Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Nội soi sau phúc mạc điều trị bệnh lý hẹp chỗ nối niệu quản bể thận theo phương pháp anderson hynes ở trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.81 KB, 4 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

NỘI SOI SAU PHÚC MẠC ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ HẸP CHỖ NỐI NIỆU QUẢN 
BỂ THẬN THEO PHƯƠNG PHÁP ANDERSON HYNES Ở TRẺ EM 
Nguyễn Thị Mai Thủy*, Nguyễn Thanh Liêm*, Lê Anh Dũng* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu áp dụng nội soi hỗ trợ 1 lỗ trocar sau phúc mạc điều trị bệnh lý hẹp 
chỗ nối niệu quản bể thận theo phương pháp Anderson Hynes.  
Phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 1/2010 đến tháng 12/2012 chúng tôi đã tiến hành mổ cho 80 trường 
hợp  bệnh  nhi  được  chẩn  đoán  hẹp  phần  nối  niệu  quản  bể  thận:  Trong  đó  có  66  trẻ  nam  (82,5%),  14  trẻ  nữ 
(17,5%), tuổi từ 3 tháng đến 5 tuổi (tuổi trung bình là 25 tháng). Kỹ thuật: Rạch da 1,5 cm dưới xương sườn 12 
rồi phẫu tích vào khoang sau phúc mạc. Phần nối bể thận niệu quản được phẫu tích bằng nội soi sau phúc mạc 
sau đó đưa ra ngoài để cắt và khâu nối theo phương pháp Anderson – Hynes kinh điển. Đặt sonde double J.  
Kết quả: 54 bệnh nhân (chiếm 67,5%) hẹp chỗ nối niệu quản bể thận trái, 26 bệnh nhân (chiếm 32,5%) bị 
hẹp bên phải. Có 5 trường hợp chiếm 6,2% phải mổ mở do khi phẫu tích làm thủng phúc mạc. Thời gian mổ 
trung bình là 77 phút (50 – 150 phút). Không có biến chứng trong mổ. Thời gian nằm viện trung bình là 3 ngày 
(2 – 10 ngày).  
Kết luận: Đây là một phương pháp an toàn, hiệu quả, ít xâm lấn; phù hợp ở trẻ nhỏ. 
Từ khóa: Thận ứ nước, tắc nghẽn niệu quản, nội soi ổ bụng, tạo hình bể thận, tiến trình phẫu thuật. 

ABSTRACT 
RETROPERITONEOSCOPIC ANDERSON‐ HYNES DISMEMBERED PYELOPLASTY  
IN CHILDREN 
Nguyen Thi Mai Thuy, Nguyen Thanh Liem, Le Anh Dung  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 116 ‐ 119 
Objectives:  To  present  a  new  technique  of  one  trocar  assisted  retroperitoneoscopic  Anderson  ‐  Hynes 
dismembered pyeloplasty in infants  and  children  with  ureteropelvic  junction  obstruction  based  on  our  clinical 
experience. 


Methods: From 1/2010 to 12/2012 eighty children (66 males, 14  females) from 3 months to 5 years olds 
(mean age 25 months), with impaired monolateral renal function underwent surgical treatment for ureteropelvic 
junction obstruction. The retroperitoneal space was entered via a 1.5 cm longitudinal incision beneath the 12th 
rib.  The  ureteropelvic  junction  was  isolated  with  1  –  port  retroperitoneoscopy  assisted.    The  ureteropelvic 
junction was exteriorized and a Anderson‐Hynes dismembered pyeloplasty performed in an open fashion with 
Double J stenting.  
Results: In 54 cases the obstruction was on left side and 26 cases on right side. In 5 cases the conversion to 
open  surgery  were  required.  Mean  operative  time  was  77  minutes  (50  –  150  minutes).  No  intraoperative 
complication occurred. Mean hospital stay was 3 days (2 – 10 days).  
Conclusion:  In  our  opinion  the  one  trocar  assisted  retroperitoneoscopic  Anderson‐  Hynes  dismembered 
pyeloplasty could be considered as a safe and feasible alternative to retroperitoneoscopic pyeloplasty, especially in 

* Bệnh viện Nhi Trung Ương 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Mai Thủy   ĐT: 0913379595 

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

 Email:  

117


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

small children. 
Key words: Hydronephrosis, ureteropelvic obstruction, laparoscopy, pyeloplasty, surgical procedures. 
hẹp  chỗ  nối  niệu  quản  bể  thận  theo  phương 
ĐẶT VẤN ĐỀ 

pháp Anderson Hynes.  
Hẹp khúc nối bể thận niệu quản là một dị tật 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
bẩm  sinh  thường  gặp  nhất  trong  các  dị  tật  về 
Trong  thời  gian  từ  tháng  1/2010  đến  tháng 
thận  tiết  niệu  ở  trẻ  em.  Ngày  nay,  với  sự  phát 
12/2012 chúng tôi đã tiến hành phẫu thuật điều 
triển  của  các  phương  tiện  chẩn  đoán  hình  ảnh 
trị 
bệnh  lý  hẹp  chỗ  nối  niệu  quản  bể  thận  theo 
đặc  biệt  là  sự  phát  triển  của  chẩn  đoán  trước 
phương pháp Anderson Hynes sử dụng nội soi 
sinh, bệnh lý này thường được phát hiện sớm và 
sau phúc mạc 1 lỗ trocar cho 80 trường hợp bệnh 
điều  trị  kịp  thời.  Năm  1949  hai  phẫu  thật  viên 
nhi  từ  3  tháng  đến  5  tuổi.  Tất  cả  các  bệnh  nhi 
người  Anh  là  Anderson  và  Hynes  đã  lần  đầu 
này đều được chẩn đoán là ứ nước thận do hẹp 
tiên mô tả kỹ thuật cắt chỗ hẹp, tạo hình lại chỗ 
phần nối bể thận niệu quản nguyên phát, mổ lần 
nối  niệu  quản  bể  thận.  Kể  từ  đó  đến  nay  phẫu 
đầu.  Siêu  âm  đo  đường  kính  trước  sau  của  bể 
thuật Anderson Hynes trở thành là một phương 
thận, chụp niệu đồ tĩnh mạch, chụp xạ hình thận 
pháp  phẫu  thuật  được  ưu  tiên  lựa  chọn  trong 
để  đánh  giá  chức  năng  thận  và  mức  độ  tắc 
điều trị bệnh lý hẹp khúc nối bể thận niệu quản 
nghẽn được thực hiện trước mổ. 
ở trẻ em. 
Kỹ  thuật  mổ:  Bệnh  nhân  được  gây  mê  nội 

Năm 1996 Tan HL đã lần đầu tiên áp dụng 
khí  quản,  đặt  sonde  niệu  đạo,    tư  thế  nằm 
phẫu thuật nội soi để điều trị khúc nối bể thận 
nghiêng  90  độ.  Rạch  da  dài  khoảng  1,5  cm  ở 
niệu quản ở trẻ em. Với ưu thế là phẫu thuật ít 
dưới  xương  sườn  12,  sau  khi  phẫu  tích  vào 
xâm lấn, có tính thẩm mỹ cao, phẫu thuật nội soi 
khoang sau phác mạc, chúng tôi đặt 1 trocar 10 
ngày càng được áp dụng rộng rãi trong điều trị 
(6,4)
mm  sau  phúc  mạc.  Bơm  hơi  áp  lực  10  mmHg, 
bệnh  lý  này  .  Tuy  nhiên,  phẫu  thuật  nội  soi 
tốc độ bơm 3l/ph. Dùng ống soi 2 kênh với canal 
đòi hỏi cao về dụng cụ nội soi, phẫu thuật viên 
làm việc 5 mm để đưa dụng cụ phẫu tích. Dùng 
phải rất có kinh nghiệm do phẫu trường hạn chế 
pince  hoặc  tampon  nội  soi  để  phẫu  tích  giải 
đặc biệt ở trẻ nhỏ, thời gian mổ kéo dài.  
phóng niệu quản và chỗ nối niệu quản bể thận, 
Lima (2007) và Caione (2010) đã sử dụng nội 
sau đó đưa ra ngoài thành bụng. Tiến hành việc 
soi sau phúc mạc 1 trocar để  phẫu  tích  chỗ  nối 
cắt  chỗ  hẹp,  tạo  hình  bể  thận  niệu  quản  theo 
bể thận niệu quản sau đó đưa ra ngoài để khâu 
phương pháp Anderson Hynes kinh điển. Khâu 
nối giống như phẫu thuật mổ mở kinh điển. Hai 
miệng  nối  bằng  chỉ  PDS  6.0  mũi  rời  hoặc  vắt. 
tác giả cũng nhận thấy kỹ thuật này rất phù hợp 
Sonde  doubleJ  được  đặt  cho  tất  cả  bệnh  nhân, 
ở trẻ nhỏ (2,3). 

không cần đặt dẫn lưu hố thận. 
Chúng tôi đã tiến hành áp dụng kỹ thuật nội 
soi sau phúc mạc 1 trocar để điều trị cho 80 bệnh 
nhi  từ  3  tháng  đến  5  tuổi  được  chẩn  đoán  hẹp 
khúc  nối  bể  thận  niệu  quản  trong  thời  gian  từ 
tháng 1/2010 đến tháng 12/2012. Chúng tôi nhận 
thấy  kỹ  thuật  này  cho  phép  rút  ngắn  thời  gian 
phẫu thuật, cho kết  quả  hết  sức  khả  quan,  phù 
hợp ở trẻ nhỏ.  

KẾT QUẢ 

Mục tiêu nghiên cứu 

Từ tháng 1/2010 đến tháng 12/2012 chúng tôi 
đã  tiến  hành  mổ  cho  80  trường  hợp  bệnh  nhi 
được  chẩn  đoán  hẹp  phần  nối  bể  thận  niệu 
quản, trong đó có 66 trẻ nam (82,5%), 14 trẻ nữ 
(17,5%). 
Tuổi từ 3 tháng đến 5 tuổi (tuổi trung bình là 
25 tháng). 

 Đánh giá kết quả bước đầu áp dụng nội soi 
hỗ trợ 1 lỗ trocar sau phúc mạc điều trị bệnh lý 

Trong  số  80  bệnh  nhân  được  mổ  có  54 
bệnh  nhân  (chiếm  67,5%)  hẹp  chỗ  nối  niệu 

118


Chuyên Đề Ngoại Nhi  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
quản bể thận trái, 26 bệnh nhân (chiếm 32,5%) 
bị hẹp bên phải.  
Có  5  trường  hợp  (chiếm  6,2%)  phải  mổ  mở 
do khi phẫu tích làm thủng phúc mạc, 63 bệnh 
nhân  (chiếm  78,8%)  mổ  thuận  lợi  qua  chỗ  đặt 
trocar, 12 bệnh nhân (chiếm 15%) phải rạch rộng 
vết  mổ  (do  bể  thận  giãn  to,  trong  xoang,  viêm 
dày, thành bụng béo).  
Thời gian mổ trung bình là 77 phút (50 – 150 
phút).  Không  có  bệnh  nhân  nào  phải  truyền 
máu trong mổ. Không có biến chứng trong mổ.   
Thời gian nằm viện trung bình là 3 ngày (2 
– 10 ngày). Không có trường hợp nào phải mổ 
lại vì biến chứng chảy máu hoặc rò nước tiểu. 
Không có trường hợp nào bị nhiễm khuẩn vết 
mổ.  

BÀN LUẬN 
Phẫu thuật Anderson Hynes được mô tả lần 
đầu tiên trên thế giới vào năm 1949 bởi hai phẫu 
thuật viên người Anh. Từ đó đến nay, mặc dù có 
rất nhiều kỹ thuật khác nhau, nhưng phẫu thuật 
này vẫn là một lựa chọn hàng đầu của các phẫu 
thuật  viên  niệu  nhi  trong  điều  trị  bệnh  lý  hẹp 
chỗ nối niệu quản bể thận ở trẻ em (4).  
Trong những năm gần đây, với sự phát triển 

của  các  phẫu  thuật  ít  xâm  lấn  (mini‐invasive), 
phẫu  thuật  nội  soi  ngày  càng  được  áp  dụng 
rộng rãi trong phẫu thuật ngoại nhi. Năm 1996 
Tan HL đã lần đầu tiên áp dụng phẫu thuật nội 
soi để điều trị khúc nối bể thận niệu quản ở trẻ 
em. Với ưu thế là phẫu thuật ít xâm lấn, có tính 
thẩm mỹ cao, phẫu thuật nội soi ngày càng được 
áp dụng rộng rãi trong điều trị bệnh lý này (6,4).  
Phẫu  thuật  Anderson  Hynes  có  thể  được 
thực  hiện  bằng  nội  soi  qua  phúc  mạc  hoặc  sau 
phúc mạc. Việc lựa chọn đường mổ là tùy thuộc 
vào thói quen của phẫu thuật viên vì thực tế cho 
tới  nay  chưa  có  nghiên  cứu  nào  khẳng  định 
đường mổ nào có nhiều ưu điểm hơn. Đa phần 
các  tác  giả  đều  sử  dụng  3  trocar.  Ưu  điểm  của 
nội  soi  trong  phúc  mạc  là  trường  mổ  rộng,  dễ 
thực hiện các thao tác. Tuy nhiên, mổ nội soi sau 
phúc mạc vẫn là sự lựa chọn của các phẫu thuật 
viên tiết niệu do đường mổ này rất an toàn, ít tai 

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

Nghiên cứu Y học

biến. Nhưng do phẫu trường rất hẹp, đặc biệt ở 
trẻ  nhỏ  nên  thao  tác  thường  khó  khăn  đòi  hỏi 
phẫu  thuật  viên  phải  có  nhiều  kinh  nghiệm, 
trang thiết bị tốt. Mặc dù vậy, thời gian mô nội 
soi  thường  kéo  dài  hơn  mổ  mơ,  phẫu  tích  và 
khâu nối thường khó khăn (5,4).  

Lima  và  cộng  sự  đã  áp  dụng  kỹ  thuật  1 
trocar sau phúc mạc hỗ trợ để phẫu tích chỗ nối 
bể  thận  niệu  quản.  Lỗ  trocar  đặt  ở  dưới  xương 
sườn 12. Về cơ bản kỹ thuật phẫu tích giống hệt 
như  khi  thực  hiện  phẫu  thuật  nội  soi  sau  phúc 
mạc 3 lỗ trocar. Sau khi giải phóng đủ, phần nối 
niệu  quản  bể  thận  được  đưa  ra  ngoài.  Phẫu 
thuật Anderson‐ Hynes được thực hiện theo kỹ 
thuật  mổ  mở  kinh  điển  cho  phép  tiết  kiệm  rất 
nhiều  thời  gian.  Đặc  biệt  cách  làm  này  không 
đòi hỏi nhiều dụng cụ nội soi cũng như yêu cầu 
cao  về  kinh  nghiêm  mổ  nội  soi  của  phẫu  thuật 
viên (3).  
Theo báo cáo của tác giả Caione thì phương 
pháp này an toàn và cho kết quả tốt giống như 
phẫu  thuật  mổ  mở  kinh  điển.  Mặt  khác,  khâu 
nối  ngoài  cho  phép  phẫu  thuật  viên  thực  hiện 
miệng  nối  dễ  dàng  hơn  rất  nhiều  so  với  việc 
thực hiện miệng nối bằng nội soi sau phúc mạc. 
Việc sử dụng nội soi phẫu tích để đưa phần nối 
niệu quản bể thận ra ngoài không những có các 
ưu điểm của phẫu thuật nội soi như: Ít xâm lấn, 
ít đau sau mổ, sẹo mổ  nhỏ, thời gian nằm viện 
ngắn mà còn có những ưu thế của mổ mở như 
đơn giản, an toàn, tiết kiệm thời gian, không yêu 
cầu nhiều trang thiết bị (6,2,7).   
Chúng tôi nhận thấy việc phẫu tích chỗ nối 
bể  thận  niệu  quản  có  thể  tiến  hành  dễ  dàng 
bằng nội soi sau phúc mạc 1 trocar. Với những 
trường  hợp  bể  thận  giãn  nhiều  thì  nên  chọc 

hút  trước  khi  đưa  ra  ngoài.  Trong  quá  trình 
phẫu tích nên tránh làm thủng phúc mạc. Khi 
phúc mạc bị thủng, hơi sẽ tràn vào ổ bụng, làm 
mất  áp  lực  bơm,  mất  khoang  phẫu  tích  sau 
phúc mạc. Trong nghiên cứu của chúng tôi, cả 5 
trường hợp mổ mở đều là do thủng phúc mạc. 
Ở  trẻ  nhỏ  do  phúc  mạc  rất  mỏng,  dễ  bị  rách; 
khoang sau phúc mạc nhỏ nên những phẫu tích 
bằng nội soi sau ở trẻ nhỏ thường rất khó khăn. 

119


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Bên  cạnh  đó,  việc  đưa  phần  nối  niệu  quản  bể 
thận  ra  ngoài  cũng  thường  gặp  khó  khăn  ở 
những trẻ bụ bẫm, có thành bụng dày,  bể  thận 
viêm dày, nằm trong xoang.  
Qua  nghiên  cứu  này,  chúng  tôi  nhận  thấy 
rằng tạo hình phần nối niệu quản bể thận bằng 
phẫu  thuật  nội  soi  sau  phúc  mạc  1  lỗ  trocar  là 
một phương pháp điều trị rất hiệu quả, an toàn, 
không có biến chứng trong mổ. Phẫu thuật này 
có  rất  nhiều  ưu  điểm  trên  trẻ  nhỏ,  thành  bụng 
mỏng.  Thời  gian  mổ  không  kéo  dài  hơn  so  với 
mổ mở kinh điển. Do đường rạch da rất nhỏ, chỉ 
khoảng  1,5  cm,  lại  không  cắt  cơ,  nên  sẹo  mổ 

thẩm mỹ hơn, sau mổ bệnh nhân ít đau hơn so 
với  mổ  mở  kinh  điển.  Mặt  khác,  do  thực  hiện 
đường  khâu  ngoài  nên  thao  tác  cũng  dễ  dàng 
hơn, có thể áp dụng được ở những cơ sở không 
quá  chuyên  sâu  về  phẫu  thuật  nội  soi.  Phương 
pháp  này  có  được  những  ưu  điểm  của  phẫu 
thuật nội soi trong phẫu tích và sự đơn giản, tiện 
lợi  của  việc  thực  hiện  miệng  nối  bằng  phẫu 
thuật mổ mở.   

kết  quả  tốt,  an  toàn,  sẹo  mổ  nhỏ,  thời  gian  mổ 
tương đương phẫu thuật mổ mở. Kỹ thuật này 
rất phù hợp ở trẻ nhỏ. 

KẾT LUẬN 

Ngày phản biện nhận xét bài báo 

 20/07/2013. 

Ngày bài báo được đăng: 

15–09‐2013 

Điều  trị  bệnh  lý  hẹp  chỗ  nối  niệu  quản  bể 
thận theo phương pháp Anderson‐ Hynes bằng 
phẫu thuật nội soi sau phúc mạc 1 lỗ trocar cho 
 

120


TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1.

2.

3.

4.
5.
6.

7.

Ansari  MS,  Mandhari  A,  Singh  P  (2008).  Laparoscopic 
pyeloplasty  in  children:  long  term  outcome.  Int  J  Urol;  15(10): 
pp 881‐4. 
Caione  P  (2010).  One‐  port  retroperitoneoscopic  assisted 
pyeloplasty  versus  open  dismembered  pyeloplasty  in  young 
children:  preliminary  experience.  The  Journal  of  Urology;  vol 
184: pp 2109‐2115. 
Lima  M,  Tursini  S,  Ruggeri  G  (2007).  One‐trocar  assisted 
pyeloplasty  (OTAP):  initial  experience  and  codification  of  a 
technique. Pediatr Med Chir ‐Apr; 29(2): pp 108‐11. 
Mitre  AI,  Brito  AH,  Srougi  M  (2008).  Laparoscopic 
dismembered pyeloplasty in 47 cases. Clinics; 63(5): pp 631‐6. 
Nerli  RB,  Reddy  M  (2009).  Complications  of  laparoscopic 
pyeloplasty in children. Pediatr Surg Int; 25(4): pp 343‐7. 
Tong  Q,  Zheng  L,  Tang  S  (2009).  Comparison  of  laparoscopic 
assisted  versus  open  dismembered  pyeloplasty  for 

ureteropelvic  junction  obstruction  in  infants  intermediate 
results. Urology; 74(4): pp 889‐93. 
Zhou H, Li H, Zhang X (2009). Retroperitoneoscopic Anderson‐ 
Hynes dismembered pyeloplasty in infants and children: a 60‐
case report. Pediatr Surg Int; 25(6): pp 519‐23. 

 
Ngày nhận bài  

 

 
 

14/07/2013. 

 

Chuyên Đề Ngoại Nhi  



×