Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đặc điểm dậy thì sớm trung ương ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi Đồng 2 từ 2010 đến 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.31 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015

Nghiên cứu Y học

ĐẶC ĐIỂM DẬY THÌ SỚM TRUNG ƯƠNG Ở TRẺ EM
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 TỪ 2010 ĐẾN 2013
Huỳnh Thị Vũ Quỳnh*, Phạm Minh Thu*, Lê Minh Tường Vân*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng và cận lâm sàng và nguyên nhân dậy thì sớm trung ương ở
trẻ em tại bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng 1/2010-12/2013.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca.
Kết quả: 159 trẻ dậy thì sớm trung ương được khảo sát. Tuổi trung bình khởi phát dậy thì sớm là 6,19 tuổi,


đa số là trẻ nữ (nữ/nam: 18,875/1). Thừa cân 31%, béo phì 17%. Chiều cao tiến triển so với tuổi: 35,8%. Triệu
chứng lâm sàng thường gặp nhất ở bé gái là vú to, ở bé trai là lông mu. Tuổi xương tiến triển chiếm 90%, tuổi
xương – tuổi thực trung bình: 29,95 tháng. LH nền trung bình: 1,979 mIU/mL, chọn nồng độ LH nền càng thấp
làm điểm cắt càng ít bỏ sót các trường hợp dậy thì sớm trung ương. Trong nghiệm pháp kích thích GnRH, đa số
các trường hợp LH đạt giá trị điểm cắt tại thời điểm 30 phút (87,7%). Estradiol/bé gái: 54,4% đạt mức dậy thì.
Bất thường vùng hạ đồi – tuyến yên trên MRI não chiếm 15,7%. Trong đó, microadenoma tuyến yên 56%;
hamartoma hạ đồi 16%. Nang buồng trứng: 27%.
Kết luận: Dậy thì sớm trung ương ở trẻ em thường gặp ở giới nữ. Trẻ thường có triệu chứng thừa cân hoặc
béo phì. Triệu chứng lâm sàng thường gặp là vú to và lông mu. Đa số dậy thì sớm trung ương là vô căn; 15,7%
có bất thường vùng hạ đồi-tuyến yên.
Từ khóa: Dậy thì sớm, trung ương, nguyên nhân.


ABSTRACT
THE CHARACTERISTICS OF EPIDEMIOLOGY, CLINICAL AND CAUSES
OF PRECOCIOUS PUBERTY IN CHILDREN’S HOSPITAL 2 FROM 1/2010 -12/2013
Huynh Thi Vu Quynh, Pham Minh Thu, Le Minh Tuong Van
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 19 - No 3 - 2015: 8 - 14
Objectives: To describe the characteristics of central precocious puberty in patients at Children’s Hospital 2
from 1/2010-12/2013.
Method: Case-series study.
Results: There were 159 precocious puberty cases. The mean age was 6.19; most of them were female
(female/male: 18.875/1). The rate of overweight was 31%, obesity was 17%, and accelerated height was 35.8%.
Most common symptom was breast enlargement in female (98%), pubic hair (100%). Advanced bone age: 90%
mean bone age - chronological bone: 29.95 months. Mean basal LH: 1.979 mIU/mL. In GnRH stimulation test,

peak LH was at 30 minutes in most of case (87.7%). Estradiol/females: 54.4% at pubertal level. 84.3% was
idiopathic central precocious puberty; 15.7% caused of hypothalamus-pituitary lesions (microadenoma: 56%,
hamartoma: 16%).
Conclusions: Precocious puberty was more common in female. Patients were usually overweight or obesity.
Most common symptoms were breast enlargement and pubic hair. Most of cases were idiopathic, 15.7% caused of
hypothalamus-pituitary lesions.
* Bệnh viện Nhi Đồng 2.
Tác giả liên lạc: Bs Huỳnh Thị Vũ Quỳnh

8

ĐT: 0989350127


Email:

Chuyên Đề Nhi Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015

Nghiên cứu Y học

Key words: Precocious puberty, central, causes.


ĐẶT VẤN ĐỀ
Dậy thì sớm ngày càng phổ biến trên thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuổi khởi
phát dậy thì hoặc xuất hiện các dấu hiệu của dậy
thì có khuynh hướng ngày càng giảm(13).
Dậy thì sớm dẫn đến nhiều vấn đề khác
nhau, như các rối loạn về hành vi ứng xử, tâm lý,
lạm dụng tình dục, có thai sớm, đặc biệt dậy thì
sớm trung ương gây giới hạn phát triển chiều
cao(18).
Chẩn đoán dậy thì sớm trung ương khi
chứng minh được sự hoạt hóa trục hạ đồi –

tuyến yên – tuyến sinh dục sớm hơn tuổi dậy thì
bình thường của trẻ. Phương pháp chuẩn để xác
định sự hoạt hóa của trục hạ đồi - tuyến yên là
đánh giá sự đáp ứng hormon hướng sinh dục
với GnRH hoặc chất đồng dạng với GnRH
(GnRH analog).
Trên thế giới, đã có rất nhiều nghiên cứu về
dậy thì sớm cũng như dậy thì sớm trung ương ở
trẻ em. Tuy nhiên, ở Việt Nam, vấn đề dậy thì
sớm vẫn còn ít được quan tâm và nghiên cứu.

Mục tiêu nghiên cứu

Mô tả đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng và cận
lâm sàng và nguyên nhân dậy thì sớm trung
ương ở trẻ em tại bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng
1/2010-12/2013.

ĐỐI TƯỢNG–PHƯƠNGPHÁP NGHIÊNCỨU
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả hàng loạt ca.

Đối tượng nghiên cứu
Tất cả trẻ đã chẩn đoán dậy thì sớm tại bệnh
viện Nhi Đồng 2 TP HCM từ tháng 1/201012/2013.


Phương pháp lấy mẫu
Lấy trọn.

Chuyên Đề Nhi Khoa

Tiêu chí đưa vào
Tất cả trẻ được chẩn đoán dậy thì sớm trung
tương tại bệnh viện Nhi Đồng 2 TP HCM từ
tháng 1/2010-12/2013 với các tiêu chuẩn sau.
Tiêu chuẩn chẩn đoán dậy thì sớm
Phát triển một trong các đặc tính sinh dục

thứ phát trước 8 tuổi ở trẻ nữ và trước 9 tuổi ở
trẻ nam.
Trẻ nữ có kinh nguyệt trước 10 tuổi.

Tiêu chuẩn chẩn đoán dậy thì sớm trung ương
Nồng độ LH nền ≥ 0,3 mIU/ml (độ đặc hiệu
100%).
Hoặc nghiệm pháp kích thích GnRH (+) (LH
≥ 5 mIU/ml) (tiêu chuẩn vàng).

Tiêu chuẩn loại trừ
Hồ sơ không theo bệnh án nghiên cứu.


Thu thập dữ liệu
Ghi nhận các đặc điểm dịch tễ, lâm sàng như
tuổi, giới tính, tiền căn, cân nặng, chiều cao, BMI,
lý do nhập viện, các triệu chứng lâm sàng (vú to,
lông mu, lông nách, kinh nguyệt, huyết trắng,
tinh hoàn lớn, dương vật lớn), các kết quả cận
lâm sàng như tuổi xương, nồng độ hormon
hướng sinh dục nền, nghiệm pháp kích thích
bằng GnRH, nồng độ hormon sinh dục, kết quả
MRI hạ đồi – tuyến yên. Trong đó, bách phân vị
cân nặng, chiều cao, BMI xác định dựa theo biểu

đồ tăng trưởng của tổ chức Y tế thế giới, thừa
cân và béo phì khi BMI theo tuổi ≥ bách phân vị
thứ 85 và 95, chiều cao tiến triển so với tuổi khi
chiều cao theo tuổi ≥ bách phân vị thứ 95. Tuổi
xương được đánh giá dựa trên X quang xương
bàn tay trái, đọc kết quả theo hệ thống X quang
tuổi xương chuẩn của Greulich – Pyle. Tuổi
xương tiến triển so với tuổi thực khi tuổi xương –
tuổi thực ≥ 6 tháng. Nồng độ estradiol mức dậy
thì khi ≥ 25 pg/mL, nồng độ testosterone mức
dậy thì khi ≥ 20 ng/dL(11).


9


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015

Nghiên cứu Y học
Xử lý số liệu

Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS và
Excell. Các biến số định lượng trình bày dưới
dạng trung bình ± độ lệch chuẩn, các biến số
định tính trình bày dưới dạng tần số và tỷ lệ %.

Tương quan giữa các biến số khảo sát bằng phép
kiểm chi bình phương cho biến định tính, tstudent cho biến định lượng. Giá trị ≤ 0,05: khác
biệt có ý nghĩa thống kê.

KẾT QUẢ
Từ 1/2010 đến 12/2013, tại bệnh viện Nhi
Đồng 2 có 159 trường hợp thỏa lưu đồ chẩn đoán
dậy thì sớm trung ương.

Đặc điểm dịch tễ
Tỉ lệ nữ/nam: 18,875/1. Tuổi khởi phát dậy
thì sớm trung bình: 6,19 tuổi (2 tháng tuổi – 8

tuổi 3 tháng). 1 trường hợp ghi nhận mẹ sử dụng
thuốc ngừa thai khi cho bé bú.

Đặc điểm lâm sàng
BMI: 31% thừa cân; 17 % béo phì.
Chiều cao: 36% tiến triển so với tuổi.
Tất cả các trường hợp dậy thì sớm trung
ương trong nghiên cứu của chúng tôi là đồng
giới. Triệu chứng thường gặp nhất ở bé gái là vú
to (98%); ở bé trai là lông mu (100%).
Bảng 1: Triệu chứng lâm sàng ở bé gái.
Vú to

Lông mu
Lông nách
Huyết trắng
Kinh nguyệt
Mụn

Tần số
148
67
53
23
22

11

%
98
44,4
35,1
15,2
14,6
7,3

Bảng 2: Phân độ Tanner vú to/bé gái.
Tanner 2

Tanner 3
Tanner 4

Tần số
54
50
8

%
48,2
44,6
7,1


Bảng 3: Triệu chứng lâm sàng bé trai.
Lông mu
Dương vật lớn
Tinh hoàn lớn

10

Tần số
8
6
5


%
100
75
62,5

Râu
Lông nách
Mụn

Tần số
5

1
1

%
62,5
12,5
12,5

Đặc điểm cận lâm sàng
Về tuổi xương
90% các trường hợp dậy thì sớm trung ương
có tuổi xương tiến triển. Trong đó, tuổi xương

trung bình: 9,79 tuổi, tuổi xương – tuổi thực
trung bình: 29,95 tháng.
Về nồng độ hormon hướng sinh dục
Bảng 4: Nồng độ LH nền và LH đỉnh trong nghiệm
pháp kích thích GnRH (mIU/mL).
LH nền
LH đỉnh

Trung bình
1,979
26,591


SD
2,208
22,68

Nhỏ nhất
0,07
5,09

Lớn nhất
12,93
209,43


Bảng 5: Khảo sát một số điểm cắt LH nền
Điểm cắt LH nền
1 mIU/mL
0,6 mIU/mL
0,3 mIU/mL
0,1 mIU/mL

Số trường hợp bỏ sót (%)
66 (53,7%)
49 (39,8%)
29 (23,6%)
4 (3,3%)


Bảng 6: Thời điểm LH đạt nồng độ điểm cắt (≥ 5
mIU/mL).
Thời điểm
Trước test
30 phút
60 phút
120 phút

Số ca
4
114

6
6

Phần trăm
3,1%
87,7%
4,6%
4,6%

Phần lớn các trường hợp LH đạt nồng độ
điểm cắt tại thời điểm 30 phút.


Về nồng độ hormon sinh dục trong máu
Bảng 7: Nồng độ hormon sinh dục.
Estradiol
Testosterone

Trung bình
37,285 (pg/mL)
186,76 (ng/dL)

% đạt mức dậy thì
54,4%
87,5%


Về siêu âm, kích thước trung bình tử cung,
đánh giá dựa vào đường kính trước sau: 15,772
mm, kích thước buồng trứng trung bình, đánh
giá dựa vào đường kính lớn nhất của buồng
trứng lớn hơn: 20,126 mm. 27% các trường hợp
ghi nhận nang buồng trứng, kích thước trung
bình nang buồng trứng: 9,341 mm, giá trị lớn
nhất là 32 mm, không ghi nhận chồi vách, nghĩ
nhiều nang cơ năng. Ở bé trai, kích thước tinh

Chuyên Đề Nhi Khoa



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015
hoàn trung bình, đánh giá dựa trên đường kính
lớn nhất của tinh hoàn lớn hơn: 25,7 mm. 50%
trường hợp bé trai có đường kính tinh hoàn trên
siêu âm đạt mức dậy thì (≥ 25 mm).

Nguyên nhân dậy thì sớm trung ương
Bất thường vùng hạ đồi – tuyến yên trên
MRI não: 15,7%. Trong đó, microadenoma tuyến
yên chiếm tỷ lệ cao nhất (56%); kế đó là

hamartoma vùng hạ đồi (16%). Ngoài ra còn ghi
nhận: u tế bào mầm, u tuyến tùng, nang khe
Rathke, tăng sản tuyến yên (mỗi loại 1 trường
hợp). Các trường hợp còn lại là dậy thì sớm vô
căn (84,3%).

BÀN LUẬN
Đặc điểm dịch tễ
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bé gái mắc
bệnh nhiều hơn hẳn so với bé trai, phù hợp với y
văn(16) và các nghiên cứu trước đây.
Tuổi trung bình xuất hiện các dấu hiệu dậy

thì sớm: 6,19 tuổi, thấp hơn so với tuổi trung
bình của trẻ lúc nhập viện: 7,17 tuổi, cho thấy cha
mẹ đưa bé đến khám khá trễ, tình trạng dậy thì
sớm ở trẻ chưa được quan tâm đúng mức.

Đặc điểm lâm sàng
Tỉ lệ bệnh nhi thừa cân: 31%, béo phì: 17%,
cao hơn hẳn so với tỉ lệ này trong dân số (ở
Đông Nam Á năm 2010 lần lượt là 23% và 5%,
phù hợp với giả thuyết thừa cân và béo phì là
một trong những yếu tố nguy cơ của dậy thì
sớm. Trong một số nghiên cứu có nhóm

chứng, như nghiên cứu của Kaplowitz PB và
cộng sự, chỉ số độ lệch chuẩn BMI trung bình
cao hơn đáng kể ở nhóm những bé gái vú to so
với những bé gái chưa phát triển tuyến vú (p <
0,0001)(8).
Về chiều cao, trong nghiên cứu của chúng
tôi, chỉ số độ lệch chuẩn (SDS) chiều cao trung
bình là 1,155; thấp hơn nghiên cứu của Doosoo
Kim và cộng sự: 1,4(9); Hyo-Kyoung Nam và
cộng sự: 1,4(13) (P = 0,002) và Huseyin Demirbilek
và cộng sự 1,34(4) (P = 0,02). Điều này có thể do
thiết kế nghiên cứu và chọn mẫu khác nhau


Chuyên Đề Nhi Khoa

Nghiên cứu Y học

(nghiên cứu của chúng tôi thu thập cả những
trường hợp dậy thì sớm trung ương không tiến
triển, còn những nghiên cứu khác chỉ thu thập
những trẻ dậy thì sớm trung ương tiến triển),
hoặc do tình trạng phát triển chiều cao khác
nhau giữa các nước. Song, ở cả bốn nghiên cứu,
chỉ số này đều > 1, cho thấy chiều cao trung bình

của dân số nghiên cứu nằm ở mức cao so với
dân số chuẩn, phù hợp với tình trạng tăng
trưởng chiều cao nhanh so với tuổi ở những trẻ
dậy thì sớm trung ương.
Về triệu chứng lâm sàng, vú to là triệu chứng
thường gặp nhất ở bé gái, chiếm 98%. Sau đó là
lông mu 44,4%. Điều này hợp lý vì vú to là triệu
chứng xuất hiện sớm nhất, chỉ sau sự tăng
trưởng nhanh chiều cao. Ngoài ra, vú to và lông
mu là 2 triệu chứng dễ dàng ghi nhận trên lâm
sàng, có hệ thống phân độ Tanner chi tiết, cụ thể.
Nghiên cứu của Paul Kaplowitz cũng cho thấy

vú to và lông mu là hai triệu chứng thường gặp
nhất ở các bé gái dậy thì sớm, chiếm tỷ lệ lần
lượt là 89% và 33%(7).
Ở bé trai, lông mu là triệu chứng thường gặp
nhất (100%); sau đó là dương vật lớn (75%); râu
và tinh hoàn lớn (62,5%). Điều này không phù
hợp với y văn: tinh hoàn lớn là dấu hiệu dậy thì
đầu tiên ở bé trai, tăng kích thước dương vật và
lông mu xuất hiện sau đó khoảng 1 – 2 năm. Sự
không hợp lý này có thể do lông mu là triệu
chứng dễ dàng ghi nhận trên lâm sàng và xuất
hiện ở tất cả các bé trai trong nghiên cứu, đủ để

chẩn đoán dậy thì sớm ở bé trai, nên các bác sĩ
khi thăm khám lâm sàng và ghi nhận vào hồ sơ
có thể bỏ qua dữ kiện về kích thước tinh hoàn.

Đặc điểm cận lâm sàng
Tuổi xương, trung bình trong nghiên cứu
của chúng tôi là 9,79 nhỏ hơn so với các tác giả
Nam NK (9,8), Demerbilek H (10,6), Yazdani P
(10,46). Điều này có lẽ là do tuổi trung bình
trong nghiên cứu của chúng tôi nhỏ hơn tuổi
trung bình trong nghiên cứu của các tác giả
trên. Hơn nữa, trong các ở đa số các nghiên cứu

khác, các tác giả chỉ đo nồng độ LH nền hoặc sau

11


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015

nghiệm pháp kích thích GnRH ở những trẻ có
tuổi xương tiến triển nhanh so với tuổi. Do ở
bệnh viện Nhi Đồng 2, bệnh nhi được tiến hành

chụp X quang tuổi xương và đo nồng độ LH
cùng lúc, nên chúng tôi ghi nhận cả những
trường hợp dậy thì sớm trung ương với nồng độ
LH > 5 mIU/mL sau nghiệm pháp kích thích
bằng GnRH nhưng có X quang tuổi xương
không tiến triển hoặc tương đương với tuổi thật,
và xếp vào nhóm dậy thì sớm trung ương không
tiến triển. Tuy nhiên, đa số các trường hợp dậy
thì sớm trung ương có tuổi xương tiến triển, phù
hợp với y văn.

30 phút sẽ bỏ sót khoảng 9% trường hợp dậy thì

sớm trung ương. Theo nghiên cứu của Han Kyul
Kim và cộng sự, phần trăm tích lũy của nồng độ
LH nền ≥ 5 mIU/mL ở thời điểm 30 phút và 45
phút là 100%; điểm cắt nồng độ LH 4,99 mIU/mL
ở thời điểm 45 phút có độ nhạy 98,4% và độ đặc
hiệu 100% trong chẩn đoán dậy thì sớm trung
ương.

Nồng độ LH nền trung bình thay đổi qua
nhiều nghiên cứu khác nhau, có thể do sự khác
nhau về thiết kế nghiên cứu, độ nhạy và độ
chuyên của thiết bị đo. Trong đó, nghiên cứu của

chúng tôi có LH nền tương đương với nghiên
cứu của; Elena Chiocca(3) (p = 0,658) và Doosoo
Kim(9) (p = 0,318).

Về nồng độ estradiol, trong những bé gái
dậy thì sớm trung ương, chỉ có 54,4% các trường
hợp có nồng độ estradiol trong máu đạt mức dậy
thì (≥ 25 pg/mL), do nồng độ estradiol thay đổi
theo chu kì buồng trứng, nên khi đo nồng độ
estradiol ở một thời điểm bất kì, có thể không đạt
được nồng độ dậy thì. Do đó, nồng độ estradiol
không phải là một dấu chứng nhạy để đánh giá

dậy thì.

Qua khảo sát các điểm cắt LH nền 1
mIU/mL; 0,6 mIU/mL; 0,3 mIU/mL; 0,1 mIU/mL,
ta thấy chọn điểm cắt LH nền càng thấp thì càng
ít bỏ sót các trường hợp dậy thì sớm trung ương
thực sự - so với tiêu chuẩn vàng là nghiệm pháp
kích thích GnRH. Với điểm cắt LH nền 0,6
mIU/mL, theo nghiên cứu của Brito VN và cộng
sự, có độ nhạy là 71% ở bé trai; 63% ở bé gái; độ
đặc hiệu là 100% ở cả hai giới(2). Với điểm cắt LH
nền 0,1 mIU/mL, theo nghiên cứu của Parvin

Yazdani và cộng sự, độ nhạy ở bé trai là 100%, ở
bé gái là 67%. Ngoài ra, nồng độ LH nền > 0,1
mIU/mL cũng có liên quan mạnh với nồng độ
LH > 5 mIU/mL trong nghiệm pháp kích thích
bằng GnRH (r = 0,842; p = 0,0001). Trong khi đó,
nghiên cứu của Neely EK và cộng sự cho thấy
điểm cắt nồng độ LH nền > 0,1 mIU/mL có độ
nhạy 94% và độ đặc hiệu 88% trong chẩn đoán
dậy thì sớm trung ương.
Trong đa số các trường hợp, LH đạt nồng độ
≥ 5 mIU/mL sau nghiệm pháp 30 phút (87%).
Nếu chỉ đo nồng độ LH ở thời điểm 30 phút và

60 phút sẽ bỏ sót 4,6% trường hợp dậy thì sớm
trung ương, nếu chỉ đo nồng độ LH ở thời điểm

12

Nồng độ FSH nền và FSH trong nghiệm
pháp kích thích GnRH không có sự khác biệt
giữa dậy thì sớm trung ương và dậy thì sớm
ngoại biên, do đó ít có ứng dụng trong lâm
sang.

Về siêu âm, nghiên cứu của chúng tôi sử

dụng đường kính trước sau để đánh giá kích
thước tử cung, đường kính lớn nhất để đánh
giá kích thước buồng trứng. Đây là một trong
những điểm hạn chế của nghiên cứu, vì
đường kính không chính xác trong việc đánh
giá kích thước tử cung và buồng trứng. Trong
hầu hết các nghiên cứu của các tác giả nước
ngoài, kích thước tử cung và buồng trứng
được đánh giá bằng thể tích với công thức tính
thể tích hình trứng dẹp: Tích đường kính 3
chiều nhân với 0,5233.
Một số tác giả sau khi so sánh siêu âm với

nghiệm pháp kích thích bằng GnRH đã nhận
định thể tích buồng trứng và thể tích tử cung có
thể chẩn đoán chính xác và được sử dụng độc
lập trong việc chẩn đoán tình trạng dậy thì ở bé
gái(5,6). Một số tác giả khác nhận định, kích thước
tử cung có giá trị hơn so với kích thước buồng
trứng trong việc chẩn đoán phân biệt dậy thì
sớm trung ương và phát triển tuyến vú sớm.

Chuyên Đề Nhi Khoa



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015
Trong khi đó, theo nghiên cứu của Sathasivam A
và cộng sự, có sự trùng lấp giữa thể tích tử cung,
chiều dài tử cung và thể tích buồng trứng ở 3
nhóm: Chưa dậy thì, dậy thì giai đoạn sớm và
dậy thì.
Về nguyên nhân dậy thì sớm trung ương:
phần lớn các trường hợp dậy thì sớm trung ương
là vô căn (84,3%). Tỷ lệ này tương đương với
nghiên cứu của Sze MNg và cộng sự với 15%
trường hợp tìm thấy bất thường vùng hạ đồi –
tuyến yên trên MRI não và 85% không có bất

thường. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tổn
thương chiếm tỷ lệ cao nhất là microadenoma
tuyến yên (56%) và hamartoma vùng hạ đồi
(16%). Điều này khác biệt so với y văn và nghiên
cứu của Sze MNg với hamartoma vùng hạ đồi
chiếm tỷ lệ cao nhất.
Thực hiện phép kiểm chi bình phương,
chúng tôi ghi nhận khác biệt có ý nghĩa giữa
tần suất bất thường vùng hạ đồi – tuyến yên ở
hai giới: Bất thường vùng hạ đồi – tuyến yên
thường gặp ở bé trai (62,5%) hơn hẳn so với bé
gái (13,2%). Điều này phù hợp với y văn, bất

thường vùng hạ đồi tuyến yên gặp ở phần lớn
bé trai dậy thì sớm trung ương (90%), còn ở bé
gái dậy thì sớm trung ương đa số là vô căn
(80%).
Thực hiện phép kiểm t student, chúng tôi ghi
nhận có sự khác biệt có ý nghĩa giữa tuổi khởi
phát dậy thì sớm ở hai nhóm bệnh nhi có và
không có bất thường vùng hạ đồi – tuyến yên.
Trẻ có bất thường vùng hạ đồi – tuyến yên
thường khởi phát dậy thì sớm sớm hơn những
trẻ dậy thì sớm vô căn.
Đối với sự tiến triển của tuổi xương (thể

hiện qua tuổi xương – tuổi thực) và chiều cao
(thể hiện qua chỉ số độ lệch chuẩn chiều cao
theo tuổi), chúng tôi ghi nhận khác biệt không
có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm có và
không có bất thường vùng hạ đồi – tuyến yên,
phù hợp với nghiên cứu của Sze MNg và cộng
sự. Từ đó, Sze MNg cho rằng, hai đặc điểm
này không giúp ích cho việc dự đoán bất

Chuyên Đề Nhi Khoa

Nghiên cứu Y học


thường vùng hạ đồi – tuyến yên ở những trẻ
dậy thì sớm trung ương(17).

KẾT LUẬN
Dậy thì sớm trung ương ở trẻ em thường gặp
ở giới nữ. Trẻ thường có triệu chứng thừa câu
hoặc béo phì. Triệu chứng lâm sàng thường gặp
là vú to ở trẻ nữ và lông mu ở nam giới. Đa số
dậy thì sớm trung ương là vô căn; 15,7% có bất
thường vùng hạ đồi-tuyến yên. Tuổi nhập viện
trung bình lớn hơn so với tuổi khởi phát dậy thì

là một năm. Cần tuyên truyền cho các bậc phụ
huynh biết dấu hiệu vú to là dấu hiệu sớm của
dậy thì ở trẻ nữ và cần đưa trẻ đi khám ngay. Đa
số dậy thì sớm trung ương ở trẻ em là vô căn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.


4.

5.

6.

7.

8.

9.


10.

Battaglia C, Regnani G, Mancini F, et al (2002), "Pelvic
sonography and uterine artery color Doppler analysis in the
diagnosis of female precocious puberty", Ultrasound in
obstetrics & gynecology, 19(4), pp.386-391.
Brito VN, Batista MC, Borges MF, et al (1999), "Diagnostic
Value of Fluorometric Assays in the Evaluation of Precocious
Puberty 1", The Journal of Clinical Endocrinology &
Metabolism, 84(10), pp.3539-3544.
Chiocca E, Dati E, Baroncelli GI, et al (2012), “Central
precocious puberty: treatment with triptorelin 11.25 mg”, The

Scientific World Journal, 286 (3):pp.771-5.
Demirbilek H, Alikasifoglu A, Gonc NE, et al (2012),
"Assessment of gonadotrophin suppression in girls treated
with GnRH analogue for central precocious puberty; validity
of single luteinizing hormon measurement after leuprolide
acetate injection", Clinical endocrinology, 76(1), pp.126-130.
Haber HP, Wollmann HA, Ranke MB (1995), "Pelvic
ultrasonography: early differentiation between isolated
premature thelarche and central precocious puberty",
European journal of pediatrics, 154(3), pp.182-186.
Herter LD, Golendziner E, Flores JAM, et al (2002), "Ovarian
and uterine findings in pelvic sonography comparison

between prepubertal girls, girls with isolated thelarche, and
girls with central precocious puberty", Journal of Ultrasound
in Medicine, 21(11), pp.1237-1246.
Kaplowitz P (2004), "Clinical characteristics of 104 children
referred for evaluation of precocious puberty", The Journal of
Clinical Endocrinology & Metabolism, 89(8), pp.3644-3650.
Kaplowitz PB, Slora EJ, Wasserman RC, et al (2001), "Earlier
onset of puberty in girls: relation to increased body mass index
and race", Pediatrics, 108(2), pp.347-353.
Kim D, Cho SY, Maeng SH, et al (2012), "Diagnosis and
constitutional and laboratory features of Korean girls referred
for precocious puberty", Korean journal of pediatrics, 55(12),

pp.481-486.
Kim HK, Kee SJ, Seo JY, et al (2011), "Gonadotropin-releasing
hormon stimulation test for precocious puberty", The Korean
journal of laboratory medicine, 31(4), pp.244-249.

13


Nghiên cứu Y học
11.

12.

13.

14.

15.

16.

14

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015


Mitchell E, Roberto L, Jon MN (2005), "Puberty and its
disorders", Principles and practice of pediatric endocrinology,
1st Edition, chapter 3, pp145-197.
Muir A (2006), "Precocious puberty", Pediatrics in Review,
27(10), pp.373-381.
Nam HK, Rhie YJ, Son CS, et al (2012), “Factors to predict
positive results of gonadotropin releasing hormon stimulation
test in girls with suspected precocious puberty”, Journal of
Korean medical science, 27, pp.194-199.
Neely EK, Wilson DM, Lee PA, et al (1995), "Spontaneous
serum gonadotropin concentrations in the evaluation of
precocious puberty", The Journal of pediatrics, 127(1), pp.4752.

Sathasivam A, Rosenberg HK, Shapiro S, et al (2011), "Pelvic
ultrasonography in the evaluation of central precocious
puberty: comparison with leuprolide stimulation test", The
Journal of pediatrics, 159(3), pp.490-495.
Synovitz L, Chopak-Foss J (2013), "Precocious puberty:
Pathology, related risks, and support strategies", Open Journal
of Preventive Medicine, 3(9), pp.504-509.

17.

18.


19.

20.

Sze MNg, Kumar Y, Cody D, et al (2003), "Cranial MRI scans
are indicated in all girls with central precocious puberty",
Archives of disease in childhood, 88(5), pp.414-418.
Vries L, Horev G, Schwartz M, et al (2006), "Ultrasonographic
and clinical parameters for early differentiation between
precocious puberty and premature thelarche", European
Journal of Endocrinology, 154(6), pp.891-898.
World Health Organization (2006), "The WHO Child Growth

Standards": Length/height for age, weight for age, body mass
index for age, last
accessed on 30/6/2014.
Yazdani P, Lin Y, Raman V, et al (2012), "A single sample
GnRHa stimulation test in the diagnosis of precocious
puberty", Int J Pediatr Endocrinol, 2012(1), pp.23.

Ngày nhận bài báo:

12/01/15.

Ngày phản biện đánh giá bài báo:


23/01/15.

Ngày bài báo được đăng:

22/06/15.

Chuyên Đề Nhi Khoa




×