BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG
VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM
***
LÊ VĂN CỬ
CÔNG TÁC ĐỊCH VẬN
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(19451954)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62 22 03 13
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI 2015
Công trình được hoàn thành tại:
VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS Đinh Quang Hải
2. TS Trần Văn Thức
Phản biện 1: PGS, TS Hồ Khang
Phản biện 2: PGS, TS Trần Đức Cường
Phản biện 3: PGS, TS Nguyễn Mạnh Hà
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện
tại…………………………………………………………………
Vào hồi ………giờ……ngày……….tháng……..năm…………..
Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện quốc gia Việt Nam
Thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (19451954), công tác
địch vận là một trong những lĩnh vực hoạt động đặc biệt, có vai trò quan
trọng và những đóng góp to lớn.
Kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước trong lịch sử lâu dài chống
ngoại xâm của dân tộc, với quan điểm, lập trường cách mạng, khoa học,
Đảng Cộng sản Đông Dương* xác định đường lối kháng chiến chống
thực dân Pháp là toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là
chính, trong đó, công tác địch vận được đặc biệt chú trọng. Để địch vận
có hiệu quả, phải dùng mọi hình thức, tận dụng mọi cơ hội tuyên truyền
làm tan rã tinh thần binh lính đối phương, giúp họ thấy rằng nhân dân
Việt Nam và họ có chung một kẻ thù là thực dân Pháp, từ đó họ phản đối
chiến tranh xâm lược, ủng hộ và bỏ hàng ngũ địch chạy sang lực lượng
kháng chiến.
Theo chủ trương của Đảng, công tác địch vận được các cấp uỷ,
chính quyền, các ngành, các đoàn thể cùng đông đảo nhân dân trên khắp
cả nước hưởng ứng, triển khai thực hiện, trở thành nhiệm vụ mang tầm
chiến lược và có tính chất quần chúng rộng rãi. Bộ máy địch vận được
hình thành thống nhất từ Trung ương đến khu, liên khu, tỉnh, huyện và các
đơn vị bộ đội chủ lực. Nhiều hình thức, biện pháp địch vận được tiến
hành như: vận động binh lính đấu tranh, bỏ hàng ngũ địch chạy sang theo
lực lượng kháng chiến, tổ chức nhân mối trong quân đội Pháp, chống bắt
lính, đòi chồng, đòi con; đối xử nhân đạo với tù, hàng binh, tổ chức hồi
hương cho tù, hàng binh, thực hiện thả tù binh, v.v. Kết quả là, công tác
địch vận đã góp phần làm binh lính đối phương bị phân hoá sâu sắc, âm
mưu thâm độc "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh" của thực dân Pháp bị thất bại một phần đáng kể, tinh thần
chiến đấu của binh lính địch bị giảm sút, sức mạnh và uy tín cuộc kháng
*
Từ tháng 10.1930 lấy tên là Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 3.1951 lấy tên là
Đảng Lao động Việt Nam, tháng 12.1976 trở lại tên Đảng Cộng sản Việt Nam.
chiến của nhân dân Việt Nam ngày càng lên cao, nhiệm vụ tác chiến của
bộ đội thêm nhiều thuận lợi, tạo sức mạnh tổng hợp tiến lên đánh bại
thực dân Pháp xâm lược. Tuy nhiên, có lúc có nơi, việc tiến hành công tác
địch vận vẫn còn hạn chế, khuyết điểm, nhưng những hạn chế, khuyết
điểm đó đã nhanh chóng được tổng kết rút kinh nghiệm và tổ chức uốn
nắn kịp thời, làm cho công tác này luôn đi đúng hướng và đạt nhiều thành
tích, để lại những bài học kinh nghiệm có giá trị.
Nghiên cứu quá trình tiến hành công tác địch vận trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp nhằm góp phần dựng lại cuộc đấu tranh anh
dũng của Quân đội và Nhân dân Việt Nam trên một lĩnh vực hoạt động
đặc biệt, qua đó làm rõ hơn tính chất toàn dân, toàn diện và góp phần lý
giải về một trong những nhân tố tạo nên thắng lợi, rút ra những đặc
điểm, ý nghĩa và một số kinh nghiệm cho hiện nay.
Mặc dù nhiều năm qua, vấn đề công tác địch vận trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp đã được một số cơ quan, nhà khoa học đề
cập, nghiên cứu ở một số khía cạnh, song cho đến nay vẫn chưa có công
trình chuyên khảo nào có nội dung đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về
vấn đề này.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Công tác địch vận trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp (19451954)” làm đề tài luận án tiến sĩ,
chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Tái hiện tương đối đầy đủ, toàn diện quá trình tiến hành công tác
địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trên cơ sở đó rút ra
đặc điểm, ý nghĩa và một số kinh nghiệm có thể nghiên cứu vận dụng và
phát huy trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước hiện
nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Làm rõ cơ sở tiến hành công tác địch vận trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp.
Trình bày bối cảnh lịch sử, âm mưu, thủ đoạn xâm lược của thực
dân Pháp; chủ trương của Đảng, Chính phủ và QĐND Việt Nam về công
tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Trình bày có hệ thống quá trình thực hiện, các bước phát triển, kết
quả và một số hạn chế của công tác địch vận trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp.
Nêu bật và phân tích làm rõ đặc điểm, ý nghĩa và một số kinh
nghiệm được rút ra của công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, qua đó làm sáng rõ truyền thống nhân văn, tính chất nhân
đạo cao cả của dân tộc Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là công tác địch vận do VNDCCH
tiến hành trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 1954), cụ
thể là chủ trương, biện pháp, hình thức tiến hành, tổ chức bộ máy, lực
lượng tham gia, quá trình triển khai thực hiện, kết quả… của công tác
địch vận.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu các nội
dung chủ yếu: Công tác tuyên truyền, vận động sĩ quan, binh lính trong
quân đội Liên hiệp Pháp, đấu tranh chống tuyển mộ, bắt lính, đòi chồng,
đòi con; công tác tù, hàng binh.
Về thời gian: Nghiên cứu công tác địch vận từ tháng 9.1945 đến
tháng 7.1954, tức là từ khi Nam Bộ mở đầu kháng chiến đến khi Hiệp
định Giơnevơ được ký kết, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp. Tuy nhiên, sau tháng 7.1954, công tác địch vận vẫn tiếp tục
được tiến hành, do đó luận án có đề cập ở một mức độ nhất định để bảo
đảm tính hệ thống, liên tục.
Về không gian: Quá trình tiến hành công tác địch vận trên cả nước.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu
Các văn kiện của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy
(Trung ương Quân ủy, Tổng Chính ủy), các Liên khu uỷ, Khu uỷ và các
cấp uỷ địa phương từ năm 1945 đến năm 1954 về công tác địch vận.
Các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo
Đảng, Nhà nước và Quân đội viết về công tác địch vận trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp.
Các công trình lịch sử kháng chiến, lịch sử Đảng bộ, lịch sử lực
lượng vũ trang, lịch sử các tổ chức, đoàn thể, các địa phương, đơn vị trong
kháng chiến chống thực dân Pháp.
Các công trình khoa học, bài báo, tạp chí, luận án, luận văn có nội
dung liên quan đến đề tài.
Đặc biệt chú trọng nguồn tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Bộ
Quốc phòng, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Trung tâm Lưu
trữ quốc gia III.
Hồi ký của các đồng chí lão thành cách mạng, các đồng chí từng
trực tiếp tham gia công tác địch vận trong kháng chiến chống Pháp.
Một số tư liệu nước ngoài về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam
của thực dân Pháp.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối quân sự của Đảng, luận án sử dụng hai phương pháp
chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic, kết hợp với các
phương pháp khác như phân tích, thống kê, so sánh đối chiếu, tổng hợp…
để thu thập, xử lý và phân tích các nguồn tư liệu văn bản, các công trình
nghiên cứu. Ngoài ra, để thẩm định và làm phong phú thêm nguồn tư liệu,
tác giả luận án còn tiếp xúc, phỏng vấn một số nhân chứng lịch sử.
5. Đóng góp của luận án
Cung cấp những tư liệu mới và hệ thống hóa các tư liệu, phục
dựng lại toàn bộ quá trình tiến hành công tác địch vận trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp.
Làm sáng rõ các chủ trương, quan điểm của ĐCSVN, Chính phủ và
QĐNDVN về công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp.
Phân tích, rút ra đặc điểm, ý nghĩa và một số kinh nghiệm của công
tác địch vận trong kháng chiến chống thực dân Pháp có thể tham khảo,
vận dụng và phát huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện
nay.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận án được kết cấu thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận
án.
Chương 2: Công tác địch vận trong giai đoạn đầu kháng chiến (1945
1950).
Chương 3: Công tác địch vận trong giai đoạn tiến công và phản công,
kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến (1951 1954).
Chương 4: Đặc điểm, ý nghĩa và một số kinh nghiệm.
Chương 1
TỔNG QUANTÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, cùng với các
hoạt động quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế…, công tác địch vận
được sử dụng là một mũi tiến công sắc bén vào hàng ngũ kẻ thù. Tùy vào
từng thời kỳ, công tác này có những tên gọi khác nhau như: tâm công, binh
vận, địch vận, binh địch vận và tuyên truyền đặc biệt.
Riêng trong kháng chiến chống Pháp, Công tác địch vận là một bộ
phận công tác vận động cách mạng của Đảng, một mũi tiến công của
cách mạng, của nghệ thuật quân sự Việt Nam, một mặt của hoạt động
công tác Đảng, công tác chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam, có
nhiệm vụ tuyên truyền, vận động, giáo dục, giác ngộ và tổ chức sĩ quan
và binh sĩ quân đội Pháp ủng hộ chính nghĩa, đứng về phía cách mạng,
chống lại chiến tranh xâm lược, chiến tranh phi nghĩa, làm cho quân đội
Pháp tan rã về chính trị, tư tưởng, tinh thần và tổ chức. Lực lượng tham
gia công tác địch vận gồm cán bộ, chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang
nhân dân Việt Nam và đông đảo quần chúng nhân dân.
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp có liên quan gián tiếp đề tài luận án
Nhóm các công trình nghiên cứu lịch sử cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp ở Trung ương và của các địa phương
Có thể kể đến 2 bộ (bộ 2 tập và bộ 7 tập) Lịch sử cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp (19451954; Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 10, do
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam nghiên cứu, biên soạn; Lịch sử Việt Nam,
tập 10 và 11 do Viện Sử học biên soạn, v.v.. Ngoài ra còn có một số luận
án nghiên cứu về chính sách quân sự, chính trị của Pháp ở Việt Nam, v.v.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu ở Trung ương, còn có các công
trình nghiên cứu về lịch sử kháng chiến chống Pháp của các khu, liên khu,
các tỉnh trong nước, trong đó có đề cập đến công tác địch vận, nhất là
công tác tuyên truyền, phong trào chống bắt lính, kêu gọi chồng con bỏ
ngũ trở về nhà trong các vùng tạm chiếm, v.v. Tuy nhiên, nội dung về
công tác địch vận còn sơ lược, chỉ được đề cập lẻ tẻ, thiếu hệ thống và
toàn diện, chủ yếu là các ví dụ cụ thể, điển hình.
Nhóm các công trình nghiên cứu lịch sử của các đơn vị, các ngành,
các đoàn thể
Đây là các công trình lịch sử của các đơn vị, các ngành trong quân đội,
lịch sử đoàn thanh niên, hội phụ nữ, v.v.. Trong đó, công tác địch vận có
được đề cập trong một số chiến dịch, một số trận đánh hay việc truyền
truyền, vận động binh lính đối phương của thanh niên, phụ nữ ở các địa
phương. Tuy nhiên, công tác địch vận chỉ là một mặt hoạt động của công
tác chính trị trong quân đội, một nội dung trong các hoạt động phong phú
của thanh niên, phụ nữ, nên chỉ được đề cập sơ lược, chỉ là những ví dụ
cụ thể, mang tính điển hình.
Nhóm các công trình nghiên cứu của người nước ngoài về lịch sử
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
Nhiều công trình nghiên cứu ở nước ngoài (chủ yếu của các tác giả
Pháp) cũng có nội dung liên quan đến đề tài như bối cảnh, tình hình và
tâm lý quân đội Pháp, một số chính sách của Pháp để đối phó với cuộc
kháng chiến của nhân dân Việt Nam, âm mưu xây dựng “Quân đội quốc
gia”, dùng “người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp. Mặc dù
cung cấp nhiều tư liệu có giá trị, nhưng các công trình này có nhiều chỗ
thể hiện những quan điểm, cách nhìn chưa thật khách quan, cần có sự
phân tích, chọn lọc.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trực tiếp công tác địch vận trong
kháng chiến chống thực dân Pháp
Nhóm các công trình nghiên cứu trong nước
Ngay khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra và công
tác địch vận đang được tiến hành, đã có nhiều công trình nghiên cứu lý
luận và tổng kết về công tác địch vận được xuất bản như Công tác địch
vận, Kinh nghiệm địch vận, Công tác địch vận của Đảng ta, v.v. Sau này,
còn có nhiều công trình khác, như lịch sử của Cục Dân vận và tuyên
truyền đặc biệt, v.v. Bên cạnh đó, có một số cuốn hồi ký của những
người từng trực tiếp tham gia công tác địch vận, quản lý tù hàng binh như
Khép lại quá khứ đau thương, Hỏi cung tù binh Điện Biên Phủ, v.v..
Bên cạnh đó, còn có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành
như Tạp chí Lịch sử quân sự, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Tạp chí Xưa và
Nay cũng đề cập trực tiếp đến công tác địch vận .
Nhóm các công trình nghiên cứu của người nước ngoài
Công tác địch vận của Việt Nam DCCH trong kháng chiến chống
Pháp cũng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của một số người nước ngoài
với những khảo cứu chuyên sâu về một khía cạnh nào đó. Nhiều nghiên
cứu trong số đó đã được công bố rộng rãi trên các Tạp chí Lịch sử quân
sự, Tạp chí Xưa và Nay, v.v. Ngoài ra, còn có một số hồi ký của những
“người Việt Nam mới” như Kostas Sarantidis Nguy ễn Văn Lập, Enxtơ
Phrây.
1.2. Một số nhận xét về những công trình nghiên cứu liên quan
đến đề tài luận án
Trong các công trình nói trên, công tác địch vận được phản ánh ở
những mức độ và khía cạnh khác nhau, nhưng nhìn chung cho đến nay
chưa có một công trình nghiên cứu toàn diện, có hệ thống và đầy đủ về
các vấn đề như: những chủ trương, quan điểm của ĐCSVN, Chính phủ
và QĐNDVN về công tác địch vận; bối cảnh tình hình trong từng giai
đoạn của cuộc kháng chiến và tác động của nó tới công tác địch vận; quá
trình tiến hành, những thành tựu, hạn chế của công tác địch vận trong
kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt là những đặc điểm, ý nghĩa và
kinh nghiệm lịch sử của công tác này.
1.3. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu, giải quyết
Trình bày một cách có hệ thống những chủ trương, quan điểm,
chính sách của ĐCSVN, Chính phủ và QĐND Việt Nam về công tác địch
vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Làm rõ bối cảnh tình hình trong từng giai đoạn của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và sự tác động của nó tới công tác địch vận.
Trình bày đầy đủ quá trình tiến hành công tác địch vận, làm rõ
những thành tựu, nêu lên một số hạn chế trong nhận thức và trong quá
trình tiến hành công tác địch vận trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Rút ra đặc điểm, ý nghĩa và một số kinh nghiệm của công tác địch
vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Chương 2
CÔNG TÁC ĐỊCH VẬN TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU KHÁNG CHIẾN
(1945 1950)
2.1. Khái quát công tác địch vận trước cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp
Trong các cuộc chiến tranh giữ nước, cùng với sử dụng sức mạnh
quân sự, dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã coi trọng và tiến hành công tác
địch vận, thực hiện chính sách “tâm công” có hiệu quả. Từ cuộc kháng
chiến chống Tống lần thứ nhất (938), trải qua các triều Lý, Trần, Lê, Tây
Sơn, công tác địch vận đều được sử dụng. Đến Khởi nghĩa Lam Sơn, sách
lược “tâm công” được Lê Lợi, Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn phát
triển đến đỉnh cao, góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc khởi nghĩa.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong phong trào đấu tranh chống
thực dân Pháp, lãnh tụ một số cuộc khởi nghĩa cũng như một số nhà yêu
nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản tiếp tục chú ý đến công tác địch
vận. Tiêu biểu có thể kể đến Phan Bội Châu hay Việt Nam Quốc dân
Đảng.
Ngay từ khi mới thành lập, ĐCSVN đã nhấn mạnh tầm quan trọng
của công tác vận động binh lính trong đội quân xâm lược Pháp. Trong
phong trào cách mạng 19301931 và 19361939, cùng với kêu gọi nhân dân
cả nước vùng dậy chống đế quốc và tay sai, ĐCSĐD nhắc nhở phải hết
sức chú ý đến việc vận động binh lính, vì vậy, nhiều cuộc đấu tranh đã
diễn ra, một số cơ sở trung kiên trong hàng ngũ địch đã được gây dựng.
Trong Cao trào kháng Nhật cứu nước và Tổng khởi nghĩa Tháng Tám
1945, công tác địch vận đã đạt được nhiều thành tích quan trọng, nhiều
chỉ huy binh lính, bảo an binh đã ngả về phía cách mạng; nhiều người
ngoại quốc trong quân đội Pháp đã chạy sang theo Việt Minh. Sự hoạt
động mạnh mẽ và những thành tích của công tác địch vận đã góp phần
quan trọng giành thắng lợi trong Tổng khởi nghĩa, để lại nhiều kinh
nghiệm quý báu, là cơ sở cho công tác địch vận trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp.
2.2. Bước đầu tiến hành công tác địch vận (1945 1947)
Trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và gian khổ
chống thực dân Pháp xâm lược, công tác địch vận được Hội nghị cán bộ
Trung ương (7.1947) xác định: “Tác chiến quan trọng thế nào thì địch vận
cũng cần như thế”.
Quay trở lại xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp huy động một lực
lượng lớn binh lính ÂuPhi gồm 24 quốc tịch khác nhau. Bên cạnh đó là
lực lượng binh lính người Việt với số lượng ngày càng tăng. Khi cuộc
kháng chiến mới nổ ra, lực lượng ÂuPhi là chủ yếu, nên trọng tâm công
tác địch vận lúc đầu tập trung vào đối tượng này với các hình thức như
rải truyền đơn (chú trọng truyền đơn tiếng Pháp, tiếng Đức); gọi loa; kẻ,
vẽ khẩu hiệu; phát hành báo chí. Nội dung tuyên truyền vạch rõ âm mưu
xâm lược của thực dân Pháp, khẳng định cuộc kháng chiến chính nghĩa
của dân tộc Việt Nam nhất định thắng lợi, kêu gọi binh lính địch phản
chiến, đòi hồi hương, đào ngũ tập thể, v.v.
Những ngày đầu kháng chiến, công tác địch vận chưa có cơ quan
chuyên trách lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất. Sau khi Phòng Địch vận thuộc
Cục Chính trịBộ Quốc phòng được thành lập, tháng 6.1947, Nha Thông
tin và Cục Chính trịBộ Quốc phòng thống nhất giao hẳn công tác địch
vận cho quân đội phụ trách. Từ đây, hệ thống chỉ huy địch vận được hình
thành trong toàn quân và cả nước. Trong Chiến dịch Việt BắcThu Đông
1947, các khu 1, 12 và 10 chưa thành lập xong cơ quan địch vận, khiến
công tác này trong chiến dịch chưa hiệu quả.
Cùng với công tác tuyên truyền, vận động và kiện toàn cơ quan địch
vận các cấp, công tác tù, hàng binh cũng được chú trọng. Việt Nam
DCCH thực hiện chính sách đối xử nhân đạo, khoan hồng với tù, hàng
binh. Điều đó được thể hiện trong hàng loạt các văn kiện chỉ đạo kháng
chiến của Đảng, Chính phủ và Quân đội. Việc đối xử tệ bạc, bạc đãi tù,
hàng binh bị tuyệt đối nghiêm cấm. Bộ Tổng chỉ huy còn chỉ thị cho các
đơn vị thực hiện việc thả tù binh. Điều đó đã gây được dư luận tốt trong
binh lính và nhân dân Pháp, giúp họ hiểu rõ hơn chính sách nhân đạo và sự
nghiệp đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam.
Tuy đạt được những thành tích bước đầu nhưng công tác địch vận
trong giai đoạn này vẫn tồn tại một số khuyết điểm, hạn chế như: chưa
tận dụng hết mọi khả năng tiến hành công tác của các lực lượng; một số
nội dung, hình thức tuyên truyền chưa sát thực tế; công tác địch vận chưa
được quan tâm đúng mức, bộ máy cơ quan địch vận chưa hình thành đầy
đủ, có hệ thống thống nhất, v.v.
2.3. Công tác địch vận (1948 1950)
Thất bại trong cuộc tiến công lên Việt Bắc, thực dân Pháp phải
chuyển sang “đánh kéo dài”, thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh
người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, củng cố, bình định những
vùng đã chiếm đóng, xúc tiến mạnh việc lập tề, đẩy mạnh xây dựng
chính quyền thân Pháp và phát triển nhanh đội quân người Việt. Đầu năm
1948, tổng quân số Pháp là 118.000 người, trong đó có 54.000 binh lính
người Việt (chiếm 45%), đến cuối năm 1948, quân số tương ứng là
160.000 người và 75.000 người (chiếm 47%). Trong khi đó, Việt Nam
DCCH ngày càng lớn mạnh về mọi mặt.
Căn cứ vào thành phần đội quân xâm lược Pháp, phương châm địch
vận được đề ra đối với binh sĩ Âu Phi là: tiếp tục nêu cao khẩu hiệu “ưu
đãi tù binh, hàng binh, thương binh, thả tù binh”. Với binh lính người
Việt, ngày 5.11.1948, Cục Chính trịBộ Quốc phòng ra Chỉ thị về cuộc
Tổng phá ngụy binh, xác định công tác tuyên truyền, vận động đối tượng
này là một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất trong giai đoạn
mới. Hình thức, biện pháp tuyên truyền là gọi loa, rải truyền đơn, phát
hành các báo, trực tiếp gặp gỡ gây nhân mối, v.v.
Ngày 22.8.1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương ra Chỉ thị về việc thống nhất công tác địch vận, nêu rõ vai trò,
những khuyết điểm và kinh nghiệm của công tác địch vận trong thời gian
qua và khẳng định: Đảng phải lãnh đạo công tác địch vận. Ngày
13.6.1950, Hội nghị thống nhất địch vận miền Bắc lần thứ ba được tổ
chức, chỉ rõ ba nguyên tắc cơ bản về tổ chức và cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo
đối với công tác địch vận là: 1 Tổ chức địch vận phải đặt dưới quyền
lãnh đạo của Đảng; 2 Người chỉ huy quân sự của Đảng ở mỗi cấp phụ
trách luôn công tác địch vận; hệ thống chỉ huy địch vận nằm trong hệ
thống lãnh đạo, chỉ huy quân sự của Đảng, quân đội là tổ chức chính phát
động và tiến hành công tác địch vận; 3 Tổ chức địch vận quân đội hướng
dẫn và giúp đỡ các cơ quan, đoàn thể tham gia công tác địch vận.
Chủ trương thống nhất địch vận của Đảng đã kịp thời làm cho công
tác địch vận được tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ, hoạt động ngày càng có
hiệu quả, không chỉ là ở các vùng địch hậu mà còn trong cả các chiến
dịch, tiêu biểu như Chiến dịch Biên Giới 1950.
Cùng với vận động binh lính, ta còn vận động cả nhân viên trong
chính quyền địch, đặc biệt là vận động hội tề, với các phong trào phá tề,
trừ gian, tranh thu hội tề hoặc ủng hộ kháng chiến hoặc có thái độ trung
lập, v.v.
Về công tác tù, hàng binh, tháng 5.1948, Chính phủ VNDCCH ra Sắc
lệnh Quy chế người Âu; BTTL ra Chỉ thị về nguyên tắc dùng người
ngoại quốc, với nội dung quy định từ khâu đón tiếp, sử dụng đào binh,
hàng binh đến phân phối vũ khí của họ mang theo khi ra hàng, mở lớp
huấn luyện, v.v.. Hàng binh Âu Phi khi chạy sang hàng ngũ kháng chiến
được lĩnh tiền thưởng, sau đó được đưa về chiêu đãi sở, được tổ chức
sinh hoạt hàng ngày đều đặn, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, được
chăm sóc sức khỏe. Bộ Quốc phòng còn thành lập các đội Commandos,
đội Tell, đội Dina độc lập để quản lý và tổ chức cho hàng binh, đào binh
hoạt động. Một số hội quần chúng ÂuPhi được thành lập để tuyên
truyền, vận động và tập hợp binh sĩ như “Hội những chiến sĩ ngoại quốc
tự do ở Việt Nam”, “Ủy ban hoạt động bắt tay huynh đệ với Quân đội
Việt Minh”, “Chi đội hồi hương”, “Binh sĩ ÂuPhi giải phóng đoàn”, v.v.
Hệ thống các trại tù, hàng binh do Cục Địch vận quản lý cũng từng bước
được hình thành. Trong các trại, vấn đề đãi ngộ, giáo dục, hồi hương tiếp
tục được triển khai.
Trước những tác động của công tác địch vận, thực dân Pháp tìm mọi
cách đối phó, tiến hành nhiều nội dung phản tuyên truyền, tiếp tục những
luận điệu nói xấu, vu khống và xuyên tạc trắng trợn Việt Minh. Mặt
khác, công tác địch vận vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm. Điều đó
đã gây không ít khó khăn, làm hạn chế kết quả. Tuy nhiên, có thể thấy
công tác địch vận vẫn phát triển, bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo, hình thức, nội
dung, phương pháp tiến hành ngày càng phong phú, phù hợp, góp phần
chống phá chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” và chính sách “dùng
người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của thực
dân Pháp.
Chương 3
CÔNG TÁC ĐỊCH VẬN TRONG GIAI ĐOẠN TIẾN CÔNG VÀ
PHẢN CÔNG, KẾT THÚC THẮNG LỢI CUỘC KHÁNG CHIẾN
(1951 1954)
3.1. Công tác địch vận kết hợp với các hoạt động quân sự, phát
triển thế tiến công chiến lược (1951 giữa 1953)
Sau thất bại Biên Giới Thu Đông 1950, thực dân Pháp buộc phải
dựa vào viện trợ Mỹ để tiếp tục chiến tranh; thực hiện Kế hoạch Đờlát,
tăng cường bắt thanh niên người Việt vào lính nhằm giành lại thế chủ
động trên chiến trường. Vì vậy, bên cạnh đội quân viễn chinh Âu Phi,
binh lính người Việt tăng lên nhanh chóng (cuối năm 1951 có 210.000
người, chiếm 62% tổng quân số Pháp).
Trong khi đó, Việt Nam DCCH ngày càng lớn mạnh về mọi mặt,
được nhiều nước XHCN công nhận và giúp đỡ. Từ ngày 11 đến
19.2.1951, Đại hội lần thứ II ĐCS Đông Dương được triệu tập, nhằm
đẩy mạnh hơn nữa cuộc kháng chiến chống Pháp. Trên đà phát triển
mạnh mẽ của cuộc kháng chiến, công tác địch vận tiếp tục phát triển và
giành nhiều thành tích. Trước sự gia tăng nhanh chóng binh lính người
Việt trong quân đội Liên hiệp Pháp, Hội nghị địch vận toàn quốc (8.1951)
ra Nghị quyết xác định công tác vận động binh lính người Việt là nhiệm
vụ trọng yếu nhất. Chủ trương của Việt Nam DCCH và Chủ tịch Hồ Chí
Minh là sẽ khoan hồng với những người sớm quay về với Tổ quốc, trọng
thưởng những người lập công.
Trong các chiến dịch, công tác địch vận xác định phải tập trung đẩy
mạnh tuyên truyền binh lính đối phương, phối hợp chặt chẽ với tác
chiến; tổ chức quản lý, sử dụng tù binh, hàng binh, mạnh dạn thả tù binh.
Trong các chiến dịch Quang Trung, Hòa Bình, Tây Bắc, công tác địch vận
đã được chú trọng và tiến hành có hiệu quả, kể cả việc tuyên truyền và
việc thực hiện chính sách tù, hàng binh.
Tại các vùng tạm chiếm và vùng tranh chấp ở đồng bằng Bắc Bộ,
BìnhTrịThiên, Liên khu 5, Nam Bộ, công tác địch vận cũng phát triển
mạnh mẽ. Ngành địch vận thông qua cấp ủy, chính quyền các địa phương
vận động nhân dân tham gia công tác, tiến hành gọi loa, rải truyền đơn,
gặp gỡ, gây nhân mối trong binh lính người Việt; nêu cao các khẩu hiệu
tuyên truyền. Phong trào đấu tranh chống bắt lính, đòi chồng, đòi con phát
triển mạnh mẽ. Cùng với đó, công tác Âu Phi vận tiếp tục đề cao khẩu
hiệu “Hồi hương quân đội viễn chinh Pháp và hòa bình ở Việt Nam”
nhằm đánh mạnh vào tâm lý chán ghét chiến tranh và nguyện vọng được
trở về Tổ quốc của họ.
Công tác vận động nhân viên trong chính quyền địch, đặc biệt là
chính quyền cơ sở hội tề tiếp tục được đẩy mạnh. Các phong trào đấu
tranh chính trị ở cả nông thôn và thành thị với sự tham gia của đông đảo
nhân dân liên tiếp diễn ra làm cho chính quyền địch lúng túng, nhiều hội
tề bị phá rã hoặc bị vô hiệu hóa, nhiều người ủng hộ kháng chiến.
Về công tác tù, hàng binh, Việt Nam DCCH tiếp tục thực hiện chính
sách nhân đạo, tăng cường nâng cao đời sống vật chất và tinh thần trong
các trại tù, hàng binh, thực hiện thả tù binh, tổ chức cho hàng binh ÂuPhi
hồi hương về các nước dân chủ mới ở châu Âu. Đối với tù, hàng binh
người Việt, ngày 5.10.1952, Chính phủ Việt Nam DCCH ban hành Thông
tư số 208/TTg Về cách đối xử và quản trị đối với tù binh và hàng binh
ngụy, nêu rõ thái độ đối với họ là hoan nghênh, săn sóc chu đáo và giải
phóng sớm cho họ về quê hương. Khi được thả về địa phương, họ được
hưởng mọi quyền công dân, như quyền tự do dân chủ, quyền ruộng đất
do Chính phủ tạm cấp chia cho, v.v… Tuy nhiên trong quá trình thực hiện
chính sách tù, hàng binh, vẫn còn một số hiện tượng chấp hành chưa tốt,
gây khó khăn cho công tác tuyên truyền địch vận. Mặc dù vậy thành tích
vẫn là căn bản, là nền móng cho công tác địch vận giai đoạn tiếp sau.
3.2. Đẩy mạnh công tác địch vận, góp phần kết thúc thắng lợi
cuộc kháng chiến (giữa 1953 7.1954)
Mùa Hè năm 1953, thực dân Pháp thực hiện Kế hoạch Nava, tăng
viện quân viễn chinh, mở rộng khối quân cơ động, ráo riết bắt thanh niên
người Việt vào lính, phát triển phỉ ở vùng rừng núi, càn quét, đánh phá căn
cứ kháng chiến; đẩy mạnh tuyên truyền lừa phỉnh và phản tuyên truyền
nhằm cứu vãn tình thế thất bại đang đến gần.
Cuối tháng 9.1953, Bộ Chính trị họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, bàn nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 19531954, xác định phương
hướng chiến lược và chủ trương tác chiến. Cùng với đó, công tác địch
vận tiếp tục được đẩy mạnh.
Đối với binh lính người Việt, chủ trương của Việt Nam DCCH được
thể hiện rõ trong Chỉ thị số 45/CTTW của BCH Trung ương Đảng Về
chính sách đối với ngụy binh và Nghị quyết Hội nghị địch vận toàn quốc
(4 13.10.1953). Nhiệm vụ năm 1954 là phải đẩy mạnh công tác địch vận
lên một bước, chủ yếu là ngụy vận, đồng thời phải chú trọng Âu Phi
vận.
Thực hiện các chỉ thị, nghị quyết nêu trên, công tác địch vận được
đẩy mạnh ở khắp các địa phương trên cả nước, từ Liên khu 3, Khu Tả
Ngạn sông Hồng, đến Binh Trị Thiên, Liên khu 5, Nam Bộ. Trong chiến
dịch Điện Biên Phủ, công tác địch vận được đặc biệt chú trọng và triển
khai có hiệu quả, kể cả công tác tuyên truyền, vận động và thực hiện
chính sách tù, hàng binh. Trên chiến trường toàn quốc, từ tháng 12.1953
đến tháng 5.1954, theo thống kê chưa đầy đủ, đã có 35.873 binh lính
người Việt bỏ ngũ trở về quê. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, công tác
địch vận tiếp tục được tiến hành, đặc biệt là việc tuyên truyền, thực hiện
chính sách đối với binh lính và nhân viên chính quyền Bảo Đại bỏ hàng
ngũ trở về quê. Trừ bọn phản động gây nhiều tội ác, tất cả đối tượng này
đều được hưởng chính sách khoan hồng, được hưởng quyền công dân,
được chia ruộng đất và tạo điều kiện ổn định cuộc sống. Toàn bộ tù binh
bị bắt trong cuộc kháng chiến chống Pháp nói chung và chiến dịch Điện
Biên Phủ nói riêng, sau một thời gian tập trung ở các trại, tùy theo điều
kiện, hoàn cảnh khác nhau, đã được trao trả cho phía Pháp hoặc tổ chức
cho hồi hương hay ở lại Việt Nam làm ăn, sinh sống theo nguyện vọng.
Chương 4
ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM
4. 1. Đặc điểm
4.1.1. Công tác địch vận trong kháng chiến chống Pháp là sự tiếp
nối truyền thống lịch sử dân tộc, được phát triển lên tầm cao mới
Công tác địch vận được dân tộc Việt Nam tiến hành từ rất sớm trong
các cuộc đấu tranh chống ngoại của dân tộc, trải qua các triều đại phong
kiến Lý, Trần, Lê, Tây Sơn đến các cuộc đấu tranh chống Pháp cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
(3.2.1930), cách mạng Việt Nam chuyển sang một bước ngoặt quan trọng
dưới sự lãnh đạo của một chính Đảng vô sản.
Ngay sau khi Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 thành công, dân tộc
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng phải tiếp tục cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp trở lại xâm lược. Cùng với đấu tranh trên mặt trận
quân sự, công tác địch vận được ĐCS Việt Nam đặc biệt chú trọng và
phát triển lên tầm cao mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống bộ máy
chỉ huy công tác địch vận được hình thành do Quân đội phụ trách. Công
tác địch vận trở thành công tác có tính chất quần chúng rộng rãi với sự
tham gia của toàn quân, toàn dân; hình thức, biện pháp địch vận hết sức
phong phú.
4.1.2. Công tác địch vận do Quân đội phụ trách, có sự tham gia
ngày càng đông đảo của nhiều lực lượng và quần chúng nhân dân, với
nhiều hình thức địch vận phong phú, sáng tạo
Khi mới bước vào cuộc kháng chiến, công tác địch vận còn sơ khai,
tổ chức và lề lối công tác chưa được chấn chỉnh. Cùng với sự lớn mạnh
của cuộc kháng chiến, công tác địch vận ngày càng được chú trọng và
phát triển, được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và có tổ chức địch vận
thống nhất (từ 1949). Người chỉ huy quân sự của Đảng ở mỗi cấp phụ
trách luôn công tác địch vận; hệ thống chỉ huy địch vận nằm trong hệ
thống lãnh đạo, chỉ huy quân sự của Đảng, quân đội là tổ chức chính phát
động và tiến hành công tác địch vận, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các
ngành khác làm địch vận. Dưới sự lãnh đạo của Đảng do Quân đội trực
tiếp phụ trách, càng về cuối cuộc kháng chiến, công tác địch vận ngày
càng có sự tham gia của đông đảo nhân dân với nhiều nội dung, hình thức
phong phú, kết quả ngày càng lớn.
4.1.3. Công tác địch vận phải tiến hành với nhiều đối tượng phức
tạp thuộc nhiều quốc tịch khác nhau
Tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, đạo quân xâm lược Pháp
có thành phần phức tạp, thuộc nhiều quốc tịch khác nhau (thành phần
binh sĩ Âu Phi có đến 24 quốc tịch). Vì vậy, trong công tác tuyên truyền
vận động, ngành địch vận phải sử dụng đến 13 thứ tiếng, trong đó chú
trọng đối tượng lính Pháp, Đức. Ngoài ra còn đối tượng đông đảo là binh
lính người Việt trong quân đội Pháp, trong đó có một bộ phận không nhỏ
là người dân tộc thiểu số, người thuộc các tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau.
Vì vậy, để tiến hành tuyên truyền địch vận có hiệu quả, phải nghiên cứu
kỹ đối tượng, từ đó đề ra những nội dung, hình thức, biện pháp phù hợp.
Đây là nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian,
nhân lực, vật lực để tiến hành công tác ngày càng có hiệu quả.
4.1.4. Công tác địch vận có sự tham gia của nhiều người từ hàng
ngũ đối phương sang theo kháng chiến
Với chính sách khoan hồng, nhân đạo cao cả của Việt Nam, nhiều
người từ hàng ngũ đối phương đã chạy sang hàng ngũ Việt Minh. Họ
được đối đãi tử tế và được trọng dụng vào những công việc thích hợp tùy
vào khả năng của họ. Trong số đó, nhiều người đã trở thành cán bộ Việt
Minh, trực tiếp tham gia công tác địch vận, được tin tưởng giao những
trọng trách quan trọng. Sự tham gia của họ vào công tác địch vận đã có tác
động lớn đến việc tuyên truyền, lôi kéo binh lính địch ngả về phía kháng
chiến. Tiêu biểu trong các “chiến sĩ quốc tế”, “người Việt Nam mới”
tham gia công tác địch vận, đó là: người Đức có Lê Đức Nhân (Rudy
Schroder), Chiến Sĩ (Erwin Borchers); người Hy Lạp có Nguyễn Văn Lập
(Kostas Sarantidis); người Pháp có Lê Thành (Tarrago Jean), v.v… Trong
số họ, có người trở thành đảng viên, được phong tặng danh hiệu Anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.
4.2. Ý nghĩa
4.2.1. Công tác địch vận làm cho tinh thần binh lính quân đội đối
phương sa sút, góp phần cùng tác chiến giành thắng lợi nhanh hơn và
đỡ tốn xương máu
Đại đa số binh lính địch đều là con em nhân dân lao động, nhiều
người vì bị bắt buộc mà phải cầm súng cho địch, tinh thần dễ bị dao động
nên có thể tuyên truyền giác ngộ họ. Bên cạnh đó, nội bộ chúng có nhiều
mâu thuẫn, tinh thần chiến đấu dễ bị dao động, khi đứng trước nguy cơ bị
tiêu diệt, nếu được tuyên truyền kịp thời kết hợp cùng tác chiến, chúng sẽ
nhanh chóng đầu hàng, tan rã. Đặc biệt, khi có áp lực quân sự, việc tuyên
truyền càng mang lại hiệu quả cao vì đó là lúc tinh thần binh lính đối
phương dễ bị sa sút nhất.Các trận Nghĩa Lộ, Ba Khe trong Chiến dịch Tây
Bắc hay trận Bản Kéo trong Chiến dịch Điện Biên Phủ là những ví dụ
tiêu biểu.
4.2.2. Công tác địch vận góp phần làm sáng tỏ và nêu cao chính
nghĩa của cuộc kháng chiến, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân
dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, trong đó có nhân dân Pháp
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam là sự
nghiệp chính nghĩa. Chủ trương, chính sách địch vận của Đảng đúng đắn,
nhân đạo. Vì vậy, thông qua công tác địch vận, nhân dân yêu chuộng hòa
bình trên thế giới, trong đó có nhân dân Pháp hiểu được sự nghiệp chính
nghĩa và chính sách nhân đạo của Việt Nam, ủng hộ Việt Nam kháng
chiến.
4.2.3. Công tác địch vận góp phần quan trọng làm thất bại âm
mưu “dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp
Thực dân Pháp thực hiện âm mưu thâm độc “dùng người Việt đánh
người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, ra sức xây dựng “quân đội
quốc gia” để tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Nhiệm vụ
của quân và dân Việt Nam là phải đập tan âm mưu đó. Công tác địch vận
đã góp phần phá vỡ từng mảng, từng khối binh lính người Việt trong quân
đội Pháp, giúp họ nhận rõ chính nghĩa và quay về với cách mạng. Tính
chung trong cả cuộc kháng chiến, công tác địch vận đã góp phần tổ chức
gần 600 vụ binh biến thắng lợi, vận động 25 vạn binh lính người Việt bỏ
hàng ngũ trở về nhà hoặc đi theo kháng chiến, góp phần to lớn làm thất
bại âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp.
4.3. Một số kinh nghiệm
4.3.1. Xác định đúng vị trí, tầm quan trọng của công tác địch vận
Tiến công chính trị vào hàng ngũ quân đội địch để “không đánh mà
thắng địch” là một kế sách đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng ta đã đề cao công tác địch vận, xác
định: “Tác chiến quan trọng như thế nào thì địch vận cũng cần như thế”.
Chính vì vậy, công tác địch vận luôn được các cấp, các ngành, các đơn vị,
địa phương quan tâm lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện có kết quả. Xác định
đúng vị trí, tầm quan trọng của công tác địch vận ngay từ đầu và trong
suốt cuộc kháng chiến là một trong những kinh nghiệm quý báu, đồng
thời là nguyên nhân thành công của công tác này trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp.
4.3.2. Công tác địch vận được tiến hành dưới sự lãnh đạo trực
tiếp, thống nhất của Đảng
Xuất phát từ quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
công tác địch vận là một bộ phận công tác vận động cách mạng của
Đảng, vì vậy, tiến hành công tác địch vận là trách nhiệm của mọi cấp,
mọi ngành, của cả hệ thống chính trị, của toàn quân và toàn dân, trong đó
vai trò nòng cốt là cơ quan địch vận quân đội. Để đảm bảo công tác địch
vận luôn đi đúng hướng và phát huy được sức mạnh tổng hợp của các
mặt đấu tranh, của nhiều lực lượng, trong từng thời kỳ, Đảng phải có cơ
chế chỉ đạo và tổ chức thực hiện thống nhất, có hiệu quả: Hệ thống các
cơ quan địch vận từ Trung ương đến cơ sở phải hoạt động nhịp nhàng,
thống nhất theo một chủ trương, một kế hoạch đã xác định. Có như vậy,
mới có sự liên kết chặt chẽ của các cấp, các ngành với nhiều hoạt động
khác nhau, từ đó tạo thành sức mạnh tổng hợp tiến công vào hàng ngũ kẻ
thù. Các cơ quan địch vận phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy
cùng cấp và sự chỉ đạo thường xuyên của người chỉ huy và cơ quan ngành
dọc cấp trên.
Trong suốt quá trình lãnh đạo toàn quân, toàn dân tiến hành cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ĐLĐVN luôn quan tâm đến
công tác địch vận, xác định đó là một nhiệm vụ quan trọng mang tầm
chiến lược của Đảng, của toàn quân, toàn dân. Tùy vào điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể, Trung ương Đảng đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết đề cập
đến công tác địch vận, chỉ đạo toàn quân, toàn dân làm địch vận.
4.3.3. Nghiên cứu kỹ đặc điểm đối tượng, đề ra chủ trương, biện
pháp đúng đắn, phù hợp, huy động và tổ chức nhiều lực lượng tham
gia công tác địch vận
Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Công tác địch
vận là công tác vận động cách mạng nên phải huy động quần chúng tham
gia.
Trong suốt cuộc kháng chiến, căn cứ vào đặc điểm từng đối tượng
binh lính như Pháp, Đức, Áo, Phi, v.v… công tác địch vận được tiến hành
thường xuyên với nhiều hình thức, biện pháp ngày càng phong phú và đạt
hiệu quả ngày càng cao, với sự tham gia của đông đảo nhân dân. Nếu chỉ
bộ đội hoặc cán bộ, đảng viên thì không thể tiến hành các đợt hoạt động
mạnh mẽ, rộng khắp được. Chỉ có sự tham gia của đông đảo nhân dân,
với nhiều hình thức, biện pháp phong phú, với nhiều mối quan hệ gia
đình, họ hàng thân thiết với binh sĩ địch, mới có thể hoạt động sâu rộng
khắp mọi nơi, mọi lúc, liên tiếp tiến công vào hàng ngũ địch. Sớm nhận
thức được vấn đề, ĐCSVN đã thường xuyên coi trọng và có những chủ
trương, biện pháp tích cực, sáng tạo, huy động, tổ chức và lãnh đạo toàn
quân, toàn dân tiến hành công tác địch vận. Đây là một trong những bài
học quan trọng, là nhân tố đưa đến sự thành công của công tác địch vận
trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
4.3.4. Công tác địch vận phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh
quân sự và các mặt đấu tranh khác, đồng thời phải gắn chặt với công
tác dân vận
Kết hợp tác chiến với địch vận là một nguyên tắc chỉ đạo chiến lược
trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và là nét đặc sắc của nghệ
thuật quân sự Việt Nam. Tiến công quân sự tạo thời cơ quan trọng cho
công tác địch vận, nhưng nếu thiếu đòn tiến công về chính trị thì việc
giành thắng lợi về quân sự sẽ gặp khó khăn hơn, tổn thất có thể lớn hơn,
thậm chí có thể để lại hậu quả lâu dài. Khi thời cơ thuận lợi, tiến hành
công tác địch vận sẽ vừa đỡ tốn xương máu cho cả hai bên, vừa làm tăng
ý nghĩa chiến thắng của quân đội cách mạng.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, công tác địch vận còn
kết hợp chặt chẽ với đấu tranh ngoại giao và công tác dân vận. Địch vận
và dân vận là hai công tác có liên quan khăng khít, muốn địch vận có kết
quả, công tác dân vận phải đi trước một bước. Làm tốt công tác dân vận,
phát triển mạnh mẽ phong trào đấu tranh chính trị, sẽ tác động trực tiếp
đến tinh thần, tư tưởng quân đội địch, đồng thời huy động được lực
lượng nhân dân đông đảo và hăng hái làm địch vận. Ngược lại, địch vận
tốt sẽ làm suy yếu địch, hạn chế sự khủng bố, đàn áp của chúng, có tác
dụng giữ gìn, bảo vệ, thúc đẩy phong trào nhân dân, thậm chí còn lôi kéo
được cả binh lính địch đồng tình, ủng hộ, tham gia, tạo thêm sức mạnh
cho đấu tranh chính trị.
1
KẾT LUẬN
1. Kế thừa truyền thống đánh giặc bằng “tâm công” trong lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược (19451954), công tác địch vận được ĐCSĐD (từ
năm 1951 đổi tên là ĐLĐVN) xác định có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng
và lãnh đạo toàn quân, toàn dân triển khai thực hiện có hiệu quả, giành
nhiều thắng lợi ngày càng lớn.
Ngay khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ ở Nam Bộ
(23.9.1945), công tác địch vận đã được tiến hành nhưng còn đơn giản và
chưa có sự phối hợp rộng rãi. Nhận thức rõ điều đó, sau ngày toàn quốc
kháng chiến, ĐCSĐD đặc biệt quan tâm đến công tác địch vận, liên tục
đề ra nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện. Công
tác địch vận nhanh chóng được Đảng xác định là mũi tiến công chiến lược
bên cạnh mũi tiến công quân sự, để toàn quân, toàn dân nhận rõ vị trí, tầm
quan trọng của công tác này.
Với chủ trương đúng đắn của Đảng, sự tham gia tích cực của các
cấp, các ngành và đông đảo nhân dân, trong đó quân đội là nòng cốt, với
nhiều biện pháp, hình thức, phong phú, linh hoạt, công tác địch vận đã góp
phần thức tỉnh lương tri của một bộ phận binh lính Âu Phi và binh lính
người Việt trong quân đội Pháp, từ đó họ có những hành động, hoặc bỏ
hàng ngũ sang theo Việt Minh, trở về nhà làm ăn, đầu hàng trong một số
trận đánh, hoặc có những hành động ủng hộ kháng chiến, v.v. Kết quả đó
đã góp phần quan trọng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp.
2. Công tác địch vận trong kháng chiến chống Pháp là sự tiếp nối
truyền thống nhân văn, nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Trong suốt lịch
sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam luôn phải
đối mặt với các thế lực bành trướng, ngoại xâm lớn mạnh hơn gấp nhiều
lần để giành lại và giữ yên bờ cõi. Chính vì vậy, hơn ai hết, Việt Nam
2
luôn mong ước hòa bình cho dân tộc mình và cho các dân tộc khác. Khi có
nguy cơ chiến tranh thì làm hết sức mình để tránh chiến tranh trên cơ sở
giữ vững độc lập, chủ quyền. Khi buộc phải chiến đấu bảo vệ độc lập,
chủ quyền thì không nề gian khổ, hi sinh, quyết tâm giành và giữ cho
được độc lập. Đồng thời, trong quá trình tổ chức chiến tranh, dân tộc
Việt Nam luôn tìm cách hạn chế đến mức thấp nhất sự tổn thất xương
máu không cần thiết cho cả hai bên trong những điều kiện có thể. Thực
hiện sách lược “tâm công” trước kia, công tác địch vận sau này, chính là
để thực hiện mục đích nhân văn, nhân đạo cao cả đó. Các cuộc kháng
chiến chống Tống thời Lý, chống Mông, Nguyên thời Trần, đặc biệt là
Khởi nghĩa Lam Sơn chống Minh đã thể hiện rõ điều đó.
Đến kháng chiến chống thực dân Pháp (19451954), Đảng, Chính
phủ, Quân đội và Nhân dân Việt Nam đã tiếp nối truyền thống của dân
tộc, chú trọng tiến hành công tác địch vận, kết hợp công tác địch vận với
công tác dân vận và ngoại giao, tranh thủ những cơ hội hòa bình dù là nhỏ
nhất để kết thúc chiến tranh, thậm chí là kết thúc từng trận đánh, từng
chiến dịch. Khi kẻ thù lâm vào tình thế nguy khốn, QĐNDVN không tiếp
tục truy sát mà kêu gọi họ đầu hàng, vừa để nhanh chóng có thể kết thúc
cuộc chiến đấu, vừa làm giảm tổn thất xương máu của cả hai bên khi thế
trận đã rõ ràng.
Bên cạnh đó, VNDCCH luôn nhất quán chủ trương đối xử khoan
hồng, nhân đạo với tù, hàng binh, thậm chí, còn thực hiện thả tù binh.
Trong điều kiện hết sức khó khăn, điều kiện sinh hoạt của cán bộ, chiến
sĩ QĐNDVN vẫn còn thiếu thốn, nhưng quân và dân Việt Nam vẫn tạo
điều kiện tốt nhất có thể về chỗ ăn, ở cho tù, hàng binh, có quy định rõ
ràng về tiêu chuẩn ăn, mặc đối với họ, những người bị thương hay đau
ốm được cứu chữa, chăm sóc tử tế. Chính vì vậy, nhiều tù, hàng binh
Pháp đã thay đổi thái độ, tham gia các hoạt động ủng hộ cuộc kháng chiến
chính nghĩa của Việt Nam. Thậm chí, nhiều người trở thành cán bộ Việt
Minh và có đóng góp cho sự nghiệp kháng chiến một điều vô cùng đặc