Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Mô hình thị trường có sự tham gia của nhà sản xuất, thương buôn và người tiêu dùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.08 KB, 6 trang )

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 3/2014

THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC

MÔ HÌNH THỊ TRƯỜNG CÓ SỰ THAM GIA
CỦA NHÀ SẢN XUẤT, THƯƠNG BUÔN VÀ NGƯỜI TIÊU DÙNG
EQUILIBRIUM MECHANISM WITH SIMULTANEOUSLY CONSIDERATION
PRODUCERS, TRADERS AND CONSUMERS IN THE MARKET
Trần Công Tài1
Ngày nhận bài: 21/3/2014; Ngày phản biện thông qua: 15/5/2014; Ngày duyệt đăng: 13/8/2014

TÓM TẮT
Khi thị trường có sự tham gia đồng thời của nhà sản xuất, thương buôn và người tiêu dùng thì thương buôn sẽ mua
hàng từ nhà sản xuất, nhờ đó mà thị trường thương buôn được hình thành. Sau đó, thương buôn bán hàng lại cho người
tiêu dùng, nhờ đó mà thị trường tiêu dùng cũng được hình thành. Cho nên, mô hình thị trường này phải có 2 điểm cân bằng:
cân bằng trên thị trường thương buôn và cân bằng trên thị trường tiêu dùng
Dựa trên quy luật cung - cầu và lý thuyết tối đa hóa lợi nhuận, bài viết đã xây dựng được mô hình thị trường có sự
tham gia của nhà sản xuất, thương buôn và người tiêu dùng. Đồng thời, nó cũng xác định được 2 điểm cân bằng của loại
thị trường này. Mô hình thị trường có 2 điểm cân bằng là mô hình rất phổ biến trong thực tế. Tuy nhiên, trong các bài giảng
được Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép giảng dạy chỉ đề cập đến thị trường có một điểm cân bằng
Từ khóa: thương buôn, cung - cầu thương buôn, thị trường thương buôn, hai điểm cân bằng

ABSTRACT
As simultaneously consideration of manufacturers, traders and consumers in the market, the traders will purchase
goods from the manufacturers and that forms wholesale market. In the next stage, traders sell the goods to consumers, so
retail market is formed. As a result, there are two equilibria in such mechanism, one equilibrium in the merchant market
and the other side in the consumer market. Dual equilibria mechanism is very common in reality. However, microeconomics
teaching programs are often focused on one side of equilibrium.
On the ground of supply and demand law and profit maximization theory, this paper constructed a model with the


simultaneously participation of producers, traders and consumers in the market. In addition, the study also identified two
types of equilibrium of this market.
Keywords: merchant, demand - supply traders, wholesale market, equilibria

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Có nhiều quan điểm cho rằng mức giá cả và
sản lượng cân bằng trên thị trường được hình
thành từ mối quan hệ giữa cung của nhà sản xuất
và cầu của người tiêu dùng. Nhưng trong thực tế,
người tiêu dùng hiếm khi mua hàng hóa trực tiếp từ
nhà sản xuất, nên điểm cân bằng trên cũng ít khi
tồn tại. Hầu hết, người tiêu dùng mua hàng thông
qua thương buôn và hình thành nên thị trường tiêu
dùng. Đồng thời, thương buôn mua hàng từ nhà
sản xuất và hình thành nên thị trường thương buôn.
Như vậy, khi thị trường có sự tham thương buôn sẽ

1

có 2 điểm cân bằng: một là điểm cân bằng của thị
trường thương buôn và hai là điểm cân bằng của
thị trường tiêu dùng. Trong thực tế, giá cả cân bằng
của thị trường thương buôn thường là nhỏ hơn giá
cả cân bằng của thị trường tiêu dùng. Đây là loại thị
trường rất phổ biến trong thực tế
Bài viết này sử dụng các quy luật cung - cầu
của thị trường và lý thuyết tối đa hóa lợi nhuận để
xác định cung - cầu của thương buôn. Từ đó, bài
viết xây dựng mô hình thị trường có sự tham gia
đồng thời của nhà sản xuất, thương buôn và người

tiêu dùng. Dựa vào mô hình trên, bài viết xác định

ThS. Trần Công Tài: Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 71


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
được 2 điểm cân bằng của thị trường tiêu dùng và thị
trường thương buôn. Mục đích chung nhất của bài viết
này là nhằm đưa các mô hình lý thuyết trong trường
Đại học về gần thực tế sản xuất kinh doanh hơn
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mô hình thị trường được nghiên cứu ở đây là
mô hình thị trường phổ biến trong thực tế sản xuất
kinh doanh, có sự tham gia đồng thời của nhà sản
xuất, thương buôn và người tiêu dùng. Bài viết này
nghiên cứu cả 2 loại thương buôn: độc quyền và
cạnh tranh hoàn hảo
Các lý thuyết và giả thuyết dưới đây là những
lý thuyết và giả thuyết phổ quát trong các tài liệu và
các giáo trình được bộ Giáo dục và Đào tạo công
nhận và cho phép giảng dạy ở các trường đại học.
Bài viết sử dụng lý thuyết tối đa hóa lợi nhuận và qui
luật cung - cầu của thị trường để làm cơ sở khoa
học cho việc nghiên cứu. Và các giả thuyết đó là:
(a) Hàng hóa của thương buôn được mua từ
người sản xuất để bán lại cho người tiêu dùng với
mục tiêu kiếm lời, mà lý tưởng là lợi nhuận lớn nhất.
Để đơn giản hóa cho việc nghiên cứu, giả định trong

thị trường có nhiều người tiêu dùng cạnh tranh mua
và nhiều người sản xuất cạnh tranh bán, thương
buôn là độc quyền và sau đó suy rộng ra thương
buôn là những người cạnh tranh mua và bán.
(b) Chi phí biến đổi bình quân của thương buôn
chính là giá mua hàng hóa.
(c) Cung của người sản xuất và cầu của người
tiêu dùng là những hàm tuyến tính, và sau đó là hàm
phi tuyến.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Xác định cung và cầu của thương buôn
Nếu “Cầu là lượng một mặt hàng mà người
mua muốn mua ở mỗi mức giá chấp nhận được” và
“Cung là lượng một mặt hàng mà người bán muốn
bán ở mỗi mức giá chấp nhận được” [1] thì thương
buôn vừa có cung, vừa có cầu. Vì, họ muốn mua và
cũng mong bán được một mặt hàng nào đó.
Dựa vào các giả thiết trên thì lợi nhuận (Π) của
thương buôn sẽ là:

Π= PU*Q – PI*Q – FC

Trong đó: PU là giá bán ra và PI là giá mua vào
của thương buôn, Q là sản lượng hàng hóa và FC
là chi phí cố định.
1.1. Khi hàm cung của người sản xuất và cầu của
người tiêu dùng có dạng tuyến tính
Ban đầu để đơn giản hóa, giả sử hàm số
cung của người sản xuất có dạng: PS = c.Q + d và


72 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

Số 3/2014
hàm số cầu người tiêu dùng có dạng: PD = a.Q + b.
Trong đó:
PS là hàm số cung của người sản xuất và PD là
hàm số cầu của người tiêu dùng. Tương ứng, đó
cũng chính là giá bán của người sản xuất và giá
mua của người tiêu dùng;
Q là sản lượng hàng hóa;
a, b, c và d là các hằng số.
Vì giá bán PS của người sản xuất cũng chính
là giá mua vào PI của thương buôn và giá mua PD
của người tiêu dùng cũng chính là giá bán ra PU của
thương buôn. Nghĩa là PI = PS và PD = PU. Cho nên:

Π = PD*Q – PS*Q – FC

Nếu thương buôn muốn lợi nhuận đạt tối đa thì
đạo hàm Π theo Q phải bằng 0. Như vậy:

Π’ = (PD*Q – PS*Q – FC)’ (*)
Khi cung - cầu là những hàm tuyến tính thì:

Π’= 2a.Q + b - 2c.Q - d = 0 => Q = (b - d )/2(c - a) (1)
Đây là mức sản lượng mua vào và bán ra
tương ứng với mức tối đa hóa lợi nhuận của
thương buôn. Vì lợi nhuận của mình, các thương
buôn không có động cơ thay đổi sản lượng mua
bán. Cho nên, đây là trạng thái cân bằng của thị

trường. Mức sản lượng mua vào và bán ra của
thương buôn cân bằng nhau QT, có thể gọi đây là
sản lượng cân bằng của thị trường. Như vậy, từ (1)
có thể suy ra:
c.Q + d = (2a – c). Q + b => PI = (2a – c). Q + b
Nếu gọi cầu của thương buôn là lượng một mặt
hàng mà thương buôn muốn mua tương ứng ở mỗi
mức giá thì cầu của thương buôn sẽ là:
PI = (2a – c). Q + b (2)
Cũng từ (1) có thể suy ra:
a.Q + b = (2c – a). Q + d => PU = (2c – a).Q + d
Nếu gọi cung của thương buôn là lượng một
mặt hàng mà thương buôn muốn bán tương ứng ở
mỗi mức giá thì cung của thương buôn sẽ là:
PU = (2c – a).Q + d (3)
1.2. Khi hàm cung của người sản xuất và cầu của
người tiêu dùng có dạng phi tuyến
Tùy theo giá trị cụ thể của các hàm số này và
dựa cách tính được đề xuất ở trên sẽ xác định được
cung - cầu của thương buôn một cách cụ thể, riêng
biệt theo (*):
Π’ = (PD*Q – PS*Q – FC)’ = 0
Trong đó: PD và PS là những hàm phi tuyến.
Hàm số cung của người sản xuất được hình
thành độc lập với hàm số cầu của người tiêu dùng.
Nhưng, cung và cầu của thương buôn phụ thuộc
vào hàm số cung của người sản xuất và cầu của


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản


Số 3/2014

người tiêu dùng. Hàm số cung của người sản xuất
hoặc/và hàm số cầu của người tiêu dùng thay đổi
thì hàm số cung và cầu của thương buôn cũng sẽ
thay đổi theo
2. Xây dựng mô hình cung - cầu của thị trường
có sự tham gia đồng thời của nhà sản xuất,
người tiêu dùng và thương buôn
Biểu diễn tất cả cung và cầu trên lên cùng một
đồ thị. Trong đó:
- Cung của người sản xuất được biển diễn bởi
đường S;
- Cung của các thương buôn được biển diễn
bởi đường ST;
- Cầu của các thương buôn được biển diễn bởi
đường DT;
- Cầu của người tiêu dùng được biển diễn bởi
đường D;

Hình 1. Mô hình cung - cầu của thị trường có sự tham gia
đồng thời của thương buôn

Mô hình cung – cầu của thị trường có sự tham
gia đồng thời của người sản xuất, người tiêu dùng
và thương buôn bao gồm 2 mô hình thị trường
cụ thể:
- Mô hình thị trường tiêu dùng được hình thành
dựa vào mối quan hệ giữa đường cung của thương

buôn với đường cầu của người tiêu dùng

- Mô hình thị trường thương buôn được hình
thành dựa vào mối quan hệ giữa đường cung của
người sản xuất với đường cầu của thương buôn.
3. Xác định điểm cân bằng thị trường có sự tham
gia của nhà sản xuất, thương buôn và người
tiêu dùng
Khi không có sự tham gia của thương buôn
thì điểm cân bằng của thị trường được xác định tại
điểm giao nhau của đường cung người sản xuất với
đường cầu của người tiêu dùng. Điểm cân bằng này
là điểm E, với QE là sản lượng cân bằng và PE là giá
cả cân bằng của thị trường.
Khi có sự tham gia của thương buôn thì thị
trường sẽ có 2 điểm cân bằng:
- Điểm cân bằng của thị trường tiêu dùng khi
có sự tham gia của thương buôn được xác định tại
điểm giao nhau của đường cung thương buôn với
đường cầu của người tiêu dùng. Điểm cân bằng này
là ET, với QT là sản lượng cân bằng và PU là giá cả
cân bằng của thị trường này (PT = PU).
- Điểm cân bằng của thị trường thương buôn
được xác định tại điểm giao nhau của đường cầu
thương buôn và đường cung của người sản xuất.
Tương ứng với mức sản lượng QT và giá mua vào của
thương buôn là PI, cũng chính là giá bán ra của người
sản xuất. Lúc này, giá bán ra của thương buôn là PU.
So sánh mức sản lượng và giá cả cân bằng
giữa 2 loại thị trường:

- Mức sản lượng cân bằng QT của thị trường
có sự tham gia của thương buôn thấp hơn mức sản
lượng cân bằng QE của thị trường không có sự tham
gia của thương buôn. Thật vậy:
QT = (b – d)/2(c – a) nhỏ hơn QE = (b – d)/(c – a).
- Giá cả cân bằng PU của thị trường có sự tham
gia của thương buôn lớn hơn giá cả cân bằng PE
của thị trường không có sự tham gia của thương
buôn. Nhưng giá mua vào PI của thương buôn lại
thấp hơn PE (bảng 1).

Bảng 1. So sánh các mức giá cả và sản lượng cân bằng giữa hai mô hình thị trường
Mô hình thị trường

Thị trường
không có sự
tham gia của
thương buôn

Thị trường có
sự tham gia của
thương buôn

Thành phần

Điểm cân bằng

Thị trường chỉ có nhà sản
xuất và người tiêu dùng


Sản lượng: QE

Thị trường tiêu dùng (Thị
trường thương buôn và
người tiêu dùng)

Sản lượng: QT

Thị trường thương buôn
(Thị trường nhà sản
xuất và thương buôn)

Sản lượng: QT

Giá cả: PE

Giá cả: PU

Giá cả: PI

So sánh giữa hai mô hình thị trường

Giá mua của người tiêu dùng bằng giá bán
của nhà sản xuất: PE
Sản lượng mua của người tiêu dùng bằng
sản lượng bán của nhà sx: QE
Giá mua của người tiêu dùng cao hơn:
PU > PE
Sản lượng mua của người tiêu dùng thấp
hơn: QT < QE

Giá bán của người sản xuất thấp hơn:
PI < PE
Sản lượng bán của người sản xuất cũng thấp
hơn: QT < QE

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 73


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
4. Minh chứng
4.1. Minh chứng 1
Để minh chứng tính tương đồng của kết quả
trong nghiên cứu này với kết quả của các tình
huống đã được dạy trong các trường Đại học, bài
viết sử dụng tình huống thứ 19, trong 28 Tình huống
kinh tế vi mô [2].
Một xí nghiệp có vị trí độc quyền đơn phương
đứng trước một hàm số cầu có dạng:
P = -3/100*Q + 10…
Nhà độc quyền biết rằng ông ta có thể cung ứng
sản phẩm cho thị trường bằng cách nhập sản phẩm
của nước ngoài. Chẳng hạn, ông ta có thể nhập
những khối lượng đủ để thỏa mãn cho thị trường,
vói giá mua (giá nhập) ổn định P = 6,5. trong trường
hợp này, nhà độc quyền sẽ phải bán sản phẩm với
giá nào nếu ông muốn tối đa hóa lợi nhuận?...
BÀI GIẢI
Bây giờ chúng ta xem xét một khả năng khác,
khả năng xí nghiệp mua sản phẩm để cung ứng cho
thị trường tốt hơn là tự sản xuất sản phẩm để cung

ứng. Nếu giá mua ổn định và bằng 6,5 thì đối với
xí nghiệp, mức giá này biểu thị đồng thời chi phí
biên và chi phí khả biến trung bình của xí nghiệp. áp
dụng quy tắc tối đa hóa lợi nhuận: MR = MC
-3/50*Q + 10 = 6,5 => Q = 58,33
Thế trị số này của Q vào hàm số cầu ta tính
được giá bán:
P = -3/100(58,33) + 10 = 8,25 => P = 8,25
Vấn đề “nhà độc quyền sẽ phải bán sản phẩm
với giá nào nếu ông muốn tối đa hóa lợi nhuận” đã
được giải quyết.
Dưới đây sẽ là cách giải quyết dựa theo mô
hình nghiên cứu ở bài viết này. Nhưng kết quả của
2 cách này là như nhau:
Vì không sản xuất, nhà độc quyền này trở thành
một thương buôn. Cho nên, chúng ta phải xác định
hàm số cung và hàm số cầu của thương buôn:
Hàm số cung của người bán ở nước ngoài có
dạng là: PS = c.Q + d và hàm số cầu của người tiêu
dùng cũng có dạng là: PD = a.Q + b mà cụ thể là:
PS = 6,5 và PD = -3/100*Q + 10. Trong đó: a = -3/100,
b = 10, c = 0 và d = 6,5.
Dựa vào kết quả của nghiên cứu này, ta có:
- Cầu của thương buôn là: PI = (2a – c). Q + b
= [(-6/100) – 0]Q + 10 = -3/50*Q + 10;
- Cung của thương buôn là: PU = (2c – a).Q + d
= [0- (-3/100)]Q + 6,5 = 3/100*Q + 6,5.
Dựa vào kết quả nghiên cứu của mô hình, ta có:
- Điểm cân bằng của thị trường tiêu dùng:
PD = PU => -3/100*Q + 10 = 3/100*Q + 6,5 =>

Q = 58,33; P = 8,25

74 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

Số 3/2014
- Điểm cân bằng của thị trường thương buôn:
PI = PS => -3/50*Q + 10 = 6,5 => Q = 58,33; P = 6,5
Kết quả kiểm chứng cho thấy tính chính xác của
mô hình nghiên cứu.
4.2. Minh chứng 2
Để minh chứng tính mới của mô hình nghiên
cứu, bài viết sử dụng tình huống thứ 16, trong 28
Tình huống kinh tế vi mô [2].
“Chúng ta hãy khảo sát một số tình huống thị
trường trong đó có 80 người mua và 60 nhà sản xuất.
Hàng hóa trên thị trường này là hoàn toàn đồng nhất
những người mua không có lý do gì để chuộng hàng
của người bán này hoặc của người bán khác. Tính
chất đơn giản của sản phẩm làm cho những người
bán mới muốn gia nhập vào thị trường lúc nào cũng
được. Mặt khác giá cả được niêm yết, thành ra mọi
người, kể cả người bán người mua, đều hoàn toàn
được thông tin về giá cả thực tế của thị trường.
Chúng ta chấp nhận tất cả những người mua
đều có chung một hàm cầu:
P = -20q + 164
Và hiện thời tất cả các xí nghiệp có mặt trên thị
trường đều có chung một hàm số tổng chi phí mà
người ta đã thiết lập được như sau:
TC = 3q2 + 24q

Yêu cầu 1: Thiết lập hàm sô cầu của thị trường;
Yêu cầu 2: Thiết lập hàm số cung của thị trường;
Yêu cầu 3: Mức giá quân bình của thị trường là
bao nhiêu? Và mức sản lượng thực sự do mỗi nhà
sản xuất bán được là bao nhiêu?
Yêu cầu 4: Lợi nhuận hiện thời của mỗi nhà sản
xuất là bao nhiêu?
BÀI GIẢI
Trong trường hợp này, chúng ta có thể coi như
những điều kiện truyền thống của một thị trường
cạnh tranh thuần túy và hoàn hảo đã hội đủ: nguyên
tử tính (atomicité), đồng nhất tính (homogénéité)
loãng tính (fluidité) và tính trong suốt (stransparence). Giá cả do thị trường ấn định, xí nghiệp phải
chấp nhận giá thị trường như một dữ kiện khách
quan, xí nghiệp không có ảnh hưởng trên giá”.

Hình 2. Giá cả và sản lượng cân bằng


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 3/2014

Các kết quả tính toán trong phần bài giải của
tình huống trên đã xác định được:
- Hàm cầu của những người tiêu dùng:
P = -1/4Q + 164;
- Hàm cung của những người sản xuất:
P = 1/10Q + 24;
- Giá cả cân bằng của thị trường là PE = 64;


- Lượng hàng hóa cân bằng của thị trường là
QE = 400;

- Lượng bán ra của mỗi nhà sản xuất là
q = 6,67;
- Và lợi nhuận của mỗi nhà sản xuất là

Π= 133,33.
Nhưng, trong thực tế người tiêu dùng hiếm khi
mua hàng từ người sản xuất, mà họ thường mua
trực tiếp từ thương buôn. Cho nên, khi có thương
buôn tham gia vào thị trường thì những kết quả trên
đã bị thay đổi, như sau:
Thay những số liệu của hàm số cung người sản
xuất và cầu của người tiêu dùng vào (2) và (3) ta có:
- Cung của thương buôn:
PU = (2c – a).Q + d => PU = (9/20)Q + 24

- Cầu của thương buôn:

PI = (2a – c). Q + b => PI = - (3/5)Q + 164

Như vậy:

- Điểm cân bằng của thị trường tiêu dùng:
PD = PU => QT = 200; PT = 114;

- Điểm cân bằng của thị trường thương buôn:
PI = PS => QI = 200; PI = 44.


Thật vậy: Cung của thương buôn giao với cầu
của người tiêu dùng, chúng ta sẽ xác định giá cả
cân bằng PT = PU = 114 và sản lượng cân bằng của
thị trường QT = 200.

Tương tự, cầu của thương buôn giao với cung

của người sản xuất, ta có giá mua vào của thương
buôn PI = 44 và sản lượng cũng là 200. Đây cũng

chính là giá bán ra PS của người sản xuất cho
thương buôn.

Dựa vào cách tính của tình huống trên, nếu mỗi
người sản xuất có thể sản xuất với mức sản lượng:
q = 3,34 thì lợi nhuận của mỗi người sản xuất chỉ
còn lại Π= 33,34. Lợi nhuận này nhỏ hơn lợi nhuận
khi thị trường không có sự tham gia của thương
buôn là Π = 133,33.
Các kết quả trên được biểu diễn trên cùng đồ
thị (hình 3).

Hình 3. Giá cả và sản lượng cân bằng của thị trường
khi có sự tham gia của thương buôn

Các kết quả tính toán ở tình huống kinh tế vi mô
này phù hợp với mô hình đang nghiên cứu. Sự phù
hợp đó là:
- Giá mua của người tiêu dùng ở thị trường

không có sự tham gia của thương buôn thấp hơn
giá mua của người tiêu dùng ở thị trường có sự
tham gia của thương buôn:
PE = 64 < PU = 114
- Sản lượng mua của người tiêu dùng ở thị
trường không có sự tham gia của thương buôn
cao hơn sản lượng mua của người tiêu dùng ở thị
trường có sự tham gia của thương buôn:
QE = 400 > QT = 200
- Giá bán của người sản xuất ở thị trường
không có sự tham gia của thương buôn thấp hơn
giá bán của người sản xuất ở thị trường có sự tham
gia của thương buôn:
PI = 44 < PE = 64
- Sản lượng bán của người sản xuất ở thị trường
không có sự tham gia của thương buôn cũng ít hơn
sản lượng bán của người sản xuất ở thị trường có
sự tham gia của thương buôn:
QT = 200 < QE = 400
Kết quả kiểm chứng 2 cho thấy: Nếu có thương
buôn tham gia vào thị trường thì điểm cân bằng của
thị trường tiêu dùng thay đổi theo chiều hướng gây
tổn thất cho xã hội. Hướng đó là giá cân bằng của thị
trường tiêu dùng tăng và sản lượng tương ứng giảm.
Khi thương buôn là cạnh tranh mua và bán: Dựa
vào kết quả nghiên cứu mô hình thị trường có một
thương buôn độc quyền, chúng ta có thể đơn giản
suy ra hành vi của thị trường khi có nhiều thương
buôn tham gia cạnh tranh mua và cạnh tranh bán
sản phẩm. Trong thị trường này, đường cung và cầu

của thương buôn sẽ ít dốc hơn, khoảng cách (PU PI) sẽ nhỏ dần, sản lượng trên thị trường tăng lên.
Sản lượng này sẽ ngừng tăng lên và cân bằng khi
lợi nhuận kinh tế bằng không:

Π = PU*Q – PI*Q – n.fc = 0 (4)
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 75


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Vì các thương buôn là cạnh tranh hoàn hảo nên
họ có quy mô tương đồng nhau, vì vậy mà chi phí cố
định của họ cũng giống nhau và đều bằng fc, với n
là số lượng thương buôn. Lúc này, sản lượng và giá
cả mua vào và bán ra được cân bằng trên thị trường
thương buôn cạnh tranh hoàn hảo. Đó là:
Từ (4) => Q = n.fc /(PU - PI)
IV. KẾT LUẬN
Thị trường có sự tham gia của nhà sản xuât,
thương buôn và người tiêu dùng là loại thị trường
phổ biến trong thực tế. Đó là loại thị trường có 2 bên
cung là người sản xuất và thương buôn, có 2 bên cầu
là thương buôn và người tiêu dùng. Cho nên, trong
thị trường này không những phải xác định được
cung của người sản xuất, cầu của người tiêu dùng
mà còn phải xác định được cung - cầu của thương
buôn. Thị trường này bao gồm 2 thị trường cụ thể
là thị trường thương buôn là cung của người sản
xuất quan hệ với cầu của thương buôn và thị trường

Số 3/2014

tiêu dùng là cung thương buôn quan hệ cầu người
tiêu dùng. Vì vậy, loại thị trường có sự tham gia của
thương buôn có sẽ có 2 điểm cân bằng. Trong đó,
giá cả cân bằng của thị trường thương buôn bao giờ
cũng thấp hơn giá cả cân bằng của thị trường tiêu
dùng. Mặt khác, sản lượng cân bằng của thị trường
có sự tham gia của thương buôn luôn nhỏ hơn sản
lượng cân bằng của thị trường mà người sản xuất
bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Những kết quả ở
bài viết này phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường
Các mô hình lý thuyết đã được bộ Giáo dục và
Đào tạo cho phép giảng dạy chỉ xác định được một
điểm cân bằng trên thị trường, chưa đề cập đến mô
hình có 2 điểm cân bằng của loại thị trường phổ
biến này. Cho nên, chủ trương của bài viết là nhằm
đưa các mô hình lý thuyết trong các trường Đại học
về gần với thực tế hơn, với cơ sở khoa học là các lý
thuyết và các giả thiết đã được Bộ Giáo dục và Đào
tạo công nhận.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

David Begg, 1992. Kinh tế học. NXB Giáo dục. Hà Nội.

2.

F. Leroux, 1993. 28 tình huống kinh tế vi mô. Trường Đại học Kinh tế. TP. Hồ Chí Minh.


76 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG



×