Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Hiện tượng giả dối từ góc nhìn văn hóa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.28 KB, 31 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XàHỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ TUYẾT NGÂN

HIỆN TƯỢNG GIẢ DỐI 
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA HỌC

Chuyên ngành: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 62.31.70.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC


Thành phố Hồ Chí Minh – 2016

Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Khoa học Xã hội 
và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Hữu Tá

Phan biên 1. 
̉
̣
Phan biên 2. 
̉
̣
Phan biên 3. 
̉
̣


Luận án sẽ  được bảo vệ  trước Hội đồng đanh gia lu
́
́ ận án tiến sĩ 
cấp cơ  sở  đào tạo họp tại Trường  Đại học KH XH&NV,  ĐHQG 
TP.HCM vào hồi … giờ … ngày … tháng … năm 2016

Có thể tìm hiểu luận án tại:
1. Thư  viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại 
học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
2. Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
3. Thư viện tổng hợp TP. Hồ Chí Minh
4.   Thư   viện   khoa   Văn   hóa   học   Trường   Đại   học   KH   XH&NV,  


ĐHQG TP.HCM

DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Giả  dôi la môt hiên t
́ ̀ ̣
̣ ượng phổ  biến và co t
́ ừ rât lâu đ
́
ời, đa đ
̃ ược ghi nhận 
nhiều lần trong các loai hinh văn h
̣ ̀
ọc dân gian như truyên cô tich, thân thoai, thanh
̣
̉ ́

̀
̣
̀  
ngư, tuc ng
̃ ̣
ư... Theo
̃
 quan niêm
̣  phổ  biến  xưa nay, giả  dôi luôn b
́
ị  đánh giá là 
không tốt, được xem la phan gia tri, do vây đ
̀ ̉
́ ̣
̣ ương nhiên cung đ
̃ ược xem la phi văn
̀
 
hoa, luôn bi ngăn câm va han chê s
́
̣
́
̀ ̣
́ ử dung, gi
̣
ới khoa học thì ít quan tâm nghiên cứu.  
Trong khi trên thực tế thì, cho tơi nay, trong t
́
ất cả các nền văn hóa từ  Đông đến  
Tây, giả dôi không nh

́
ững không mất đi mà có nơi có lúc còn có vẻ như ngày càng  
phô biên va phat triên đa dang h
̉
́ ̀ ́
̉
̣
ơn. Điêu nay cho thây thái đ
̀ ̀
́
ộ chống đối nó lâu nay  
của xa hôi và l
̃ ̣
ảng tránh nó của giới khoa học là sai lầm. Có cơ  sở  để  giả  định là,  
rất có thể, trong chiều sâu của thời gian và chiều rộng của không gian, hiên t
̣ ượng  
nay có nh
̀
ững cơ sở khoa học sâu xa về văn hoá cần được khám phá và lý giải. 
Từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Hiện tượng giả dối từ  
góc nhìn văn hóa học” để làm đối tượng nghiên cứu. 

2. Mục đích nghiên cứu và những đóng góp
Giả dôi la hiên t
́ ̀ ̣ ượng giao tiếp,  ứng xử năm trong khu v
̀
ực giap ranh cua nhiêu
́
̉
̀ 

nganh khoa hoc khac nhau, do v
̀
̣
́
ậy hướng tới nhiều mục  đích khác nhau và có  
những cach đanh gia khac nhau. 
́
́
́ ́
Trong pham vi luân án này, chung tôi đ
̣
̣
́
ặt ra mục tiêu là xac đinh ban chât va
́ ̣
̉
́ ̀ 
nhưng đăc điêm chu yêu
̃
̣
̉
̉ ́  cua hiên t
̉
̣ ượng giả  dôi, trong đó quan tr
́
ọng là  đánh giá  
một cách khách quan mặt gia tri
́ ̣  và phi gia tri
́ ̣  của nó đê, trên c
̉

ơ  sở  đo, 
́ phân tích 
cách thức con người tận dụng mặt  gia tri 
́ ̣ ( = văn hóa) cũng như cách thức ứng phó  
với mặt phi gia tri 
́ ̣ ( = phi văn hóa) của giả dối, đưa ra nhưng
̃  dự đoan vê t
́ ̀ ương lai  
cua no, cung nh
̉
́ ̃
ư gop phân điêu chinh, h
́
̀
̀
̉
ương dân d
́
̃ ư luân 
̣ trong viêc s
̣ ử dung no. 
̣
́


3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1. Giả  dôi (bao g
́
ồm làm giả và nói dối) có thể  xem la s
̀ ự  đánh giá được gán 

cho một hành động, một cách thức hoạt động, một trạng thái của con người trong 
ứng xử với tự nhiên và xã hội.
Trong lĩnh vực ứng xử với tự nhiên, chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu nào nghiên  
cứu trực tiếp về vấn đề này; còn trong lĩnh vực ứng xử xã hội giưa con ng
̃
ươi v
̀ ơí 
con ngươi, gi
̀ ả dối được nhắc đến trong cac công trình nghiên c
́
ứu triết học, tâm lý  
học, giao duc h
́
̣ ọc, đao đ
̣ ưc h
́ ọc, khoa học giao tiếp và trong cac sách vi
́
ết về  lôí  
sông
́ , sách “học làm người”... Tuy nhiên, nhắc đến thì có, còn nghiên cưu sâu và
́
 
trực tiêp vê gi
́ ̀ ả  dôi nh
́ ư  một đối tượng của hoạt động khoa học trong các ngành 
này thì cũng không nhiêu. Các nghiên c
̀
ứu chủ yếu là của các  tác giả phương Tây; 
một số  tài liệu bằng tiếng Việt ít nhiều có đề  cập đến giả  dối thì chủ  yếu là  
những tài liệu dịch hoặc biên dịch, soạn lại từ  tiếng nước ngoài. Trong số  các tài 

liệu không nhiều  ấy, mảng phong phú hơn cả  thuộc về   khoa học giao tiếp, đặc 
biệt là tâm lý học giao tiếp. Song những nghiên cứu này chủ yếu hướng tới những  
quan hệ nội văn hóa, giao tiếp bằng ngôn từ, nói dối là chủ yếu; lĩnh vực làm giả 
có thể nói là gần như còn hoàn toàn để trống. 
2. Những nghiên cứu chuyên sâu về hiện tượng này thuộc về các nhà khoa học  
Nga. Với truyền thống hàn lâm của mình, các học giả Nga đã đi vào nghiên cứu các 
vấn đề  mang tính  lý luận  như  “Lừa dối. Phân tích triết học – Tâm lý học ” của 
Д.И.   Дубровский   (Обман.   Философско­психологический   анализ,   2010),   “Hiện  
tượng lừa dối trong giao tiếp liên nhân” của М. Л. Красников (Феномен лжи в 
межличностном общении, 1999), hay “Sự tự lừa dối diễn ra như thế nào” của Ю. 
А. Разинов (Как возможен самообман, 2004). Tác phẩm sau cùng xem xét việc tự 
dối lòng như một hiện tượng văn hóa đặc biệt của con người từ bản chất, những  
nghịch lý, triết lý của những cảm nhận chạy trốn khỏi bản thân để  lý giải tâm lý 
con người trong những trạng thái mâu thuẫn đặc biệt. В.Я. Пропп  nghiên cưu 
́ giả 
dối giải trí  như  một trường hợp của giả  dối trong các tác phẩm văn học nghệ 
thuật (1999).
3. Cùng là nghiên cứu tâm lý con người khi thực hiện hành động giả  dối, các 
nhà khoa học Mỹ thiên về  khía cạnh thực dụng của vấn đề  (Lieberman D. 2008; 
Brooks   Jackson   và   Kathleen   Hall   Jamieson   2008;   Kevin   D.   2002;   The   Arbinger 
Institute 2009). Các sách này đều có đặc điểm chung là tìm hiểu tâm lý của người 
giả dối và đối tác của họ trong các trường hợp thực tiễn cụ thể để rút ra bài học. 


D. Lieberman (2008) quan sát các mối quan hệ cá nhân và các tình huống trong 
công việc, khám phá tám khía cạnh khác nhau của việc giả dối và đưa ra các giải 
pháp giúp tìm ra chân lý và giành quyền kiểm soát tình hình. Brooks Jackson và  
Kathleen Hall Jamieson (2008) phân tích các trường hợp giả dối theo chủ đề để kết 
luận về các thủ đoạn lừa dối được hình thành dựa trên các quy luật tâm lý của con  
người, từ đó chỉ  ra các phương thức nhận biết những điều dối trá, những kỹ thuật 

bịp bợm, cũng như cách thức để kiểm tra nhằm tìm được sự thật. D. Kevin (2002)  
vốn là một tin tặc (hacker) từng phải ngồi tù, qua nghiên cứu tâm lý của các đối  
tượng quản lý mạng đã trình bày những kinh nghiệm của mình và các  cách giả dối  
để   có   thể   lấy   mật   khẩu  thâm   nhập   vào   trang   quản   trị   của   các   website.   Viện  
Arbinger (2009) nghiên cứu cách thức quản lý trong giới lãnh đạo phương Tây và 
phát hiện ra rằng cách thức quản lý được duy trì lâu nay là dựa trên sự   tự lừa dối, 
từ  đó phân tích để  đưa ra những phương án, giải pháp thiết thực nhằm tự  giải  
phóng mình. Từ những nghiên cứu tâm lý này, các nhà khoa học ­ kỹ thuật Mỹ đã 
đưa ra hàng loạt những cách thức phát hiện giả dối và sáng chế ra cả các máy móc 
giúp phát hiện giả dối trong những trường hợp nghiêm trọng cần giải quyết bằng  
pháp luật.
Một số  bai viêt v
̀
́ ề  giả  dối trên các website, mạng cá nhân thường chi là gi
̉
ới  
thiệu, đưa tin về  một vài khía cạnh của các kết quả  nghiên cứu, dưng lai 
̀
̣ ở  việc  
nêu hiện tượng; đôi khi nếu có giải thích cac khia canh tâm ly, đao đ
́
́ ̣
́ ̣ ức thì cũng là  
những giải thích mang tính phổ  cập. Chúng tôi khai thác những bai viêt ki
̀
́ ểu này 
với tư cách là nguồn cung cấp tư liệu.

4. Đôi t
́ ượng và phạm vi nghiên cứu

Trên cơ  sở  lịch sử  nghiên cứu vấn đề, chúng tôi xác định   đôi t
́ ượng nghiên  
cứu của luận án là hiện tượng giả dối từ góc nhìn văn hóa học. 
Vì là một  nghiên cưú   trên bình diện lý thuyết nên giới hạn  phạm vi nghiên  
cứu về mặt không gian trên lý thuyết được mở rộng ra các nền văn hóa nhân loại,  
còn trên thực tế chủ yếu giới hạn ở  văn hóa mẹ đẻ (Việt Nam), những nền văn hóa 
lớn mà  tác giả  có thể  tiếp cận được qua các nguồn thông tin (như   Trung Quốc), 
hoặc các nền văn hóa mà tác giả am hiểu (như  Nga, Bồ  Đào Nha − tác giả  từng 
học ngữ văn Bồ Đào Nha ở Nga).
Về  mặt thời gian, phạm vi nghiên cưú  cũng được mở rộng, song trên thực tế 
thì thời quá khứ xa chủ yếu giới hạn ở việc khai thác các tư liệu dân gian, thời cận 
đại có tài liệu nhiều hơn, tư liệu nghiên cưú  thời hiện đại là nhiều nhất.


Hiện tượng giả  dối là đối tượng có thể  nghiên cứu từ  nhiều chuyên ngành 
khác nhau với những trọng tâm  nghiên cưú   khác nhau.Từ  góc nhìn văn hóa học, 
luận án tập trung đi tìm các giá trị của giả dối để giải thích lý do tồn tại của nó và  
xác định cách thức con người đối phó với những phi giá trị của nó. 

5. Y nghia khoa hoc va th
́
̃
̣
̀ ực tiên
̃
Về  mặt  khoa học, luận án góp phần  tìm hiểu hiện tượng giả  dối dưới góc  
nhìn văn hóa học, giúp làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về cách ưng x
́ ử với  
các hiện tượng văn hóa ­ xã hội giáp ranh, những hiện tượng mang tính hai mặt rõ 
rệt nằm trong khu vực giáp ranh giữa gia tri

́ ̣ và phi gia tri
́ ̣, văn hóa và phi văn hóa.
Về  mặt thực tiễn, luận án có thể  góp phần giúp các cấp quản lý hoạch định  
các chính sách trong những lĩnh vực hoạt động liên quan đến văn hóa ứng xử, định 
hướng các chuẩn gia tri, chu
́ ̣
ẩn đạo đức trong xa hôi nói chung và các ngành ngh
̃ ̣
ề 
có liên quan mật thiết tới các lĩnh vực  ứng xử, giao tiếp mà ở  đó giả  dối đang là  
hiện tượng phổ biến nói riêng. 
Đồng thời luận án có thể  dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và  
giảng dạy về lý luận văn hoá, văn hóa ứng xử, văn hoá xã hội, văn hóa ngôn từ nói 
chung và văn hoá ưng x
́ ử hoăc văn hoa ngôn t
̣
́
ừ cua ng
̉
ươi Viêt nói riêng.
̀
̣

6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Do đây là một hiện tượng văn hóa ­ xã hội có độ phủ rộng, nên không thể nhìn  
nhận giả dối ở một góc độ cục bộ nào đó, mà phải nghiên cứu theo  cách tiếp cận  
liên ngành, tổng hợp các thành tựu của nhiều ngành như triết học, xã hội học, tâm 
lý học, ngôn ngữ hoc, khoa h
̣
ọc giao tiếp, v.v. dưới một điểm nhìn thống nhất là  

văn hóa học. 
Để có thể đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án trước hết sử  dụng  
phương pháp quan sát thực tế để  phân tích, tìm hiểu cach th
́
ưc 
́ ưng x
́
ử  cua con
̉
 
ngươi va nh
̀ ̀ ưng dâu hiêu, đăc điêm ngôn t
̃
́
̣
̣
̉
ừ, cử  chỉ  khi thực hiên hanh vi gi
̣
̀
ả  dôi.
́ 
Thứ  hai, vận dụng  phương pháp so sánh ­ loại hình   để  nghiên cứu cơ  sở  hình 
thành và đặc điểm của hanh vi gi
̀
ả dôi trong cac lo
́
́ ại hình văn hoá, các nhom chu
́
̉ 

thê, cac khu v
̉ ́
ực không gian va cac giai đoan th
̀ ́
̣
ơi gian khac nhau. Th
̀
́
ứ ba, sử dụng  
phương pháp hệ  thống ­ cấu trúc  để  phân tích ­ tổng hợp, sắp xếp các hiện 
tượng giả dôi vô cùng đa d
́
ạng, phức tạp vào các thành tố cấu thành để nghiên cứu,  
khái quát hóa lên thành một hệ thống chung.


Nguồn tư  liệu để  nghiên cứu giả  dôi mà chúng tôi s
́
ử  dụng là những lời nói,  
việc làm, sảm phẩm được ghi lại, văn ban hóa
̉
 dưới nhiều dạng khác nhau. 

7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở  đầu và Kết luận, luận án được chia làm  bốn chương, xoay 
quanh hai nội dung chính là hành động giả dối và cách đánh giá của xã hội về hành 
động này. Dưới góc độ hành động, giả dối được xem xét ở chương 1 và chương 2 
theo ba bình diện nhận thức, tổ chức và ứng xử. Dưới góc độ  cách đánh giá của  
xã hội, giả dối được xem xét trong chương 3 và chương 4 theo các bình diện văn  
hóa tận dụng giả dối, văn hóa lưu luyến giả dối và văn hóa đối phó với giả dối.



Chương 1: 
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHẬN THỨC VỀ HIỆN TƯỢNG GIẢ DỐI
1.1. Định nghĩa giả dối
1.1.1. Trên thế giới, người ta nói đến “giả dối” thì nhiều nhưng định nghĩa nó  
một cách khoa học thì trong các tài liệu mà chúng tôi tiếp cận được chưa thấy có. 
Các bộ từ điển bách khoa lớn củng không một bộ nào có định nghĩa  khai niêm
́ ̣  này. 
Do vậy, dưới đây phải dùng đến các từ  điển ngôn ngữ  và xem xét 11 định nghĩa  
trong năm ngôn ngữ khác nhau.
Trong tiếng Việt, “giả  dối” là một tính từ  (Ví dụ:  Thái độ giả  dối, lời tán  
tụng giả  dối). Theo “Từ   điển tiếng  Việt” do  Hoàng Phê  chủ  biên (1992), “giả 
dối”có nghĩa là “không thật, nhằm mục đích đánh lừa”.   Hầu hết các ngôn ngữ 
phương Tây đều dùng từ có gốc từ tiếng Latin falsus với nét nghĩa là sai, lừa đảo. 
1.1.2. Các đinh nghia v
̣
̃ ề giả dối nêu trên của mọi ngôn ngữ  đều tập trung sự 
chú ý vào đặc trưng coi giả dối là không đúng sự  thật, luôn có song song sự thật  
để  so sánh.  Cách hiểu rộng coi giả  dối là tất cả  mọi thứ  không đúng sự  thật. 
Cách hiểu trung gian coi giả dối là cố  ý làm không đúng sự  thật. Cách hiểu hẹp 
nhất chú ý đến tính chất cố ý làm không đúng sự thật, và nhấn mạnh vào mục đích 
để  lừa, đánh giá ý thức đạo đức của chủ  thể  về  việc xâm hại đến lợi ích của  
khách thể hoặc cộng đồng, thu hẹp hơn nữa phạm vi của khai niêm
́ ̣ “giả dối”. 
Trong luận án này, chúng tôi chọn cách hiểu  khai niêm
́
̣  “giả  dối” theo hướng 
thứ hai − không quá rộng, cũng không quá hẹp − làm đối tượng nghiên cứu và đưa 
ra một định nghĩa để làm việc như sau: Giả dối là sự đánh giá được gán cho hành  

động tương tác mà trong đó chủ  thể  đưa ra cái sai sự  thật một cách cố  ý khiến  
khách thể tiếp nhận như sự thật.


1.2. Giả dối trong quan hệ với văn hoá, giá trị và sự thật
1.2.1. Giả  dối với văn hoá và giá trị: Giá trị  được hình thành qua quá trình so 
sánh, đánh giá và lựa chọn cụ  thể  có ý nghĩa tích cực đối với đời sống, được cá 
nhân đồng tình và xã hội chấp nhận. Theo Trần Ngọc Thêm (2016), giá trị  văn hóa 
có ba đặc trưng cơ bản là tính có ích, tính chủ quan và tính tương đối. 
Giả  dối là hành vi có chủ  ý nhằm mưu cầu một lợi ích nhất định. Giả  dối là  
một cách đánh giá chủ quan, do vậy mục đích của hành động quyết định tính giá trị 
của nó. Lợi ích thu được từ giả dối thuộc về đối tượng nào trong tương tác là quan 
trọng đối với cách đánh giá của xã hội. 
1.2.2. Giả  dối vớisự  thật và những khai niêm liên quan: Gi
́
̣
ả  dối là khai niêm
́
̣  
đối lập với “sự  thật”. Chân lý  là sự  nhận thức đúng đắn hiện thực trong bộ  óc 
con người. Chân lý luôn là sự  phản ánh đúng hiện thực khách quan. “Chân” luôn 
đúng và vận động theo cuộc sống, còn thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Hạn chế 
về nhận thức, kỹ năng thể hiện, kỹ năng truyền tin khiến cho người ta trên thực tế 
truyền cho nhau không phải là sự thật trọn vẹn, mà chỉ là một phần của sự thật, sự 
thật không đầy đủ – nửa sự thật. Điều này liên quan mật thiết đến tính chủ quan 
của con người trong tính cách và trong việc sắp xếp, thể  hiện vốn tri thức của  
mình trong quan hệ với tính khách quan của hiện thực. Chính sự thật không đầy đủ 
trong nhận thức, trong giao tiếp  ứng xử  là một trong những tiền đề  dẫn đến sự 
hình thành các hành vi giả dối của con người.
1.2.3. Khả năng và điều kiện để giả dối có giá trị văn hóa: Giả dối không thể  

và không bao giờ có thể trở thành giá trị phổ quát, giá trị vĩnh cửu do thiếu tính  
Chân (thật). Giả  dối tồn tại và phát triển do con người luôn hướng tới cái tốt, 
cái đẹp phù hợp với thực tiễn và hài hòa với môi trường xung quanh. Xu hướng 


nghệ thuật cho thấy, con người dễ dàng đồng cảm và học hỏi từ những hình ảnh, 
tấm gương tốt đẹp gần giống với cuộc sống hiện tại của mình. Mức độ  gia tri
́ ̣ 
của hiện tượng giả dối phụ  thuộc vào những nhu cầu do điều kiện, cách thức tổ 
chức đời sống của  mỗi cá nhân/ cộng đồng quy định. Tùy theo độ  phù hợp của 
hành vi giả  dối với chuẩn mực, đạo đức cộng đồng mà  hiện tượng giả  dối  sẽ 
được đánh giá là thiên về giá trị hay phi giá trị. Giả dối được coi là có gia tri văn
́ ̣
 
hóa  khi  mang lại lợi ích cho xã hội. Các hiện tượng giả  dối được cộng đồng 
chấp nhận và duy trì lâu dài sẽ trở thành thói quen, nếp sống. 

1.3. Điều kiện tồn tại giả dối
1.3.1. Điều kiện tiền đề  dân đên gi
̃ ́ ả  dối: Sau khi phân tích các điều kiện xúc 
tác dẫn đến giả dối, các tiền đề được xem xét ở  hai lĩnh vực lớn là các tiền đề  tự 
nhiên và các tiền đề xã hội.
Các tiền đề  tự nhiên thể hiện trong hai bình diện: Ở bình diện thế giới khách 
quan, tiền đề dẫn đến giả dối là tính bất khả tri của thực tế, tính tương đồng và  
dị biệt của các vật thể; ở bình diện con người chủ thể, tiền đề dẫn đến giả dối là  
sự  tiến hóa bộ  não của con người  và khả  năng thể  hiện ý tưởng, mô phỏng  
thực tế giúp con người cố ý tạo nên những trùng lặp  tất nhiên (giả  dối) sao cho 
càng giống với trùng lặp ngẫu nhiên càng tốt. Ở bình diện thế giới chủ quan, tiền  
đề  quan trong nhât d
̣

́ ẫn đến hiên t
̣ ượng giả  dôi la nhân th
́ ̀ ̣
ưc non yêu, hay la
́
́
̀ sự  
thiêu hiêu biêt cua khách th
́
̉
́ ̉
ể.
Các tiền đề xã hội tập trung vào sự phát triển của xã hội, kích thước các cộng 
đồng ngày càng lớn, quy mô ngày càng to, số lượng ngày càng nhiều, các mối quan 
hệ ngày càng đa dạng khiến cho con người ngày càng khó tiếp cận với sự thật.  Các 
quy luật xã hội  tạo nên những  khuôn mẫu tư  duy  của mình  theo những chuẩn 
mực ngầm định của cộng đồng thành những chuẩn mực  tạo nên thói quen, nếp  
ứng xử.  Những điều này đã khiến con người luôn gặp phải những   tình huống  
một lúc phải đóng nhiều vai  trong xã hội, làm tiền đề  cho giả  dối phát huy tác 
dụng.
1.3.2. Điêu kiên đê th
̀
̣
̉ ực hiện thành công hành động giả dôi: Đ
́ ề hành động giả 
dối thành công cần có bốn điều kiện. Điều kiện  thứ  nhất là chủ  thể  phải tìm ra 
lĩnh vực thiếu hiểu biết (vùng ẩn) của khách thể về lĩnh vực ứng xử đang hướng  
tới. Điều kiện thứ hai là chủ thể phải là người có năng lực tư duy tốt bao gồm tư  
duy trừu tượng tốt để  có thể  lợi dụng sáng tạo ra các biến thể  của sự thật và  trí 



nhớ tốt nhằm tìm ra đối tượng để định hướng hành động giả dối đồng thờigiúp các 
hành vi giả dối đã thực hiện không bị phát hiện, khi chủ  thể tiếp tục biến báo để 
duy trì chúng. Điều kiện thứ ba là năng lực tư duy tốt trong một cơ thể khỏe mạnh,  
minh mẫn đảm bảo đủ  khả  năng nhận thức hoặc khả  năng điều khiển hành vi.  
Điều kiện thứ tư là chủ thể giả dối phải có  năng lực điều khiển hành vi tốt  đủ để 
khéo léo mô phỏng sự  thật khiến đối tác nhầm lẫn. Chỉ  cần thiếu một trong bốn  
yếu tố  trên thì hành động giả dối có nguy cơ bị phát hiện và chủ  thể  phải trả giá  
cho hành động của mình.

1.4. Các bình diện của giả dối
1.4.1. Xét theo phương tiện tương tác, giả dối có hai loại chính là nói dối, làm  
giả và cùng với chúng là loại thứ  ba, loại hỗn hợp vừa có làm giả  vừa có nói dối.  
Làm giả  là hình thức giả  dối lâu đời nhất.   Làm giả  sử  dụng hành động, cử  chỉ 
tương tác để đối tác hiểu sai sự thật không có yếu tố ngôn ngữ đi kèm. Giả dối phi  
ngôn từ dùng hình thức để đánh lừa người khác nên cũng dễ bị phát hiện bằng cách 
quan sát.  Nói dối  dưới dạng ngôn từ  hay văn bản thuộc nhóm hành vi giao tiếp  
(giao tiếp  ứng xử), sử dụng ngôn ngữ truyền thông tin sai sự thật nhằm lừa người  
khác. Nói dối bị  giới hạn đối tượng là những người cùng chung một ngôn ngữ.  
Giả dối hỗn hợp sử dụng cả hai phương tiện nên phổ biến và thông dụng hơn cả 
vì kết hợp nhiều yếu tố phối hợp với nhau để  đạt được hiệu quả cao hơn nhưng  
cũng dễ bị phát hiện hơn. Người ta có thể phát hiện giả dối hỗn hợp bằng các cách  
riêng lẻ của giả dối phi ngôn từ và giả dối ngôn từ. 
1.4.2. Xét theo phương thức tương tác thì có thể  phân biệt hai loại giả  dối là 
giả  dối trực tiếp và giả dối gián tiếp. Giả dối trực tiếp là hình thức giả  dối mà 
trong quá trình tương tác, chủ thể và khách thể cùng đối mặt với nhau, có sự tương  
tác tại chỗ  giữa các đối tác. Các thành viên giao tiếp có thể  thay đổi vai với nhau 
thường xuyên, tạo nên những tác động bất ngờ  làm thay đổi diễn tiến của hành  
động giả dối. Giả dối gián tiếp là hình thức tương tác có sử dụng giả dối khi các 
đối tác không nhìn thấy nhau, các cử chỉ, hành động, cảm xúc tương tác bị hạn chế 

rất nhiều, không có không gian xung quanh rộng hơn để kiểm chứng. 
1.4.3.  Giả  dối xét theo chủ  thể: Theo đối tượng tham gia tương tác, có thể 
phân biệt giả dối xét theo chủ thể và theo khách thể. Giả dối có chủ thể là cá nhân  
(giả dối cá nhân) là trường hợp thường xảy ra nhất vì chủ thể tương tác là người 
chủ động và vì vậy có thể giữ bí mật sự thật ở mức độ cao. Trường hợp đặc biệt 


là khi chủ  thể  và khách thể  là một. Đó là hiện tượng dối lòng, dối mình, tự  lừa  
dối xảy ra rất phổ biến trên toàn thế giới (tiếng Pháp:  se mentir à soi­même, tiếng 
Nga:  самобман, сам обманываться). Giả  dối khi chủ  thể  là một tập thể  ( giả  
dối tập thể) là trường hợp khá đặc biệt vì nhận thức của các cá nhân trong tập thể 
không giống nhau. Để có được hành vi giả dối tập thể thì bao giờ cũng phải có sự 
bàn bạc, thỏa thuận trước, và đề  cử cá nhân hoặc nhóm đại diện thực hiện. Hiện  
tượng giả dối khi cả chủ thể và khách thể đều là tập thể thì việc giả dối này được  
gọi là giả dối chính thức. 
1.4.4. Giả  dối xét theo khách thể: Đối tác của con người trong hoạt động giả 
dối rất đa dạng: các yếu tố tự nhiên, siêu nhiên, hay chính bản thân con người. Với  
đối tượng là người cùng cộng đồng, đây là lối giao tiếp nội văn hóa. Những người 
cùng cộng đồng mặc định là cùng chung ngôn ngữ  nên hiện tượng nói dối là phổ 
biến. Với đối tượng là người ngoài cộng đồng, đây là lối  ứng xử   xuyên văn hóa. 
Đại đa số  các hành vi giả  dối là làm giả  bằng các hành động và các phụ  kiện hỗ 
trợ. Với đối tượng là thế  giới siêu nhiên và thế  giới tự  nhiên, đây là lối  ứng xử 
xuyên loài. Trong mối quan hệ với thế giới siêu nhiên, con người dùng nhiều cách 
để qua mặt ma quỷ, thánh thần, các thế lực linh thiêng. Trong mối quan hệ với thế  
giới tự nhiên xung quanh, con người với sự phát triển tư  duy vượt trội đã không 
dừng ở các cách đánh lừa thô sơ để săn mồi làm thức ăn, mà phát triển vượt bậc về 
thủ thuật, kinh nghiệm và công cụ phục vụ việc câu, bẫy thành nghề kiếm sống. 
1.4.5.  Giả  dối xét theo tình huống  ứng xử: Xét theo tình huống, giả  dối bao  
gồm giả dối chủ động và giả dối bị động. Giả dối chủ động là hình thức ứng xử 
mà trong đó chủ thể chủ ý làm hay nói sai sự thật nhằm đánh lạc hướng khách thể.  

Có thể nói tính chủ động (vụ lợi) của hiện tượng giả dối càng giới hạn trong một  
hệ tọa độ có quy mô nhỏ về chủ thể ­ thời gian ­ không gian bao nhiêu thì tính phi  
gia tri / phi văn hoá c
́ ̣
ủa nó càng lớn bấy nhiêu. Giả dối đồng thời là công cụ giúp  
cho chủ  thể  đối phó với sự  bất tiện của sự  thật   trong cuộc sống (sự  thật mất  
lòng), giả dối trở thành một bộ phận của văn hoá đối phó với những sai sót, khiếm 
khuyết, bất tiện trong cuộc sống con người, trở thành giả dối bị động. 

1.5. Tiểu kết
Trên cơ sở 11 định nghĩa ở năm ngôn ngữ khác nhau, chúng tôi đã phân tích các 
ý nghĩa cấu thành và đưa ra một định nghĩa làm việc về  giả  dối với ba đặc trưng 
cơ   bản:   (a) Về hinh
̀   thưc,
́   là sự   đánh   giá   được   gán   cho   hành   động   tương   tác; 


(b) Về tinh
́   chât́   của   nội   dung, là chủ   thể   đưa   ra   cái   sai   sự   thật;   (c)  Về động 
cơ, là cố  ý khiến khách thể  tiếp nhận như  sự  thật.  Đồng thời xác định hai đối  
tượng quan trọng cần khảo sát là (a) Hành động giả  dối và (b) Kết quả  đánh giá  
hành động giả dối.
Từ  các khái niệm“văn hóa”, “giá trị”, “sự  thật”, luận án đã đưa ra cách phân 
biệt “nửa sự thật ­ giả dối” (do cố ý làm sai lệch so với hiện thực) và nửa sự thật 
do hạn chế của nhận thức và diễn giải. Từ  đó lý giải tính giá trị và phi giá trị của 
giả  dối, đồng thời xác định khả  năng các giá trị  giả  dối trở  thành giá trị  văn hóa  
trong đời sống con người.
Lý do tồn tại của hành động giả dối được trình bày dưới dạng năm  tiền đề tự 
nhiên và ba tiền đề  xa hôi cùng b
̃ ̣

ốn điều kiện đê th
̉ ực hiện thành công hành động 
giả  dôi. Đây là các đi
́
ều kiện cần và đủ  để  hành động giả  dối tồn tại trong cuộc 
sống. 
Căn cứ  vào các thành tố  tham gia chi phối hành động tương tác,  ứng xử, luận  
án đã đề xuất năm bình diện (năm cách phân loại) các hiện tượng giả dối: (a) Giả 
dối xét theo phương tiện tương tác, (b) Giả dối xét theo phương thức tương tác, (c)  
Giả  dối xét theo chủ  thể, (d) Giả  dối xét theo khách thể, và (e) Giả  dối xét theo  
tình huống  ứng xử. Điều này cho thấy các nhóm hành động giả  dối rất đa dạng,  
phong phú và chúng hoạt động tích cực như  một cách  ứng xử  với tự  nhiên và xã  
hội bên ngoài cũng như bên trong đời sống xã hội của con người.

Chương 2: 
HIỆN TƯỢNG GIẢ DỐI 
NHÌN TỪ VĂN HÓA TỔ CHỨC VÀ ỨNG XỬ
2.1. Tổ  chức hoạt động giả  dối trong  ứng xử xuyên loài với các  
lực lượng siêu nhiên
2.1.1. Tổ chức hoạt động giả dối trong các phong tục liên quan đến sự thay đổi 
vị thế  tự  nhiên của chủ thể: Vị thế tự nhiên của con người gắn với bản thân đứa 
trẻ  sinh ra theo quy luật tự nhiên (trời sinh), như  ngày giờ  sinh, nơi sinh, cha mẹ. 
Khi lỡ sinh ra phải giờ xấu, người Việt thường làm lễ cúng xin đổi tuổi, còn gọi là  
“Lễ  đổi mệnh”, “Lễ  cải mệnh”, hay làm “lễ  thay cung, hoán số" thay đổi một vài 
thông số trong số phận như  cho con, bán làm con nuôi, hoặc bỏ đường bỏ chợ, bán  


khoán đứa trẻ..., thực chất là thay tên giả, dùng tuổi giả, người giả thế mạng, tìm 
thêm bố mẹ giả cho người sinh vào giờ xấu.
2.1.2. Tổ chức hoạt động giả dối trong các phong tục liên quan đến sự thay đổi 

vị thế  xã hội của chủ thể: Trong đời sống hàng ngày, để  qua mặt các hiện tượng  
siêu nhiên, người ta thường hạ thấp vai trò, tầm quan trọng của mình để  tránh sự 
chú ý của ma quỷ, hy sinh một phần quyền lợi của đứa trẻ  để  bảo vệ  chính nó, 
giảm nhẹ vai trò của những đứa trẻ  trong gia đình, che giấu những điều cao quý,  
đẹp đẽ  của đứa trẻ  đi để  ma quỷ khỏi ghen tức mà làm hại đứa bé. Đối với việc  
hôn nhân và gia đình thì với những trường hợp cô dâu chú rể  không hợp tuổi, gia  
đình sẽ giấu đi việc trái ý trời đất bằng cách cố  ý làm dối như: tổ  chức cưới hai  
lần, làm đám cưới giả, đổi vợ, đổi chồng… hay hợp thức hoá bằng cách không  
theo đầy đủ  các lễ  nghi truyền thống để  qua mặt tổ  tiên và các vị  thần linh. Để 
thay đổi tình trạng kinh tế nhằm lừa ma quỷ, người  ta có thể mượn tuổi của người 
thân hoặc mượn người cúng thay, dùng các vật giả  hoặc cỗ  giả  để  cúng cho ma  
quỷ như đốt vàng mã.

2.2. Tổ  chức hoạt động giả  dối trong  ứng xử với các lực lượng  
tự nhiên
2.2.1. Tổ chức hoạt động giả dối trong hoạt động săn bắt: Giả dối với đối tác  
là động vật thể hiện rõ nhất trong việc con người  làm các loại cạm, bẫy săn bắt  
thú. Con người sáng tạo ra hiện trường giả khéo léo sao cho giống như thật nhằm  
đánh lừa con vật bằng các loại bẫy, mồi, bả.. Từ ghép “cạm bẫy” với nghĩa “bố trí 
sẵn để lừa” được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày.  Kỹ năng cơ bản để 
có thể che giấu sự can thiệp của con người và các công cụ đánh bắt từ xa là ngụy  
trang, biến có thành không. Người ta có thể ngụy trang người và các vật dụng hòa 
lẫn vào môi trường xung quanh, hoặc biến hình thành thứ  khác hấp dẫn hoặc đe 
dọa, ngăn cản động vật đến gần, xâm phạm vào tài sản của con người.
2.2.2. Tổ chức hoạt động giả dối trong hoạt động thuần hóa và chăn nuôi: Để 
có thể  thuần hóa được các loài hoang dã, con người tạo ra một   môi trường giả 
tương tự, đưa một môi trường mô phỏng vào thay thế  nhằm bắt động vật phát  
triển theo ý con người bằng cách can thiệp vào thức ăn, chỗ ở  tùy theo thói quen  
và cách thức sinh hoạt của các loài. Trong quá trình chung sống, con người luôn có 
những biện pháp can thiệp và điều chỉnh cuộc sống của vật nuôi theo ý muốn của  

mình, tùy mục đích lấy thịt, trứng, sữa, da, lông… mà có chế  độ  chăm sóc khác  
nhau. 


2.3. Tổ chức hoạt động giả dối trong  ứng xử nội loài xuyên văn  
hóa
2.3.1. Kỹ thuật che giấu: Trong chiến tranh, đặc biệt là đấu tranh vũ trang,mục  
tiêu chiến đấu là tiêu diệt sinh lực địch, giành thắng lợi bằng mọi cách.  Các biện 
pháp giả  dối chủ  yếu được sử  dụng để   che giấu  là: biến có thành không, biến 
không thành có, phóng đại hoặc thu nhỏ lại nhằm đánh lừa đối phương.  Về  hình 
thức, trong quân sự, ngụy trang là biện pháp tránh đối đầu trực diện, giành thế chủ 
động chọn thời điểm tấn công. Quan trọng nhất là đánh lừa thị  giác đối phương  
bằng cách thay đổi ngoại hình của bản thân và các vật thể liên quan để  chúng lẫn  
vào môi trường xung quanh.
2.3.2. Kỹ thuật nghi binh: Kỹ thuật nghi binh thực chất là những hoạt động giả 
nhằm đánh lạc hướng đối phương để che giấu ý đồ, bảo đảm thành công trong các  
trận chiến đấu. Ở Trung Hoa, Hàn Phi Tử  đã có câu nói nổi tiếng: “ Binh bất yếm  
trá” (việc binh tha hồ dối trá). Để  đảm bảo chiến thắng trong đánh giặc thì phải 
Binh giả, quỷ  đạo giã  (Dùng binh đánh giặc là hành động dối trá). Trong lịch sử 
chống giặc ngoại xâm, quân đội Việt Nam đã nhiều lần dùng chiến thuật nghi binh  
để chống lại các lực lượng thiện chiến và trang bị đầy đủ hơn của quân thù. 
2.3.3. Kỹ thuật giả  dối trong hoạt động du kích:  Chiến tranh du kích là cách 
đánh của kẻ yếu bắt buộc phải đương đầu với kẻ  mạnh nên cần dùng cách đánh 
khôn khéo. Đánh du kích là cách giữ  bí mật lực lượng của ta, nghiên cứu kỹ  tình  
hình quân địch, tìm ra điểm yếu, những sơ hở để lừa địch bằng mưu kế, tránh hoặc 
giảm thiểu đối đầu mà vẫn đạt mục đích là tiêu diệt sinh lực địch. Đây chính là  
dùng giả dối gián tiếp để tránh đối đầu.
2.3.4. Kỹ thuật giả dối trong hoạt động gián điệp: Đặc thù của nghề gián điệp 
là làm việc trong lòng địch. Do vậy, yếu tố   quan trọng nhất là bí mật (= che giấu 
sự  thật). Vì tính chất này mà gián điệp buộc phải  có lý lịch giả, có nhiều tên giả 

với các giấy tờ, hồ sơ giả tương ứng, khai báo thông tin giả về nhân thân, và trong 
quá trình hoạt động không ngừng phải giả dối, nói sai sự thật để thực hiện nhiệm  
vụ  và đối phó với nguy cơ  bị phát hiện, với triết lý  phục vụ  lợi ích chính đáng  
của cộng đồng, trong trường hợp nghề gián điệp là chống giặc ngoại xâm, giành  
độc lập dân tộc.
Ngược lại, để đối phó với hệ thống gián điệp thì bộ phận phản gián luôn tìm 
cách phát hiện gián điệp trong hàng ngũ của mình, cũng phải sử dụng thuật giả dối  
để phá án (= chống giả dối). 


2.3.5. Kỹ thuật giả dối trong hoạt động ngoại giao: Nhà ngoại giao nhiều khi 
phải nói dối để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ đến cùng lợi ích quốc gia và dân tộc.  
Không phải ngẫu nhiên mà nhà ngoại giao được đinh nghia m
̣
̃ ột cách khôi hài là  
“người trung thực được cử  ra nước ngoài để  nói dối vì lợi ích quốc gia”. Vì danh 
dự quốc gia, các nhân viên trong ngành ngoại giao phải tuân thủ  các quy tắc thành  
văn và bất thành văn trong những giao tiếp quốc tế đa văn hóa. Trong hầu hết các 
trường  hợp, các nhà  ngoại giao phải phân thân,  quên  đi những suy nghĩ,  mong 
muốn của cá nhân mình, mà nhập vai vì quyền lợi lâu dài của quốc gia và “dĩ bất  
biến, ứng vạn biến” để bảo vệ sự độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ  trong 
mọi diễn tiến kinh tế, chính trị, quân sự khu vực và quốc tế.

2.4. Tổ chức hoạt động giả dối trong ứng xử nội văn hóa
2.4.1. Tổ chức hoạt động giả  dối phục vụ lợi ích tập thể, cộng đồng: Xã hội 
tồn tại và phát triển nhờ có hệ thống chuẩn mực và đạo đức xã hội cùng với luật  
pháp giúp điều chỉnh để  xã hội vận hành theo đúng hướng, tạo điều kiện cho con 
người sống bình an, hạnh phúc. Các hành động giả dối được sử dụng để chống lại  
hành động phá vỡ chuẩn mực, làm rối loạn xã hội, gây nguy hiểm cho cá nhân và  
tập thể, đi ngược lại với lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng cần bị trấn áp để tránh  

hậu họa cho dân lành nói riêng và cả xã hội nói chung, giải quyết các  mâu thuẫn  
đối kháng giữa cá nhân với tập thể hoặc mâu thuẫn giữa các tập thể với nhau theo 
các quy ước chung của từng tập thể, được cộng đồng chấp nhận.
2.4.2. Tổ chức hoạt động giả dối phục vụ lợi ích cá nhân: Các hành động giả 
dối mang lại lợi ích cá nhân đồng thời phải không làm tổn hại đến tập thể, xã hội 
mới có thể  được cộng đồng chấp nhận. Loại này có thể  quy về  ba nhóm: (1) các 
hành động giả dối mang tính giải trí được đưa ra trình diễn, công bố cho đông đảo 
quần chúng thưởng thức mang lại giá trị tinh thần, sự hứng khởi cho người thưởng 
thức (như ảo thuật, kịch, điện ảnh…); (2) Các hành động giả  dối vì lòng tốt, nhân  
ái hỗ  trợ, giúp đỡ  những người xung quanh mình, đặc biệt là những người yếu  
thế gặp khó khăn, khiếm khuyết hoặc bị đẩy ra ngoài lề xã hội (như bác sĩ – bệnh 
nhân…) và (3) hành động tự lừa dối bản thân (dối lòng). 

2.5. Tiểu kết
Trên cơ sở phân tích khái niệm ứng xử và giả dối trong hệ thống  ứng xử, xét  
về mức độ mâu thuẫn trong tương tác thì giả dối hoạt động tốt trên cả hai lĩnh vực 
tương tác dựa trên mâu thuẫn và tương tác trung tính (không mâu thuẫn). 


Trong ứng xử xuyên loài với siêu nhiên là những thế lực vô hình, con người sử 
dụng hai cách giả dối: cách thay thế các yếu tố tự nhiên trong đời sống những con 
người kém may mắn, yếu đuối cần bảo vệ, bằng các yếu tố khác tương tự và cách  
thay đổi vị thế xã hội của họ bằng cách tăng, giảm hoặc sử dụng đồ giả kém hơn  
để lừa các thế lực siêu nhiên. 
Trong  ứng xử  xuyên loài với giới tự  nhiên, con người có hai mục đích khác  
nhau: săn bắt và thuần dưỡng vật nuôi. Trong hai hình thức này thì cách chủ yếu là 
dùng bẫy, mồi nhử và ngụy trang để  lừa con vật vào thế  do con người chủ  động 
đặt ra. Sự khác biệt chủ yếu là đối với vật nuôi, quá trình diễn ra từ từ, lặp lại có  
cải tiến khiến cho con vật bị  thuần dưỡng dần dần từ  thú hoang thành vật nuôi  
hoàn toàn phụ thuộc vào con người. 

Trong ứng xử nội loài xuyên văn hóa, giả dối có giá trị khi mang lại lợi ích cho  
dân tộc trong trường hợp ứng xử giải quyết mâu thuẫn giữa các quốc gia, dân tộc.  
Đây là loại  ứng xử  sử  dụng các phương tiện và cách thức tương tự  như   ứng xử 
với tự nhiên trong trường hợp săn bắt, song chúng tinh vi hơn và triệt để hơn ở chỗ 
triển khai đồng thời trên nhiều mặt trận: đấu tranh vũ trang (kỹ  thuật che giấu và  
nghi binh), đấu tranh du kích, đấu tranh gián điệp và đấu tranh ngoại giao. 
Trong  ứng xử nội văn hóa, tất cả  các hành động giả dối mang lại lợi ích cho 
cộng đồng để đảm bảo quyền lợi của số đông trong việc duy trì và phát triển cuộc  
sống. Ở  đây, xem xét, phân tích một số  hoạt động mang tính nghiệp vụ  của công  
an, các nhà lãnh đạo – quản lý xã hội. Đối với những giá trị của hành động giả dối  
mang lợi ích cá nhân cần phân tích rõ từng trường hợp, trong đó điều kiện tiên  
quyết là không ảnh hưởng tới lợi ích tập thể. 


Chương 3:
HIỆN TƯỢNG GIẢ DỐI 
NHÌN TỪ VĂN HOÁ TẬN DỤNG VÀ LƯU LUYẾN
3.1. Các đặc trưng bản chất của giả dối
3.1.1. Tính chủ động của giả dối: Giả dối là loại hành động có sự tham dự của  
trí tuệ, sự sắp đặt trước đã tạo ra bước tiến vượt bậc hướng tới mục đích bảo vệ 
những thứ mình đang có, đồng thời tăng thêm lợi ích và vị  thếcho mình. Người ta  
có thể  thiết kế từng hành động đơn lẻ, và cũng có thể  xây dựng các tổ  hợp hoặc  
các chương trình lớn dựa trên các hành động giả dối như một chiến dịch lừa đảo.  
Giả dối là công cụ giúp con người đạt được thành công trên cả  hai bình diện bảo  
vệ  và tấn công, trong đó thiên về  tấn công hơn. Giả  dối là hành động có động cơ 
được xác định trước của chủ thể và có đích tới là khách thể bị lừa, do vậy giả dối  
có tính chủ động cao, có mục đích hướng tới kết quả là lừa người khác.
3.1.2. Tính phổ biến của giả dối: Giả dối có thể  xuất hiện mọi lúc, mọi nơi.  
Tính phổ  biến của giả dối được ghi nhận trong nhiều tài liệu khác nhau như  kho 
tàng tục ngữ  của nhiều dân tộc, trong  Kinh Thánh, trong các kết quả  nghiên cứu 

điều tra và cả  những nhận xét của các nhà văn, người nổi tiếng… Ngày nay, do  
ảnh hưởng của giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trên thế  giới và việc ứng dụng  
khoa học kỹ thuật tiên tiến vào cuộc sống khiến xã hội phát triển ngày càng nhanh 
mà quan niệm về đạo đức, giá trị  cũng có nhiều thay đổi. Cách nhìn nhận về  giả 
dối cũng có nhiều sự khác biệt so với truyền thống càng khiến giả dối càng trở nên  
phổ biến hơn. 
3.1.3. Tính nhất thời của giả dối: Giả dối luôn thiếu tính chân thật, và do vậy, 
nó không thể  và không bao giờ  có thể  trở  thành giá trị  phổ  quát, giá trị  vĩnh cửu.  
Bản chất của giả dối là thiếu tính chân thật, nên giả  dối luôn chỉ  có  giá trị nhất  
thời do sự biến động của bối cảnh, chuẩn mực xã hội ở từng thời điểm khác nhau. 
Giả dối và các giá trị của nó mang tính nhất thời, khi những giá trị  này thay đổi và  
không còn phổ biến nữa, có nguy cơ biến mất, thì người ta có xu hướng hồi tưởng,  
ghi nhớ để trao truyền cho các thế hệ sau.
3.1.4. Tính tương đối của giá trị giả dối: Giá trị của giả dối được đánh giá dựa  
trên cơ sở triết lý, kinh nghiệm sống và thang đo của các cá nhân, cộng đồng tiếp  
nhận, và kết quả rất khác nhau. Tính giá trị  phái sinh phụ  thuộc vào đối tác trong 
tương tác, dễ  bị thay đổi khi có các yếu tố bên ngoài tác động vào khiến cho cách  
đánh giá giá trị của giả dối biến đổi theo thời gian, phụ thuộc vào quan niệm đạo  


đức xã hội và những quy định, pháp luật. Xét về mặt không gian, giá trị của giả dối  
phụ thuộc vào loại hình văn hóa, thể chế chính trị, năng lực kinh tế văn hóa. 

3.2. Các công dụng của giả dối
3.2.1. Tránh căng thẳng, mâu thuẫn nhất thời: Khi sự thật thô bạo, phũ phàng 
và bất tiện, giả dối là phương tiện để đối phương không biết sự thật, giúp cho quá 
trình nhận biết sự thật chậm lại, giúp tránh căng thẳng, tránh mâu thuẫn nhất thời. 
Giả  dối được con người lựa chọn như  một cách làm cho cuộc sống của mình dễ 
chịu hơn, tránh gây tổn thất cho các bên đối tác, tránh làm người khác đau lòng, bất  
bình. Trong giao tiếp trực tiếp, nói dối hiển nhiên là có tác dụng rất lớn trong việc  

tránh căng thẳng, mâu thuẫn, trong khi nói thẳng, nói thật có thể gây mất lòng, mất  
thể diện cho đối tác, gây hoang mang, mất tình cảm, đoàn kết giữa các bên.
3.2.2. Điều chỉnh và làm chủ quá trình tương tác: Để có cuộc sống ổn định, để 
bảo vệ  khu vực riêng tư  cần tôn trọng, trong một số  trường hợp, giả  dối có thể 
tận dụng như một công cụ  hữu hiệu nhằm điều chỉnh và làm chủ  mối quan hệ  
giữa các bên theo đúng phạm vi cho phép của cá nhân cũng như của môi trường và 
hoàn cảnh xã hội để làm cho cuộc sống của mình dễ chịu hơn. Bằng cách  không  
cung cấp thông tin thật và mức độ  khác biệt giữa sự  thật và giả  dối có thể  cho 
thấy mức độ  tình cảm hay sự  gần gũi trong các mối quan hệ  giữa các đối tượng  
tham gia tương tác. Tùy theo ý muốn chủ quan của mình, chủ thể có thể điều chỉnh  
mức độ, khoảng cách theo ý muốn. M.L. Krasnikov gọi chức năng này của giả dối 
là “phương tiên điêu chinh giao ti
̣
̀
̉
ếp cá nhân”. 
3.2.3. Chỉ  báo khoảng cách giữa các đối tác: Giả  dối là hiện tượng tương tác 
không cùng chung mục đích khi tồn tại mâu thuẫn không thể  giải quyết giữa các 
đối tác. Khách thể muốn tìm hiểu sự thật, nhưng chủ thể lại xây dựng, mô phỏng 
sự  thật để  che giấu mục đích của mình. Giả  dối được sử  dụng để  điều chỉnh  
khoảng cách và đồng thời  làm  chỉ  báo khoảng cách xa hôi
̃ ̣   (mức độ  thân mật) 
giữa các đối tác  thông qua nội dung của hành động  ứng xử. Chủ   đề  của câu  
chuyện giao tiếp giữa các thành viên nói lên mối quan hệ thân – sơ/ gần – xa giữa  
họ. Trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên, việc dùng các loại bẫy khác nhau 
thể  hiện các mối quan hệ  khác nhau. Tương tự, người ta dùng dùng mồi để  bắt 
sống con vật, còn dùng bả để lừa giết con vật. Trong chiến tranh để  tiêu diệt đối 
phương, người ta sử  dụng các loại bẫy sát thương vì chúng là kẻ  thù không đội 
trời chung trong cuộc chiến một mất một còn. Trong các cuộc chiến chống tội 



phạm, dù là tội phạm nguy hiểm, cảnh sát, công an chỉ dùng các biện pháp lừa tội 
phạm nhẹ nhàng hơn, ít gây thương tích nặng.
3.2.4. Đánh lạc hướng đối tác: Ích lợi quan trọng thứ tư, và cũng có vẻ  rõ ràng  
nhất của giả dối, là đánh lạc hướng đối tác, hướng đối tác đi chệch ra khỏi mục 
tiêu để không biết sự thật. Chính vì chức năng này mà giả dối còn được gọi là lừa  
dối (lừa bằng thủ đoạn giả  dối).Điều này có thể  thực hiện khi thiết kế thêm các 
mục tiêu giả song song với mục tiêu thật làm phân tâm đối tác. Sử dụng thuật nghi  
binh làm rối loạn tầm kiểm soát và đánh lạc hướng của đối phương được sử dụng 
nhiều trong quân sự. 
3.2.5. Khuyến khích suy nghĩ năng động và khả năng bao quát: Giả dối làm nên 
những lợi ích phù hợp và tiện dụng theo thời gian, song lại dễ thay đổi, mang tính 
nhất thời. Tính chủ động, sự năng động, uyển chuyển của giả dối mang lại những  
lợi ích mới, thay thế, đào thải những yếu tố  cũ, lạc hậu, thuận lợi cho việc tiếp  
thu cái mới trong giao lưu. Giả dối, vì thế, có tác dụng phá vỡ sự trì trệ của xã hội 
và kích thích xã hội phát triển,  khuyến khích suy nghĩ năng động và khả  năng  
bao quát  được con người tận dụng để  phục vụ  cho cuộc sống của mình. Công  
dụng này của giả  dối được thể  hiện rõ trong các hoạt động giáo dục, chính trị,  
nghệ thuật…

3.3. Cách giáo dục giả dối
3.3.1. Giáo dục giả dối trong gia đình: Ngay từ  khi còn nhỏ, đứa trẻ  đã được 
tiếp xúc với giả dối bằng những câu chuyện cổ tích, ngụ ngôn với khá nhiều tình 
huống mà trong đó xuất hiện hiện tượng nói dối hoặc làm giả, những trò chơi mô 
phỏng thực tế cuộc sống xã hội với nhân vật do các em tự đóng vai.  Trẻ em được 
ông bà, cha mẹ hướng dẫn cách dạy không làm  phiền người khác, kiềm chế cảm  
xúc, làm vui lòng người khác… khiến những đứa trẻ  tinh khôn có thể  thực hành  
những hành động lừa dối từ  rất nhỏ. Mặt khác, những hành động, lời nói của  
người lớn là khuôn mẫu để trẻ học theo. 
3.3.2. Giáo dục giả  dối  ở trường học:  Trong trường học, học sinh cũng được 

làm quen với giả dối từ rất sớm. Trong các sách  ở  bậc tiểu học đã có một số   bài 
học chứa các hành động làm giả hay nói dối với mục tiêu là thông qua đó để  dạy  
lối sống trung thực hoặc dạy cách tận dụng giả dối để phục vụ cho cuộc sống của 
mình. Các em được khuyến khích học theo hành động giả  dối được xem là khôn 
ngoan trong  các truyện được đưa vào sách giáo khoa các cấp. Một số  hoạt động  


thường xuyên trong các trường phổ  thông được tập luyện, phân công dàn dựng  
trước… vô tình trở thành bài học về cách sống giả dối đối với học sinh.
3.3.3. Giáo dục giả dối ngoài xã hội: Người ta học được nhiều bài học về nói 
dối, làm giả từ truyền thống văn hóa dân tộc và những việc làm đang xảy ra ngoài  
xã hội. Những hành động giả  dối mang lại giá trị  văn hóa trong  ứng xử  là những  
bài học trực quan, gần gũi dễ thực hành. Trong đời sống xã hội có rất nhiều các đồ 
giả, các trò chơi giải trí đi vào cuộc sống giúp ích cho con người. Ngày nay, khoa 
học kỹ thuật phát triển, truyền thông thông minh, “xã hội ảo” ra đời đem lại những 
điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp thông tin không đúng sự  thật.  Trong đời 
sống hàng ngày, người ta cũng bày cho nhau những cách thức bảo vệ bản thân, gia 
đình, tài sản có những yếu tố nói dối hay làm giả. 

3.4. Văn hóa lưu luyến giả dối
3.4.1. Lưu luyến giả dối trong các loại hình nghệ thuật: Những quan tâm, gắn 
bó với giả dối, làm giả khiến người ta lưu giữ trong nhiều loại hình nghệ thuật và  
bằng nhiều hình thức khác nhau. Về  mặt nội dung, các loại hình âm nhạc, điện  
ảnh, văn học, đặc biệt là văn học dân gian lưu giữ khá nhiều kinh nghiệm liên quan 
tới giả  dối mang tính hai mặt: Một mặt là cảnh báo, lên án, phê phán các hiện  
tượng giả  dối, nhưng mặt khác cũng khẳng định sự  cần thiết của giả  dối trong 
cuộc sống, khuyến khích việc tận dụng nó.
3.4.2.  Lưu luyến giả  dối trong đời sống thực tiễn: Các loại hình nghệ  thuật  
đến lượt mình ảnh hưởng trở lại thực tiễn khiến cho cuộc sống phát triển đa dạng  
hơn, phong phú hơn dưới các hình thức mới phục vụ cho con người. Ở nhiều nước  

trên thế giới còn lưu luyến, lưu giữ được hình ảnh những sản phẩm liên quan đến 
hành vi giả dối bằng các lễ hội như lễ hội bù nhìn, lễ hội Halloween,  ngày nói dối  
Cá tháng Tư, các lễ  hội hóa trang giúp giải tỏa cuộc sống khỏi các ràng buộc xã 
hội. Và cái hại của sự  giả  dối cũng được ghi nhận, nhắc nhở, nhằm  đưa con 
người hướng tới sự  trung thực như  cảnh báo sự  trừng phạt giả  dối  bằng biểu 
tượng cậu bé gỗ Pinocchio mũi dài.

3.5. Tiểu kết
Giả dối như một hành động thuộc hệ thống ứng xử mang lại lợi ích xét từ góc 
độ  tình cảm trong những tình huống cụ  thể  có  bốn đặc trưng bản chất: (a) Tính 
chủ động, (b) Tính phổ biến, (c) Tính nhất thời, (d) Tính tương đối.


Trên cơ sở khai thác các đặc trưng này phục vụ cho lợi ích của mình, văn hoá  
tận dụng giả dối đã phát huy năm ích lợi (giá trị) cơ bản của giả dối là: (a) Tránh  
căng thẳng, mâu thuẫn nhất thời, (b) Điều chỉnh và làm chủ quá trình tương tác, (c)  
Chỉ  báo khoảng cách giữa các đối tác, (d) Đánh lạc hướng đối tác, và (e) Khuyến  
khích suy nghĩ năng động và khả năng bao quát.
Để  phát huy được các ích lợi (giá trị) của giả  dối, văn hoá tận dụng giả  dối  
của các dân tộc đã tiến hành việc giáo dục giả dối trên ba bình diện: (a) Giáo dục 
trong gia đình; (b) Giáo dục ở trường học; (c) Giáo dục ngoài xã hội
Bên cạnh văn hoá tận dụng, văn hóa lưu luyến giả dối đã lưu giữ  lại các đặc 
tính, các ý nghĩa và bản thân các hiện tượng giả dối trong những liên tưởng tới các  
hiện tượng khác khiến người ta nghĩ đến giả  dối trong hai bình diện: (a) Lưu  
luyến giả dối trong các loại hình nghệ thuật; (b) Lưu luyến giả dối trong đời sống  
thực tiễn.

Chương 4:
HIỆN TƯỢNG GIẢ DỐI NHÌN TỪ VĂN HOÁ ĐỐI PHÓ
4.1. Tính phi gia tri c

́ ̣ ủa giả dối
4.1.1. Tính phi gia tri c
́ ̣ ủa giả dối nhìn từ  quan hệ: Xã hội được xây dựng  ổn 
định dựa trên niềm tin, sự tin tưởng, gắn kết lẫn nhau giữa các thành viên. Giả dối 
là hành động nói hay làm không đúng sự thật, đánh lừa đối tác, sẽ gây hiểu nhầm,  
dẫn đến làm mất lòng tin, gây những xáo trộn đáng kể trong quản lý con người và  
cơ cấu xã hội. Đây là sự vi phạm đạo đức rất lớn khiến nó trở thành yếu tố phi giá  
trị, phi văn hoá. Về mặt cá nhân, hành động giả dối xúc phạm nghiêm trọng thể diện  
của khách thể. Trong xã hội hiện đại đang công nghiệp hoá, đô thị hoá, thiếu sự quản 
lý chặt chẽ  tạo môi trường lý tưởng cho giả dối phát triển, đặc biệt là giả dối phi văn 
hoá.
4.1.2. Tính phi gia tri c
́ ̣ ủa giả dối nhìn từ  suy nghĩ, tình cảm: Để  tránh bị  phát  
hiện và trừng phạt, khi thực hiện hành vi giả dối nói chung và nói dối nói riêng −  
nhất là nói dối chủ động − người bình thường sẽ phải trải qua nhiều cảm xúc tâm  
lý căng thẳng và phức tạp. Các nhà tâm lý học Nga đã tổng kết bốn loại cảm xúc có 
thể xảy ra khi làm giả hoặc nói dối tương ứng với bốn giai đoạn của hành động , đó là: 
(1) Cảm giác tội lỗi; (2) Nỗi sợ hãi; (3) Phân kích do căng thăng ­ cam giac toan năng;
́
̉
̉
́
̀
 
(4) Xâu hô.
́ ̉  Ngoai ra, cac ap l
̀
́ ́ ực xa hôi khi gi
̃ ̣
ả dôi co kha năng bi phat giac hay niêm

́ ́ ̉
̣
́ ́
̀  


tin bi xoi mon s
̣ ́ ̀ ẽ khiên cho ng
́
ươi ta 
̀ lo lăng
́ . Ngay ca khi nh
̉
ưng l
̃ ơi noi dôi không bi
̀ ́ ́
̣ 
phat giac thi ng
́ ́ ̀ ươi noi dôi vân co cam giac b
̀ ́ ́ ̃ ́ ̉
́ ị lương tâm căn r
́ ưt́. 
4.1.3. Tính phi gia tri c
́ ̣ ủa giả dối nhìn từ lợi ích: Nhìn từ  góc độ  lợi ích thìcác  
truyền thống đạo đức và văn hoá khác nhau đều xem nó như  một hiện tượng về  
cơ bản là phi gia tri
́ ̣. Các nền văn hoá phương Tây với truyền thống coi trọng vai 
trò cá nhân, tư  duy theo lối phân tích duy lý, dẫn đến giao tiếp theo lối trực khởi,  
chuộng cách giao tiếp theo lối nói thẳng, nói thật, coi noi dôi la bi
́ ́ ̀ ểu hiện của sự 

yếu đuối, bất lực, là hiên t
̣ ượng tôi lôi, chông lai ng
̣ ̃
́
̣
ươi khac va chông lai chinh
̀
́ ̀ ́
̣
́  
minh. Trong các n
̀
ền văn hoá phương Đông, quan niệm đạo đức phổ biến ở đây là  
lên án những cá nhân có thái độ, hành động giả dối chỉ vì lợi ích của riêng mình mà 
gây tổn hại đến lợi ích của cộng đồng. 

4.2. Văn hóa phát hiện giả dối
4.2.1.  Phát hiện trực tiếp: Trong giao tiếp  ứng xử, sự  khác biệt, mâu thuẫn  
giữa thông tin nguồn và thông tin nhận được trong nhiều trường hợp là dấu hiện và  
bằng chứng của sự  giả  dối. Việc   so sánh  đối chiếu  hiện tượng/ sự  vật bị  nghi 
ngờ với các chuẩn mực mà ta đã biết là phương phap ch
́ ủ yếu giúp phát hiện giả 
dối. Trong trường hợp đặc biệt quan trọng, xa hôi đã ph
̃ ̣
ải thành lập hẳn những  
ngành nghề  mới (như  nghề   phản gián  trong hoạt động quân sự, nghề  kiểm toán 
trong hoạt động kinh tế ­ tài chính).
4.2.2. Phát hiện gián tiếp: Sự  giả  dối có thể  bị  phát hiện  gián tiếp thông qua 
những biểu hiện khác thường của gương mặt, cử chỉ, lời nói. Các nhà tâm lý học  
đã tìm ra một số  đặc điểm thường gặp trong hành vi, cách thức  ứng xử... của 

người lừa đảo, người nói dối. Về  hành động,  các động tác thiếu tập trung,  có xu 
hướng chú ý nhiều các chi tiết nhỏ, thường ít cử động hơn. Về lời nói, giọng nói căng 
thẳng và cao hơn, có xu hướng thanh minh, lý giải kỹ lưỡng, dài dòng…
Dựa trên các đặc điểm tâm lý của người lừa đảo, người nói dối, cùng với kỹ 
thuật phát triển, các nhà khoa học Mỹ  đã sáng chế  ra hàng loạt  thiết bị kỹ  thuật 
giúp phát hiện nói dối ngày càng tinh vi, phức tạp hơn. 

4.3. Văn hóa xử lý giả dối
4.3.1.  Xử  lý trực tiếp: Cách xử  lý trực tiếp đối với hành vi giả  dối là trừng  
phạt. Với truyền thống cấm giả dối một cách triệt để  trong đời sống hàng ngày  


thì, trong văn hóa phương Tây, hình ảnh cậu bé gỗ mũi dài Pinocchio có thể xem 
là biểu tượng của văn hóa trừng phạt giả dối.
Giả dối chủ động, giả dối vụ lợi làm mất niềm tin ở mức độ nhẹ thì bị trừng  
phạt bằng cách bị xã hội lên án, phê phán như một hành vi vi phạm đạo đức xã hội, 
mức độ  nặng hơn có thể  phải chịu những phản  ứng nặng nề  từ  phía khách thể 
(chửi mắng, đánh đập…), thậm chí bị cơ quan pháp luật can thiệp khi phạm phải 
các điều khoản quy định tại các bộ luật. 
4.3.2.  Xử  lý gián tiếp: Việc  xử  lý gián tiếp  tội giả  dối thường diễn ra khi 
người bị hại không có điều kiện, không có phương tiện, không đủ quyền lực để xử  
lý  nên phải  nhờ  đến người khác, lực lượng khác, thông qua một cách khác để  
trừng phạt kẻ  đã thực hiện hành vi giả  dối. Ngoài ra, còn có cách xử  lý gián tiếp 
mang tính tiêu cực là người bị hại  nhẫn nhịn, bỏ qua và chấp nhận hy sinh, thiệt  
hại về mình, từ bỏ một phần quyền lợi vật chất và/hoặc tinh thần của mình hoặc  
chờ đợi ứng báo từ một lực lượng siêu hình. 

4.4. Văn hóa phòng ngừa giả dối
4.4.1.  Phòng ngừa trực tiếp: Bệnh giả dối có thể  phòng ngừa trực tiếp bằng  
cách tăng cường các biện pháp  quản lý chặt chẽ. Để  phòng ngừa và có cơ  sở 

trừng phạt các hành vi giả  dối, người ta thường sử dụng rộng rãi  các biện pháp  
chế  tài  với hình thức cam kết bằng văn bản hoặc trải qua cuộc phỏng vấn để 
kiểm tra, yêu cầu minh chứng kèm theo. Nhà nước luôn có những điều khoản quy  
định mang tính pháp luật về việc trừng phạt giả dối để răn đe, khiến người ta lo sợ 
các hình phạt mà không dám vi phạm; còn khi đã vi phạm rồi thì dùng làm cơ sở để 
xử lý. 
4.4.2. Phòng ngừa gián tiếp: Để  có thể  phòng ngừa giả dối, tránh bị  lợi dụng, 
khách thể  chỉ có cách duy nhất là  nâng cao năng lực hiểu biết của mình để  dập 
tắt mọi âm mưu lừa đảo hướng tới bản thân. 
Biện pháp khác thường được áp dụng để  phòng ngừa là nhờ  sự  hỗ  trợ  của  
cộng đồng với cả  kho kinh nghiệm về các cách phòng ngừa giả  dối. Để  có thể 
phòng ngừa giả dối gián tiếp một cách hiệu quả, một phẩm chất quan trọng cần  
được rèn luyện là phải học cách biết nghi ngờ, tránh cả tin một cách ngây thơ. 


4.5. Tiểu kết
Trong chương 4, chúng tôi đã tiến hành khảo sát mặt phi  gia tri
́ ̣,  phi văn hoá 
của hiện tượng giả  dối nhìn từ  mối quan hệ  của chủ  thể  với khách thể  và cộng  
đồng, chỉ ra cơ chế tâm lý của quá trình này thể hiện qua tâm lý, tình cảm và nhìn  
từ góc độ lợi ích, xem xét thái độ của xa hôi đ
̃ ̣ ối với nó. 
Từ đó,luận án đi vào trình bày về văn hóa đối phó với giả dối, được cụ thể hóa  
thành ba lĩnh vực là văn hóa phát hiện giả  dối, văn hóa xử  lý giả  dối, và văn hóa  
phòng ngừa giả dối.
Luận án đã tập hợp và phân tích một cách hệ  thống các sự  kiện, hiện tượng,  
số liệu theo góc nhìn thống nhất là góc nhìn văn hoá học, một cơ sở lý luận thống  
nhất là hệ  thống lý thuyết đã xây dựng  ở  chương 1. Tất cả  nhằm cung cấp một  
bức tranh chân thực và khách quan về thực trạn gmặt phi văn hoá của hiện tượng  
giả dối ở Việt Nam và trên thế giới hiện nay, góp phần lý giải vì sao việ cgiả dối 

(phi văn hoá) tuy bị ngăn cấm sử  dụng, song nó vẫn luôn tồn tại, và, do vậy, song 
song với sự phát triển của giả dối là sự phát triển của các biện pháp đối phó (phát 
hiện, xử lý và phòng ngừa) giả dối trong xã hội.


×