Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Khảo sát đặc điểm nhiễm virus viêm gan B ở phụ nữ mang thai tại Bệnh viện Nhân dân Gia định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.97 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM NHIỄM VIRUS VIÊM GAN B  
Ở PHỤ NỮ MANG THAI TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH 
Lê Thanh Quỳnh Ngân*, Bùi Hữu Hoàng** 

TÓM TẮT 
Mở  đầu:  Việt Nam là quốc gia thuộc vùng lưu hành của bệnh viêm gan virus B (VGVB) với đường lây 
nhiễm chủ yếu từ mẹ truyền sang con. Tuy nhiên, phụ nữ mang thai bị nhiễm virus viêm gan B (HBV) chưa 
được đánh giá và nghiên cứu đầy đủ để quản lý và dự phòng lây nhiễm cho con.  
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ thai phụ bị nhiễm HBV, khảo sát đặc điểm dịch tễ học, các dấu ấn huyết thanh của 
thai phụ nhiễm HBV, tải lượng virus và mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ với khả năng lây truyền HBV ở 
thai phụ.  
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả, có phân tích.  
Đối tượng: Các thai phụ được tầm soát tình trạng nhiễm HBV dựa trên kết quả HBsAg(+) và/hoặc antiHBc 
total (+) tại phòng khám thai, Bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ 12/2010 đến 5/2011.  
Kết quả: Trong số 3,676 thai phụ đến khám thai, có 153 thai phụ có antiHBc total (+) (4,16%) và 80 thai 
phụ  có  HBsAg(+)  (2,17%).  Tỉ  lệ  thai  phụ  có  HBeAg  (+)/  HBsAg(+)  là  52,5%.  Tỉ  lệ  thai  phụ  bị  viêm  gan  là 
31,4%, tỉ lệ HBV DNA (+) là 74%, lượng virus trung bình là 4,9log10 UI/ml. Thai phụ có HBeAg (+) kèm theo 
men ALT tăng trên 2 lần giới hạn bình thường có lượng HBV DNA cao (> 5 log10 UI/ml) so với nhóm thai phụ 
có HBeAg (‐) và men ALT thấp (p<0,001). Tiền căn nhiễm HBV trong gia đình làm tăng nguy cơ có HBsAg (+) 
và HBeAg (+) ở thai phụ lần lượt với tỉ số chênh là 2,5 và 1,8.  
Kết luận: Tỉ lệ thai phụ có antiHBc (+) là 4,16%, tỉ lệ thai phụ có HBsAg (+) là 2,17%. Tỉ lệ thai phụ có 
viêm gan là 31,3%. Lượng HBV DNA trung bình là 4,9log10 UI/ml. Thai phụ có HBeAg (+) kèm men ALT 
tăng hơn 2 lần là yếu tố dự đoán khả năng có tải lượng virus cao. 
Từ khóa. Nhiễm virus viêm gan B (HBV), HBsAg, HBeAg, antiHBc, HBV DNA 

ABTRACT 
INVESTIGATION OF HEPATITIS B VIRUS INFECTION AMONG PREGNANT WOMEN  


AT GIA DINH PEOPLE HOSPITAL 
Le Thanh Quynh Ngan, Bui Huu Hoang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 25 ‐ 31 
Background:  Vietnam  is  a  country  belongs  to  Hepatitis  B  Virus  (HBV)  epidemic  area  with  the  main 
contamination pathway is vertically from mother to children. However, pregnant women with HBV infection has 
not been studied completely for the management and preventing children transmission. 
Objectives:  To determine the prevalence of HBV infection and investigate epidemiological characteristics, 
HBV serologic markers, viral load, and the relationship between risk factors and HBV transmission in pregnant 
women.  
Subjects and methods: A cross‐sectional study. Pregnant women were screened for HBV infection by total 
antiHBc  (+)  and/or  HbsAg  (+)  at  the  Outpatient  department  of  Gia  Dinh  People  hospital  from  12/2010  to 
5/2011.  
Results: Among 3.676 pregnant women, there were 153 patients having total antiHBc (+) (4.16%) and 80 
* Khoa Nội Tiêu Hóa, Bệnh viện Nhân Dân Gia Định 
Tác giả liên lạc: Ths. BS.Lê Thanh Quỳnh Ngân, ĐT: 0918.801.536; 

email: , 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  

25


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

Nghiên cứu Y học 

patients with HBsAg (+) (2.17%). The rate of hepatitis during pregnancy was 31.3%; The rate of HbeAg (+)/ 
HBsAg (+) was 52.5%. The rate of HBV DNA (+) was 74%. The mean viral load was 4.9 log10 UI/ml. Pregnant 
women with HBeAg (+) and ALT level more than 2 times the upper limit of normal had serum HBV DNA > 
5log10  UI/ml  in  compare  with  patients  with  HBeAg  (‐)  and  ALT  level  <  2  times  the  upper  limit  of  normal 

(p<0,001). Family history of HBV infection was the risk factor for HBsAg (+) and HBeAg (+) with odds ratio 
were 2.5 and 1.8 respectively.  
Conclusions.  In  pregnant  women,  the  rate  of  antiHBc  (+)  was  4.16%  and  the  rate  of  HBsAg  (+)  was 
2.17%. The rate of hepatitis during pregnancy was 31.3%. The mean HBV DNA level was 4.9log10 UI/ml. The 
pregnant women with HBeAg (+) and ALT level more than 2 times the upper limit of normal were the predictor 
of the high HBV DNA level.  
Keywords:  Hepatitis B virus (HBV) infection, HBsAg, HBeAg, antiHBc, HBV DNA 
ý tham gia nghiên cứu. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Việt  Nam  là  quốc  gia  thuộc  vùng  dịch  tễ 
lưu  hành  của  bệnh  VGVB  với  đường  lây 
nhiễm  chủ  yếu  từ  mẹ  truyền  sang  con.  Thai 
phụ  có  HBeAg  (+)  và  HBV  DNA  (+)  có  khả 
năng lây truyền cho con khoảng 80 ‐ 90%. Thai 
phụ có HBeAg (‐) ít có nguy cơ lây truyền cho 
thai nhi (5‐ 40%)(4,5). Chương trình chủng ngừa 
văc‐xin  bắt  buộc  cho  trẻ  sơ  sinh  đã  được  Tổ 
chức Y Tế Thế giới khuyến cáo từ 1991 nhưng 
ở  Việt  Nam  mãi  đến  năm  2003  mới  đủ  thuốc 
bao  phủ  các  các  tỉnh  thành.  Gần  đây,  nhiều 
nghiên  cứu  trên  thế  giới  đã  ghi  nhận  vai  trò 
của nồng độ HBV DNA ở người mẹ trong vấn 
đề lây truyền chu sinh(4,10,20),. Hiện nay, ở nước 
ta  chưa  có  nhiều  nghiên  cứu  khảo  sát  đầy  đủ 
về tỉ lệ nhiễm HBV và  các đặc điểm lâm sàng, 
dịch tễ học ở thai phụ bị nhiễm HBV.  

Mục tiêu 
Khảo sát tỉ lệ nhiễm HBV, lượng HBV DNA 
ở  thai  phụ,  đặc  điểm  dịch  tễ  học,  các  dấu  ấn 

huyết  thanh  của  nhiễm  HBV  và  mối  liên  quan 
giữa các yếu tố nguy cơ với khả năng lây truyền 
HBV ở thai phụ. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 

Phương pháp nghiên cứu 
Thiết  kế  nghiên  cứu:  cắt  ngang  mô  tả,  có 
phân tích 
Các bước tiến hành: 
‐ Thai phụ đến khám thai được tầm soát tại 
phòng khám sản bằng hai xét nghiệm HBsAg và 
antiHBc total. Nếu một trong hai xét nghiệm (+) 
sẽ được chuyển tới phòng khám viêm gan. 
‐ Nếu HBsAg (+), thai phụ sẽ được làm tiếp 
antiHBc IgM, HBeAg, antiHBe, ALT, AST, HBV 
DNA định lượng. 
‐ Nếu HBsAg (‐), thai phụ sẽ được kiểm tra 
thêm antiHBs. 
‐  Nếu  antiHBc  (+),  HBsAg  (‐),  thai  phụ  sẽ 
được xét nghiệm tiếp antiHBc IgM và antiHBs.  
Đánh giá kết quả: 
‐  Thai  phụ  có  antiHBc  total  (+)  được  phân 
thành  hai  nhóm:  nhóm  có  HBsAg  (+)  và  nhóm 
HBsAg (‐). Nhóm HBsAg (+) tiếp tục được chia 
thành  2  phân  nhóm:  HBeAg  (‐)  và  HBeAg  (+). 
Nhóm  có  HBsAg  (‐)  cũng  được  chia  thành  2 
phân nhóm: antiHBs (‐) và antiHBs (+). 
Xử lý số liệu:  

‐  Sử  dụng  phần  mềm  Stata10.0  và  nhập  số 
liệu bằng phần mềm Epidata 3.0. 

Các thai phụ đến khám tại phòng khám thai, 
Bệnh  viện  Nhân  Dân  Gia  Định  có  HBsAg  (+)/ 
anti HBc total (+) trong thời gian từ 12/2010 đến 
5/2011. 

trung bình (biến số định lượng) giữa các nhóm 

Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân không đồng 

bằng phép kiểm T‐ test và so sánh 2 tỷ lệ (biến số 

26

Các dữ liệu trong nghiên cứu được trình bày 
dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn. So sánh 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 
định tính) bằng chi bình phương, khác biệt có ý 
nghĩa thống kê với p< 0,05. 

KẾT QUẢ 
Trong  6  tháng,  từ  12/2010  đến  5/2011  có 
3,676 thai phụ đến khám thai. 


Tỉ lệ nhiễm HBV ở thai phụ 
Bảng 1: Phân bố theo tỉ lệ nhiễm HBV 
Dấu ấn huyết thanh
antiHBc total (+)
HBsAg (+)
HBsAg(-)
HBeAg (+)/ HBsAg(+)
HBeAg (-)/ HBsAg (+)
antiHBc IgM(+)/antiHBc(+)

Số BN
153
80
73
42
41
1

Tỷ lệ ( %)
4,16%
2,17%
1,98%
52,5%
51,2%
0,65%

Tỉ  lệ  hiện  nhiễm  HBV  là  2,17%.  Tỉ  lệ  đã 
nhiễm  HBV  là  4,16%.  Tỉ  lệ  thai  phụ  có  HBeAg 
(+) là 52,5%. 


Tỉ lệ thai phụ có viêm gan:  
Bảng 2: Phân bố theo tỉ lệ thai phụ có viêm gan 
ALT
Tổng cộng
Tỉ lệ

Bình thường
105
68,6

≥ 2 lần
48
31,3

Tổng cộng
153
100

Nghiên cứu Y học

Chưa lần nào
≥1
Sanh can
thiệp
Không
≥1
Tiền sử phẫu
thuật
Chưa lần nào
≥1

Tiền căn gia
đình
Không
VGSVB

HBsAg (+)
59 (73,7)
21 (26,3)

HBsAg (-)
59 (80,5)
14 (19,5)

p

0,67
73 (91,2)
7 (8,8)

69 (94,5)
4 (5,5)
0,15

55 (68,8)
25 (31.2)

60 (82,2)
13 (17,8)
0,015


52 (65)
38 (35)

60 (82,2)
13 (17,8)

Tiền  căn  gia  đình  có  người  nhiễm  HBV  là 
yếu tố nguy cơ lây nhiễm HBV ở thai phụ với p 
< 0,001 (OR=2,5; KTC 95%: 1,1‐ 5,2) 

Liên  quan  giữa  men  ALT  với  khả  năng 
mang HBsAg của thai phụ  
Bảng 5: Liên quan giữa men ALT với khả năng 
mang HBsAg của thai phụ 
ALT
Bình thường
≥2

HBsAg (+)
41 (51,3)
39 (48,7)

HBsAg (-)
64 (87,7)
9 (12,3)

p
0,001

Với ngưỡng men gan ở nữ bình thường là 19 


Nhóm  thai  phụ  có  HBsAg  (+)  có  men  ALT 

UI/L (theo AASLD 2009), tỉ lệ thai phụ có viêm 

tăng  cao  hơn  2  lần  ngưỡng  bình  thường  so  với 

gan là 31,3%. 

nhóm thai phụ có HBsAg (‐) (p< 0,001). 

Phân  bố  theo  nồng  độ  HBV  DNA  định 
lượng 

Liên quan giữa HBeAg và yếu tố nguy cơ 

Bảng 3: Phân bố theo nồng độ HBV DNA định 
lượng 
Log10 HBVDNA
<2
2–5

Tỷ lệ
26,3%
23,7%

>5

50 %


Liên  quan  giữa  yếu  tố  nguy  cơ  với  khả 
năng mang HBsAg của thai phụ 
Bảng 4: Liên quan giữa yếu tố nguy cơ với khả năng 
mang HBsAg của thai phụ 
Số lần sanh
Chưa lần nào
≥1
Nạo hút thai

HBsAg (+)

HBsAg (-)

51 (63,7)
29 (36,3)

39 (53,3)
34 (46,7)

p
0,24

Bảng 6: Liên quan giữa HBeAg và yếu tố nguy cơ 
Tuổi mẹ
Dưới 20
20 – 30
30 – 45
Tiền căn gia
đình
Không

VGSVB

HBeAg (+)

HBeAg (-)

1 (1,4)
38 (90,4)
3 (7,2)

0 (0)
24 (63,2)
14 (36,8)

p
0,002

0,01
22 (52,4)
20 (47,6)

30 (78,9)
8 (21,1)

Thai phụ từ 20‐30 tuổi có tỉ lệ mang HBeAg 
cao  hơn  nhóm  thai  phụ  30  ‐  45  tuổi  (OR=7,4; 
KTC 95%: 1,7‐31,5).  
Tiền  căn  gia  đình  bị  nhiễm  HBV  làm  tăng 
nguy  cơ  có  HBeAg  (+)  của  thai  phụ  (OR=1,85; 


0,61

KTC95%:1,1‐2,9). 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  

27


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

Nghiên cứu Y học 
Liên  quan  giữa  HBeAg  với  tình  trạng 
viêm gan của thai phụ 
Bảng 7: Liên quan giữa HBeAg với tình trạng viêm 
gan của thai phụ 
ALT
Bình thường
≥2

HBeAg (+)
17 (40,4)
25 (59,6

HBeAg (-)
24 (36,2)
14 (36,8)

p
0,043


ALT tăng trên 2 lần ngưỡng  bình  thường  ở 
nhóm  thai  phụ  có  HBeAg  (+)  so  với  nhóm 
HBeAg (‐) 

Liên  quan  giữa  HBeAg  với  lượng  HBV 
DNA của thai phụ 
Bảng 8: Liên quan giữa HBeAg với lượng HBV 
DNA của thai phụ 
Log10 HBVDNA
<5
≥5

HBeAg (+)
2 (4,8)
40 (95,2)

HBeAg (-)
38 (100)
0 (0)

p
<0,001

Lượng  HBV  DNA  trung  bình  là  4,9log10 
UI/ml (KTC 95%: 4,3‐5,6) 
Tất  cả  các  trường  hợp  HBeAg  (‐)  đều  có 
HBVDNA  <5  log10,  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  so 
với nhóm HBeAg (+) 


Liên  quan  giữa  lượng  HBV  DNA  và  men 
ALT 
Bảng 9: Liên quan giữa lượng HBV DNA và men 
ALT 
ALT Log10HBVDNA<5 Log10HBVDNA>5
p
Bình
16 (76,2)
25 (42,4)
<0,001
thường
≥2
5 (23,8)
34 (57,6)

Men  ALT  tăng  cao  trên  2  lần  ngưỡng  bình 
thường  ở  nhóm  có  HBV  DNA  >  5log10  so  với 
nhóm HBV DNA ở ngưỡng thấp.  

BÀN LUẬN 
Tỉ lệ hiện nhiễm HBV ở thai phụ [HBsAg (+)] 
Bảng 10: Tỉ lệ nhiễm HBV ở thai phụ 

28

Có sự giảm dần về tỉ lệ HBsAg (+) ở thai phụ 
qua  các  năm  gần  đây,  kết  quả  của  chúng  tôi 
cũng  tương  đồng  với  báo  cáo  của  Đinh  Văn 
Phương và Diệp Minh Nhật về tỉ lệ HBsAg (+) ở 
thai phụ đã giảm nhiều vào năm 2009, điều này 

phù hợp vì nước ta đã thực hiện chủng ngừa bắt 
buộc  từ  1997  và  phổ  cập  rộng  rãi  kiến  thức  về 
bệnh,  đường  lây  và  chủ  động  tiêm  ngừa  trong 
dân số. Điều này phản ánh hiệu quả thực sự của 
chủng ngừa đã giảm tỉ lệ mang bệnh và ý thức 
phòng bệnh trong cộng đồng đã được nâng lên. 

Tỉ lệ thai phụ có HBeAg(+) 
Bảng 11: Tỉ lệ thai phụ có HBeAg (+) 
Tác giả

Năm

Phạm Song(14)

1992

Trần Thị Lợi(18)
Phan Hùng
Việt(15)
Nguyễn Minh
Trung(13)
Diệp Minh
Nhật(6)
Chúng tôi
Karim Rumi(16)
Hamida(12)
Dwivedi(7)

1996

2004

Nơi thực hiện
Bv Phụ sản Hà
Nội
Bv Từ Dũ
Bv Đa Khoa Trà
Vinh

Tỉ lệ HBeAg
(+)/ HBsAg(+)
ở thai phụ
36%
40%
31,2%

2008

Bv An Giang

39,5%

2009

Bv Tiền Giang

11,6%

2011
1998

2010
2011

Bv ND Gia Định
Banglades
Lybia
Ấn Độ

52,5%
30,2%
21,7%
56,8%

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 
Tỉ lệ thai phụ có HbeAg (+) trong nghiên cứu 
của chúng tôi là 52,5%, tỉ lệ này phù hợp với báo 
cáo  của  WHO  về  tỉ  lệ  HBeAg  (+)  trong  vùng 
dịch tễ lưu hành cao từ 30‐50%. Có sự khác biệt 
so với kết quả của Diệp Minh Nhật do khác biệt 
về  chọn  mẫu.  Hạn  chế  của  nghiên  cứu  của 
chúng tôi là chỉ lấy mẫu ở bệnh viện nên không 
phản  ánh  chính  xác  dân  số  chung.  HBeAg  (+) 
chiếm tỉ lệ cao là yếu tố nguy cơ lây nhiễm cao 
cho cộng đồng, đặc biệt trên phụ nữ mang thai. 
Cần  kiểm  soát  nguồn  lây  này  và  có  kế  hoạch 
phòng ngừa chủ động và thụ động bằng văc‐xin 
và globulin miễn dịch cho trẻ sau sanh đồng thời 

theo dõi trẻ sinh ra từ những bà mẹ HbeAg (+). 

Về  tình  trạng  HBeAg  và  tải  lượng  HBV 
DNA  với  khả  năng  lây  nhiễm  chu  sinh  ở 
thai phụ 
Lây nhiễm từ mẹ sang con trong thời kỳ chu 
sanh được ghi nhận ở 3 thời điểm. Từ tháng thứ 
5 của thai kỳ, lớp hợp bào nuôi mỏng dần, khối 
tơ huyết thành lập, lớp hợp bào Langerhans đứt 
quãng  từng  chỗ,  tạo  điều  kiện  cho  sự  trao  đổi 
máu giữa mẹ và con. Lúc này, HBeAg  và  HBV 
DNA  nếu  ở  nồng  độ  cao  sẽ  đi  qua  hàng  rào 
nhau thai tạo ra sự dung nạp miễn dịch đối với 
thai nhi(2),(21). Giai đoạn chuyển dạ là khoảng thời 
gian  có  khả  năng  lây  nhiễm  cao  nhất,  đặc  biệt 
vào giai đoạn sổ thai, do giữa những cơn co bóp 
của tử cung, máu mẹ sẽ tràn vào máu con, thai 
nhi  nuốt  phải  dịch  ối.  Nhiều  nghiên  cứu  cho 
thấy HBeAg (+) và HBV DNA ở ngưỡng cao là 
yếu tố dự đoán lây nhiễm sau sanh(1,9). Ngoài ra, 
HBV DNA, HBsAg, HBeAg còn lây qua trẻ sau 
sanh do hiện diện trong sữa, do trẻ cắn đầu vú 
mẹ làm trầy sướt(10). Vì  vậy,  với  tỉ  lệ  52,5%  thai 
phụ HBeAg (+) và 74% HBV DNA (+), 50% HBV 
DNA  >  5log10  UI/ml  là  những  yếu  tố  nguy  cơ 
cao cho lây truyền chu sinh. Tỉ lệ này cũng phù 
hợp  với  nghiên  cứu  của  Đinh  Văn  Phương(6)  là 
62 % HBV DNA(+) thì tỉ lệ mang HBsAg ở trẻ là 
31  %.  Theo  Wiseman  và  cộng  sự  với  68%  HBV 
DNA (+) và 34% HBV DNA > 108 thì tỉ lệ mang 

HBsAg  ở  thai  là  9%.  Như  vậy,  cần  có  những 
nghiên  cứu  với  cỡ  mẫu  lớn  hơn,  thời  gian  dài 

Nghiên cứu Y học
hơn để xác định tỉ lệ lây nhiễm chu sinh thực sự 
ở những thai phụ này. 

Tỉ lệ thai phụ có viêm gan 
Tỉ lệ thai phụ có viêm gan là 31,4%, đây là tỉ 
lệ khá cao với ngưỡng men gan ở nữ là 19 UI/L 
(theo AASLD 2009). Trước đây, chưa có nghiên 
cứu nào báo cáo về tỉ lệ viêm gan trên thai phụ ở 
Việt Nam. Ở Mỹ, tỉ lệ này là 0,14‐6%(8). Như vậy, 
tỉ lệ ghi nhận được trong nghiên cứu của chúng 
tôi là khá cao và trong tiền căn khai thác chưa có 
thai  phụ  nào  nhận  được  điều  trị  trước  mang 
thai, chứng tỏ có sự hạn chế trong việc chăm sóc 
sức  khỏe  ban  đầu.  Cùng  với  tỉ  lệ  HBeAg  (+)  là 
52,5%,  nồng  độ  HBV  DNA  >  5log10  UI/ml  là 
50% phản ánh nguy cơ cao lây nhiễm chu sinh, 
đây là các đối tượng cần được theo dõi, ngừa lây 
truyền  chu  sinh  cho  bé  và  điều  trị  cho  mẹ  sau 
thời kỳ hậu sản. 

Về các yếu tố nguy cơ 
Mặc dù một số nghiên cứu trong và ngoài 
nước  trước  đây  cho  rằng  sanh  nhiều  lần,  nạo 
hút thai, phẫu thuật nhiều lần, tiền căn truyền 
máu,  xăm  da  là  những  yếu  tố  nguy  cơ  lây 
nhiễm  HBV(3),(12),(7),(17)nhưng  nghiên  cứu  của 

chúng tôi không tìm thấy sự liên quan này. Có 
thể  do  hiểu  biết  về  nguồn  lây,  ý  thức  phòng 
bệnh  đã  được  nâng  cao  nên  kiểm  soát  lây 
nhiễm và vô trùng dụng cụ y tế được cải thiện 
rõ.  Vì  vậy  mà  không  còn  tìm  thấy  những  yếu 
tố nguy cơ này ở thai phụ. 
Thai phụ trong độ tuổi từ 20‐30 tuổi có tỉ lệ 
HBeAg (+) cao hơn 7,4 lần thai phụ từ 30‐45 tuổi. 
Điều này phù hợp với diễn tiến lây nhiễm HBV 
ở  nước  ta.  Như  vậy,  khả  năng  nhiễm  HBV  từ 
thời kỳ chu sinh và nhũ nhi chiếm tỉ lệ cao. Do 
đó, độ tuổi 20‐30 cũng là độ tuổi biểu hiện bệnh 
và có tỉ lệ HBeAg (+) cao nhất. Tuy nhiên, đây là 
độ tuổi lao động, sinh hoạt, quan hệ xã hội rộng 
và nằm trong lứa tuổi sinh sản nên đó là yếu tố 
báo động về khả năng lây truyền HBV chu sinh 
và trong cộng đồng. 
Tiền căn gia đình mang HBsAg và HBeAg là 
yếu  tố  nguy  cơ  cao  lây  nhiễm  HBV,  đặc  biệt  ở 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  

29


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

Nghiên cứu Y học 
những  nước  đang  phát  triển  như  ở  Châu  Á  và 
Châu Phi. Điều này được giải thích do điều kiện 

sinh  hoạt  còn  thiếu  thốn,  do  dùng  chung  khăn 
mặt,  khăn  tắm,  kem  đánh  răng,  bàn  chải  đánh 
răng,  và  do  rận  rệp  đốt(3,17).  Nghiên  cứu  của 
chúng  tôi  cũng  tìm  thấy  mối  nguy  cơ  này  với 
tiền căn mang HBsAg và HBeAg làm tăng nguy 
cơ  có  HBsAg  (+)  ở  thai  phụ  với  tỉ  số  chênh  lần 
lượt là 2,5 và 1,8. 

Liên  quan  giữa  men  ALT  với  HBeAg  và 
lượng HBV DNA ở thai phụ 
Thai  phụ  có  HBeAg  (+)  và  men  ALT  tăng 
trên  2  lần  thường  có  tải  lượng  HBV  DNA  > 
5log10 UI/ml. Như vậy, men ALT có thể được 
xem là yếu tố dự đoán khả năng có HBV DNA 
ở ngưỡng cao ở những thai phụ có HBeAg (+). 
Dù chỉ quan sát trong thời gian ngắn, giới hạn 
lấy  mẫu  ở  bệnh  viện  nhưng  chúng  tôi  nhận 
thấy đây được xem là một yếu tố cần quan tâm 
cho những cơ sở y tế tuyến huyện, điều kiện y 
tế  còn  hạn  chế.  Do  HBV  DNA  định  lượng  là 
một xét nghiệm kỹ thuật cao, đắt tiền chỉ được 
thực hiện ở các bệnh viện lớn, cho nên nếu thai 
phụ  ở  vùng  xa  có  HBeAg  (+)  kèm  theo  men 
ALT  tăng  trên  2  lần  bình  thường  cần  được 
chuyển về tuyến trên để thực hiện xét nghiệm 
HBV DNA định lượng và điều trị kháng virus 
vào  3  tháng  cuối  thai  kỳ  để  ngăn  ngừa  lây 
nhiễm  chu  sinh.  Theo  một  số  khuyến  cáo  gần 
đây  cho  thấy  việc  điều  trị  Lamivudin  hoặc 
Tenofovir vào 3 tháng cuối thai kỳ là cần thiết, 

đặc  biệt  ở  những  thai  phụ  có  HBeAg  (+)  và 
HBV DNA > 5log10UI/ml(19). 

độ cao ở thai phụ có HBeAg (+). 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.
2.
3.

4.

5.

6.

7.

8.
9.

10.
11.

12.

13.

14.


15.

16.

KẾT LUẬN 
Tỉ  lệ  antiHBc  (+)  ở  thai  phụ  là  4,17%.  Tì  lệ 
thai phụ có HBsAg (+) là 2,17%. Tỉ lệ thai phụ có 
viêm gan là 31,3%. Lượng HBV DNA trung bình 
là  4,9log10  UI/ml.Thai  phụ  trong  độ  tuổi  20‐30 
có  tỉ  lệ  mang  HBeAg  cao  hơn  7,4  lần  thai  phụ 
trong  nhóm  30‐45  tuổi.  Tiền  căn  gia  đình  có 
nhiễm HBV làm tăng nguy cơ có HBsAg (+) và 
HBeAg (+) ở thai phụ với OR lần lượt là 2,5 và 
1,8.  Men  gan  ALT  tăng  trên  2  lần  mức  bình 
thường là dấu hiệu dự đoán HBV DNA ở nồng 

30

17.

18.

19.

20.

Boxall EH (1983), ʺVertical transmission of hepatitis Bʺ. Clin Exp 
Obstet Gynecol, 10, pp 41‐48. 
Bùi  Đại  (2008),  Viêm gan virut B và D.  Nhà  xuất  bản  y  học  Hà 
Nội, pp 12‐88. 

Bùi Phan Quỳnh Phương.(2001). Khảo sát đặc điểm các yếu tố 
nguy cơ liên quan đến nhiễm siêu vi viêm gan B và C. Luận văn 
thạc sĩ y học, Tp Hồ Chí Minh, pp 34‐62. 
Burk  RD,  Ho  GY,  Shafritz  DA,  (1994),  ʺOutcome  of  perinatal 
hepatitis B virus exposure is dependent on maternal virus loadʺ. 
J Infect Dis, 170, pp 1418‐1423 
Diệp Minh Nhật. (2009). Lây truyền viêm gan siêu vi B từ mẹ 
sang  con  tại  bệnh  viện  đa  khoa  khu  vực  Cai  Lậy  tỉnh  Tiền 
Giang,  Luận án tốt nghiệp bác sĩ chuyên khoa cấp hai,  Tp  Hồ  Chí  
Minh. pp 40‐70 
Đinh Văn Phương. (2009). Tỉ lệ lây truyền HBV từ mẹ sang con 
tại  bệnh  viện  Long  Thành  Đồng  Nai  từ  tháng  6/  2008  đến  4/ 
2009, Luận văn thạc sĩ y học, Tp Hồ Chí Minh. pp 44‐82. 
Dwivedi M, Misra V, et al, (2011), ʺSeroprevalence of hepatitis B 
infection during pregnancy and risk of perinatal transmissionʺ. 
Indian J Gastroenterol  
Gambarin‐Gelwan  M  (2007),  ʺHepatitis  B  in  pregnancyʺ.  Clin 
Liver Dis, 11, 945‐963. 
Lin  HH,  Hsu  HY,  Mizokami  M,  Hirano  K,  Chen  DS,  (1996), 
ʺLeast  microtransfusion  from  mother  to  fetus  in  elective 
cesarean deliveryʺ. Obstet Gynecol, 87(2), pp 244‐248. 
Linnemann CC Jr,. (1974), ʺHBsAg in breast milkʺ. Lancet, 2, 155. 
Magrahe  EH,  Figih  EK,  et  al,  (2010),  ʺMaternal  and  neonatal 
seroprevalence  of  Hepatitis  B  surface  antigen  (HBsAg)  in 
Tripoli, Libya ʺ. J Infect Dev Ctries 4(3), pp 168‐170. 
Muhammad  A,  et  al,  (2001),  ʺHepatitis  B  virus  in  Pakistan:  A 
systematic  review  of  prevalence,  risk  factors,  awareness  status 
and genotypesʺ. Virology Journal 8(102). 
Nguyễn Minh Trung (2008), ʺTỉ lệ nhiễm siêu vi viêm gan B ở 
thai phụ tại TP. Long Xuyên, tỉnh An Giangʺ. Y học TP Hồ Chí 

Minh, 12(1), pp 204‐ 207. 
Phạm  Song  (1992),  ʺBước  đầu  tìm  hiểu  sự  truyền  nhiễm  của 
virut viêm gan B ở phụ nữ có thai và vai trò của HBeAg trong 
đường lây nàyʺ. Y học Việt Nam, 5(165), pp 1‐5. 
Phan Hùng Việt. (2004). Khảo  sát  tình  hình  nhiễm  HBV  ở  các 
thai  phụ  sanh  tại  khoa  Sản  Bệnh  Viện  Đa  Khoa  Trà  Vinh.  In 
Luận  văn  thạc  sĩ  y  học  chuyên  nghành  sản  phụ  khoa,  Tp  Hồ  Chí 
Minh. pp. 26‐ 85 
Rumi K et al, (1998), ʺDetection of hepatitis B surface antigen in 
pregnant  women  attending  a  public  hospital  for  delivery: 
implication for vaccination strategy in Bangladeshʺ. Am. J. Trop. 
Med. HygM, 59(2), pp 318‐322. 
Salkic N, Muharem Z, et al, (2009), ʺRisk factors for intrafamilial 
spread of hepatitis B in northeastern Bosnia and Herzegovinaʺ. 
Annals of Saudi medecine, 29(1), pp 41‐ 45. 
Trần Thị Lợi. (1995). Lây truyền virút viêm  gan  B  từ  mẹ  sang 
con. Khả năng dự phòng, Luận án phó tiến sĩ khoa học y dược, pp 
52‐63. 
Van  Zonneveld  M  et  al,  (2003),  ʺLamivudin  treatment  during 
pregnant to prevent perinatal transmission of hepatitis B virus 
infectionʺ. J Viral Hepatology, 10, pp 294‐ 297. 
Wang  JS,,  Zhu  QR,  (2005),  ʺTransformation  of  hepatitis  B 
serologic markers in babies born to hepatitis B surface antigen 
positive  mothers.ʺ  World  Journal  of  Gastroenterology  11(23),  pp 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  




×