Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Kết quả điều trị sớm và lâu dài bệnh phình đại tràng bẩm sinh bằng phẫu thuật qua đường hậu môn một thì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.49 KB, 8 trang )

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ SỚM VÀ LÂU DÀI BỆNH
PHÌNH ĐẠI TRÀNG BẨM SINH BẰNG PHẪU THUẬT
QUA ĐƯỜNG HẬU MÔN MỘT THÌ
Bùi Đức Hậu
Bệnh viện Nhi trung ương
Nghiên cứu nhằm mô tả kết quả điều trị sớm và lâu dài bệnh phình đại tràng bẩm sinh bằng phẫu thuật
qua đường hậu môn một thì tại bệnh viện Nhi Trung ương. Kết quả: 75 bệnh nhân bao gồm 59 nam giới
(78,7%) và 16 nữ giới (21,3%), tuổi dao động từ 15 ngày đến 36 tháng. 44 bệnh nhân có vô hạch trực tràng
(58,7%), 28 vô hạch trực tràng - đại tràng sigma (37,3%) và 3 vô hạch đại tràng trái (4%). Thời gian phẫu
thuật trung bình 92 phút. Trong 14 bệnh nhân phẫu thuật phải kết hợp thêm đường mổ khác: có 2 trường
hợp phẫu thuật nội soi (2,7%) và 12 trường hợp sử dụng đường mổ Pfannenstiel (16%); do động mạch mạc
treo đại tràng sigma căng, vô hạch dài, chảy máu khi phẫu tích và dính do viêm phúc mạc cũ. Không có tử
vong do phẫu thuật, có một trường hợp rỉ máu miệng nối đã cầm khi chèn mét và 2 trường hợp bị nhiễm
trùng. 75 bệnh nhân đại tiện tự chủ trước khi ra viện. Kết luận: phẫu thuật qua hậu môn một thì an toàn và
cho kết quả tốt.
Từ khóa: bệnh phình đại tràng bẩm sinh, phẫu thuật qua hậu môn một thì

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh phình đại tràng bẩm sinh còn có tên
gọi khác là bệnh Hirschsprung hay bệnh vô
hạch đại tràng bẩm sinh. Bệnh Hirschsprung
là một bệnh khá phổ biến ở trẻ em. Theo một
số nghiên cứu, tỷ lệ mắc bệnh là 1/5.000 trẻ
đẻ sống [1, 2]. Tỷ lệ mắc bệnh khác nhau giữa
các nhóm dân tộc: người Bắc Âu là 1,5/10.000
trẻ đẻ sống, người Mỹ gốc Phi là 2,1/10.000
trẻ đẻ sống và ở châu Á là 2,8/10.000 trẻ đẻ
sống [3]. Bệnh Hirschsprung có thể biểu hiện
rất sớm ở trẻ sơ sinh với bệnh cảnh tắc ruột


cấp tính dẫn đến tử vong nếu không can thiệp
kịp thời hoặc có thể biểu hiện bán cấp và mãn
tính ở trẻ gây táo bón, ỉa chảy kéo dài do viêm
ruột trường diễn dẫn đến suy dinh dưỡng,
chậm phát triển. Hiện nay nhiều kỹ thuật mổ
và đường mổ khác nhau đã được sử dụng để
Địa chỉ liên hệ: Bùi Đức Hậu. Khoa Ngoại, Bệnh viện Nhi
Trung ương.
Email:
Ngày nhận: 10/01/2013
Ngày được chấp thuận: 26/4/2013

TCNCYH 82 (2) - 2013

điều trị bệnh phình đại tràng bẩm sinh. Các kỹ
thuật đều phải tiến hành qua đường mở bụng
kinh điển đó là đường trắng giữa trên - dưới
rốn hoặc đường cạnh giữa trái đã được sử
dụng trong nhiều năm. Gần đây để giảm bớt
sang chấn và có được sẹo mổ đẹp, kín đáo
các đường mổ khác như đường Pfannenstiel
cải tiến (đường rạch da theo nếp lằn bụng),
đường qua hậu môn, đường sau trực tràng và
phẫu thuật nội soi đã dần thay thế đường mổ
bụng [4, 5].
Bệnh viện Nhi Trung ương bắt đầu áp
dụng phẫu thuật qua đường hậu môn từ
cuối năm 2000. Đến đầu năm 2003 phẫu
thuật một thì qua đường hậu môn đã được
tiến hành một cách có hệ thống để điều trị

cho những bệnh nhân bị bệnh phình đại
tràng bẩm sinh từ sơ sinh đến 3 tuổi. Vì
vậy, nghiên cứu này được thực hiện nhằm
mục tiêu đánh giá kết quả điều trị sớm và
lâu dài bệnh phình đại tràng bẩm sinh bằng
phẫu thuật qua đường hậu môn một thì tại
bệnh viện Nhi Trung ương.
97


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Bao gồm các bệnh nhân phình đại tràng
bẩm sinh được phẫu thuật một thì qua đường
hậu môn từ tháng 2 năm 2003 đến tháng 6
năm 2006 tại bệnh viện Nhi Trung ương.
2. Phương pháp

đại tràng qua miệng nối để lưu khoảng 5 ngày.
Kết thúc phẫu thuật.
3. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu đã được Hội đồng đạo đức
của bệnh viện Nhi Trung ương thông qua.

III. KẾT QUẢ
Kết quả có 75 bệnh nhân, nam giới chiếm

Thiết kế: nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng

không đối chứng (Quasi-experimental study).

78,7%, nữ giới chiếm 21,3%. Phần lớn bệnh

Mẫu nghiên cứu: chọn mẫu thuận tiện, tất
cả các bệnh nhân phình đại tràng bẩm sinh
được phẫu thuật một thì qua đường hậu môn
trong thời gian nghiên cứu tại bệnh viện Nhi
Trung ương.
Cỡ mẫu thu được: n = 75 bệnh nhân.

tháng là 16,0%, 13 - 18 tháng là 9,3%, 19 - 24

Kỹ thuật mổ
- Tư thế: bệnh nhân nằm tư thế sản khoa
(có thể không treo chân nếu bệnh nhân quá
nhỏ).
- Tiến hành: bắt đầu rạch vòng quanh niêm
mạc của ống hậu môn ngay trên đường lược
khoảng 0,5 cm. Phẫu tích ống niêm mạc lên
trên khoảng 6 - 8 cm, rồi cắt qua lớp thanh cơ
trực tràng để vào ổ phúc mạc, tiếp tục phẫu
tích mạc treo sigma kéo trực tràng và sigma ra
ngoài qua ống hậu môn. Tiến hành sinh thiết
lạnh ở 2 vị trí chỗ trực tràng hẹp và chỗ dãn
cho là đại tràng bình thường để khẳng định
chẩn đoán. Cắt bỏ đoạn đại tràng vô hạch và
đoạn đại tràng dãn ngoài ổ bụng. Cắt bớt
phần ống thanh cơ của trực tràng, chỉ để lại
phần ống thanh cơ trên đường lược 1cm. Tiến

hành nối đại tràng lành với ống hậu môn cách
đường răng lược khoảng 0,5 cm. Nối 1 thì, có
thể để mỏm thừa đại tràng nếu đường kính
đại tràng và ống hậu môn quá chênh lệch
hoặc có những yếu tố làm ảnh hưởng tới sự
an toàn của miệng nối. Đặt 1 xông Folley vào

bệnh nhân đều được sinh đủ tháng và có cân

98

nhi ở độ tuổi < 6 tháng (62,7%). Độ tuổi 6 - 12
tháng là 6,7%. Chỉ có 5,3% bệnh nhi ở độ tuổi
> 30 tháng và không có bệnh nhi nào ở trong
độ tuổi 25 - 30 tháng. Trong đó, bệnh nhi có
tuổi nhỏ nhất là 10 ngày và lớn nhất là 36
tháng, với tuổi trung bình 7,5 tháng. Tất cả 75
nặng khi sinh từ ≥ 2500 gram. Có một trường
hợp bệnh nhi có anh ruột cũng mắc bệnh
phình đại tràng bẩm sinh.
1. Triệu chứng
Các triệu chứng lâm sàng thường gặp của
bệnh nhân là chậm đại tiện phân su (chiếm
97,3%), táo bón kéo dài phải thụt tháo
thường xuyên (84%), bụng trướng, mềm,
quai đại tràng nổi (76%) và tắc ruột từng đợt
(41,3%). Có 8% bệnh nhi có triệu chứng của
viêm ruột (đại tiện phân lỏng từng đợt, thối
khẳm).
Tình trạng vô hạch biểu hiện trên phim

chụp X-quang có thuốc cản quang và xác định
tổn thương trong mổ là giống nhau với tỷ lệ
bệnh nhân chỉ biểu hiện vô hạch ở trực tràng
là 58,7%, vô hạch ở cả trực tràng và đại tràng
sigma chiếm 37,3%. Chỉ có 4% bệnh nhân có
biểu hiện vô hạch từ trực tràng đến đại tràng
trái (bảng 1).

TCNCYH 82 (2) - 2013


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 1. Tình trạng vô hạch ở bệnh nhân phình đại tràng bẩm sinh
Vị trí vô hạch

n

%

Vô hạch trực tràng

44

58,7

Vô hạch trực tràng và đại tràng Sigma

28

37,3


Vô hạch từ trực tràng đến đại tràng trái

3

4,0

Vô hạch trực tràng

44

58,7

Vô hạch trực tràng và đại tràng Sigma

28

37,3

Vô hạch từ trực tràng đến đại tràng trái

3

4,0

Vô hạch trên phim Xquang có thuốc cản quang

Vô hạch nhận định trong mổ

2. Kết quả phẫu thuật sớm

Có 81,3% bệnh nhân được mổ bằng
đường qua hậu môn đơn thuần và 18,7%
bệnh nhân phải kết hợp với đường bụng (có
2,7% bệnh nhân nội soi, 16% bệnh nhân mở
bụng bằng đường Pfannenstiel). Thời gian
phẫu thuật với đường qua hậu môn đơn thuần
ngắn nhất là 50 phút, dài nhất 150 phút và
thời gian trung bình là 92 phút. Với đường mổ
phối hợp thì thời gian phẫu thuật ngắn nhất là
120 phút, dài nhất là 210 phút và trung bình là
164,2 phút. Kết quả cũng cho thấy, đa số các
bệnh nhân có đoạn ruột phải cắt bỏ ≤ 25 cm
chiếm tỷ lệ 60%, còn lại 40% có đoạn ruột
phải cắt bỏ > 25 cm.
Sau phẫu thuật, thời gian trung bình là 12
giờ trẻ có trung tiện, 24 giờ trẻ đã đại tiện.
Sau mổ 6 giờ cho trẻ uống nước đường,
sau 48 giờ cho ăn sữa. Kết quả sớm khi
xuất viện với 100% bệnh nhân toàn trạng
ổn định, tự đại tiện tốt. Thời gian điều trị
sau mổ ngắn nhất 5 ngày, dài nhất 15 ngày
bao gồm cả những trường hợp bị biến chứng,
trung bình 6,90 ± 1,31 ngày.
Tử vong và biến chứng sớm: không có
bệnh nhân tử vong, không có hẹp và rò miệng

TCNCYH 82 (2) - 2013

nối, có một trường hợp chảy rỉ máu miệng nối
đã chèn mét miệng nối và truyền máu tự cầm

không phải mổ lại. 2 trường hợp khác bị
nhiễm trùng, trong đó 1 bị áp xe nhỏ ở miệng
nối tự khỏi sau đợt điều trị bằng kháng sinh, 1
bị toác thành bụng ngày thứ năm sau mổ phải
đóng lại thành bụng, diễn biến ổn định sau
mổ.
3. Kết quả lâu dài
Số bệnh nhân được theo dõi sau khi ra
viện là 67 chiếm tỷ lệ 89,3%; trong đó có 54
bệnh nhân nam (80,6%) và 13 bệnh nhân nữ
(19,4%). Có 8 bệnh nhân không theo dõi được
chiếm tỷ lệ 10,7%. Thời gian bệnh nhân được
theo dõi trung bình là 14 tháng, trong đó ngắn
nhất là 3 tháng và dài nhất là 41 tháng.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng sau mổ (19,4%)
giảm xuống so với trước mổ (31,3%), nhưng
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê
(p > 0,05) (biểu đồ 1).
Sau phẫu thuật phần lớn bệnh nhân có số
lần đại tiện từ 1 - 4 lần/ngày chiếm 76,1%. Có
19,4% bệnh nhân đại tiện từ 5 - 6 lần/ngày và
4,5% bệnh nhân có số lần đại tiện > 6 lần/
ngày. Tất cả các bệnh nhân sau phẫu thuật

99


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
sau khi ra viện đều đại tiện chủ động (100%),
không có bệnh nhân nào còn bị táo bón (0%).


Tỷ lệ són phân sau phẫu thuật gặp ở 14,9%
bệnh nhân (bảng 2).

Tỷ lệ %
120
100
80

31,3

19,4

60
40

68,7

80,6

20

Không SDD

SDD

0
Trước mổ

Sau mổ


Biểu đồ 1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trước và sau mổ
Bảng 2. Chức năng đại tiện chung sau ra viện
Chức năng đại tiện

(n = 67)

%

1 - 4 lần/ngày

51

76,1

5 - 6 lần/ngày

13

19,4

> 6 lần/ngày

3

4,5

Đại tiện chủ động

75


100

Táo bón tồn tại

0

0,0

Són phân

10

14,9

Số lần đại tiện

Tính chất đại tiện

Bảng 3. Kết quả chung về chức năng đại tiện sau khi ra viện
theo phân loại Wingspread cải tiến
Chức năng đại tiện

n

%

Rất tốt và tốt

51


76,1

Trung bình

14

20,9

Xấu

2

3,0

Tổng

67

100

100

TCNCYH 82 (2) - 2013


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Theo phân loại Wingspread cải tiến thì đa số bệnh nhân sau phẫu thuật đều có chức năng đại
tiện rất tốt và tốt (76,1%). Tỷ lệ có chức năng trung bình là 20,9% và 3% có chức năng xấu.
Bảng 4. Mối liên quan giữa chức năng đại tiện theo phân loại Wingspread cải tiến

với tuổi phẫu thuật của bệnh nhân
Chức năng

Rất tốt và tốt

Trung bình

Xấu

đại tiện

n1

%

n2

%

n3

%

≤ 6 tháng

32

82,1

6


15,4

1

2,5

p

p > 0,05
> 6 tháng

19

67,9

8

28,6

1

3,5

Tỷ lệ bệnh nhân có độ tuổi dưới hoặc bằng 6 tháng có kết quả mổ rất tốt và tốt (chiếm 82,1%)
cao hơn so với trẻ ở độ tuổi trên 6 tháng (67,9%). Tuy nhiên sự liên quan giữa tuổi phẫu thuật và
chức năng đại tiện không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Sau phẫu thuật tất cả các bệnh nhân nam (54 bệnh nhân) đều có khả năng cương dương vật
vào buổi sáng sau khi ngủ dậy và khả năng tiểu tiện của tất các các bệnh nhân được theo dõi (67
bệnh nhân) sau mổ đều bình thường.


IV. BÀN LUẬN
Kết quả cho thấy tỷ lệ bệnh nhân nam
chiếm đa số, tỷ lệ nam/nữ = 3,7/1. Nhiều
nghiên cứu khác cũng cho rằng đa số bệnh
nhân bị phình đại tràng bẩm sinh là nam giới
[1, 7, 13, 14]. Bệnh nhân 0 - 6 tháng tuổi
chiếm tỷ lệ 62,7% (từ 0 - 12 tháng tuổi chiếm
78,7%) trong đó có 14 (18,7%) bệnh nhân < 1
tháng tuổi. Như vậy tuổi phẫu thuật hiện nay
đã được giảm thấp, bệnh nhân được mổ sớm
hơn so với một số nghiên cứu đã được tiến
hành trước đây [6, 7]. Biểu hiện lâm sàng chủ
yếu gặp ở nhóm đối tượng nghiên cứu là
chậm đại tiện phân su 97,3%, táo bón kéo dài
phải thụt tháo thường xuyên 84%. Vị trí vô
hạch ở trực tràng chiếm đa số (58,7%). Và
không có sự khác nhau về vị trí vô hạch giữa
nhận định trên phim chụp đại tràng trước mổ
và nhận định trong khi mổ. Hầu hết bệnh nhân
được mổ bằng đường qua hậu môn đơn
TCNCYH 82 (2) - 2013

thuần (81,3%). Tuy nhiên, 18,7% bệnh nhân
phải kết hợp với đường bụng, trong đó có
2,7% bệnh nhân nội soi và 16% bệnh nhân
mở bụng bằng đường Pfannenstiel. Nguyên
nhân chủ yếu là do 4 bệnh nhân động mạch
mạc treo đại tràng sigma căng, 5 bệnh nhân
vô hạch cao phải hạ đại tràng phải, 2 bệnh

nhân chảy máu nhiều khi phẫu tích và dính do
viêm phúc mạc thai nhi cũ, 3 bệnh nhân sigma
và đại tràng trái giãn to thành dầy, tế bào hạch
thần kinh thành đại tràng bị thoái hoá phải cắt
bỏ dài.
Kết quả nghiên cứu này cho thấy điều trị
bệnh phình đại tràng bẩm sinh bằng phẫu thuật
qua đường hậu môn một thì là một phương
pháp an toàn. Tỷ lệ biến chứng thấp, không rò
miệng nối, không hẹp miệng nối. Trong nghiên
cứu này không gặp một trường hợp nào có
biến chứng hẹp miệng nối sau mổ. Trong khi
đó, đây là biến chứng thường gặp trong các
101


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
báo cáo khác [4, 5, 8]. Nguy cơ rò miệng nối
khi tiến hành phẫu thuật một thì là một trong
những mối lo ngại lớn nhất của phẫu thuật
viên. Tuy nhiên tỷ lệ rò miệng nối trong nghiên
cứu này là 0%, thấp hơn so với các nghiên
cứu của tác giả Hadidi A năm 2003 với 2,9%
[4], Wang NL năm 2004 với 3,2% [5] và
Remesh JC năm 1999 với 2% [8]. Tỷ lệ rò
miệng nối trong nghiên cứu này cũng thấp
hơn nhiều khi so sánh với các tác giả khác khi
tiến hành phẫu thuật nhiều thì như tác giả
Soave F (3 thì) là 6,1% [9] và Harrison MW (3
thì) là 7% [10]. Nhiễm trùng gặp ở 2 trường

hợp (chiếm 2,7%) có đường mổ phối hợp,
thấp hơn nhiều so với tỷ lệ 10,3% theo nghiên
cứu của Bùi Đức Hậu và Nguyễn Thanh Liêm
năm 1996 khi tiến hành phẫu thuật 2 thì [11].
Trong đó 2 trường hợp gặp biến chứng nhiễm
trùng thì có 1 bệnh nhân toác vết mổ phải
khâu lại và 1 bệnh nhân bị áp xe nhỏ ở miệng
nối, đã khỏi và diễn biến ổn định sau đợt điều
trị kháng sinh. Rỉ máu miệng nối dai dẳng hơn
một ngày sau mổ gặp 1 trường hợp, đã đặt
mét miệng nối, truyền máu, sau tự cầm không
phải mổ lại. Trong số 75 bệnh nhân không có
trường hợp nào tử vong trong và sau mổ.
Nhiều báo cáo khác cũng cho thấy tỷ lệ tử
vong trong phẫu thuật một thì thấp [5, 11, 12].
Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với phương pháp
phẫu thuật nhiều thì. Theo một số báo cáo về
phẫu thuật nhiều thì bệnh phình đại tràng bẩm
sinh thì tỷ lệ tử vong trong dao động từ 2,5 6,2% [8, 9, 13].
Kết quả theo dõi lâu dài của phương pháp
điều trị bệnh phình đại tràng bẩm sinh bằng
phẫu thuật qua đường hậu môn một thì rất
khả quan, 76,1% bệnh nhân có từ 1 - 4 lần đi
đại tiện trong ngày. Tỷ lệ bị táo bón tồn tại 0%,
tương tương tự với nhiều báo cáo khác [11,
14]. Sau phẫu thuật chức năng tiểu tiện và
khả năng cương dương vật ở bệnh nhân

102


không bị ảnh hưởng. 67 bệnh nhân theo dõi
lâu dài được đều có khả năng đi tiểu tự chủ,
điều đó chứng tỏ rằng phẫu thuật chữa bệnh
phình đại tràng bẩm sinh bằng đường qua hậu
môn không làm tổn thương thần kinh chi phối
chức năng tiểu tiện của bệnh nhân. 100%
bệnh nhân nam theo dõi được đều có khả
năng cương dương vật buổi sáng khi ngủ dậy,
điều đó cũng chứng tỏ rằng phẫu thuật mổ
chữa bệnh phình đại tràng bẩm sinh bằng
đường qua hậu môn không làm tổn thương
thần kinh chi phối chức năng cương dương
vật của bệnh nhân nam. Tỷ lệ này tương
đương với nhiều báo cáo khác và cũng tương
đương với tỷ lệ trong nhóm mổ hai thì đã công
bố thời gian trước đây của chúng tôi [11, 14].
Kết quả về chức năng đại tiện theo phân
loại của Wingspread cho thấy tỷ lệ bệnh nhân
đạt kết quả tốt và rất tốt cao (76,1%). Tỷ lệ
này cao hơn so với tỷ lệ trong nhóm mổ nhiều
thì của Moor và cộng sự [15] và cao hơn với
tỷ lệ trong nhóm mổ hai thì theo nghiên cứu
của Bùi Đức Hậu và Nguyễn Thanh Liêm [11].
Kết quả cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có độ tuổi
dưới hoặc bằng 6 tháng tuổi có kết quả mổ rất
tốt và tốt (chiếm 82,1%) cao hơn so với trẻ ở
độ tuổi trên 6 tháng (67,9%). Điều này cho thấy
kết quả của phẫu thuật một thì qua đường hậu
môn có thể áp dụng tốt cho các trường hợp
bệnh nhi từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi.


V. KẾT LUẬN
Phương pháp phẫu thuật qua đường hậu
môn một thì an toàn, không có tử vong, biến
chứng sau mổ thấp (rò miệng nối 0%, hẹp
miệng nối 0%). Kết quả theo dõi lâu dài tốt:
76,1% bệnh nhân có số lần đi đại tiện gần
như bình thường (1 - 4 lần/ngày). Về chức
năng đại tiện theo phân loại Wingspread
76,1% bệnh nhân đạt kết quả tốt và rất tốt. Kỹ
thuật mổ bằng đường qua hậu môn một thì

TCNCYH 82 (2) - 2013


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
nên áp dụng cho những bệnh nhân bị phình
đại tràng bẩm sinh tuổi từ sơ sinh đến 6 tháng
tuổi, thể trạng tốt, không suy dinh dưỡng,
không có viêm ruột, có đoạn vô hạch từ trực
tràng đến 1/3 dưới sigma.

Lời cảm ơn
Để hoàn thành nghiên cứu này, tôi bày tỏ
sự cảm ơn chân thành đến GS.TS. Nguyễn
Thanh Liêm và các đồng nghiệp tại khoa
Ngoại, bệnh viện Nhi Trung ương đã tạo điều
kiện và hỗ trợ trong suốt quá trình thực hiện
nghiên cứu. Tôi cũng bày tỏ sự cảm ơn tới
PGS. TS. Ngô Văn Toàn, Trường Đại học Y

Hà Nội đã có nhiều ý kiến đóng góp để nghiên
cứu này được hoàn thiện hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Amiel J, Lyonnet S. (2001). Hirschsprung disease, associated syndromes, and
genetics: a review.
729 - 739.

J Med Genet; 38;

2. Parisi MA, Kapur RP. (2000). Genetics
of Hirschsprung disease. Curr Opin Pediatr;
12; 610 - 617.
3. Torfs C (1998). An epidemiological
study of Hirschsprung disease in a multiracial
California population. Evian, France: The Third
International Meeting: Hirschsprung Disease
and Related Neurocristopathies.
4. Hadidi A (2003). Transanal endorectal
pull through for Hirschsprung’s disease: A
comparision with open tecnique. Eur J Pediatr
Surg; 13; 176 -180.
5. Wang NL, Lee HC, Yeh ML et al
(2004). Experience with primary laparoscopyassisted endorectal pull-through for Hirschspring’s disease. J Pediatr Surg; 20; 118 - 122.
6. Hồ Hữu Thiện, Lê Lộc (2005). Điều trị
bệnh Hirschsprung ở trẻ sơ sinh bằng phẫu
thuật Soave đường hậu môn một thì. Công

TCNCYH 82 (2) - 2013


trình nghiên cứu khoa học Hội nghị Ngoại Nhi
toàn quốc lần thứ ba. Y học thực hành Việt
Nam. 15 - 17.
7. Nguyen T. Liem and Bui D. Hau
(2006). Primary Laparoscopic Endorectal colon Pull-though for Hirschsprung’s disease:
Early Results of 61 Cases. Asian J. of Surg
29(3).
8. Remesh JC, Ramanujam TM, Yik YI et
al (1999). Management of Hirschsprung’s
disease with reference to one-stage pullthrough without colostomy. J Pediatr Surg; 34;
1691-1694.
9. Soave F. (1985). Endorectal pullthrough 20 years experience. J Pediatr Surg;
20;:568 - 579.
10. Harrison MW, Deltz DM, Campell JR
et al (1986). Diagfnosis and treatment of
Hirscgsprung’s disease. Am J Surg; 152;
49 - 56.
11. Bùi Đức Hậu, Nguyễn Thanh Liêm
(1996). Kết quả bước đầu mổ chữa phình đại
tràng bẩm sinh bằng phẫu thuật Swenson 2
thì. Nhi khoa, số 1, trang: 34-37.
12. Elhabaly EA, Hashish A, Elbarbary
MM et al (2004). Transanal one stage
endorectal pull-through for Hirschsprung’s
disease: A multicenter study. J Peditr Surg;
39; 346 - 351.
13. Rescorla FJ, Morrison Am, Engles D
et al (1992). Hirschsprung’s disease. Evaluation of mortality and longterm function in 260
cases. Arch Surg; 127; 934 - 941.
14. Sieber WK (1986). Hirschsprung disease. Pediatric Surgery. Chicago: Year medical-publisher; 995 - 1016.

15. Moore SW, Allbertyn R, Cywes S
(1996). Clinical outcome and longterm quality
of life after surgical correction of Hirschsprung’s disease.
1469 - 1502.

J

Pediatr

Surg;

31;

103


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

Summary
PRELIMINARY STUDIES AND LONG TERM FOLLOW-UP IN THE
TREATMENT OF HIRSCHSPRUNG’S DISEASE BY TRANSANAL
PULL-THROUGH APPROACH ONCE STAGE
The aim of this study was to assess the preliminary results and long term follow-up of the treatment of Hirschsprung’s disease by Transanal pull-through approach once stage at National
Hospital of Pediatrics. Methods: We analyzed the records of 75 patients. Among these were 59
boys (78.7%) and 16 girls (21.3%), ages ranging from 15 days to 36 months. Forty-four (44)
patients had rectal aganglionosis (58.7%), 28 patients had recto-sigmoid aganglionosis (37.3%)
and 3 patients had aganglionic segment to left colon (4.0%). Operative average time was 92
minutes. Results: There were 14 patients that required a combination of transanal pull-through
and laparoscopy (2 patients) or Pfannenstiel (12 patients) approaches due to the shifted mesenteric
artery of sigmoid colon (16.0%). The aganglionic segment was very long in the other, intra-operative

bleeding and primary adhesion peritonitis. There was no death observed during and after operation.
There was 1 anastomose bleeding which is stopped spontaneously and 2 infectious wounds. 75
patients could pass stool spontaneously before discharge. Conclusion: Transanal pull-through
approach once stage can be performed safely to treat Hirschsprung’s disease effectively.
Keywords: hirschsprung’s disease, transanal pull-through approach once stage

PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ NGÓN TAY CÁI
CO GẤP CÒ SÚNG Ở TRẺ EM
Nguyễn Ngọc Hưng
Bệnh viện Nhi Trung ương
Co gấp cò súng ngón I bẩm sinh là bệnh không thường gặp và nguyên nhân bệnh sinh đến nay vẫn chua
được rõ ràng. Nghiên cứu nhằm nhận xét triệu chứng, phân loại ngón I bàn tay co gấp cò súng và đánh giá
kết quả phẫu thuật điều trị. Với 86 bệnh nhân có co gấp cò súng ngón I bàn tay bẩm sinh được điều trị bằng
cắt dọc ròng rọc A 1 từ năm 2004 tới 2011. Phân loại bệnh theo phân loại co gấp cò sung ngón I bàn tay
bẩm sinh. Có 86 bệnh nhân (111 ngón I). Bệnh được phân loại loại II: 31 (36,5%) bệnh nhân với 39 ngón I,
và loại III: 55 (63,5%) với 72 ngón I. Bệnh nhân được phẫu thuật cắt ròng rọc A I. Kết quả tốt: 91,9%, và khá:
8,1%. Không có biến chứng hoặc tái phát. Nghiên cứu đánh giá kết quả phẫu thuật với chức năng lâu dài tốt,
phương pháp phẫu thuật an toàn và hiệu quả.
Từ khóa: co gấp cò súng ngón I bẩm sinh, co gấp cò súng, sai khớp bàn - ngón tay 

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngón I bàn tay co gấp kiểu cò súng là một
dị tật không thường gặp ở trẻ em [1] . Nguyên
nhân bênh sinh cho tới nay chưa được biết,
104

còn nhiều bàn luận về vấn đề này. Bênh
thường đươc phát hiện muôn (Jahss 1936;
Tachdjian 1990; Morrissy 1992; Rodgers vaà
Waters 1994, hiến thấy bệnh lý đươc cha mẹ

TCNCYH 82 (2) - 2013



×