xa hôi khi gi
̃ ̣
ả dôi co kha năng bi phat giac hay niêm
́ ́ ̉
̣
́ ́
̀
tin bi xoi mon s
̣ ́ ̀ ẽ khiên cho ng
́
ươi ta
̀ lo lăng
́ . Ngay ca khi nh
̉
ưng l
̃ ơi noi dôi không bi
̀ ́ ́
̣
phat giac thi ng
́ ́ ̀ ươi noi dôi vân co cam giac b
̀ ́ ́ ̃ ́ ̉
́ ị lương tâm căn r
́ ưt́.
4.1.3. Tính phi gia tri c
́ ̣ ủa giả dối nhìn từ lợi ích: Nhìn từ góc độ lợi ích thìcác
truyền thống đạo đức và văn hoá khác nhau đều xem nó như một hiện tượng về
cơ bản là phi gia tri
́ ̣. Các nền văn hoá phương Tây với truyền thống coi trọng vai
trò cá nhân, tư duy theo lối phân tích duy lý, dẫn đến giao tiếp theo lối trực khởi,
chuộng cách giao tiếp theo lối nói thẳng, nói thật, coi noi dôi la bi
́ ́ ̀ ểu hiện của sự
yếu đuối, bất lực, là hiên t
̣ ượng tôi lôi, chông lai ng
̣ ̃
́
̣
ươi khac va chông lai chinh
̀
́ ̀ ́
̣
́
minh. Trong các n
̀
ền văn hoá phương Đông, quan niệm đạo đức phổ biến ở đây là
lên án những cá nhân có thái độ, hành động giả dối chỉ vì lợi ích của riêng mình mà
gây tổn hại đến lợi ích của cộng đồng.
4.2. Văn hóa phát hiện giả dối
4.2.1. Phát hiện trực tiếp: Trong giao tiếp ứng xử, sự khác biệt, mâu thuẫn
giữa thông tin nguồn và thông tin nhận được trong nhiều trường hợp là dấu hiện và
bằng chứng của sự giả dối. Việc so sánh đối chiếu hiện tượng/ sự vật bị nghi
ngờ với các chuẩn mực mà ta đã biết là phương phap ch
́ ủ yếu giúp phát hiện giả
dối. Trong trường hợp đặc biệt quan trọng, xa hôi đã ph
̃ ̣
ải thành lập hẳn những
ngành nghề mới (như nghề phản gián trong hoạt động quân sự, nghề kiểm toán
trong hoạt động kinh tế tài chính).
4.2.2. Phát hiện gián tiếp: Sự giả dối có thể bị phát hiện gián tiếp thông qua
những biểu hiện khác thường của gương mặt, cử chỉ, lời nói. Các nhà tâm lý học
đã tìm ra một số đặc điểm thường gặp trong hành vi, cách thức ứng xử... của
người lừa đảo, người nói dối. Về hành động, các động tác thiếu tập trung, có xu
hướng chú ý nhiều các chi tiết nhỏ, thường ít cử động hơn. Về lời nói, giọng nói căng
thẳng và cao hơn, có xu hướng thanh minh, lý giải kỹ lưỡng, dài dòng…
Dựa trên các đặc điểm tâm lý của người lừa đảo, người nói dối, cùng với kỹ
thuật phát triển, các nhà khoa học Mỹ đã sáng chế ra hàng loạt thiết bị kỹ thuật
giúp phát hiện nói dối ngày càng tinh vi, phức tạp hơn.
4.3. Văn hóa xử lý giả dối
4.3.1. Xử lý trực tiếp: Cách xử lý trực tiếp đối với hành vi giả dối là trừng
phạt. Với truyền thống cấm giả dối một cách triệt để trong đời sống hàng ngày
thì, trong văn hóa phương Tây, hình ảnh cậu bé gỗ mũi dài Pinocchio có thể xem
là biểu tượng của văn hóa trừng phạt giả dối.
Giả dối chủ động, giả dối vụ lợi làm mất niềm tin ở mức độ nhẹ thì bị trừng
phạt bằng cách bị xã hội lên án, phê phán như một hành vi vi phạm đạo đức xã hội,
mức độ nặng hơn có thể phải chịu những phản ứng nặng nề từ phía khách thể
(chửi mắng, đánh đập…), thậm chí bị cơ quan pháp luật can thiệp khi phạm phải
các điều khoản quy định tại các bộ luật.
4.3.2. Xử lý gián tiếp: Việc xử lý gián tiếp tội giả dối thường diễn ra khi
người bị hại không có điều kiện, không có phương tiện, không đủ quyền lực để xử
lý nên phải nhờ đến người khác, lực lượng khác, thông qua một cách khác để
trừng phạt kẻ đã thực hiện hành vi giả dối. Ngoài ra, còn có cách xử lý gián tiếp
mang tính tiêu cực là người bị hại nhẫn nhịn, bỏ qua và chấp nhận hy sinh, thiệt
hại về mình, từ bỏ một phần quyền lợi vật chất và/hoặc tinh thần của mình hoặc
chờ đợi ứng báo từ một lực lượng siêu hình.
4.4. Văn hóa phòng ngừa giả dối
4.4.1. Phòng ngừa trực tiếp: Bệnh giả dối có thể phòng ngừa trực tiếp bằng
cách tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ. Để phòng ngừa và có cơ sở
trừng phạt các hành vi giả dối, người ta thường sử dụng rộng rãi các biện pháp
chế tài với hình thức cam kết bằng văn bản hoặc trải qua cuộc phỏng vấn để
kiểm tra, yêu cầu minh chứng kèm theo. Nhà nước luôn có những điều khoản quy
định mang tính pháp luật về việc trừng phạt giả dối để răn đe, khiến người ta lo sợ
các hình phạt mà không dám vi phạm; còn khi đã vi phạm rồi thì dùng làm cơ sở để
xử lý.
4.4.2. Phòng ngừa gián tiếp: Để có thể phòng ngừa giả dối, tránh bị lợi dụng,
khách thể chỉ có cách duy nhất là nâng cao năng lực hiểu biết của mình để dập
tắt mọi âm mưu lừa đảo hướng tới bản thân.
Biện pháp khác thường được áp dụng để phòng ngừa là nhờ sự hỗ trợ của
cộng đồng với cả kho kinh nghiệm về các cách phòng ngừa giả dối. Để có thể
phòng ngừa giả dối gián tiếp một cách hiệu quả, một phẩm chất quan trọng cần
được rèn luyện là phải học cách biết nghi ngờ, tránh cả tin một cách ngây thơ.
4.5. Tiểu kết
Trong chương 4, chúng tôi đã tiến hành khảo sát mặt phi gia tri
́ ̣, phi văn hoá
của hiện tượng giả dối nhìn từ mối quan hệ của chủ thể với khách thể và cộng
đồng, chỉ ra cơ chế tâm lý của quá trình này thể hiện qua tâm lý, tình cảm và nhìn
từ góc độ lợi ích, xem xét thái độ của xa hôi đ
̃ ̣ ối với nó.
Từ đó,luận án đi vào trình bày về văn hóa đối phó với giả dối, được cụ thể hóa
thành ba lĩnh vực là văn hóa phát hiện giả dối, văn hóa xử lý giả dối, và văn hóa
phòng ngừa giả dối.
Luận án đã tập hợp và phân tích một cách hệ thống các sự kiện, hiện tượng,
số liệu theo góc nhìn thống nhất là góc nhìn văn hoá học, một cơ sở lý luận thống
nhất là hệ thống lý thuyết đã xây dựng ở chương 1. Tất cả nhằm cung cấp một
bức tranh chân thực và khách quan về thực trạn gmặt phi văn hoá của hiện tượng
giả dối ở Việt Nam và trên thế giới hiện nay, góp phần lý giải vì sao việ cgiả dối
(phi văn hoá) tuy bị ngăn cấm sử dụng, song nó vẫn luôn tồn tại, và, do vậy, song
song với sự phát triển của giả dối là sự phát triển của các biện pháp đối phó (phát
hiện, xử lý và phòng ngừa) giả dối trong xã hội.