Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Kinh nghiệm và niềm tin về xử trí sốt của cha mẹ trẻ trong độ tuổi 6 tháng đến 5 tuổi tại bệnh viện nhi TP. Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.21 KB, 9 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

Nghiên cứu Y học

KINH NGHIỆM VÀ NIỀM TIN VỀ XỬ TRÍ SỐT CỦA CHA MẸ TRẺ
TRONG ĐỘ TUỔI 6 THÁNG ĐẾN 5 TUỔI
TẠI BỆNH VIỆN NHI TP.HỒ CHÍ MINH
Trần Thụy Khánh Linh*, Huỳnh Trương Lệ Hồng*, Anne Walsh**, Helen Edwards**

TÓM TẮT
Sốt là một trong những triệu chứng thường gặp ở trẻ nhỏ, tuy nhiên cách xử trí trẻ sốt của cha mẹ không
phải lúc nào cũng phù hợp và dựa vào khoa học chứng cứ.
Mục tiêu: Tìm hiểu khái niệm về sốt, kinh nghiệm và những niềm tin nổi bật của cha mẹ trẻ về xử trí sốt trẻ
em.
Phương pháp nghiên cứu: Phỏng vấn theo mục cá nhân trực tiếp ghi nhận ý kiến tường thuật của 32 cha/
mẹ được chọn ngẫu nhiên đã từng chăm sóc trẻ sốt (6 tháng đến 5 tuổi) tại một số khoa Nội của Bệnh viện Nhi.
Bảng phỏng vấn gồm những câu hỏi mở về thân nhiệt cho là sốt, tác dụng của sốt, cách xử trí trẻ sốt, nguồn
thông tin và các câu hỏi dựa theo học thuyết Hành vi Hoạch định để xác định niềm tin của cha mẹ. Ý kiến cha mẹ
phản hồi được phân tích nội dung và tính tần suất tương đối.
Kết quả: Khái niệm của cha mẹ về sốt rất khác nhau. Họ chưa nhận ra tác dụng có lợi của sốt mà quan tâm
nhiều đến tác hại sốt gây ra. Kinh nghiệm xử trí sốt phổ biến là xác định thân nhiệt, lau mát và dùng thuốc hạ
sốt. Niềm tin về xử trí sốt được cha mẹ chia sẻ chi tiết.
Kết luận: Kinh nghiệm xử trí trẻ sốt của cha mẹ tác động bởi khái niệm của họ về sốt, tác dụng của sốt và
những nguồn thông tin đa dạng. Niềm tin của cha mẹ trong vấn đề xử trí sốt trẻ em giúp chúng tôi có cái nhìn
sâu sắc về hành vi của họ. Phản ứng có lợi của sốt cần được nhấn mạnh cho cha mẹ hiểu rõ, từ đó hướng dẫn họ
cách xử trí trẻ sốt phù hợp dựa trên khoa học chứng cứ.
Từ khóa: sốt, trẻ em, cha mẹ, phỏng vấn theo mục

ABSTRACT
EXPERIENCES AND BELIEFS ABOUT CHILDHOOD FEVER MANAGEMENT
AMONG PARENTS OF CHILDREN FROM 6 MONTHS TO 5 YEARS OF AGE


IN HO CHI MINH CHILDREN'S HOSPITALS
Tran Thuy Khanh Linh, Huynh Truong Le Hong, Anne Walsh, Helen Edwards
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 200 - 208
Fever is a common symptom of childhood illness; however, parental fever management is not always
appropriate and based on the latest scientific evidence.
Objectives: A study was undertaken that identified parents’ concepts of fever and its effects, their
experiences and salient beliefs in relation to childhood fever management.
Methods: This study used a face-to-face interview schedule to collect structured self-report data from a
convenience sample of 32 parents of febrile children from six months to five years of age at several medical wards
at Children’s Hospitals. The interview schedule was comprised of open-ended questions which ask parents what
temperature indicates a fever; the effects of fever; fever management methods, information sources and a set of
questions based on the tenets of the Theory of Planned Behaviour. Parents’ responses were content analysed and
*Bộ môn Điều dưỡng Đại học Y Dược TP.HCM, ** Trường Điều dưỡng Đại học Công Nghệ Queensland, Úc
Tác giả liên lạc: Ths ĐD Trần Thụy Khánh Linh, Điện thoại: 08 3857 0760, Email:

Chuyên Đề Nhi Khoa

199


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

frequency reported.
Findings: Concepts of fever varied among parents. They have not recognised beneficial effects of fever but
concerned about its harmful effects. Parental common fever management included measuring body temperature,
tepid sponging and administering antipyretics. They responded very detailed beliefs in relation to fever
management.
Conclusions: Parents’ fever management experiences were influenced by their concepts of fever, its effects

and the information sources they learnt. The beliefs they provided gave insight into the current behaviour of
parents’ fever management. Parents need to be emphasised the beneficial effects of fever and provided latest
scientific evidence about childhood fever management.
Keywords: fever, childhood, parents, interview schedules
cha mẹ còn hạ sốt cho trẻ bằng paracetamol
ĐẶT VẤN ĐỀ
dạng uống/ đặt hậu môn hoặc kết hợp hai loại
Sốt là triệu chứng bệnh thường gặp ở trẻ và
thuốc hạ sốt Paracetamol và Ibuprofen(16).
nguyên nhân phổ biến cha mẹ đưa trẻ đến các
Nhưng kiến thức của cha mẹ trong việc xác định
cơ sở khám và điều trị bệnh. Nhiều nghiên cứu đã
thời điểm sử dụng, liều lượng thuốc phù hợp
bắt đầu tìm hiểu kiến thức và cách xử trí sốt trẻ
cho trẻ và tác dụng của thuốc còn hạn chế(6,3,16,12).
em của cha mẹ từ thập niên 90 trên nhiều nước
Điều này dẫn đến việc cho trẻ dùng thuốc hạ sốt
khác nhau và vẫn tiếp tục nghiên cứu cho đến nay.
thường xuyên, ngay cả lúc nhiệt độ bình
Tuy nhiên kiến thức và xử trí trẻ sốt theo khoa
thường, có thể gây quá liều và ngộ độc cho trẻ.
học chứng cứ của cha mẹ vẫn còn hạn chế. Một
Tại nước ta, sốt được ghi nhận là triệu chứng
nghiên cứu năm 2007 ở Brazin nhận định rằng
thường gặp ở trẻ có hoặc không liên quan đến
sốt là nguyên nhân chính cha mẹ đưa trẻ đến
nhiễm khuẩn phổ biến là nhiễm siêu vi, nhiễm
phòng cấp cứu vì sợ sốt cao có thể dẫn đến co
trùng đường hô hấp và tiêu hóa. Cha mẹ có thể
giật cho trẻ(2). Các nghiên cứu khác tại Mỹ và

áp dụng những cách xử trí sốt nêu trên và một
Anh cũng tìm thấy kết quả tương tự khi cha mẹ
số biện pháp dân gian khác như cắt lễ, thoa
lo lắng lúc trẻ sốt vì cho rằng sốt cao gây co giật
chanh và xoa bằng trứng gà nóng đã luộc chín.
và tổn thương não(6,13,3). Kiến thức của cha mẹ về
Những biện pháp dân gian không có tác dụng
nhiệt độ bình thường, nhiệt độ sốt có thể gây hại
hạ sốt mà có thể làm tình trạng sức khỏe của trẻ
cho trẻ còn nhiều điều bàn luận qua các nghiên
nặng thêm và chậm trễ quá trình đưa trẻ đến
cứu. Cha mẹ ít khi nhận thức được phản ứng có
khám tại các cơ sở y tế. Năm 2010, một nghiên
lợi của sốt mà quan tâm đến tác hại của sốt cho
cứu khảo sát kiến thức, thái độ và hành vi của bà
nên thường mong muốn hạ sốt tích cực bằng
mẹ khi trẻ sốt cao tại một bệnh viện đa khoa
phương pháp không dùng thuốc và dùng thuốc.
nhưng chưa phân tích sâu yếu tố ảnh hưởng đến
Phương pháp không dùng thuốc thường dùng
hành vi(7). Nghiên cứu này sẽ tìm hiểu kinh
là mặc quần áo thoáng, cung cấp nhiều dịch và
nghiệm xử trí trẻ sốt và những niềm tin liên
lau mát bằng nước âm ấm(13,3,17). Mặc quần áo
quan (yếu tố tác động hành vi) của cha mẹ nhằm
thoáng giúp trẻ thoát nhiệt dễ dàng và cung cấp
giúp nhân viên y tế, cụ thể là điều dưỡng-người
nhiều dịch để bồi hoàn lượng nước mất do sốt.
trực tiếp chăm sóc cho trẻ tại bệnh viện, nắm rõ
Lau mát được chứng minh không làm hạ nhiệt

vấn đề tồn tại hiện nay trong cách cha mẹ chăm
độ trung tâm và chỉ có tác dụng hạ sốt trong 30
sóc trẻ sốt cũng như những yếu tố ảnh hưởng
phút đầu so với paracetamol và sau 2 giờ nhiệt
đến hành vi của họ. Từ đó điều dưỡng có thể
độ của trẻ có lau mát so với trẻ hạ sốt bằng
xây dựng chương trình giáo dục sức khỏe phù
paracetamol như nhau(15). Việc lau mát đôi khi
hợp với hiện thực và nhu cầu của cha mẹ giúp
phản tác dụng vì làm tăng nhiệt độ đối với trẻ
không hợp tác quấy khóc nhiều(18,11). Ngoài ra,

200

Chuyên Đề Nhi Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
họ biết cách chăm sóc, theo dõi trẻ sốt đúng đắn
không gây hại cho trẻ.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp phỏng vấn theo mục cá nhân
trực tiếp được tiến hành từ tháng 7 đến tháng 9/
2011 tại một số khoa Nội của bệnh viện Nhi
TP.HCM, nơi có nhiều trẻ 6 tháng đến 5 tuổi bị
sốt liên quan đến bệnh thông thường ở trẻ nhỏ
như viêm đường hô hấp, tiêu hóa hay nhiễm
siêu vi. Cha/ mẹ của trẻ được chọn ngẫu nhiên
tham gia vào phỏng vấn khoảng 30 phút, phản

hồi các câu hỏi mở chủ đề về khái niệm sốt trẻ
em, nguồn thông tin, kinh nghiệm và niềm tin
về cách xử trí trẻ sốt.
Nghiên cứu sử dụng học thuyết Hành vi
Hoạch định của Ajzen(1) để xác định niềm tin
của cha mẹ về cách xử trí trẻ sốt thông qua các
câu hỏi về điều lợi/ hại, người tán thành/ phản
đối và yếu tố thúc đẩy/ cản trở của việc đo thân
nhiệt, lau mát bằng nước âm ấm và dùng thuốc
hạ sốt (Paracetamol) cho trẻ. Kết quả tìm ra được
phân tích nội dung và tính tần số tương đối.
Cụ thể những câu hỏi mở như sau:
- Theo anh/ chị, nhiệt độ trẻ bao nhiêu gọi là
sốt?
- Sốt có lợi ích gì không? Nếu có, những lợi
ích đó là gì?
- Sốt có tác hại gì không? Nếu có, những tác
hại đó là gì?
- Anh/ chị có quan tâm hay lo lắng gì khi trẻ
bị sốt không? Nếu có, quan tâm điều gì?
- Anh/ chị thường có những xử trí chăm sóc
nào khi trẻ bị bệnh có sốt?
- Anh/ chị đã học cách chăm sóc trẻ bệnh có
sốt ở đâu? Học được điều gì và khi nào?
- Khi chăm sóc trẻ bệnh có sốt, anh/ chị tin
rằng điều gì là có lợi cho việc đo thân nhiệt/ lau
mát/ dùng thuốc hạ sốt?
- Khi chăm sóc trẻ bệnh có sốt, anh/ chị tin
rằng điều gì là có hại của việc đo thân nhiệt/ lau
mát/ dùng thuốc hạ sốt?


Chuyên Đề Nhi Khoa

Nghiên cứu Y học

- Khi chăm sóc trẻ bệnh có sốt, người hoặc
nhóm người nào tán thành anh/ chị đo thân
nhiệt/ lau mát/ dùng thuốc hạ sốt?
- Khi chăm sóc trẻ bệnh có sốt, người hoặc
nhóm người nào phản đối anh/ chị đo thân
nhiệt/ lau mát/ dùng thuốc hạ sốt?
- Khi chăm sóc trẻ bệnh có sốt, điều gì
khuyến khích hoặc thúc đẩy anh/ chị đo thân
nhiệt/ lau mát/ dùng thuốc hạ sốt?
- Khi chăm sóc trẻ bệnh có sốt, điều gì cản
trở hoặc gây khó khăn cho anh/ chị đo thân
nhiệt/ lau mát/ dùng thuốc hạ sốt?

Tiêu chuẩn chọn đối tượng
Cha/ mẹ đã từng chăm sóc trẻ bệnh có sốt
trong độ tuổi từ 6 tháng đến 5 tuổi đang nằm điều
trị tại một số khoa Nội với tình trạng không nguy
kịch.
Cha/ mẹ từ 18 tuổi trở lên, có thể đọc hiểu và
viết tiếng Việt.
Tiêu chuẩn loại trừ
Cha/ mẹ thuộc dân tộc thiểu số không thể đọc
hiểu và viết tiếng Việt.
Cha/ mẹ của trẻ đang sốt cao và trong tình
trạng nguy kịch cần xử trí cấp cứu.

Cha/ mẹ của trẻ bị sốt được chẩn đoán xác
định bệnh sốt xuât huyết Dengue, bệnh về máu,
bệnh về não và thần kinh như động kinh, viêm
màng não…
Cỡ mẫu
Theo đề nghị của Godin và Kok(8), nghiên cứu
suy luận sử dụng học thuyết Hành vi Hoạch định
của Ajzen(1) cần 25 đối tượng. Cỡ mẫu được chọn
trong nghiên cứu này là 32 để đảm bảo đề nghị
trên và cơ hội tham gia đồng đều của đối tượng
nghiên cứu tại mỗi khoa Nội của các bệnh viện
Nhi TP.HCM.
KẾT QUẢ
Khái niệm về sốt và tác dụng của sốt
Khi được hỏi về nhiệt độ cho là sốt và tác
dụng của sốt, đa số cha mẹ cho rằng 38°C. Rất ít
cha mẹ xác định trẻ sốt khi thân nhiệt cao hơn
38°C và một vài cha mẹ cho rằng thân nhiệt trẻ

201


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

trong khoảng 37°C là sốt. Một trường hợp đặc
biệt bà mẹ định nghĩa sốt khi thân nhiệt ở 35°C.
Về tác dụng của sốt, đa số cha mẹ cho rằng sốt
có hại, một số ít nhận ra được sốt là dấu hiệu để

biết trẻ có bệnh nhưng vẫn tin đây là điều hại.
Tác hại được nhắc đến phổ biến nhất là sốt cao
co giật. Ngoài ra, vài cha mẹ cho rằng sốt làm trẻ
mệt mỏi, lừ đừ, chán ăn hay tổn thương não. Ví
dụ:
Nhiệt độ của sốt là 38°C. Sốt chẳng có lợi gì
nhưng là dấu hiệu giúp nhận biết trẻ đang bệnh
nhiễm trùng như là viêm phế quản. Sốt cao có
thể gây tổn thương não và co giật cho trẻ. (Mẹ
21, 28, 29)

Biến số
Phương pháp
xác định

Nhiệt kế thủy ngân đo ở nách
Nhiệt kế điện tử đo ở nách
Nhiệt kế hồng ngoại đo ở tai
Sờ
Vệ sinh nhiệt
kế
Vệ sinh bằng khăn hoặc giấy
khô
Vệ sinh bằng cồn
Thời điểm đo
Sờ thấy trẻ nóng
Sau lau mát
Sau khi dùng Paracetamol
Trẻ không chịu chơi
Mỗi buổi sáng lúc trẻ bệnh

Mỗi giờ lúc trẻ bệnh
Trẻ bứt rứt

Bảng 1: Khái niệm về sốt và tác dụng của sốt
Biến số

Phạm trù chính

Tần suất

35.0°C
37.0°C
37.1°C
38.0°C
38.5°C

27
1
5
4
14
3

Phần
trăm (%)
100
4
18
15
52

11

Biết trẻ có bệnh

3
48

100
100

Co giật
Mệt mỏi
Chán ăn
Tổn thương não

20
12
9
7

42
25
19
15

Nhiệt độ sốt

Tác dụng có lợi
của sốt
Tác dụng có hại

của sốt

Kinh nghiệm xử trí trẻ sốt
Khi trẻ sốt, cha mẹ có kinh nghiệm xử trí
khác nhau. Đa số cha mẹ đo thân nhiệt để xác
định trẻ sốt bao nhiêu độ. Có người sờ người trẻ
và có người đo thân nhiệt bằng nhiệt kế thủy
ngân hoặc điện tử. Họ thường đo thân nhiệt khi
sờ thấy trẻ ấm hơn bình thường, sau khi lau mát
hay sau dùng thuốc hạ sốt. Có cha mẹ kiểm tra
thân nhiệt con thường xuyên vào mỗi buổi sáng
trong thời gian bệnh hoặc khi trẻ không chịu
chơi, quấy khóc. Mặc dù sử dụng nhiệt kế
thường xuyên nhưng cha mẹ đã không quan
tâm đến việc vệ sinh nhiệt kế sau khi dùng.

Phạm trù chính

Tần Phần
suất trăm (%)
32

100

16
7
1
8

50

21
3.1
25

11

100

8

24

3
48
24
11
7
2
2
1
1

9
100
50
23
15
4
4
2

2

Tất cả cha mẹ đều lau mát khi trẻ sốt, tuy
nhiên tường thuật cách lau mát của họ rất khác
nhau (Bảng 3). Một số cha mẹ kết hợp việc lau
mát và dùng thuốc Paracetamol, đa số sử dụng
nhiều khăn nhúng nước ấm và đặt ở nách, bẹn
và trán. Một bà mẹ đã chia sẻ là đã dùng nước
lạnh để lau mát cho trẻ tại nhà nhưng khi vào
bệnh viện đã sử dụng nước ấm lau mát theo chỉ
dẫn của điều dưỡng. Đa số cha mẹ lau mát 10-15
phút khi nhiệt độ trẻ trong khoảng 37-38°C.
Bảng 3: Lau mát hạ sốt
Biến số

Phạm trù chính

Tần
Phần
suất trăm (%)
Lau mát
32
100
Cách lau mát
64
100
Nước ấm
31
48
Nước lạnh

1
2
Dùng 1 khăn lau khắp người
9
14
Dùng nhiều khăn lau khắp
người, đắp khăn ở nách, bẹn 23
36
và trán
Lau mát khi thân nhiệt trẻ
24
100
37.0-38.0°C
16
67
38.1-39.0°C
8
33
Thời gian lau mát
29
100
5 phút
6
21
10 phút
12
41
15 phút
11
38


Bảng 2: Xác định thân nhiệt

202

Chuyên Đề Nhi Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

Nghiên cứu Y học

Tất cả cha mẹ đều cho con dùng thuốc hạ sốt
(Paracetamol) khi sốt. Thời điểm cho trẻ dùng
thuốc khi thân nhiệt dao động từ 37.5°C đến
38.5°C. Đa số cha mẹ khẳng định là biết liều
dùng thuốc cho trẻ và sử dụng thuốc theo toa
hoặc chỉ dẫn của bác sĩ và có cha mẹ đã biết điều
chỉnh liều khi trẻ tăng cân. Rất ít cha mẹ chia sẻ
sự hiểu biết về dùng thuốc hạ sốt từ chỉ dẫn của
điều dưỡng.

chà gừng, thoa cồn, và lăn trứng đã luộc chín có
đặt vòng kim loại bên trong lên người trẻ.
Những cách hạ sốt này cha mẹ chủ yếu biết
được qua truyền miệng từ họ hàng trong gia
đình. Một bà mẹ đã tường thuật rằng:

Bảng 4: Cho trẻ dùng thuốc Paracetamol


Bảng 5: Những xử trí sốt khác

Biến số

Phạm trù chính

Cho trẻ dùng Paracetamol
Nhiệt độ lúc cho trẻ dùng thuốc
37.5°C
37.8°C
38.0°C
38.1°C
38.5°C
Kiến thức về liều dùng Paracetamol
biết được qua
Toa thuốc/hướng dẫn
của Bác sĩ
Nhà thuốc tây
Hướng dẫn của điều
dưỡng
Tờ rơi hướng dẫn sử
dụng của hãng thuốc

Tần suất Percent
(%)
32
100
23
100
3

13
1
4
9
39
4
17
6
26
49

100

30

61

13

27

4

8

2

4

Sau đây là ví dụ về xử trí sốt của một người

mẹ:
Tôi thường đo nhiệt độ trẻ khi bé không
muốn ăn hay không chịu chơi và tôi sờ người bé
(đầu, tay và chân) thấy nóng. Tôi cũng đo thân
nhiệt bé sau khi dùng Paracetamol 4h. Tôi đặt
nhiệt kế thủy ngân ở nách 10-15 phút và đọc
nhiệt độ. Tôi chưa vệ sinh nhiệt kế lần nào. Khi
thân nhiệt bé 37.5°C hay 38°C, tôi lau mát 10-15
phút. Tôi cho bé uống Hapacol lúc nhiệt độ
37.5°C mỗi 4h theo chỉ dẫn của bác sĩ và điều
dưỡng. Nếu bé vẫn còn sốt trong vòng 4h tôi sẽ
cho uống thêm 1 liều nữa. (Mẹ số 12)
Ngoài những kinh nghiệm chăm sóc trẻ sốt
ở trên, vài cha mẹ đã có những thực hành theo
khoa học chứng cứ như là cho bé mặc quần áo
thoáng và cung cấp nhiều dịch. Tuy nhiên vẫn
có cha mẹ đã sử dụng miếng dán gel lên trán và
những biện pháp dân gian như là chà chanh,

Chuyên Đề Nhi Khoa

Tôi đã mua miếng gel lạnh và dán lên trán trẻ
trong vòng 5-6h. Tôi biết cách này từ người chị họ.
Theo chỉ bảo của bà Nội bé, tôi cắt trái chanh làm đôi
và thoa lên lưng trẻ. (Mẹ số 07)
Biến số

Phạm trù

Xử trí sốt

khác

Tần suất
17

Quần áo thoáng
Miếng gel dán ở
trán
Cung cấp dịch
Chà chanh
Thoa cồn
Thoa trứng đã luộc
chín
Chà gừng

5
5
3
1
1
1
1

Phần trăm
(%)
100
29
29
18
6

6
6
6

Nguồn thông tin tiếp cận
Cha mẹ tiếp cận thông tin xử trí trẻ sốt từ
nhiều nguồn khác nhau. Đa số họ nhận thông
tin từ bác sĩ, đôi khi từ điều dưỡng, dược sĩ nhà
thuốc tây và cả cha mẹ của bé khác. Một số cha
mẹ biết cách chăm sóc trẻ sốt từ truyền hình,
mạng điện tử hay sách báo. Một người mẹ chia
sẻ là học cách chăm sóc trẻ trong sổ khám bệnh
ngoại trú của bé. Những thông tin về xử trí sốt
bao gồm cho bé dùng Paracetamol, lau mát bằng
nước ấm, đo thân nhiệt và dùng miếng gel dán
hạ sốt. Cha mẹ đã nhận những thông tin chăm
sóc này khi con nằm điều trị tại bệnh viện, lúc
khám bác sĩ ở phòng mạch, khi mang thai hay
kinh nghiệm chăm sóc đứa con trước. Sau đây là
ví dụ phản hồi của cha mẹ khi được hỏi: Anh/
chị đã học cách chăm sóc trẻ bệnh có sốt ở đâu? Học
được điều gì và khi nào?
Tôi học được cách chăm sóc trẻ sốt trong
quyển sổ khám bệnh của bé. Tôi còn nhận thông
tin từ bác sĩ, điều dưỡng khi con nằm viện về
cách lau mát bằng nước ấm hạ sốt và dùng
thuốc hạ sốt. Bà nội bé có chỉ tôi cách khác như

203



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

chà chanh và người chị khuyên tôi dùng miếng
gel dán hạ sốt. (Mẹ 07)
Tôi học lau mát bằng nước ấm hạ sốt từ
người mẹ khác ở phòng cấp cứu khi con tôi
nhập viện. Tôi còn biết đo nhiệt độ và sử dụng
thuốc hạ sốt từ bác sĩ phòng mạch tư. (Mẹ 17)
Bảng 6: Nguồn thông tin tiếp cận
Biến số

Phạm trù chính

Tần suất Phần trăm
(%)
Thông tin gì?
73
100
Dùng thuốc
31
Paracetamol
42
Lau mát hạ sốt
31
42
Đo thân nhiệt
7

10
Miếng gel dán hạ sốt
4
6
Nhận từ người
108
100
nào?
Bác sĩ
30
28
Điều dưỡng
20
19
Cha/ mẹ
16
15
Anh/ chị
8
7
Truyền hình
8
7
Mạng điện tử
6
6
Sách
5
5
Cha/mẹ của bé khác

5
5
Bạn bè
5
5
Hàng xóm
2
2
Báo chí
2
2
Sổ khám bệnh
1
1
Nhận khi nào?
76
100
Trẻ nằm viện
30
39
Trẻ khám bác sĩ
25
phòng mạch
33
Lúc chăm sóc đứa
12
con trước
16
Có thai
9

12

Học thuyết Hành vi Hoạch định đã định
hướng chúng tôi thu thập thông tin của cha mẹ
về niềm tin đối với cách xử trí trẻ sốt. Sau đây là
những ví dụ cụ thể ý kiến cha mẹ chia sẻ với
phỏng vấn viên:

Niềm tin đối với việc đo thân nhiệt
Niềm tin bản thân
Đo thân nhiệt giúp tôi biết chính xác nhiệt
độ của trẻ để xử trí hạ sốt đúng và đưa trẻ đến
cơ quan y tế kịp thời. Không có bất lợi nào từ
việc lấy thân nhiệt (Mẹ 20)

204

Niềm tin về cá thể ảnh hưởng
Cha mẹ ruột, cha mẹ chồng, chồng, bạn bè,
bác sĩ và điều dưỡng đều là người ủng hộ tôi lấy
thân nhiệt cho trẻ (Mẹ 13, 16, 31)
Lấy thân nhiệt đâu có tác hại gì nên tôi nghĩ
là không ai phản đối việc làm này của tôi. (Mẹ
10)

Niềm tin về yếu tố tác động
Tôi sẽ đo thân nhiệt trẻ khi tôi sờ trán, cổ và
nách trẻ thấy nóng. (Mẹ 16, 17, 19)
Yếu tố có thể làm tôi không đo thân nhiệt là
bé đang khóc. Tuy nhiên, tôi sẽ chờ bé ngủ và

lấy nhiệt độ bé. (Mẹ 10)

Niềm tin đối với việc lau mát
Niềm tin bản thân:
Lau mát có thể hạ sốt, giúp bé thoải mái và
nhờ đó trẻ chịu chơi trở lại. Tuy nhiên lau mát
có thể làm cho trẻ lạnh nên tôi không bao giờ
lau mát trẻ hơn 30 phút. (Mẹ 14)
Lau mát làm trẻ hạ sốt, sốt không lên não thì
không bị co giật (Mẹ 12)

Niềm tin về cá thể ảnh hưởng
Tất cả mọi người trong gia đình như chồng,
ba mẹ chồng, ba mẹ và anh chị họ đều đồng tình
việc tôi lau mát hạ sốt cho trẻ. Bác sĩ và điều
dưỡng cũng khuyến khích tôi lau mát khi trẻ
vẫn còn sốt sau khi đã dùng thuốc hạ sốt
Paracetamol. Tôi nghĩ không ai phản đối việc tôi
lau mát cho trẻ. (Mẹ 13)
Niềm tin về yếu tố tác động
Thân nhiệt trẻ 38.5°C sẽ thúc tôi tiến hành
lau mát vì tôi rất lo lắng bé sốt ở nhiệt độ này
mà không kịp hạ. Tiết trời lạnh vào buổi tối có
thể ngăn tôi không lau mát cho con. (Mẹ 26)
Tôi sẽ lau mát khi trẻ vẫn còn sốt sau khi đã
dùng 1 liều paracetamol. Tôi muốn hạ sốt càng
sớm càng tốt để ngăn trẻ khỏi bị co giật. Tôi
nghe lời khuyên về lau mát từ một bác sĩ tư mà
tôi thường đưa trẻ đi khám. Nhưng con tôi rất
hay khóc và quấy, điều này làm tôi rất khó thực

hiện lau mát cho bé. Vì vậy mà vị bác sĩ này
khuyên tôi dùng miếng gel dán mua ở nhà

Chuyên Đề Nhi Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
thuốc tây. Tôi đã dán lên trán và ở nách để hạ
sốt cho bé. (Mẹ 13)

Niềm tin đối với việc dùng thuốc
Paracetamol
Niềm tin bản thân
Tác dụng có lợi cúa Paracetamol là hạ sốt,
không sốt thì trẻ không bị sốt cao co giật.
Paracetamol sẽ có hại nếu dùng không đúng
nghĩa là dùng thường xuyên ngay cả khi nhiệt
độ ≤, 37.5°C nhưng tôi không chắc những tác
dụng có hại đó là gì. (Mẹ 12)
Paracetamol có thể hạ sốt và ngăn sốt cao co
giật cho trẻ. Tác hại của Paracetamol là làm tổn
thương gan. (Mẹ 13)

Niềm tin về cá thể ảnh hưởng
Bác sĩ nhi, người anh họ làm bác sĩ, dược sĩ
và đồng nghiệp nữ khuyên tôi dùng
Paracetamol cho con bị sốt. Tôi không thể nghĩ
ra ai đó có thể ngăn tôi sử dụng Paracetamol hạ
sốt. (Cha 01)
Những người trong gia đình như là cha mẹ

chồng, mẹ, anh chị em đều ủng hộ việc tôi dùng
Paracetamol. Bác sĩ và điều dưỡng cũng đồng
tình việc làm này, ngoại trừ người anh họ Việt
kiều. Anh ấy cho rằng trẻ sốt 38°C là không có
vấn đề gì. (Mẹ 13)

Niềm tin về yếu tố tác động
Thân nhiệt trẻ 37.5°C hoặc cao hơn sẽ thúc
đẩy tôi cho bé dùng Paracetamol vì tôi rất lo sợ
bé bị co giật. Một yếu tố nữa là tôi phải cho bé
dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ. Việc trẻ
không chịu uống thuốc vì đang bứt rứt do sốt
cao gây khó khăn cho tôi. Khó khăn khác là túi
hết tiền, không có tiền thì làm sao mua thuốc
được. (Mẹ 12)
Tôi sẽ cho bé dùng thuốc Paracetamol khi tôi
sờ người thấy bé nóng. Yếu tố khác dùng
Paracetamol là theo toa của bác sĩ mỗi 4h khi bé
sốt. Tôi không chắc yếu tố nào ngăn tôi không
cho bé dùng Paracetamol, có lẽ là bé sốt nhưng
đã dùng thuốc hạ sốt trong vòng 4h. (Mẹ 19)

Chuyên Đề Nhi Khoa

Nghiên cứu Y học

BÀN LUẬN
Đa số cha mẹ cho rằng nhiệt độ trong
giới hạn bình thường là sốt và chưa nhận ra
phản ứng có lợi của sốt kích thích hệ miễn

dịch, tăng khả năng chống lại vi khuẩn hoặc
siêu vi. Mặc dù cha mẹ hiểu sốt là dấu hiệu
giúp họ biết trẻ đang mắc bệnh gì đó nhưng
vẫn không tin điều này có lợi. Những khái
niệm này đã tác động đến cách họ xử trí trẻ
sốt như lấy thân nhiệt thường xuyên, lau mát
và cho trẻ dùng thuốc hạ sốt ở nhiệt độ có lợi
cho cơ thể. Việc làm này của cha mẹ giống
với các nghiên cứu khác ở Ả Rập(3), Úc(17), Hy
Lạp(10), Mỹ(5), Anh(13) và Nhật Bản(14). Việc kết
hợp hai loại thuốc hạ sốt (Paracetamol và
Ibuprofen) thường tìm thấy ở cha mẹ trẻ của
các nước phát triển không tìm thấy trong cha
mẹ trẻ nước ta.
Xử trí của cha mẹ không phải lúc nào
cũng được trẻ hợp tác như là trẻ cọ quậy làm
vỡ nhiệt kế thủy ngân hay quấy khóc phản
kháng lau mát và không chịu uống thuốc khi
ngủ. Những điều này tuy không có hại gì
đáng kể nhưng làm trẻ khó chịu, kích động
gây tăng thân nhiệt. Cha mẹ thay vì theo dõi
nhiệt độ thường xuyên, lau mát hạ sốt hay
đánh thức trẻ dậy cho uống thuốc thì nên để
trẻ nghỉ ngơi, cho uống nhiều nước, mặc
quần áo thoáng thấm hút mồ hôi và quan sát
cử chỉ của trẻ hay những dấu hiệu bất
thường khác của bệnh có liên quan đến sốt
cần xử trí (như thở bất thường, phù, nốt xuất
huyết, gồng cứng người…). Đối với trẻ bệnh
có sốt nhưng vẫn ăn ngoan, cười vui và chơi

đùa thì cha mẹ không nên quá lo lắng. Nếu
trẻ bứt rứt, mệt mỏi, chán ăn do sốt gây ra
thì việc dùng thuốc Paracetamol được
khuyến khích để làm dịu trẻ(11).
Việc hạ sốt tích cực của cha mẹ có thể lý
giải qua sự quan tâm lo lắng con sẽ bị co giật

205


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

do sốt cao gây tổn thương não hay ảnh
hưởng đến phát triển tâm thần vận động của
trẻ. Điều này không khác gì với cha mẹ ở các
nước trên thế giới(13,17,14,4).Với suy nghĩ sốt cao
sẽ làm co giật nên cha mẹ mong muốn kiểm
soát nhiệt độ của con trong mức bình
thường. Tuy nhiên ngưỡng thân nhiệt khởi
phát co giật ở trẻ khác nhau và ở nước ta trẻ
em sốt ≥ 39°C co giật cao gấp 4 lần trẻ sốt <
39°C(9). Co giật do sốt là vấn đề thường gặp ở
trẻ nhỏ (chiếm 2-5% trẻ bình thường),
thường diễn ra nhanh 5-10 phút, tiên lượng
tốt và kết thúc trước khi trẻ vào bệnh viện.
Điều này nhấn mạnh thêm vai trò cung cấp
thông tin chuẩn xác và giao tiếp tốt của nhân
viên y tế để trấn an cha mẹ.

Thông tin về sốt và cách xử trí trẻ sốt cha
mẹ tiếp nhận rất đa dạng. Nguồn cung cấp
thông tin phổ biến là bác sĩ, điều dưỡng,
người hỗ trợ chăm sóc trẻ như mẹ ruột, mẹ
chồng/ mẹ vợ và bạn bè. Ngoài ra, cha mẹ
còn nhắc đến thông tin chăm sóc trẻ sốt nhận
được trên truyền hình, sách hướng dẫn nuôi
dạy trẻ, báo chí và mạng điện tử. Điều này
cho thấy việc giáo dục sức khỏe sẽ thiếu sót
nếu chỉ dựa vào nguồn nhân viên y tế mà cần
chú trọng ở các phương tiện truyền thông đại
chúng cũng như chỉ nhắm riêng vào cha mẹ
mà không quan tâm đến những người thân
thiết khác sống xung quanh họ.
Những kết quả niềm tin theo học thuyết
Hành vi Hoạch định cho thấy rằng việc đo
thân nhiệt, lau mát và dùng thuốc hạ sốt của
cha mẹ bị chi phối bởi kiến thức lĩnh hội bản
thân điều lợi hại, sự đồng tình của những
người quan trọng có ý nghĩa đối với họ và
yếu tố thúc đẩy hay cản trở. Một người mẹ sẽ
có khuynh hướng đo thân nhiệt thường
xuyên cho trẻ khi cho rằng việc này không có
hại, giúp họ xác định đúng thân nhiệt của trẻ
để xử trí sốt phù hợp. Nếu thân nhiệt trẻ ≥
206

38.5°C thì cho dùng thuốc Paracetamol theo
chỉ định bác sĩ. Trẻ vẫn sốt khi đã dùng
Paracetamol, người mẹ này sẽ lau mát vì cho

rằng nếu dùng thêm liều Paracetamol trong
vòng 4h sẽ gây hại cho trẻ. Việc lau mát dễ
dàng hơn nếu trẻ nằm yên hợp tác và sẽ trở
ngại nếu trẻ quấy khóc, bị run hay tiết trời
đang lạnh. Tuy nhiên, nếu trẻ đang khóc
nhưng người mẹ lo lắng sốt gây co giật thì
lau mát vẫn được tiến hành. Người mẹ sẽ
không do dự lau mát cho trẻ khi tin rằng bác
sĩ, điều dưỡng, người chồng hay mẹ ruột đều
đồng tình và mình đang làm theo lời khuyên
của họ. Nếu người mẹ nhận biết lau mát làm
trẻ quấy khóc kích động gây tăng thân nhiệt
và có người không ủng hộ thì có thể sẽ đắn
đo, xem xét vai trò và thông tin của người
nào quan trọng hơn để đảm bảo hành động
của mình là tốt cho trẻ.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu này đã nêu bật lên những
chia sẻ về kinh nghiệm và niềm tin liên quan
đến xử trí sốt trẻ em của cha mẹ. Kinh
nghiệm xử trí trẻ sốt của cha mẹ chủ yếu là
xác định thân nhiệt, lau mát bằng nước ấm
và dùng thuốc hạ sốt. Các biện pháp dân
gian vẫn còn tồn tại nhưng không phổ biến.
Cha mẹ có được kinh nghiệm xử trí trẻ sốt
khi trẻ bị bệnh và nằm viện thông qua chỉ
dẫn của bác sĩ và điều dưỡng. Lời khuyên
của người thân trong gia đình và thông tin
chăm sóc trẻ sốt trên các phương tiện truyền
thông cũng ít nhiều tác động đến xử trí trẻ

sốt của cha mẹ. Cha mẹ cần được nhấn mạnh
hiểu rõ tác dụng có lợi của sốt đối với cơ thể
và hướng dẫn xử trí trẻ sốt theo khoa học
chứng cứ không gây hại hay khó chịu cho trẻ.
Những chia sẻ về niềm tin của cha mẹ trong
nghiên cứu này là nền tảng để tiếp bước cho
nghiên cứu sau xác định mối quan hệ về các

Chuyên Đề Nhi Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
yếu tố thái độ, tác động cá thể trong xã hội
và khả năng tự kiểm soát lên những dự định
và hành vi xử trí trẻ sốt của họ.

10.

11.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.

4.

5.
6.


7.

8.
9.

Ajzen I (1991), The theory of planned behavior. Organizational
behavior and human decision processes, 50(2): p. 179-211.
Alves JGB et al (2007), Dipyrone and acetaminophen: correct dosing
by parents? Sao Paulo Medical Journal,. 125(1): p. 57-59.
Betz MG and Anton FG (2006), 'Fever phobia' in the emergency
department: a survey of children's caregivers. European Journal of
Emergency Medicine,. 13: p. 129-133
Cohee LMS, et al (2010), Ethnic differences in parental perceptions
and management of childhood fever. Clinical Pediatrics, 49(3): p.
221-227.
Crocetti M, et al (2009), Knowledge and management of fever
among Latino parents. Clinical Pediatrics, 48(2): p. 183-189.
Crocetti M, Moghbeli N, and Serwint J (2001), Fever phobia
revisited: have parental misconceptions about fever changed in 20
years? Pediatrics. 107(6): p. 1241-1246.
Doan TV (2010), Mothers' knowledge, attitude and behaviour
regarding high fever at Phuc Yen Hospital. University of Medicine
and Pharmacy: Ho Chi Minh.
Godin G and Kok G (1996), The theory of planned behavior: a
review of its applications to health-related behaviors.
Mai CD (2007), Risk factors of first febrile convulsions in Vietnamese
children. University of Medicine and Pharmacy: Ho Chi Minh p.
84.

Chuyên Đề Nhi Khoa


12.

13.
14.
15.

16.

17.

18.

Nghiên cứu Y học

Matziou V, et al (2008), What Greek mothers know about evaluation
and treatment of fever in children: An interview study. International
Journal of Nursing Studies, 45(6): p. 829-836.
National Collaborating Centre for Women's and Children's
Health (2007), Feverish illness in children. London, UK: Royal
College of Obstetricians and Gynaecologists.
Poirier MP, Collins EP, and McGuire E (2010), Fever Phobia: A
Survey of Caregivers of Children Seen in a Pediatric Emergency
Department. Clinical Pediatrics. 49(6): p. 530.
Purssell E (2009), Parental fever phobia and its evolutionary
correlates. Journal of Clinical Nursing. 18(2): p. 210-218.
Sakai R, et al (2011), Does fever phobia cross borders? The case of
Japan. Pediatrics International,: p. no-no.
Thomas S, et al (2009), Comparative effectiveness of tepid sponging
and antipyretic drug versus only antipyretic drug in the management

of fever among children: A randomized controlled trial. Indian
Pediatrics. 46(2): p. 133-136.
Walsh A, Edwards H, and Fraser J (2007), Over-the-counter
medication use for childhood fever: A cross-sectional study of
Australian parents. Journal of Paediatrics and Child Health, 43(9):
p. 601-606.
Walsh A, Edwards H, and Fraser J (2007), Influences on parents'
fever management: beliefs, experiences and information sources.
Journal of Clinical Nursing, a. 16(12): p. 2331-2340.
Watts R, Robertson J, and Thomas G (2003), Nursing
management of fever in children: a systematic review. International
Journal of Nursing Practice. 9(1): p. S1-8.

207



×