Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ hội thoại trong thể loại phỏng vấn (Trên tư liệu báo in tiếng Việt hiện nay)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.96 KB, 30 trang )

ĐAỊ  HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯƠNG ĐAI HOC KHOA HOC XA HÔI VA NHÂN VĂN
̀
̣
̣
̣
̃ ̣
̀
­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­

PHẠM THỊ MAI HƯƠNG

NGÔN NGỮ HỘI THOẠI 
TRONG THỂ LOẠI PHỎNG VẤN 
(TRÊN TƯ LIỆU BÁO IN TIẾNG VIỆT HIỆN NAY)

Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số

  : 62 22 02 40

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC


Hà Nội ­  2016


Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội


Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Thế Kỷ
                                             2. PGS.TS. Phạm Văn Tình
Phản biện 1:.....................................…………………
Phản biện 2:.................................................................
Phản biện 3:.................................................................

Luận án sẽ  được bảo vệ  trước Hội đồng cấp ĐHQG chấm  
luận
 
án
 
tiến
 

 
họp
 
..............................................................................................

tại

………..
……………………………………………………………………
…..
vào hồi……...giờ…… ngày…… tháng……..năm 2016.


Có thể tìm hiểu luận án tại:
­


Thư viện Quốc gia Việt Nam

­

Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà 
Nội

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.  Phạm Thị  Mai Hương (2013), “Lập luận trong hội thoại  
của Thúy Kiều”, Kỉ yếu Ngữ học trẻ 2013, tr.709­715.
2.  Phạm Thị Mai Hương (2015), “Định kiến giới trong ngôn 
ngữ  phỏng vấn trên báo in”,  Nữ  quyền­Những vấn đề  lí  
luận và thực tiễn (Kỉ  yếu Hội thảo khoa học quốc gia),  
NXB Đại học Sư phạm, tr.392­398.
3. Phạm Thị  Mai Hương (2016), “Cặp thoại trong hội thoại  
phỏng vấn báo in”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học 2016 – Giữ  
gìn sự  trong sáng của tiếng Việt và giáo dục ngôn ngữ  
trong nhà trường, tập 1, NXB Dân trí, tr.819­824.
4. Phạm Thị Mai Hương (2016), “Hành động hỏi trong phỏng  
vấn báo in”, Tạp chí Từ  điển học và Bách khoa thư, số  3 
(41), tháng 5/2016, tr.96­102.


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong cuộc cạnh tranh thông tin hiện nay, phỏng vấn  được  
xem là vũ khí lợi hại trong việc nâng cao uy tín của tờ báo và hấp dẫn 
bạn đọc. Trên thực tế, phỏng vấn là một cuộc giao tiếp giữa nhà báo 
với một hay nhiều đối tượng khác nhau. Bên cạnh những tính chất đặc 

thù,   xét   dưới   góc   độ   ngôn  ngữ   học,   cuộc  giao   tiếp   này  vẫn   mang  
những đặc điểm chung của hoạt động giao tiếp thông thường, vẫn 
chịu sự tác động của các quy tắc hội thoại, các nhân vật giao tiếp vẫn  
phải vạch ra cho mình những chiến lược hội thoại nhằm làm cho cuộc  
phỏng vấn đạt hiệu quả  cao nhất. Có thể  nói, phỏng vấn là một hoạt 
động giao tiếp đặc biệt, có rất nhiều vấn đề  cần quan tâm từ  góc độ 
của Ngữ dụng học. Tuy nhiên, cho đến nay, ngôn ngữ phỏng vấn mới  
chỉ  được nghiên cứu với tư  cách như  một thể  loại báo chí, như  một  
phương pháp tác nghiệp phổ  biến của nhà báo hay dưới góc độ  đặc  
trưng ngôn ngữ  phỏng vấn của nhà báo… Việc tìm hiểu, nghiên cứu 
phỏng vấn với tư cách là một cuộc hội thoại chưa được các nhà ngôn 
ngữ  học chú ý nhiều. Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề  tài Ngôn ngữ 
hội thoại trong thể loại phỏng vấn (trên tư liệu báo in tiếng Việt hiện 
nay) làm đề tài nghiên cứu luận án của mình với mong muốn mang đến 
những kiến giải mới cho lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ  hội thoại nói  
chung và ngôn ngữ hội thoại báo chí nói riêng.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các cuộc phỏng vấn với 
tư cách là một thể loại báo chí. 
Phạm vi tư  liệu mà chúng tôi khảo sát là 500 bài phỏng vấn  
trên các tờ báo uy tín từ năm 2013 đến nay, đó là: báo Tiền phong, báo  
An ninh thế  giới, báo Gia đình và Xã hội, báo Thanh niên, báo Lao 
động, báo Tuổi trẻ, báo Hà Nội mới, báo Nông thôn Ngày nay, báo 
Giáo dục và Thời đại…
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
1


Vận dụng lí thuyết hội thoại, mục đích của luận án là nghiên 

cứu ngôn ngữ  hội thoại trong thể  loại phỏng vấn trên báo in từ  các  
bình diện cấu trúc, chức năng, sự  tương tác của các thành tố  trong  
cuộc thoại phỏng vấn. Qua đó góp phần hướng tới xây dựng các cuộc  
thoại phỏng vấn hay, sáng tạo, khai thác thông tin tối đa nhằm thu hút  
độc giả.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
­ Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc của cặp thoại phỏng vấn.
­ Nghiên cứu đặc điểm chức năng của cặp thoại phỏng vấn.
­ Nghiên cứu chiến lược phỏng vấn và một số  đề  tài hỏi có 
khả năng vi phạm nguyên tắc lịch sự.
4.  Phương pháp nghiên cứu
Luận   án   tiến   hành   nghiên   cứu   đối   tượng   dựa   trên   một   số 
phương pháp thường gặp trong nghiên cứu ngôn ngữ học nói chung và  
ngôn ngữ học ứng dụng nói riêng, đó là:
­  Phương  pháp  phân  tích  hội  thoại  (PTDN)   là  phương  pháp 
nghiên cứu chính.
­ Phương pháp phân tích diễn ngôn; phương pháp điển mẫu;  
phương pháp phân tích – miêu tả.
Ngoài ra, luận án còn vận dụng một số thủ pháp:  mô hình hóa,  
thống kê,…có tính chất hỗ trợ.
5. Đóng góp của đề tài
Với đề tài này, luận án sẽ có những đóng góp mới cả về mặt lí 
luận và thực tiễn cho cả hai địa hạt ngôn ngữ học và báo chí.
5.1. Về mặt lí luận
­ Góp phần làm rõ, mở rộng những vấn đề lí luận về việc nghiên  
cứu lí thuyết hội thoại ở Việt Nam, giúp tìm hiểu cặn kẽ hơn về ngôn ngữ 
trong hoạt động phỏng vấn báo chí cũng như  giúp xây dựng các mô hình 
chuẩn mực cho hoạt động phỏng vấn.
5.2. Về mặt thực tiễn
2



­ Chỉ  ra những đặc trưng cơ  bản của ngôn ngữ  hội thoại phỏng  
vấn trên báo in, đưa ra được hệ  thống các thành tố  dùng để  cấu trúc 
nên cuộc thoại phỏng vấn. Thông qua đó, luận án góp phần xây dựng 
nên mô hình cuộc thoại phỏng vấn chuẩn mực về nghi thức văn hóa  
giao tiếp.

­ Hệ thống hóa các chiến lược giao tiếp có bản chất lịch sự cũng  
như  sự  thể  hiện đa diện, đa chiều của hành vi hỏi – đáp trong phỏng  
vấn. Từ   đó, luận  án góp thêm một số  kinh nghiệm trong khai thác 
thông tin qua hoạt động đặt câu hỏi cũng như khai thác triệt để  chiến  
lược giao tiếp, nghệ  thuật sử  dụng ngôn từ  trong hoạt động phỏng 
vấn. 
­ Giúp người làm báo có thêm kinh nghiệm khai thác thông tin 
cũng như  kinh nghiệm thực hiện các cuộc phỏng vấn thông qua các  
hành động ngôn từ và các chiến lược giao tiếp khi tác nghiệp.
­ Kết quả  của luận án có thể  là tài liệu tham khảo cho việc  
nghiên cứu và giảng dạy môn Ngôn ngữ  báo chí nói chung và Ngôn  
ngữ phỏng vấn nói riêng.
6. Bố cục
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận án gồm 4  
chương:
Chương 1: Tổng quan và cơ sở lí thuyết.
Chương 2. Đặc điểm cấu trúc của cặp thoại trong hội thoại phỏng  
vấn
Chương 3. Đặc điểm chức năng của cặp thoại trong hội thoại phỏng  
vấn
3



Chương 4. Chiến lược phỏng vấn và sự  vi phạm nguyên tắc lịch sự 
trong hội thoại phỏng vấn

Chương 1 
TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT 
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
­ Bức tranh nghiên cứu về hội thoại cũng như ngôn ngữ phỏng  
vấn rất phong phú, đa dạng. Mặc dù vậy, những nghiên cứu chuyên 
sâu về  ngôn ngữ  phỏng vấn vẫn còn rất ít, đặc biệt là hướng nghiên  
cứu theo đường hướng phân tích hội thoại. Với ngôn ngữ  hội thoại  
phỏng vấn trên báo in, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu  
nào chuyên sâu theo đường hướng này. Đây là lần đầu tiên, vấn đề này 
được nghiên cứu ở phạm vi một luận án tiến sĩ.
1.2. Phỏng vấn và phỏng vấn báo in
1.2.1. Một số quan niệm về phỏng vấn
­ Các tác giả  đều thừa nhận phỏng vấn  là một cuộc đối thoại  
(hỏi – trả  lời) giữa nhà báo (người hỏi) và người được phỏng vấn  
(người trả lời) nhằm mục đích cung cấp thông tin, ý kiến về những sự  
kiện, vấn đề thời sự hoặc nhằm khắc họa chân dung nhân vật mà công  
chúng quan tâm. Trong luận án, chúng tôi kế thừa những cách hiểu trên 
về phỏng vấn của các nhà nghiên cứu trên thế giới và trong nước, đặc 
biệt chúng tôi nhấn mạnh thể loại phỏng vấn trên báo in là “hình thức  
đăng tải tác phẩm dưới dạng đối thoại (hỏi – trả  lời)” (Lê Thị  Nhã,  
Giáo trình Phỏng vấn Báo chí, NXB Thông tấn, tr.18).
1.2.2. Phân loại phỏng vấn
Luận án tập trung khảo sát ba loại phỏng vấn:
­  Phỏng vấn chân dung  là loại phỏng vấn chỉ  tập trung vào  
một nhân vật, nhà báo đưa ra câu hỏi để đối tượng phỏng vấn (ĐTPV) 
tự  bộc lộ  về  mình (quan điểm, tâm tư, thành tích, kế  hoạch tương  

lai…). ĐTPV thường là những người nổi tiếng, người có thành tích nổi  
bật ở các lĩnh vực hoạt động như văn hóa, chính trị, xã hội, kinh tế…,  
đặc biệt họ phải là người “thu hút được sự quan tâm của công chúng”.
4


­ Phỏng vấn điều tra nhằm phân tích, nghiên cứu sâu về  một 
sự  kiện, vấn đề  có tính phức tạp, cấp bách, phát sinh nhiều luồng dư 
luận mà công chúng đang đòi hỏi cần làm sáng tỏ. ĐTPV là những 
nhân chứng liên quan đến sự việc, sự kiện.
­ Phỏng vấn thông tin là dạng phỏng vấn mà nội dung gắn liền 
với những tin tức, sự  kiện mang tính thời sự  được công chúng quan 
tâm. Đối tượng phỏng vấn khá rộng: từ  những người có thẩm quyền 
đến người có uy tín, nhân chứng có liên quan (là người bình thường)… 
1.2.3. Đặc điểm nổi bật của thể loại phỏng vấn
­ Bản chất của phỏng vấn không phải là trao đổi, trò chuyện  
hay tranh luận mà chủ yếu là hình thức đối thoại: hỏi và trả lời.
­ Nhà báo luôn là người đưa ra hành động hỏi, ĐTPV là người  
đưa ra hành động hồi đáp trả  lời. Trong cuộc giao tiếp này, gần như 
không   có   hiện   tượng   luân   phiên   đổi   vai  như   các   cuộc   thoại   thông 
thường.
­ Việc sử dụng ngôn từ được coi như chiến lược giao tiếp của  
những nhà báo và người được phỏng vấn.
­ Mục đích phỏng vấn không phải để  cho những người tham  
gia mà nhằm phục vụ “người thứ ba”, đó là đông đảo độc giả.
1.3. Lí thuyết hội thoại 
1.3.1. Vận động hội thoại 
Vận động hội thoại giữa hai nhân vật gồm ba vận động chủ yếu:  
trao lời, trao đáp và sự tương tác hội thoại.
1.3.2. Các đơn vị hội thoại

Cho đến nay có nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định 
cấu trúc hội thoại. Trong luận án, chúng tôi kế  thừa quan điểm cũng  
như tên gọi các thuật ngữ của trường phái phân tích hội thoại Thụy Sĩ 
–Pháp. Trường phái này cho rằng hội thoại là một tổ chức có tôn ti với  
các đơn vị cấu trúc từ lớn đến bé là: cuộc thoại (còn gọi là cuộc tương  
tác, conversation, interaction), đoạn thoại (sequence), cặp trao đáp (cặp  
thoại – exchange), tham thoại (intervention) và hành động nói (speech  
act). Trong cấu trúc này, ba đơn vị đầu nằm trong sự vận động trao đáp 
nên có tính chất lưỡng thoại, hai đơn vị sau có tính chất đơn thoại.
5


1.3.3.  Các quy tắc hội thoại
Khi   nghiên   cứu   cuộc   thoại   phỏng   vấn   trên   báo   in,   luận   án 
chúng tôi quan tâm chủ  yếu đến  nguyên tắc cộng tác và nguyên tắc  
lịch sự. Đây là hai nguyên tắc tác động, chi phối mạnh mẽ đến cuộc 
thoại phỏng vấn.
Nguyên tắc cộng tác  (cooperative principle) đã được một số  nhà 
nghiên cứu cụ thể hóa dưới dạng một số quy tắc, H.P.Grice gọi đó là  
những phương châm hội thoại (maxims). Theo ông, để một cuộc thoại 
có   thể   diễn   ra   bình   thường,   các   bên   tham   thoại   cần   tuân   thủ   bốn 
phương châm hội thoại sau: phương châm về lượng, phương châm về 
chất, phương châm quan hệ  và phương châm cách thức . Khi  nghiên 
cứu cặp thoại phỏng vấn, cần phải xem xét sự  tác động, điều chỉnh 
của các phương châm này đối với cặp câu hỏi – câu trả lời.
1.4. Lí thuyết hành vi ngôn ngữ (Speech act theory)
Searle phân loại theo hành vi ngôn ngữ  (HVNN) với 4 tiêu chí 
cơ  bản: đích tại lời (illocutionary point), hướng khớp lời – hiện thực  
(direction of fit), trạng thái tâm lí của người nói (S’psychological state) 
khi thực hiện hành động và nội dung mệnh đề  (propositional content). 

Theo  đó,   các  HVNN  được  chia thành 5  nhóm   như   sau:  1/  Tái   hiện 
(Representatives); 2/ Điều khiển (Directive); 3/ Cam kết (Commissive); 
4/ Biểu cảm (Expressive); 5/ Tuyên bố (Declaratives).
Hành vi ngôn ngữ trực tiếp (direct illocutionary speech acts) là 
những HVNN “có sự  tương  ứng giữa cấu trúc phát ngôn trên bề  mặt 
với hiệu lực của nó gây nên”. Nói cách khác, HVNN được thực hiện  
đúng với điều kiện sử dụng, đúng với đích ở lời của chúng.
Tuy   nhiên,   trong  thực   tế   giao  tiếp   cũng  như   phỏng   vấn,   vì 
những lí do khác nhau, người nói sử dụng HVNN này nhưng lại nhằm  
đến hiệu lực  ở lời của HVNN khác. Đó là hành vi ngôn ngữ  gián tiếp  
(indirect illocutionary speech acts).
1.5. Lí thuyết lịch sự và vấn đề nghiên cứu lịch sự trong 
phỏng vấn
1.5.1. Các lí thuyết về lịch sự 
6


1.5.1.1. Lí thuyết về lịch sự chiến lược
Đại diện tiêu biểu là các tác giả R. Lakoff, J.N. Leech, P.Brown 
và S. Levinson, trong đó quan điểm của P. Brown và S. Levinson được 
xem là nhất quán, có  ảnh hưởng rộng rãi và có hiệu quả  nhất đối với  
việc nghiên cứu về  phép lịch sự. Nhìn chung, các lí thuyết lịch sự 
chiến lược đều có điểm chung: coi lịch sự là chiến lược tránh đụng độ 
trong giao tiếp. Chiến lược  ấy thuộc về  cái Tôi, do cái Tôi tự  tạo ra  
trong quá trình tương tác xã hội, nó là kết quả của nền văn hóa phương  
Tây, tôn trọng và đề cao cái tôi cá nhân.
1.5.1.2. Lí thuyết về lịch sự chuẩn mực
Có tính khuôn mẫu, quy ước, coi trọng quan hệ vị thế, quan hệ 
thân sơ.
1.5.1.3. Quan niệm lịch sự của người Việt

Lịch sự  trong tiếng Việt bao hàm cả  hai bình diện: lịch sự 
chiến lược theo kiểu phương Tây và  lịch sự  chuẩn mực  theo kiểu 
phương Đông. Người Việt Nam trong giao tiếp luôn chú trọng sự  tế 
nhị, khéo léo, khiêm nhường (biểu hiện của lịch sự  chiến lược) vừa  
nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong giao tiếp vừa giúp đối tác giao tiếp 
giữ được mối thân tình. Mặt khác, người Việt còn chú trọng sự lễ độ,  
đúng mực (cách  ứng xử phù hợp với lịch sự chuẩn mực), thể hiện sự 
tôn trọng các giá trị xã hội như tuổi tác, vị thế, tôn ti, thứ bậc…
1.5.2. Lịch sự trong phỏng vấn
­ Lịch sự là một trong những yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp 
của nhà báo.
­ Trong phỏng vấn, hỏi là “độc quyền” của nhà báo nhưng về 
bản chất, đây là hành vi có khả năng đe dọa thể diện của người được  
phỏng vấn nhất.
­  Do nhà báo luôn là người chủ  động về  đề  tài, câu hỏi, kịch 
bản, là người áp đặt, chi phối, định hướng ngay cả đối với các hành vi 
của ĐTPV nên nếu không khéo léo, nhà báo rất dễ vi phạm nguyên tắc  
lịch sự khi tác nghiệp.
­ Phỏng vấn là cuộc trò chuyện giữa nhà báo và ĐTPV được  
công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Điều này đặt ra yêu  
7


cầu rất cao về  tính lịch sự  đối với nhà báo và đối tượng phỏng vấn.  
Họ  không những chỉ giữ thể diện cho mình mà quan trọng là phải giữ 
thể diện trước công chúng bạn đọc.
1.6. Tiểu kết 
Chương 1 đã trình bày một số  vấn đề  cơ  bản nhất về  lí luận 
làm cơ sở cho việc phân tích đặc điểm ngôn ngữ hội thoại trong phỏng 
vấn báo chí. 

Thứ  nhất, dựa vào, lí thuyết hội thoại, lí thuyết hành vi ngôn 
ngữ, luận án đưa ra cái nhìn tổng quan về  giao tiếp trên báo in và hội 
thoại phỏng vấn.
Từ  điểm nhìn của lí thuyết hội thoại, phỏng vấn là một cuộc 
thoại điển hình. Tuy nhiên, phỏng vấn báo chí là dạng hội thoại đặc 
biệt,   nó   vừa   mang   đặc  điểm   của   cuộc   thoại   thông  thường   vừa   có  
những nét đặc thù. Trên cơ  sở  kế  thừa các tác giả  đi trước, chúng tôi  
chọn một số khái niệm tác nghiệp phù hợp để làm công cụ nghiên cứu  
của luận án ở các chương sau: giới hạn khái niệm cặp thoại, xác định 
vị  trí cặp thoại trong cuộc thoại phỏng vấn, chỉ ra đơn vị  cơ  sở  cấu  
tạo nên cặp thoại, các đặc điểm, tính chất cơ bản của cặp thoại; đặc  
điểm của một số HVVN thường dùng và tính tương tác trong hội thoại 
phỏng vấn.
Từ  điểm nhìn của lí thuyết hành vi ngôn ngữ, các nguyên tắc  
hội thoại và lí thuyết lịch sự, luận án đã trình bày các lí thuyết lịch sự 
và quan niệm về  lịch sự  của người Việt để  làm cơ  sở  để  khảo sát 
hành vi hỏi, hành vi chủ  hướng trong hầu hết các TTDN của nhà báo 
nhưng lại có khả năng cao vi phạm yếu tố lịch sự trong phỏng vấn. 

Chương 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC CẶP THOẠI
TRONG HỘI THOẠI PHỎNG VẤN
2.1. Cấu trúc của tham thoại trong hội thoại phỏng vấn
­ Trong tổ chức cặp thoại (CT), tham thoại (TT) vừa là đơn vị 
trực tiếp cấu tạo nên CT, vừa là đơn vị  có cấu trúc nội bộ  riêng, thể 
8


hiện quan hệ  giữa các HVNN. Việc nghiên cứu CT vì vậy phải xem  
xét, xuất phát từ những đơn vị bậc dưới của nó, đó là TT và HVNN.
 ­ Cuộc thoại phỏng vấn là một dạng hội thoại đặc thù trong 

đó CT được hiện thực hóa qua TT trao đáp có cấu trúc hình thức khá 
ổn định: Tham thoại dẫn nhập (initiative move): câu hỏi; Tham thoại  
hồi đáp (reactive move): câu trả lời
2.1.1. Tham thoại dẫn nhập (TTDN) trong phỏng vấn 
Cấu trúc nòng cốt của một TT nói chung cũng như của TTDN 
đều gồm hai phần: hành vi chủ hướng (HVCH) (head) và hành vi phụ 
thuộc (HVPT) (pre­head, post­head).
2.1.1.1. Hành vi chủ hướng
Trong các cuộc thoại phỏng vấn, đảm nhận vị  trí HVCH của  
TTDN có thể là: Hành vi chào, hành vi hỏi, hành vi trần thuật, hành vi  
cám   ơn   và   chúc   tụng.   Kết   quả   khảo   sát   cho   thấy   trong   số   những 
HVCH trong TTDN, hành vi hỏi vẫn chiếm tỉ lệ cao nhất (60,2%) bởi  
vì bản chất của phỏng vấn là hỏi – trả  lời. Hành vi trần thuật chỉ 
chiếm tỉ lệ thấp (22,9%). Điều này giúp phân biệt phỏng vấn với các 
thể loại báo chí khác có hình thức giống với phỏng vấn như tọa đàm,  
giao lưu (hành vi trần thuật chiếm số lượng lớn).
2.1.1.2. Hành vi phụ thuộc
Trong   TTDN   của   nhà   báo,   các   HVNN   đóng   vai   trò   HVPT  
thường là hành vi khen, hành vi chê và hành vi trần thuật. Hành vi trần  
thuật là hành vi vừa có khả  năng đảm nhiệm vai trò là HVCH, vừa là  
HVPT trong TTDN. Tuy nhiên, hành vi này thường xuất hiện với tư 
cách là HVPT với tỉ  lệ  cao hơn HVCH (60,4 % và 22,9 %). Nếu như 
hành vi hỏi là hành vi được sử dụng phổ biến trong HVCH của TTDN  
phỏng vấn thì hành vi trần thuật lại được sử dụng thường xuyên trong  
HVPT của TTDN. Chúng thường giữ  chức năng giải thích, bổ  sung 
luận cứ để nhà báo thực hiện hành vi hỏi.
2.1.2. Mô hình hình thức của TTDN trong cặp thoại phỏng 
vấn
Qua khảo sát tư liệu phỏng vấn báo in, có thể mô hình hóa các 
kiểu cấu trúc TTDN mà nhà báo thường sử dụng khi tác nghiệp thành 

9


10 loại mô hình. Đặc biệt, kiểu mô hình (PT CH)  mà hành vi phụ 
thuộc đi trước đảm nhiệm vai trò “dọn đường” cho hành vi chủ hướng  
hỏi ở phía sau thường được nhà báo sử dụng nhiều hơn cả. 
2.1.3. Tham thoại hồi đáp trong phỏng vấn
Trong phỏng vấn, TTHĐ có vị  trí vô cùng quan trọng. TTDN 
trong phỏng vấn mới chỉ làm thành một bộ phận nêu vấn đề chứ chưa 
mang thông tin, còn TTHĐ (khẳng định hay phủ  định) mới làm cho 
thông tin được sáng tỏ, tạo thành một chu trình giao tiếp khép kín.  
TTHĐ quyết định tới diễn tiến, kết quả  cuộc hội thoại. Đồng thời,  
thông  qua  TTHĐ,   người   đọc  mới   thấu  rõ  tâm   lí,   quan  điểm…  của 
ĐTPV cũng như đích của cuộc thoại.
Về  vị  trí,  TTHĐ luôn nằm ngay sau TTDN, có mối quan hệ 
tương tác với TTDN. Hướng hồi đáp của TTHĐ phụ  thuộc chặt chẽ 
vào TTDN.
Về  cấu trúc, TTHĐ cũng giống với TTDN trong phỏng vấn 
gồm   hai   thành   phần   là   HVCH   và   HVPT.   Tuy   nhiên,   việc   xác   định 
HVCH trong TTHĐ phụ thuộc vào TTDN. Theo đó, hành vi nào hồi đáp 
trực tiếp vào HVCH của nhà báo trong TTDN thì hành vi đó sẽ giữ vai  
trò chủ hướng trong TTHĐ.
2.2. Cấu trúc của cặp thoại phỏng vấn 
Điểm khác biệt của CT phỏng vấn so với các CT  ở  các dạng 
hành chức khác như CT dạy học, CT trong hội thoại thông thường hay  
CT trong tác phẩm văn học thể  hiện  ở chỗ cặp hỏi ­ đáp chính là CT 
chủ  hướng, trong phỏng vấn không có sự  xuất hiện của những cặp 
phụ  thuộc, chêm xen. Mỗi CT là một cặp kế  cận khép kín, tạo thành 
một CT hoàn chỉnh trình bày những chủ  đề  nhỏ, nhiều CT có sự  liên  
kết về nội dung tạo thành chủ đề lớn của cuộc thoại phỏng vấn.

2.2.1. Cặp thoại một tham thoại
Là những CT bất thường về mặt cấu tạo. “Nó tạo ra cấu trúc 
hẫng của CT (gọi là CT hẫng). Trong phỏng vấn báo chí, CT hẫng là 
cặp thoại chỉ  có TTDN mà không có TTHĐ. CT hẫng thường xuất  
hiện khi nhà báo sử dụng những TTDN mang tính nghi thức như TTDN  
có hành vi chào, cảm  ơn, chúc… Hoặc khi nhà báo sử  dụng những 
10


TTDN có nội dung vi phạm nguyên tắc lịch sự, đe dọa thể  diện của  
họ. Trong những trường hợp này, trên báo in, ĐTPV thường không hồi  
đáp những kiểu tham thoại như vậy.
2.2.2. Cặp thoại hai tham thoại 
Đây là dạng phổ biến nhất trong hội thoại phỏng vấn, trong đó 
mỗi TT  ứng với một chức năng  ổn định: TT thứ  nhất của nhà báo có 
chức năng dẫn nhập, TT thứ hai của ĐTPV có chức năng hồi đáp.
2.2.3. Mô hình hình thức của cặp thoại phỏng vấn
Qua   khảo   sát   ngữ   liệu   đồng   thời   dựa   trên   cách   phân   chia  
HVCH trong TT mà chúng tôi đã trình bày  ở  phần trên, trong phỏng 
vấn có thể gặp 5 mô hình CT thường gặp: cặp Hỏi – Trần thuật; cặp  
Trần thuật – Trần thuật; cặp Cảm thán – Trần thuật; cặp Cầu khiến –  
Cầu khiến và cặp Hỏi – Hỏi lại, trong đó chiếm  ưu thế  nhất vẫn là 
cặp Hỏi – Trần thuật truyền thống.
2.3. Quan hệ trao đáp trong cặp thoại phỏng vấn 
Thực chất quan hệ  trao đáp trong CT phỏng vấn là quan hệ 
giữa  các  hành  vi   trong  TTDN   và   TTHĐ.   Căn  cứ   vào  nội   dung  của 
TTHĐ cũng như  sự  tương thích của các HVNN trong các TT, có thể 
chia quan hệ trao đáp trong CT phỏng vấn thành hai loại: quan hệ trao  
đáp có tính chất tích cực và quan hệ trao đáp có tính chất tiêu cực.
2.3.1. Quan hệ trao đáp tích cực

Trong quan hệ  này, các HVNN trong TTHĐ thường tạo nên 
những cặp tương tác tích cực với HVNN trong TTDN của phóng viên  
như TTDN yêu cầu cung cấp thông tin, TTHĐ cung cấp thông tin, trần  
thuật khẳng định – đánh giá (về  lời khẳng định)… Mối quan hệ  tích 
cực này góp phần thỏa mãn đích giao tiếp mà TTDN của nhà báo đặt  
ra. Quan hệ trao đáp này tạo ra những CT bình thường và thông thường 
có thể kết thúc CT phỏng vấn ở đó.
2.3.2. Quan hệ trao đáp tiêu cực
ĐTPV vì những lí do nhất định có thể  phá vỡ  sự  tương hợp  
trao – đáp, tạo nên những kiểu quan hệ trao đáp mang tính tiêu cực như 
TTDN yêu cầu cung cấp thông tin, TTHĐ từ  chối cung cấp thông tin, 
11


khen – từ  chối lời khen... Trong kiểu quan hệ  này, TTHĐ của ĐTPV 
thường đi ngược với đích đặt ra của TTDN của nhà báo và tạo nên 
những CT không bình thường trong hội thoại phỏng vấn. Khi đó CT có 
thể  kéo dài hoặc kết thúc trong sự  bất đồng giữa nhà báo và ĐTPV 
hoặc đôi khi có thể có sự xoay chuyển cục diện phỏng vấn từ tiêu cực  
sang tích cực.
2.4. Tiểu kết
Trong chương này, cặp thoại phỏng vấn được nghiên cứu  ở 
góc độ cấu trúc. Cặp thoại đã được phân tích kĩ với tất cả những đặc  
trưng về cấu trúc nội tại, mô hình hình thức cũng như các quan hệ trao  
đáp. 
Tư liệu khảo sát Chương 2 cho thấy cấu trúc phổ biến của CT 
phỏng vấn là dạng thức hai TT với mô hình Hỏi – Trả lời.
Là một dạng hội thoại đặc thù, chính vì vậy quan hệ trao đáp 
trong cặp thoại phỏng vấn cũng mang những tính chất đặc trưng so  
với kiểu CT trong các lĩnh vực khác. Đó là mối quan hệ mang tính nhân 

quả  và một chiều, không có sự  luân phiên đổi vai như  các hoạt động 
giao tiếp thông thường. Hầu hết các CT phỏng vấn đều có quan hệ 
trao đáp tích cực, nghĩa là giữa các HVNN trong TTHĐ thường tạo nên  
những cặp tương tác tích cực với HVNN trong TTDN của nhà báo, góp 
phần phát triển nội dung cuộc phỏng vấn.
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM CHỨC NĂNG CỦA CẶP THOẠI 
TRONG HỘI THOẠI PHỎNG VẤN
3.1. Cặp thoại mở đầu cuộc phỏng vấn
TTDN có chức năng mở thoại của cuộc thoại phỏng vấn phần  
lớn mang tính quy thức và do nhà báo chủ  động đảm nhiệm. ĐTPV 
thường đón nhận một cách thụ động và không hồi đáp lại TT này. Vì  
vậy, CT mở đầu phỏng vấn là CT một TT hay còn gọi là CT hẫng như 
trong Chương 2 chúng tôi đã phân tích. Đảm nhiệm vai trò HVCH trong  
TTDN của loại CT này thường là hành vi thông báo và hành vi chào.
3.1.1. Hành vi thông báo
12


Đối với bài phỏng vấn, nếu đầu đề  có nhiệm vụ  “níu mắt”  
người đọc tại bài phỏng vấn thì hành vi thông báo được hiển thị   ở 
sapo có chức năng định hướng, mời gọi độc giả, giúp họ dễ  lựa chọn 
việc tiếp tục đọc hay không đọc bài phỏng vấn giữa rất nhiều tin, bài 
khác của cùng một tờ báo hoặc của nhiều tờ báo khác.
3.1.1.1. Nhằm giới thiệu sự kiện hoặc vấn đề và người trả lời  
phỏng vấn
Đây là chức năng được sử dụng nhiều nhất của hành vi thông 
báo, đặc biệt là trong dạng bài phỏng vấn thời sự.
3.2.1.2. Nhằm nêu lí do, bối cảnh phỏng vấn
Nội dung mệnh đề  của hành vi thông báo  ở  dạng này thường  

nêu hoàn cảnh, tình huống, bối cảnh xuất hiện của cuộc thoại phỏng  
vấn. Thông thường, những lí do đưa ra mang tính khác thường, mới lạ 
và mang tính thời sự.
3.2.1.3. Nhằm giới thiệu nhân vật trả lời phỏng vấn
Cách thông báo này thường sử  dụng trong những bài phỏng  
vấn chân dung để  thông tin về tiểu sử, thành tích nhân vật hoặc phác  
họa diện mạo, tính cách, đặc điểm nổi bật của ĐTPV cho bạn đọc 
được biết.
3.2.1.4. Nhằm nêu ý nghĩa của sự  kiện mà bài phỏng vấn đề  
cập
3.1.2. Hành vi chào
Trong phỏng vấn trên báo in, hành vi chào thường là của phóng 
viên và thường không được ĐTPV hồi đáp lại hành vi này. Nó là hành 
động đơn phương, một chiều.
3.1.2.1. Trường hợp nhà báo (SP1) có vị  thế  xã hội cao hơn  
hoặc bằng đối tượng phỏng vấn (SP2) (SP1≥ SP2)
Nhà báo thường sử dụng cách chào thân mật bằng tên riêng hay 
biệt danh hoặc đại từ  nhân xưng thân tộc nhằm làm cho không khí  
cuộc phỏng vấn thân tình, cởi mở.

13


3.1.2.2. Trường hợp nhà báo (SP1) có vị  thế  xã hội thấp hơn  
đối tượng phỏng vấn (SP2) (SP1< SP2)
Trong   những   cuộc   phỏng   vấn   mà   nhà   báo   và   ĐTPV   có   sự 
chênh lệch cao về vị thế xã hội, chẳng hạn như ĐTPV là những người  
có địa vị  cao trong xã hội (Chủ  tịch nước, Thủ tướng, Bộ trưởng…),  
lúc đó phóng viên thường sử dụng hành vi chào mang tính nghi thức đó  
là cách chào bằng chức danh, chức vụ. 

3.2. Cặp thoại kết thúc cuộc thoại phỏng vấn
3.2.1. Các từ ngữ báo hiệu kết thúc cuộc thoại phỏng vấn
CT kết thúc phỏng vấn cũng là CT mang tính nghi  thức  và 
trong phỏng vấn, nhà báo có thể  sử  dụng một số  từ  ngữ  báo hiệu 
chấm dứt cuộc thoại phỏng vấn.
Về từ loại, chúng thường là các ngữ danh từ như  câu hỏi cuối,  
câu hỏi cuối cùng… ngữ  động từ  như  khép lại cuộc trò chuyện này,  
kết thúc cuộc phỏng vấn hôm nay… các ngữ cố  định như  nói tóm lại,  
chung quy lại…
Về vị trí, chúng thường đứng ở đầu câu:
Các từ ngữ  báo hiệu kết thúc cuộc phỏng vấn,  NP + 
VP
3.2.2.  Các HVNN báo hiệu kết thúc cuộc thoại phỏng vấn
Hành vi cảm ơn, chúc thường xuất hiện ở vị trí phát ngôn kết  
thúc trong mỗi cuộc thoại, với vai trò là TTDN của nhà báo. ĐTPV 
thường không có sự  hồi  đáp vào hành vi này. Vì vậy, CT kết thúc 
phỏng vấn cũng là CT một tham thoại hay CT hẫng.
      3.2.2.1. Trường hợp nhà báo (SP1) có vị thế xã hội cao hơn hoặc  
bằng ĐTPV (SP2) (SP1≥ SP2)
Trong các cuộc phỏng vấn chân dung hoặc phỏng vấn thời sự 
(nhưng ĐTPV có vị  thế  xã hội thấp hơn hoặc bằng nhà báo), nhà báo 
có thể  sử  dụng hành vi cám  ơn cũng như  hành vi chúc đi kèm với tên  
riêng của ĐTPV.
3.2.2.2. Trường hợp nhà báo (SP1) có vị  thế xã hội thấp hơn ĐTPV  
14


(SP2) (SP1< SP2)
Nhà báo thường kết thúc cuộc phỏng vấn bằng hành vi cám  ơn 
một cách trang trọng (rất ít trường hợp sử dụng hành vi chúc).

3.3. Cặp thoại triển khai cuộc thoại phỏng vấn
3.3..1. Chức năng của hành vi hỏi trực tiếp trong hội thoại  
phỏng vấn
Chức năng nổi bật nhất của hành vi hỏi chính danh là yêu cầu 
cung cấp thông tin. Chức năng này của hành vi hỏi được thể hiện trong 
phỏng vấn báo in khá đa dạng.
3.3.1.1. Yêu cầu cung cấp thông tin về mục đích hành động
Chức năng này thường được thực hiện theo mô thức: ĐTPV+  
V + để làm gì? 
3.3.1.2. Yêu cầu cung cấp thông tin về  nguyên nhân của hành  
động/sự việc/ sự kiện
Biểu thức tiêu biểu của chức năng này là: Tại sao/Vì sao/ Sao  
+ĐTPV + V?
3.3.1.3.   Yêu  cầu   cung  cấp   thông  tin   về   số   lượng   của   hành  
động/sự việc/ sự kiện
Biểu thức để hỏi thực hiện chức năng này thường sử dụng các  
đại từ như mấy, bao nhiêu.
3.4.1.4. Yêu cầu cung cấp thông tin về thời gian xảy ra của hành động/sự  
việc/ sự kiện liên quan đến ĐTPV
Chức năng này của hành vi hỏi thường được nhận ra qua sự 
tham gia của các từ để hỏi như bao lâu, khi nào, lúc nào, bao giờ.
3.4.1.5. Yêu cầu ĐTPV cung cấp thông tin để  làm rõ vấn đề  (yêu cầu xác  
nhận ý kiến)
Chức năng này của hành vi hỏi thường sử dụng các cụm từ để 
hỏi như: “có hay không”, “đúng hay sai”, “A hay B”… và thường có 
sẵn phương án trả lời để người được hỏi lựa chọn. 
Những hành vi hỏi dạng này mang giá trị  ngôn trung trực tiếp  
và buộc người được hỏi phải trả  lời. Nó yêu cầu ĐTPV phải trả  lời  
15



thẳng, trực diện vào vấn đề  mà phóng viên đã đưa ra sẵn các phương  
án trả lời.
3.3.2. Chức năng của hành vi hỏi gián tiếp trong hội thoại 
phỏng vấn
3.3.2.1. Hỏi để kiểm chứng
a. Nội dung thông tin cần kiểm chứng xuất phát từ  phía nhà  
báo
Khi sử dụng hành vi hỏi với chức năng kiểm chứng, nhà báo có 
thể   xuất   phát   từ   những   chứng  cứ,   dữ   liệu  mình  đã   có  và   yêu  cầu 
ĐTPV giải thích, làm sáng tỏ những chứng cứ, dữ liệu đó. 
 b. Nội dung thông tin cần kiểm chứng xuất phát từ phía ĐTPV
Trong phỏng vấn, có thể  TTHĐ của ĐTPV xuất hiện những  
vấn đề, những cụm từ, số  liệu… là mấu chốt của vấn đề  và không  
được phép hiểu sai. Chính vì vậy, nhà báo sử dụng hành vi hỏi –kiểm 
chứng để kiểm tra lại thông tin.
3.3.2.2. Hỏi để phản biện
Được sử  dụng khi phóng viên muốn lật ngược vấn đề  nhằm 
làm sáng tỏ, minh bạch hoặc xác định lại tính chính xác của thông tin  
đồng thời đây cũng là cách để rộng đường dư luận. Thông qua việc sử 
dụng hành vi hỏi để  chất vấn, vấn đề, sự  việc, sự  kiện sẽ  được lí  
giải, phân tích một cách kĩ lưỡng, sâu sắc hơn  ở  các chiều cạnh khác 
nhau và thường là ở mặt trái của nó.
3.3.2.3. Hỏi để phản bác
P + à?/ Thế không + p + à?
Như thế mà + p + à?
Sao lại + p? trong đó p là nội dung mệnh đề  chứa hành động, 
sự vật, sự việc phản bác.
Hành vi hỏi ­ phản bác buộc ĐTPV phải giải thích sự  tồn tại 
của hành động, sự vật, sự việc nêu ở mệnh đề p hoặc phải chấp nhận  

thái độ phê phán, bác bỏ của nhà báo. 

16


3.3.2.4. Hỏi để quy gán
­ Dạng thứ  nhất có cấu trúc của kiểu câu hỏi truy tìm nguyên  
nhân, lí do dẫn đến hành động, sự  việc, sự  kiện tiêu cực. Dạng này 
thường có sự xuất hiện của từ nghi vấn sao, tại sao.
­ Dạng thứ  hai có cấu trúc của kiểu câu hỏi tìm hiểu về  đối  
tượng gây nên hành động, sự việc, sự kiện tiêu cực. Dạng quy gán này 
phóng viên thường sử dụng đại từ nghi vấn “ai”.
3.3.2.5. Hỏi để phỏng đoán
Làm mềm hóa hành vi hỏi mang tính định hướng chủ quan, áp 
đặt của nhà báo và vì vậy hành vi hỏi – đoán thường được sử  dụng 
trong kiểu bài  phỏng vấn chân dung nhằm tạo sự  thân mật, gần gũi 
giữa nhà báo – ĐTPV.
3.3.2.6. Hỏi để khẳng định
Ở  phát ngôn chứa hành vi hỏi dạng này, hỏi không phải là 
hành vi chứa đích ở lời mà nhà báo cần đạt được, mà HVNN chính của  
phát ngôn là yêu cầu ĐTPV thừa nhận, tán thành ý khẳng định của nhà  
báo.
3.3.2.7. Hỏi để đề nghị
3.3.2.8. Hỏi để điều tiết cuộc thoại
Nội dung của câu hỏi điều tiết có thể  rỗng hoàn toàn, chúng 
chỉ có chức năng đưa đẩy, dẫn dắt, duy trì quan hệ giao tiếp giữa nhà  
báo và ĐTPV.  ĐTPV, do vậy, không nhất thiết phải trả  lời những  
dạng câu hỏi này, nếu có trả lời thì có thể dùng những câu trả lời ngắn  
như  “Vâng”, “Đúng thế”… nhằm thông báo cho phóng viên biết mình 
vẫn đang theo dõi cuộc phỏng vấn mà không làm ảnh hưởng đến lượt 

lời.
3.3.2.9. Hỏi để chê, để khiêu khích
Đích của lời của hành vi hỏi dạng này là hướng tới hiệu lực của  
hành vi chê hoặc khiêu khích, đồng thời nhà báo muốn biết thái độ 
phản ứng của ĐTPV đối với hành động, sự vật, sự việc liên quan đến 
ĐTPV bị chê, bị mỉa đó.
17


Kết quả khảo sát cho thấy trong phỏng vấn báo in hiện nay, hành 
vi hỏi được sử  dụng với nhiều chức năng khác nhau, biểu đạt nhiều 
giá trị ngôn trung khác nhau. Hành vi hỏi được sử dụng với chức năng 
yêu cầu cung cấp thông tin và xác nhận thông tin chiếm tỉ lệ cao nhất  
(chiếm 55,2% và 12,3%). Điều này là do mục đích cơ  bản của mọi 
cuộc phỏng vấn trước hết đều nhằm khai thác thông tin từ  một đối  
tượng nào đó để cung cấp cho công chúng độc giả.
3.4. Tiểu kết
Trong chương này, luận án đã đi sâu xem xét chức năng của ba 
loại CT trong phỏng vấn đó là: CT mở  đầu, CT triển khai và CT kết  
thúc phỏng vấn. Trên cơ  sở  đó, luận án nghiên cứu chức năng cụ  thể 
của từng loại HVNN điển hình, thường dùng trong từng loại CT. 
Bên  cạnh  những  HVNN  mang  tính  quy thức,  trong  phỏng  vấn  
cũng có những loại hành vi được sử  dụng hết sức đa dạng, linh hoạt  
như  hành vi hỏi – hành vi trung tâm và được sử  dụng phổ  biến nhất 
trong TTDN phỏng vấn của nhà báo. Việc tiếp cận nghiên cứu hành vi 
hỏi trong phỏng vấn ở cấp độ CT dưới góc độ dụng học cho phép chỉ 
ra trong một chừng mực nhất định các giá trị  ngôn trung đa dạng của 
hành vi hỏi trong phỏng vấn, mối quan hệ giữa hành vi hỏi và hành vi 
hồi đáp, giữa nhà báo và ĐTPV, giữa câu hỏi với từng tình huống, chủ 
đề cũng như dạng phỏng vấn đặc thù. 


Chương 3
18


CHIẾN LƯỢC PHỎNG VẤN VÀ SỰ VI PHẠM NGUYÊN 
TẮC LỊCH SỰ TRONG PHỎNG VẤN
4.1. Hỏi đáp và vấn đề  chiến lược giao tiếp trong hội thoại  
phỏng vấn
Nhà báo có vai trò hết sức quan trọng đối với thành công của  
cuộc phỏng vấn cũng như  bài phỏng vấn. Họ  không những tác động 
tới người được phỏng vấn mà còn tác động tới cả công chúng báo chí.  
Đồng thời vai của nhà báo (và cả  vai của người trả  lời phỏng vấn)  
cũng  ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả  thông tin của tác phẩm  
báo chí phỏng vấn. Tùy theo mục đích khai thác thông tin, mỗi nhà báo  
sẽ có cách đặt câu hỏi cũng như chiến lược giao tiếp phù hợp.
4.2. Chiến lược phỏng vấn trên báo in
4.2.1. Một số  chiến lược điều hành vận động trao đáp trong  
hội thoại phỏng vấn 
4.1.1.1. Sử  dụng lời chào, lời giới thiệu và những nghi thức  
tạo lập, duy trì, củng cố quan hệ hội thoại giữa nhà báo và ĐTPV
4.1.1.2. Sử dụng từ hô gọi, tổ hợp tình thái để ĐTPV chú ý đến  
nội dung trong câu hỏi phỏng vấn
Trong quá trình phỏng vấn, ĐTPV có thể  lơ  là, mất sự  tập 
trung, không hợp tác và dẫn cuộc phỏng vấn đến chỗ không có giá trị 
tương tác. Có thể nói thái độ  không chú ý của ĐTPV là dấu hiệu đầu 
tiên cảnh báo nguy cơ  không đạt đích của cuộc phỏng vấn. Chính vì 
vậy, muốn cuộc phỏng vấn tiếp tục và đi đến đích, nhà báo phải sử 
dụng một hoặc một số  số  phương tiện để  điều chỉnh sự  chú ý của 
người nghe nhằm hâm nóng bầu không khí cuộc phỏng vấn, duy trì sự 

gắn kết, tạo cho ĐTPV sự  hứng thú, khích lệ  họ  tiếp tục đồng hành  
đến hết cuộc phỏng vấn.
4.1.1.3.   Định   hướng   và   dẫn   dắt   ĐTPV   vào   nội   dung   cuộc  
phỏng vấn
19


­ Sử dụng các cụm từ mang tính định hướng ĐTPV như: quay 
trở  lại với chủ  đề  chúng ta đang đối thoại, trở  lại với chủ đề  cuộc  
phỏng vấn... hoặc có thể  dùng các HVNN thể  hiện tính lịch sự  như 
cho phép tôi được trở về với chủ đề  của cuộc phỏng vấn (hành vi xin 
phép) + chủ  đề  cuộc phỏng vấn; tôi muốn đề  cập đến (hành vi cầu  
mong) + chủ đề cuộc phỏng vấn.
­ Sử  dụng chiến lược thăm dò nhằm làm giảm sự  áp đặt đối  
với ĐTPV khi muốn đưa ra chủ  đề  phỏng vấn hoặc dẫn dắt họ  vào  
cuộc  thoại.  Nằm  trong chiến  lược  thăm  dò   của  nhà   báo thường  là 
những lời mào đầu, lời  ướm thử  bằng cách viện dẫn những HVNN  
gián tiếp như hỏi – ướm, trần thuật – dò hỏi.
4.1.1.4. Chuyển hướng nội dung cuộc phỏng vấn
4.1.1.5.   Duy   trì   và   phát   triển   cuộc   phỏng   vấn   theo   hướng  
tương tác
­ Sự tác động qua lại mang tính tương thích về chức năng giữa  
những HVNN của nhà báo và ĐTPV.
­ Tương tác về  chủ  đề  cuộc thoại bằng cách sử  dụng những  
yếu tố nội dung có trong TTHĐ của ĐTPV để khai thác sâu hơn thông 
tin.
4.2.2. Chiến lược sử dụng một số HVNN để tiền dẫn nhập cho  
hành vi hỏi
4.2.2.1. Hành vi khen
(1) Khen để  biểu lộ  sự  thán phục về  công việc, ngoại hình,  

khả  năng của người được khen để  nhằm khai thác thông tin từ  người  
được khen
(2) Khen để  thay thế  lời chào, lời giới thiệu hoặc chúc mừng  
để dẫn nhập cho hành vi hỏi có chức năng mở thoại

20


(3) Khen để  củng cố  mối quan hệ  liên cá nhân hòa hợp với 
ĐTPV hỗ trợ cho hành vi hỏi duy trì và phát triển chủ đề  cuộc phỏng 
vấn
(4) Khen để  xoa dịu mức độ  đe dọa thể  diện dẫn nhập cho 
hành vi hỏi – khiêu khích, chê
4.2.2.2. Hành vi chê
(1) Chê để  dẫn nhập cho hành vi hỏi mở  đầu xác lập chủ  đề 
cuộc phỏng vấn
(2) Chê để dẫn nhập cho hành vi hỏi – quy gán
(3) Chê để chia sẻ một đánh giá tiêu cực nào đó nhằm tạo lập 
mối quan hệ  giữa nhà báo và ĐTPV nhằm dẫn nhập cho hành vi hỏi  
duy trì và phát triển chủ đề cuộc phỏng vấn
(4) Chê để  dẫn nhập cho hành vi hỏi – khiêu khích nhằm khích  
đối tượng bị chê nói ra sự thật phơi bày trước công chúng
4.2.2.3. Hành vi trần thuật
(1) Đưa ra nhận xét, đánh giá dẫn nhập cho hành vi hỏi định 
hướng chủ đề cuộc phỏng vấn
(2) Đưa ra nhận định mang tính tiêu cực để dẫn nhập cho hành 
vi hỏi – phỏng đoán nhằm thăm dò ĐTPV
(3) Khẳng định sự việc, sự kiện để dẫn nhập cho hành vi hỏi –  
khẳng định nhằm nhấn mạnh thông tin, gây sự chú ý cho độc giả
   (4) Đưa ra nhận xét mang tính quy gán để dẫn nhập cho hành vi 

hỏi – phản biện dẫn dắt  ĐTPV  tranh luận, tạo kịch tính cho cuộc 
phỏng vấn
4.3. Hành vi hỏi và khả năng vi phạm nguyên tắc lịch sự trong  
phỏng vấn báo in
4.3.1. Tiêu chí đánh giá hành vi ngôn ngữ  vi phạm nguyên tắc  
lịch sự trong phỏng vấn báo in
21


×