ĐAỊ HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯƠNG ĐAI HOC KHOA HOC XA HÔI VA NHÂN VĂN
̀
̣
̣
̣
̃ ̣
̀
PHẠM THỊ MAI HƯƠNG
NGÔN NGỮ HỘI THOẠI
TRONG THỂ LOẠI PHỎNG VẤN
(TRÊN TƯ LIỆU BÁO IN TIẾNG VIỆT HIỆN NAY)
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số
: 62 22 02 40
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Hà Nội 2016
Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Thế Kỷ
2. PGS.TS. Phạm Văn Tình
Phản biện 1:.....................................…………………
Phản biện 2:.................................................................
Phản biện 3:.................................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp ĐHQG chấm
luận
án
tiến
sĩ
họp
..............................................................................................
tại
………..
……………………………………………………………………
…..
vào hồi……...giờ…… ngày…… tháng……..năm 2016.
Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện Quốc gia Việt Nam
Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà
Nội
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Phạm Thị Mai Hương (2013), “Lập luận trong hội thoại
của Thúy Kiều”, Kỉ yếu Ngữ học trẻ 2013, tr.709715.
2. Phạm Thị Mai Hương (2015), “Định kiến giới trong ngôn
ngữ phỏng vấn trên báo in”, Nữ quyềnNhững vấn đề lí
luận và thực tiễn (Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc gia),
NXB Đại học Sư phạm, tr.392398.
3. Phạm Thị Mai Hương (2016), “Cặp thoại trong hội thoại
phỏng vấn báo in”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học 2016 – Giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt và giáo dục ngôn ngữ
trong nhà trường, tập 1, NXB Dân trí, tr.819824.
4. Phạm Thị Mai Hương (2016), “Hành động hỏi trong phỏng
vấn báo in”, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư, số 3
(41), tháng 5/2016, tr.96102.
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong cuộc cạnh tranh thông tin hiện nay, phỏng vấn được
xem là vũ khí lợi hại trong việc nâng cao uy tín của tờ báo và hấp dẫn
bạn đọc. Trên thực tế, phỏng vấn là một cuộc giao tiếp giữa nhà báo
với một hay nhiều đối tượng khác nhau. Bên cạnh những tính chất đặc
thù, xét dưới góc độ ngôn ngữ học, cuộc giao tiếp này vẫn mang
những đặc điểm chung của hoạt động giao tiếp thông thường, vẫn
chịu sự tác động của các quy tắc hội thoại, các nhân vật giao tiếp vẫn
phải vạch ra cho mình những chiến lược hội thoại nhằm làm cho cuộc
phỏng vấn đạt hiệu quả cao nhất. Có thể nói, phỏng vấn là một hoạt
động giao tiếp đặc biệt, có rất nhiều vấn đề cần quan tâm từ góc độ
của Ngữ dụng học. Tuy nhiên, cho đến nay, ngôn ngữ phỏng vấn mới
chỉ được nghiên cứu với tư cách như một thể loại báo chí, như một
phương pháp tác nghiệp phổ biến của nhà báo hay dưới góc độ đặc
trưng ngôn ngữ phỏng vấn của nhà báo… Việc tìm hiểu, nghiên cứu
phỏng vấn với tư cách là một cuộc hội thoại chưa được các nhà ngôn
ngữ học chú ý nhiều. Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài Ngôn ngữ
hội thoại trong thể loại phỏng vấn (trên tư liệu báo in tiếng Việt hiện
nay) làm đề tài nghiên cứu luận án của mình với mong muốn mang đến
những kiến giải mới cho lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ hội thoại nói
chung và ngôn ngữ hội thoại báo chí nói riêng.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các cuộc phỏng vấn với
tư cách là một thể loại báo chí.
Phạm vi tư liệu mà chúng tôi khảo sát là 500 bài phỏng vấn
trên các tờ báo uy tín từ năm 2013 đến nay, đó là: báo Tiền phong, báo
An ninh thế giới, báo Gia đình và Xã hội, báo Thanh niên, báo Lao
động, báo Tuổi trẻ, báo Hà Nội mới, báo Nông thôn Ngày nay, báo
Giáo dục và Thời đại…
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
1
Vận dụng lí thuyết hội thoại, mục đích của luận án là nghiên
cứu ngôn ngữ hội thoại trong thể loại phỏng vấn trên báo in từ các
bình diện cấu trúc, chức năng, sự tương tác của các thành tố trong
cuộc thoại phỏng vấn. Qua đó góp phần hướng tới xây dựng các cuộc
thoại phỏng vấn hay, sáng tạo, khai thác thông tin tối đa nhằm thu hút
độc giả.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc của cặp thoại phỏng vấn.
Nghiên cứu đặc điểm chức năng của cặp thoại phỏng vấn.
Nghiên cứu chiến lược phỏng vấn và một số đề tài hỏi có
khả năng vi phạm nguyên tắc lịch sự.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án tiến hành nghiên cứu đối tượng dựa trên một số
phương pháp thường gặp trong nghiên cứu ngôn ngữ học nói chung và
ngôn ngữ học ứng dụng nói riêng, đó là:
Phương pháp phân tích hội thoại (PTDN) là phương pháp
nghiên cứu chính.
Phương pháp phân tích diễn ngôn; phương pháp điển mẫu;
phương pháp phân tích – miêu tả.
Ngoài ra, luận án còn vận dụng một số thủ pháp: mô hình hóa,
thống kê,…có tính chất hỗ trợ.
5. Đóng góp của đề tài
Với đề tài này, luận án sẽ có những đóng góp mới cả về mặt lí
luận và thực tiễn cho cả hai địa hạt ngôn ngữ học và báo chí.
5.1. Về mặt lí luận
Góp phần làm rõ, mở rộng những vấn đề lí luận về việc nghiên
cứu lí thuyết hội thoại ở Việt Nam, giúp tìm hiểu cặn kẽ hơn về ngôn ngữ
trong hoạt động phỏng vấn báo chí cũng như giúp xây dựng các mô hình
chuẩn mực cho hoạt động phỏng vấn.
5.2. Về mặt thực tiễn
2
Chỉ ra những đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ hội thoại phỏng
vấn trên báo in, đưa ra được hệ thống các thành tố dùng để cấu trúc
nên cuộc thoại phỏng vấn. Thông qua đó, luận án góp phần xây dựng
nên mô hình cuộc thoại phỏng vấn chuẩn mực về nghi thức văn hóa
giao tiếp.
Hệ thống hóa các chiến lược giao tiếp có bản chất lịch sự cũng
như sự thể hiện đa diện, đa chiều của hành vi hỏi – đáp trong phỏng
vấn. Từ đó, luận án góp thêm một số kinh nghiệm trong khai thác
thông tin qua hoạt động đặt câu hỏi cũng như khai thác triệt để chiến
lược giao tiếp, nghệ thuật sử dụng ngôn từ trong hoạt động phỏng
vấn.
Giúp người làm báo có thêm kinh nghiệm khai thác thông tin
cũng như kinh nghiệm thực hiện các cuộc phỏng vấn thông qua các
hành động ngôn từ và các chiến lược giao tiếp khi tác nghiệp.
Kết quả của luận án có thể là tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy môn Ngôn ngữ báo chí nói chung và Ngôn
ngữ phỏng vấn nói riêng.
6. Bố cục
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận án gồm 4
chương:
Chương 1: Tổng quan và cơ sở lí thuyết.
Chương 2. Đặc điểm cấu trúc của cặp thoại trong hội thoại phỏng
vấn
Chương 3. Đặc điểm chức năng của cặp thoại trong hội thoại phỏng
vấn
3
Chương 4. Chiến lược phỏng vấn và sự vi phạm nguyên tắc lịch sự
trong hội thoại phỏng vấn
Chương 1
TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Bức tranh nghiên cứu về hội thoại cũng như ngôn ngữ phỏng
vấn rất phong phú, đa dạng. Mặc dù vậy, những nghiên cứu chuyên
sâu về ngôn ngữ phỏng vấn vẫn còn rất ít, đặc biệt là hướng nghiên
cứu theo đường hướng phân tích hội thoại. Với ngôn ngữ hội thoại
phỏng vấn trên báo in, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu
nào chuyên sâu theo đường hướng này. Đây là lần đầu tiên, vấn đề này
được nghiên cứu ở phạm vi một luận án tiến sĩ.
1.2. Phỏng vấn và phỏng vấn báo in
1.2.1. Một số quan niệm về phỏng vấn
Các tác giả đều thừa nhận phỏng vấn là một cuộc đối thoại
(hỏi – trả lời) giữa nhà báo (người hỏi) và người được phỏng vấn
(người trả lời) nhằm mục đích cung cấp thông tin, ý kiến về những sự
kiện, vấn đề thời sự hoặc nhằm khắc họa chân dung nhân vật mà công
chúng quan tâm. Trong luận án, chúng tôi kế thừa những cách hiểu trên
về phỏng vấn của các nhà nghiên cứu trên thế giới và trong nước, đặc
biệt chúng tôi nhấn mạnh thể loại phỏng vấn trên báo in là “hình thức
đăng tải tác phẩm dưới dạng đối thoại (hỏi – trả lời)” (Lê Thị Nhã,
Giáo trình Phỏng vấn Báo chí, NXB Thông tấn, tr.18).
1.2.2. Phân loại phỏng vấn
Luận án tập trung khảo sát ba loại phỏng vấn:
Phỏng vấn chân dung là loại phỏng vấn chỉ tập trung vào
một nhân vật, nhà báo đưa ra câu hỏi để đối tượng phỏng vấn (ĐTPV)
tự bộc lộ về mình (quan điểm, tâm tư, thành tích, kế hoạch tương
lai…). ĐTPV thường là những người nổi tiếng, người có thành tích nổi
bật ở các lĩnh vực hoạt động như văn hóa, chính trị, xã hội, kinh tế…,
đặc biệt họ phải là người “thu hút được sự quan tâm của công chúng”.
4
Phỏng vấn điều tra nhằm phân tích, nghiên cứu sâu về một
sự kiện, vấn đề có tính phức tạp, cấp bách, phát sinh nhiều luồng dư
luận mà công chúng đang đòi hỏi cần làm sáng tỏ. ĐTPV là những
nhân chứng liên quan đến sự việc, sự kiện.
Phỏng vấn thông tin là dạng phỏng vấn mà nội dung gắn liền
với những tin tức, sự kiện mang tính thời sự được công chúng quan
tâm. Đối tượng phỏng vấn khá rộng: từ những người có thẩm quyền
đến người có uy tín, nhân chứng có liên quan (là người bình thường)…
1.2.3. Đặc điểm nổi bật của thể loại phỏng vấn
Bản chất của phỏng vấn không phải là trao đổi, trò chuyện
hay tranh luận mà chủ yếu là hình thức đối thoại: hỏi và trả lời.
Nhà báo luôn là người đưa ra hành động hỏi, ĐTPV là người
đưa ra hành động hồi đáp trả lời. Trong cuộc giao tiếp này, gần như
không có hiện tượng luân phiên đổi vai như các cuộc thoại thông
thường.
Việc sử dụng ngôn từ được coi như chiến lược giao tiếp của
những nhà báo và người được phỏng vấn.
Mục đích phỏng vấn không phải để cho những người tham
gia mà nhằm phục vụ “người thứ ba”, đó là đông đảo độc giả.
1.3. Lí thuyết hội thoại
1.3.1. Vận động hội thoại
Vận động hội thoại giữa hai nhân vật gồm ba vận động chủ yếu:
trao lời, trao đáp và sự tương tác hội thoại.
1.3.2. Các đơn vị hội thoại
Cho đến nay có nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định
cấu trúc hội thoại. Trong luận án, chúng tôi kế thừa quan điểm cũng
như tên gọi các thuật ngữ của trường phái phân tích hội thoại Thụy Sĩ
–Pháp. Trường phái này cho rằng hội thoại là một tổ chức có tôn ti với
các đơn vị cấu trúc từ lớn đến bé là: cuộc thoại (còn gọi là cuộc tương
tác, conversation, interaction), đoạn thoại (sequence), cặp trao đáp (cặp
thoại – exchange), tham thoại (intervention) và hành động nói (speech
act). Trong cấu trúc này, ba đơn vị đầu nằm trong sự vận động trao đáp
nên có tính chất lưỡng thoại, hai đơn vị sau có tính chất đơn thoại.
5
1.3.3. Các quy tắc hội thoại
Khi nghiên cứu cuộc thoại phỏng vấn trên báo in, luận án
chúng tôi quan tâm chủ yếu đến nguyên tắc cộng tác và nguyên tắc
lịch sự. Đây là hai nguyên tắc tác động, chi phối mạnh mẽ đến cuộc
thoại phỏng vấn.
Nguyên tắc cộng tác (cooperative principle) đã được một số nhà
nghiên cứu cụ thể hóa dưới dạng một số quy tắc, H.P.Grice gọi đó là
những phương châm hội thoại (maxims). Theo ông, để một cuộc thoại
có thể diễn ra bình thường, các bên tham thoại cần tuân thủ bốn
phương châm hội thoại sau: phương châm về lượng, phương châm về
chất, phương châm quan hệ và phương châm cách thức . Khi nghiên
cứu cặp thoại phỏng vấn, cần phải xem xét sự tác động, điều chỉnh
của các phương châm này đối với cặp câu hỏi – câu trả lời.
1.4. Lí thuyết hành vi ngôn ngữ (Speech act theory)
Searle phân loại theo hành vi ngôn ngữ (HVNN) với 4 tiêu chí
cơ bản: đích tại lời (illocutionary point), hướng khớp lời – hiện thực
(direction of fit), trạng thái tâm lí của người nói (S’psychological state)
khi thực hiện hành động và nội dung mệnh đề (propositional content).
Theo đó, các HVNN được chia thành 5 nhóm như sau: 1/ Tái hiện
(Representatives); 2/ Điều khiển (Directive); 3/ Cam kết (Commissive);
4/ Biểu cảm (Expressive); 5/ Tuyên bố (Declaratives).
Hành vi ngôn ngữ trực tiếp (direct illocutionary speech acts) là
những HVNN “có sự tương ứng giữa cấu trúc phát ngôn trên bề mặt
với hiệu lực của nó gây nên”. Nói cách khác, HVNN được thực hiện
đúng với điều kiện sử dụng, đúng với đích ở lời của chúng.
Tuy nhiên, trong thực tế giao tiếp cũng như phỏng vấn, vì
những lí do khác nhau, người nói sử dụng HVNN này nhưng lại nhằm
đến hiệu lực ở lời của HVNN khác. Đó là hành vi ngôn ngữ gián tiếp
(indirect illocutionary speech acts).
1.5. Lí thuyết lịch sự và vấn đề nghiên cứu lịch sự trong
phỏng vấn
1.5.1. Các lí thuyết về lịch sự
6
1.5.1.1. Lí thuyết về lịch sự chiến lược
Đại diện tiêu biểu là các tác giả R. Lakoff, J.N. Leech, P.Brown
và S. Levinson, trong đó quan điểm của P. Brown và S. Levinson được
xem là nhất quán, có ảnh hưởng rộng rãi và có hiệu quả nhất đối với
việc nghiên cứu về phép lịch sự. Nhìn chung, các lí thuyết lịch sự
chiến lược đều có điểm chung: coi lịch sự là chiến lược tránh đụng độ
trong giao tiếp. Chiến lược ấy thuộc về cái Tôi, do cái Tôi tự tạo ra
trong quá trình tương tác xã hội, nó là kết quả của nền văn hóa phương
Tây, tôn trọng và đề cao cái tôi cá nhân.
1.5.1.2. Lí thuyết về lịch sự chuẩn mực
Có tính khuôn mẫu, quy ước, coi trọng quan hệ vị thế, quan hệ
thân sơ.
1.5.1.3. Quan niệm lịch sự của người Việt
Lịch sự trong tiếng Việt bao hàm cả hai bình diện: lịch sự
chiến lược theo kiểu phương Tây và lịch sự chuẩn mực theo kiểu
phương Đông. Người Việt Nam trong giao tiếp luôn chú trọng sự tế
nhị, khéo léo, khiêm nhường (biểu hiện của lịch sự chiến lược) vừa
nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong giao tiếp vừa giúp đối tác giao tiếp
giữ được mối thân tình. Mặt khác, người Việt còn chú trọng sự lễ độ,
đúng mực (cách ứng xử phù hợp với lịch sự chuẩn mực), thể hiện sự
tôn trọng các giá trị xã hội như tuổi tác, vị thế, tôn ti, thứ bậc…
1.5.2. Lịch sự trong phỏng vấn
Lịch sự là một trong những yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp
của nhà báo.
Trong phỏng vấn, hỏi là “độc quyền” của nhà báo nhưng về
bản chất, đây là hành vi có khả năng đe dọa thể diện của người được
phỏng vấn nhất.
Do nhà báo luôn là người chủ động về đề tài, câu hỏi, kịch
bản, là người áp đặt, chi phối, định hướng ngay cả đối với các hành vi
của ĐTPV nên nếu không khéo léo, nhà báo rất dễ vi phạm nguyên tắc
lịch sự khi tác nghiệp.
Phỏng vấn là cuộc trò chuyện giữa nhà báo và ĐTPV được
công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Điều này đặt ra yêu
7
cầu rất cao về tính lịch sự đối với nhà báo và đối tượng phỏng vấn.
Họ không những chỉ giữ thể diện cho mình mà quan trọng là phải giữ
thể diện trước công chúng bạn đọc.
1.6. Tiểu kết
Chương 1 đã trình bày một số vấn đề cơ bản nhất về lí luận
làm cơ sở cho việc phân tích đặc điểm ngôn ngữ hội thoại trong phỏng
vấn báo chí.
Thứ nhất, dựa vào, lí thuyết hội thoại, lí thuyết hành vi ngôn
ngữ, luận án đưa ra cái nhìn tổng quan về giao tiếp trên báo in và hội
thoại phỏng vấn.
Từ điểm nhìn của lí thuyết hội thoại, phỏng vấn là một cuộc
thoại điển hình. Tuy nhiên, phỏng vấn báo chí là dạng hội thoại đặc
biệt, nó vừa mang đặc điểm của cuộc thoại thông thường vừa có
những nét đặc thù. Trên cơ sở kế thừa các tác giả đi trước, chúng tôi
chọn một số khái niệm tác nghiệp phù hợp để làm công cụ nghiên cứu
của luận án ở các chương sau: giới hạn khái niệm cặp thoại, xác định
vị trí cặp thoại trong cuộc thoại phỏng vấn, chỉ ra đơn vị cơ sở cấu
tạo nên cặp thoại, các đặc điểm, tính chất cơ bản của cặp thoại; đặc
điểm của một số HVVN thường dùng và tính tương tác trong hội thoại
phỏng vấn.
Từ điểm nhìn của lí thuyết hành vi ngôn ngữ, các nguyên tắc
hội thoại và lí thuyết lịch sự, luận án đã trình bày các lí thuyết lịch sự
và quan niệm về lịch sự của người Việt để làm cơ sở để khảo sát
hành vi hỏi, hành vi chủ hướng trong hầu hết các TTDN của nhà báo
nhưng lại có khả năng cao vi phạm yếu tố lịch sự trong phỏng vấn.
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC CẶP THOẠI
TRONG HỘI THOẠI PHỎNG VẤN
2.1. Cấu trúc của tham thoại trong hội thoại phỏng vấn
Trong tổ chức cặp thoại (CT), tham thoại (TT) vừa là đơn vị
trực tiếp cấu tạo nên CT, vừa là đơn vị có cấu trúc nội bộ riêng, thể
8
hiện quan hệ giữa các HVNN. Việc nghiên cứu CT vì vậy phải xem
xét, xuất phát từ những đơn vị bậc dưới của nó, đó là TT và HVNN.
Cuộc thoại phỏng vấn là một dạng hội thoại đặc thù trong
đó CT được hiện thực hóa qua TT trao đáp có cấu trúc hình thức khá
ổn định: Tham thoại dẫn nhập (initiative move): câu hỏi; Tham thoại
hồi đáp (reactive move): câu trả lời
2.1.1. Tham thoại dẫn nhập (TTDN) trong phỏng vấn
Cấu trúc nòng cốt của một TT nói chung cũng như của TTDN
đều gồm hai phần: hành vi chủ hướng (HVCH) (head) và hành vi phụ
thuộc (HVPT) (prehead, posthead).
2.1.1.1. Hành vi chủ hướng
Trong các cuộc thoại phỏng vấn, đảm nhận vị trí HVCH của
TTDN có thể là: Hành vi chào, hành vi hỏi, hành vi trần thuật, hành vi
cám ơn và chúc tụng. Kết quả khảo sát cho thấy trong số những
HVCH trong TTDN, hành vi hỏi vẫn chiếm tỉ lệ cao nhất (60,2%) bởi
vì bản chất của phỏng vấn là hỏi – trả lời. Hành vi trần thuật chỉ
chiếm tỉ lệ thấp (22,9%). Điều này giúp phân biệt phỏng vấn với các
thể loại báo chí khác có hình thức giống với phỏng vấn như tọa đàm,
giao lưu (hành vi trần thuật chiếm số lượng lớn).
2.1.1.2. Hành vi phụ thuộc
Trong TTDN của nhà báo, các HVNN đóng vai trò HVPT
thường là hành vi khen, hành vi chê và hành vi trần thuật. Hành vi trần
thuật là hành vi vừa có khả năng đảm nhiệm vai trò là HVCH, vừa là
HVPT trong TTDN. Tuy nhiên, hành vi này thường xuất hiện với tư
cách là HVPT với tỉ lệ cao hơn HVCH (60,4 % và 22,9 %). Nếu như
hành vi hỏi là hành vi được sử dụng phổ biến trong HVCH của TTDN
phỏng vấn thì hành vi trần thuật lại được sử dụng thường xuyên trong
HVPT của TTDN. Chúng thường giữ chức năng giải thích, bổ sung
luận cứ để nhà báo thực hiện hành vi hỏi.
2.1.2. Mô hình hình thức của TTDN trong cặp thoại phỏng
vấn
Qua khảo sát tư liệu phỏng vấn báo in, có thể mô hình hóa các
kiểu cấu trúc TTDN mà nhà báo thường sử dụng khi tác nghiệp thành
9
10 loại mô hình. Đặc biệt, kiểu mô hình (PT CH) mà hành vi phụ
thuộc đi trước đảm nhiệm vai trò “dọn đường” cho hành vi chủ hướng
hỏi ở phía sau thường được nhà báo sử dụng nhiều hơn cả.
2.1.3. Tham thoại hồi đáp trong phỏng vấn
Trong phỏng vấn, TTHĐ có vị trí vô cùng quan trọng. TTDN
trong phỏng vấn mới chỉ làm thành một bộ phận nêu vấn đề chứ chưa
mang thông tin, còn TTHĐ (khẳng định hay phủ định) mới làm cho
thông tin được sáng tỏ, tạo thành một chu trình giao tiếp khép kín.
TTHĐ quyết định tới diễn tiến, kết quả cuộc hội thoại. Đồng thời,
thông qua TTHĐ, người đọc mới thấu rõ tâm lí, quan điểm… của
ĐTPV cũng như đích của cuộc thoại.
Về vị trí, TTHĐ luôn nằm ngay sau TTDN, có mối quan hệ
tương tác với TTDN. Hướng hồi đáp của TTHĐ phụ thuộc chặt chẽ
vào TTDN.
Về cấu trúc, TTHĐ cũng giống với TTDN trong phỏng vấn
gồm hai thành phần là HVCH và HVPT. Tuy nhiên, việc xác định
HVCH trong TTHĐ phụ thuộc vào TTDN. Theo đó, hành vi nào hồi đáp
trực tiếp vào HVCH của nhà báo trong TTDN thì hành vi đó sẽ giữ vai
trò chủ hướng trong TTHĐ.
2.2. Cấu trúc của cặp thoại phỏng vấn
Điểm khác biệt của CT phỏng vấn so với các CT ở các dạng
hành chức khác như CT dạy học, CT trong hội thoại thông thường hay
CT trong tác phẩm văn học thể hiện ở chỗ cặp hỏi đáp chính là CT
chủ hướng, trong phỏng vấn không có sự xuất hiện của những cặp
phụ thuộc, chêm xen. Mỗi CT là một cặp kế cận khép kín, tạo thành
một CT hoàn chỉnh trình bày những chủ đề nhỏ, nhiều CT có sự liên
kết về nội dung tạo thành chủ đề lớn của cuộc thoại phỏng vấn.
2.2.1. Cặp thoại một tham thoại
Là những CT bất thường về mặt cấu tạo. “Nó tạo ra cấu trúc
hẫng của CT (gọi là CT hẫng). Trong phỏng vấn báo chí, CT hẫng là
cặp thoại chỉ có TTDN mà không có TTHĐ. CT hẫng thường xuất
hiện khi nhà báo sử dụng những TTDN mang tính nghi thức như TTDN
có hành vi chào, cảm ơn, chúc… Hoặc khi nhà báo sử dụng những
10
TTDN có nội dung vi phạm nguyên tắc lịch sự, đe dọa thể diện của
họ. Trong những trường hợp này, trên báo in, ĐTPV thường không hồi
đáp những kiểu tham thoại như vậy.
2.2.2. Cặp thoại hai tham thoại
Đây là dạng phổ biến nhất trong hội thoại phỏng vấn, trong đó
mỗi TT ứng với một chức năng ổn định: TT thứ nhất của nhà báo có
chức năng dẫn nhập, TT thứ hai của ĐTPV có chức năng hồi đáp.
2.2.3. Mô hình hình thức của cặp thoại phỏng vấn
Qua khảo sát ngữ liệu đồng thời dựa trên cách phân chia
HVCH trong TT mà chúng tôi đã trình bày ở phần trên, trong phỏng
vấn có thể gặp 5 mô hình CT thường gặp: cặp Hỏi – Trần thuật; cặp
Trần thuật – Trần thuật; cặp Cảm thán – Trần thuật; cặp Cầu khiến –
Cầu khiến và cặp Hỏi – Hỏi lại, trong đó chiếm ưu thế nhất vẫn là
cặp Hỏi – Trần thuật truyền thống.
2.3. Quan hệ trao đáp trong cặp thoại phỏng vấn
Thực chất quan hệ trao đáp trong CT phỏng vấn là quan hệ
giữa các hành vi trong TTDN và TTHĐ. Căn cứ vào nội dung của
TTHĐ cũng như sự tương thích của các HVNN trong các TT, có thể
chia quan hệ trao đáp trong CT phỏng vấn thành hai loại: quan hệ trao
đáp có tính chất tích cực và quan hệ trao đáp có tính chất tiêu cực.
2.3.1. Quan hệ trao đáp tích cực
Trong quan hệ này, các HVNN trong TTHĐ thường tạo nên
những cặp tương tác tích cực với HVNN trong TTDN của phóng viên
như TTDN yêu cầu cung cấp thông tin, TTHĐ cung cấp thông tin, trần
thuật khẳng định – đánh giá (về lời khẳng định)… Mối quan hệ tích
cực này góp phần thỏa mãn đích giao tiếp mà TTDN của nhà báo đặt
ra. Quan hệ trao đáp này tạo ra những CT bình thường và thông thường
có thể kết thúc CT phỏng vấn ở đó.
2.3.2. Quan hệ trao đáp tiêu cực
ĐTPV vì những lí do nhất định có thể phá vỡ sự tương hợp
trao – đáp, tạo nên những kiểu quan hệ trao đáp mang tính tiêu cực như
TTDN yêu cầu cung cấp thông tin, TTHĐ từ chối cung cấp thông tin,
11
khen – từ chối lời khen... Trong kiểu quan hệ này, TTHĐ của ĐTPV
thường đi ngược với đích đặt ra của TTDN của nhà báo và tạo nên
những CT không bình thường trong hội thoại phỏng vấn. Khi đó CT có
thể kéo dài hoặc kết thúc trong sự bất đồng giữa nhà báo và ĐTPV
hoặc đôi khi có thể có sự xoay chuyển cục diện phỏng vấn từ tiêu cực
sang tích cực.
2.4. Tiểu kết
Trong chương này, cặp thoại phỏng vấn được nghiên cứu ở
góc độ cấu trúc. Cặp thoại đã được phân tích kĩ với tất cả những đặc
trưng về cấu trúc nội tại, mô hình hình thức cũng như các quan hệ trao
đáp.
Tư liệu khảo sát Chương 2 cho thấy cấu trúc phổ biến của CT
phỏng vấn là dạng thức hai TT với mô hình Hỏi – Trả lời.
Là một dạng hội thoại đặc thù, chính vì vậy quan hệ trao đáp
trong cặp thoại phỏng vấn cũng mang những tính chất đặc trưng so
với kiểu CT trong các lĩnh vực khác. Đó là mối quan hệ mang tính nhân
quả và một chiều, không có sự luân phiên đổi vai như các hoạt động
giao tiếp thông thường. Hầu hết các CT phỏng vấn đều có quan hệ
trao đáp tích cực, nghĩa là giữa các HVNN trong TTHĐ thường tạo nên
những cặp tương tác tích cực với HVNN trong TTDN của nhà báo, góp
phần phát triển nội dung cuộc phỏng vấn.
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM CHỨC NĂNG CỦA CẶP THOẠI
TRONG HỘI THOẠI PHỎNG VẤN
3.1. Cặp thoại mở đầu cuộc phỏng vấn
TTDN có chức năng mở thoại của cuộc thoại phỏng vấn phần
lớn mang tính quy thức và do nhà báo chủ động đảm nhiệm. ĐTPV
thường đón nhận một cách thụ động và không hồi đáp lại TT này. Vì
vậy, CT mở đầu phỏng vấn là CT một TT hay còn gọi là CT hẫng như
trong Chương 2 chúng tôi đã phân tích. Đảm nhiệm vai trò HVCH trong
TTDN của loại CT này thường là hành vi thông báo và hành vi chào.
3.1.1. Hành vi thông báo
12
Đối với bài phỏng vấn, nếu đầu đề có nhiệm vụ “níu mắt”
người đọc tại bài phỏng vấn thì hành vi thông báo được hiển thị ở
sapo có chức năng định hướng, mời gọi độc giả, giúp họ dễ lựa chọn
việc tiếp tục đọc hay không đọc bài phỏng vấn giữa rất nhiều tin, bài
khác của cùng một tờ báo hoặc của nhiều tờ báo khác.
3.1.1.1. Nhằm giới thiệu sự kiện hoặc vấn đề và người trả lời
phỏng vấn
Đây là chức năng được sử dụng nhiều nhất của hành vi thông
báo, đặc biệt là trong dạng bài phỏng vấn thời sự.
3.2.1.2. Nhằm nêu lí do, bối cảnh phỏng vấn
Nội dung mệnh đề của hành vi thông báo ở dạng này thường
nêu hoàn cảnh, tình huống, bối cảnh xuất hiện của cuộc thoại phỏng
vấn. Thông thường, những lí do đưa ra mang tính khác thường, mới lạ
và mang tính thời sự.
3.2.1.3. Nhằm giới thiệu nhân vật trả lời phỏng vấn
Cách thông báo này thường sử dụng trong những bài phỏng
vấn chân dung để thông tin về tiểu sử, thành tích nhân vật hoặc phác
họa diện mạo, tính cách, đặc điểm nổi bật của ĐTPV cho bạn đọc
được biết.
3.2.1.4. Nhằm nêu ý nghĩa của sự kiện mà bài phỏng vấn đề
cập
3.1.2. Hành vi chào
Trong phỏng vấn trên báo in, hành vi chào thường là của phóng
viên và thường không được ĐTPV hồi đáp lại hành vi này. Nó là hành
động đơn phương, một chiều.
3.1.2.1. Trường hợp nhà báo (SP1) có vị thế xã hội cao hơn
hoặc bằng đối tượng phỏng vấn (SP2) (SP1≥ SP2)
Nhà báo thường sử dụng cách chào thân mật bằng tên riêng hay
biệt danh hoặc đại từ nhân xưng thân tộc nhằm làm cho không khí
cuộc phỏng vấn thân tình, cởi mở.
13
3.1.2.2. Trường hợp nhà báo (SP1) có vị thế xã hội thấp hơn
đối tượng phỏng vấn (SP2) (SP1< SP2)
Trong những cuộc phỏng vấn mà nhà báo và ĐTPV có sự
chênh lệch cao về vị thế xã hội, chẳng hạn như ĐTPV là những người
có địa vị cao trong xã hội (Chủ tịch nước, Thủ tướng, Bộ trưởng…),
lúc đó phóng viên thường sử dụng hành vi chào mang tính nghi thức đó
là cách chào bằng chức danh, chức vụ.
3.2. Cặp thoại kết thúc cuộc thoại phỏng vấn
3.2.1. Các từ ngữ báo hiệu kết thúc cuộc thoại phỏng vấn
CT kết thúc phỏng vấn cũng là CT mang tính nghi thức và
trong phỏng vấn, nhà báo có thể sử dụng một số từ ngữ báo hiệu
chấm dứt cuộc thoại phỏng vấn.
Về từ loại, chúng thường là các ngữ danh từ như câu hỏi cuối,
câu hỏi cuối cùng… ngữ động từ như khép lại cuộc trò chuyện này,
kết thúc cuộc phỏng vấn hôm nay… các ngữ cố định như nói tóm lại,
chung quy lại…
Về vị trí, chúng thường đứng ở đầu câu:
Các từ ngữ báo hiệu kết thúc cuộc phỏng vấn, NP +
VP
3.2.2. Các HVNN báo hiệu kết thúc cuộc thoại phỏng vấn
Hành vi cảm ơn, chúc thường xuất hiện ở vị trí phát ngôn kết
thúc trong mỗi cuộc thoại, với vai trò là TTDN của nhà báo. ĐTPV
thường không có sự hồi đáp vào hành vi này. Vì vậy, CT kết thúc
phỏng vấn cũng là CT một tham thoại hay CT hẫng.
3.2.2.1. Trường hợp nhà báo (SP1) có vị thế xã hội cao hơn hoặc
bằng ĐTPV (SP2) (SP1≥ SP2)
Trong các cuộc phỏng vấn chân dung hoặc phỏng vấn thời sự
(nhưng ĐTPV có vị thế xã hội thấp hơn hoặc bằng nhà báo), nhà báo
có thể sử dụng hành vi cám ơn cũng như hành vi chúc đi kèm với tên
riêng của ĐTPV.
3.2.2.2. Trường hợp nhà báo (SP1) có vị thế xã hội thấp hơn ĐTPV
14
(SP2) (SP1< SP2)
Nhà báo thường kết thúc cuộc phỏng vấn bằng hành vi cám ơn
một cách trang trọng (rất ít trường hợp sử dụng hành vi chúc).
3.3. Cặp thoại triển khai cuộc thoại phỏng vấn
3.3..1. Chức năng của hành vi hỏi trực tiếp trong hội thoại
phỏng vấn
Chức năng nổi bật nhất của hành vi hỏi chính danh là yêu cầu
cung cấp thông tin. Chức năng này của hành vi hỏi được thể hiện trong
phỏng vấn báo in khá đa dạng.
3.3.1.1. Yêu cầu cung cấp thông tin về mục đích hành động
Chức năng này thường được thực hiện theo mô thức: ĐTPV+
V + để làm gì?
3.3.1.2. Yêu cầu cung cấp thông tin về nguyên nhân của hành
động/sự việc/ sự kiện
Biểu thức tiêu biểu của chức năng này là: Tại sao/Vì sao/ Sao
+ĐTPV + V?
3.3.1.3. Yêu cầu cung cấp thông tin về số lượng của hành
động/sự việc/ sự kiện
Biểu thức để hỏi thực hiện chức năng này thường sử dụng các
đại từ như mấy, bao nhiêu.
3.4.1.4. Yêu cầu cung cấp thông tin về thời gian xảy ra của hành động/sự
việc/ sự kiện liên quan đến ĐTPV
Chức năng này của hành vi hỏi thường được nhận ra qua sự
tham gia của các từ để hỏi như bao lâu, khi nào, lúc nào, bao giờ.
3.4.1.5. Yêu cầu ĐTPV cung cấp thông tin để làm rõ vấn đề (yêu cầu xác
nhận ý kiến)
Chức năng này của hành vi hỏi thường sử dụng các cụm từ để
hỏi như: “có hay không”, “đúng hay sai”, “A hay B”… và thường có
sẵn phương án trả lời để người được hỏi lựa chọn.
Những hành vi hỏi dạng này mang giá trị ngôn trung trực tiếp
và buộc người được hỏi phải trả lời. Nó yêu cầu ĐTPV phải trả lời
15
thẳng, trực diện vào vấn đề mà phóng viên đã đưa ra sẵn các phương
án trả lời.
3.3.2. Chức năng của hành vi hỏi gián tiếp trong hội thoại
phỏng vấn
3.3.2.1. Hỏi để kiểm chứng
a. Nội dung thông tin cần kiểm chứng xuất phát từ phía nhà
báo
Khi sử dụng hành vi hỏi với chức năng kiểm chứng, nhà báo có
thể xuất phát từ những chứng cứ, dữ liệu mình đã có và yêu cầu
ĐTPV giải thích, làm sáng tỏ những chứng cứ, dữ liệu đó.
b. Nội dung thông tin cần kiểm chứng xuất phát từ phía ĐTPV
Trong phỏng vấn, có thể TTHĐ của ĐTPV xuất hiện những
vấn đề, những cụm từ, số liệu… là mấu chốt của vấn đề và không
được phép hiểu sai. Chính vì vậy, nhà báo sử dụng hành vi hỏi –kiểm
chứng để kiểm tra lại thông tin.
3.3.2.2. Hỏi để phản biện
Được sử dụng khi phóng viên muốn lật ngược vấn đề nhằm
làm sáng tỏ, minh bạch hoặc xác định lại tính chính xác của thông tin
đồng thời đây cũng là cách để rộng đường dư luận. Thông qua việc sử
dụng hành vi hỏi để chất vấn, vấn đề, sự việc, sự kiện sẽ được lí
giải, phân tích một cách kĩ lưỡng, sâu sắc hơn ở các chiều cạnh khác
nhau và thường là ở mặt trái của nó.
3.3.2.3. Hỏi để phản bác
P + à?/ Thế không + p + à?
Như thế mà + p + à?
Sao lại + p? trong đó p là nội dung mệnh đề chứa hành động,
sự vật, sự việc phản bác.
Hành vi hỏi phản bác buộc ĐTPV phải giải thích sự tồn tại
của hành động, sự vật, sự việc nêu ở mệnh đề p hoặc phải chấp nhận
thái độ phê phán, bác bỏ của nhà báo.
16
3.3.2.4. Hỏi để quy gán
Dạng thứ nhất có cấu trúc của kiểu câu hỏi truy tìm nguyên
nhân, lí do dẫn đến hành động, sự việc, sự kiện tiêu cực. Dạng này
thường có sự xuất hiện của từ nghi vấn sao, tại sao.
Dạng thứ hai có cấu trúc của kiểu câu hỏi tìm hiểu về đối
tượng gây nên hành động, sự việc, sự kiện tiêu cực. Dạng quy gán này
phóng viên thường sử dụng đại từ nghi vấn “ai”.
3.3.2.5. Hỏi để phỏng đoán
Làm mềm hóa hành vi hỏi mang tính định hướng chủ quan, áp
đặt của nhà báo và vì vậy hành vi hỏi – đoán thường được sử dụng
trong kiểu bài phỏng vấn chân dung nhằm tạo sự thân mật, gần gũi
giữa nhà báo – ĐTPV.
3.3.2.6. Hỏi để khẳng định
Ở phát ngôn chứa hành vi hỏi dạng này, hỏi không phải là
hành vi chứa đích ở lời mà nhà báo cần đạt được, mà HVNN chính của
phát ngôn là yêu cầu ĐTPV thừa nhận, tán thành ý khẳng định của nhà
báo.
3.3.2.7. Hỏi để đề nghị
3.3.2.8. Hỏi để điều tiết cuộc thoại
Nội dung của câu hỏi điều tiết có thể rỗng hoàn toàn, chúng
chỉ có chức năng đưa đẩy, dẫn dắt, duy trì quan hệ giao tiếp giữa nhà
báo và ĐTPV. ĐTPV, do vậy, không nhất thiết phải trả lời những
dạng câu hỏi này, nếu có trả lời thì có thể dùng những câu trả lời ngắn
như “Vâng”, “Đúng thế”… nhằm thông báo cho phóng viên biết mình
vẫn đang theo dõi cuộc phỏng vấn mà không làm ảnh hưởng đến lượt
lời.
3.3.2.9. Hỏi để chê, để khiêu khích
Đích của lời của hành vi hỏi dạng này là hướng tới hiệu lực của
hành vi chê hoặc khiêu khích, đồng thời nhà báo muốn biết thái độ
phản ứng của ĐTPV đối với hành động, sự vật, sự việc liên quan đến
ĐTPV bị chê, bị mỉa đó.
17
Kết quả khảo sát cho thấy trong phỏng vấn báo in hiện nay, hành
vi hỏi được sử dụng với nhiều chức năng khác nhau, biểu đạt nhiều
giá trị ngôn trung khác nhau. Hành vi hỏi được sử dụng với chức năng
yêu cầu cung cấp thông tin và xác nhận thông tin chiếm tỉ lệ cao nhất
(chiếm 55,2% và 12,3%). Điều này là do mục đích cơ bản của mọi
cuộc phỏng vấn trước hết đều nhằm khai thác thông tin từ một đối
tượng nào đó để cung cấp cho công chúng độc giả.
3.4. Tiểu kết
Trong chương này, luận án đã đi sâu xem xét chức năng của ba
loại CT trong phỏng vấn đó là: CT mở đầu, CT triển khai và CT kết
thúc phỏng vấn. Trên cơ sở đó, luận án nghiên cứu chức năng cụ thể
của từng loại HVNN điển hình, thường dùng trong từng loại CT.
Bên cạnh những HVNN mang tính quy thức, trong phỏng vấn
cũng có những loại hành vi được sử dụng hết sức đa dạng, linh hoạt
như hành vi hỏi – hành vi trung tâm và được sử dụng phổ biến nhất
trong TTDN phỏng vấn của nhà báo. Việc tiếp cận nghiên cứu hành vi
hỏi trong phỏng vấn ở cấp độ CT dưới góc độ dụng học cho phép chỉ
ra trong một chừng mực nhất định các giá trị ngôn trung đa dạng của
hành vi hỏi trong phỏng vấn, mối quan hệ giữa hành vi hỏi và hành vi
hồi đáp, giữa nhà báo và ĐTPV, giữa câu hỏi với từng tình huống, chủ
đề cũng như dạng phỏng vấn đặc thù.
Chương 3
18
CHIẾN LƯỢC PHỎNG VẤN VÀ SỰ VI PHẠM NGUYÊN
TẮC LỊCH SỰ TRONG PHỎNG VẤN
4.1. Hỏi đáp và vấn đề chiến lược giao tiếp trong hội thoại
phỏng vấn
Nhà báo có vai trò hết sức quan trọng đối với thành công của
cuộc phỏng vấn cũng như bài phỏng vấn. Họ không những tác động
tới người được phỏng vấn mà còn tác động tới cả công chúng báo chí.
Đồng thời vai của nhà báo (và cả vai của người trả lời phỏng vấn)
cũng ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả thông tin của tác phẩm
báo chí phỏng vấn. Tùy theo mục đích khai thác thông tin, mỗi nhà báo
sẽ có cách đặt câu hỏi cũng như chiến lược giao tiếp phù hợp.
4.2. Chiến lược phỏng vấn trên báo in
4.2.1. Một số chiến lược điều hành vận động trao đáp trong
hội thoại phỏng vấn
4.1.1.1. Sử dụng lời chào, lời giới thiệu và những nghi thức
tạo lập, duy trì, củng cố quan hệ hội thoại giữa nhà báo và ĐTPV
4.1.1.2. Sử dụng từ hô gọi, tổ hợp tình thái để ĐTPV chú ý đến
nội dung trong câu hỏi phỏng vấn
Trong quá trình phỏng vấn, ĐTPV có thể lơ là, mất sự tập
trung, không hợp tác và dẫn cuộc phỏng vấn đến chỗ không có giá trị
tương tác. Có thể nói thái độ không chú ý của ĐTPV là dấu hiệu đầu
tiên cảnh báo nguy cơ không đạt đích của cuộc phỏng vấn. Chính vì
vậy, muốn cuộc phỏng vấn tiếp tục và đi đến đích, nhà báo phải sử
dụng một hoặc một số số phương tiện để điều chỉnh sự chú ý của
người nghe nhằm hâm nóng bầu không khí cuộc phỏng vấn, duy trì sự
gắn kết, tạo cho ĐTPV sự hứng thú, khích lệ họ tiếp tục đồng hành
đến hết cuộc phỏng vấn.
4.1.1.3. Định hướng và dẫn dắt ĐTPV vào nội dung cuộc
phỏng vấn
19
Sử dụng các cụm từ mang tính định hướng ĐTPV như: quay
trở lại với chủ đề chúng ta đang đối thoại, trở lại với chủ đề cuộc
phỏng vấn... hoặc có thể dùng các HVNN thể hiện tính lịch sự như
cho phép tôi được trở về với chủ đề của cuộc phỏng vấn (hành vi xin
phép) + chủ đề cuộc phỏng vấn; tôi muốn đề cập đến (hành vi cầu
mong) + chủ đề cuộc phỏng vấn.
Sử dụng chiến lược thăm dò nhằm làm giảm sự áp đặt đối
với ĐTPV khi muốn đưa ra chủ đề phỏng vấn hoặc dẫn dắt họ vào
cuộc thoại. Nằm trong chiến lược thăm dò của nhà báo thường là
những lời mào đầu, lời ướm thử bằng cách viện dẫn những HVNN
gián tiếp như hỏi – ướm, trần thuật – dò hỏi.
4.1.1.4. Chuyển hướng nội dung cuộc phỏng vấn
4.1.1.5. Duy trì và phát triển cuộc phỏng vấn theo hướng
tương tác
Sự tác động qua lại mang tính tương thích về chức năng giữa
những HVNN của nhà báo và ĐTPV.
Tương tác về chủ đề cuộc thoại bằng cách sử dụng những
yếu tố nội dung có trong TTHĐ của ĐTPV để khai thác sâu hơn thông
tin.
4.2.2. Chiến lược sử dụng một số HVNN để tiền dẫn nhập cho
hành vi hỏi
4.2.2.1. Hành vi khen
(1) Khen để biểu lộ sự thán phục về công việc, ngoại hình,
khả năng của người được khen để nhằm khai thác thông tin từ người
được khen
(2) Khen để thay thế lời chào, lời giới thiệu hoặc chúc mừng
để dẫn nhập cho hành vi hỏi có chức năng mở thoại
20
(3) Khen để củng cố mối quan hệ liên cá nhân hòa hợp với
ĐTPV hỗ trợ cho hành vi hỏi duy trì và phát triển chủ đề cuộc phỏng
vấn
(4) Khen để xoa dịu mức độ đe dọa thể diện dẫn nhập cho
hành vi hỏi – khiêu khích, chê
4.2.2.2. Hành vi chê
(1) Chê để dẫn nhập cho hành vi hỏi mở đầu xác lập chủ đề
cuộc phỏng vấn
(2) Chê để dẫn nhập cho hành vi hỏi – quy gán
(3) Chê để chia sẻ một đánh giá tiêu cực nào đó nhằm tạo lập
mối quan hệ giữa nhà báo và ĐTPV nhằm dẫn nhập cho hành vi hỏi
duy trì và phát triển chủ đề cuộc phỏng vấn
(4) Chê để dẫn nhập cho hành vi hỏi – khiêu khích nhằm khích
đối tượng bị chê nói ra sự thật phơi bày trước công chúng
4.2.2.3. Hành vi trần thuật
(1) Đưa ra nhận xét, đánh giá dẫn nhập cho hành vi hỏi định
hướng chủ đề cuộc phỏng vấn
(2) Đưa ra nhận định mang tính tiêu cực để dẫn nhập cho hành
vi hỏi – phỏng đoán nhằm thăm dò ĐTPV
(3) Khẳng định sự việc, sự kiện để dẫn nhập cho hành vi hỏi –
khẳng định nhằm nhấn mạnh thông tin, gây sự chú ý cho độc giả
(4) Đưa ra nhận xét mang tính quy gán để dẫn nhập cho hành vi
hỏi – phản biện dẫn dắt ĐTPV tranh luận, tạo kịch tính cho cuộc
phỏng vấn
4.3. Hành vi hỏi và khả năng vi phạm nguyên tắc lịch sự trong
phỏng vấn báo in
4.3.1. Tiêu chí đánh giá hành vi ngôn ngữ vi phạm nguyên tắc
lịch sự trong phỏng vấn báo in
21