Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Xác định đột biến gen và phát hiện người lành mang gen bệnh tăng sản thượng thận bẩm sinh thể thiếu 21 Hydroxylase

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.2 KB, 8 trang )

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
patients of Mediterranean descent with Wilson
disease, identification of 19 novel mutations , J
Med Genet, 36(11), 833 - 836.
12. Rossi E, Olynyk JK, Cullen DJ et al

(2000). Compound heterozygous hemochromatosis genotype predicts increased iron and
erythrocyte indices in women, Clinical Chemistry, 46 (2), 162 - 166.

Summary
MUTATION ANALYSIS OF ATP7B GENE IN
WILSON DISEASE FAMILY
Wilson disease an autosomal recessive disorder of copper metabolism caused by mutations in
the ATP7B gene that encodes a P-type copper transporting ATPase. The aim of this study was to
screen and detect mutations of the ATP7B gene in a Wilson disease famlily (n = 6). Mutations
were screened and detected by DNA sequencing in 21 exon of ATP7B gene. The results showed
that 6/6 patients had 2 different heterozygous mutations including: ins47_48CGGCG in exon 1
and p.V456L in exon 3 of ATP7B gene.
Keywords:

XÁC ĐỊNH ĐỘT BIẾN GEN VÀ PHÁT HIỆN NGƯỜI LÀNH
MANG GEN BỆNH TĂNG SẢN THƯỢNG THẬN BẨM SINH
THỂ THIẾU 21 - HYDROXYLASE
Ngô Thị Thu Hương1, Trần Vân Khánh1, Nguyễn Viết Tiến2,
Nguyễn Phú Đạt1, Tạ Thành Văn1
1

Trường Đại học Y Hà Nội, 2Bệnh viện Phụ sản Trung ương

Tăng sản thượng thận bẩm sinh do thiếu hụt enzym 21- hydroxylase là bệnh di truyền lặn nhiễm sắc thể
thường do đột biến gen CYP21A2. Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu: (1) xác định đột biến gen


trên bệnh nhân tăng sản thượng thận bẩm sinh thể thiếu hụt enzym 21- hydroxylase, (2) phát hiện người
lành mang gen bệnh cho các thành viên gia đình có quan hệ huyết thống với bệnh nhân. Nghiên cứu được
tiến hành trên 33 bệnh nhân và 78 thành viên thuộc 33 gia đình của những bệnh nhân tăng sản thượng thận
bẩm sinh; Kỹ thuật giải trình tự gen và MLPA được sử dụng để xác định đột biến và người lành mang gen
bệnh. Kết quả cho thấy đối với nhóm bệnh nhân, 33/33 (100%) bệnh nhân đã được phát hiện đột biến với 7
dạng đột biến khác nhau, trong đó đột biến 656 A/C > G (IVS2-13A/C > G) chiếm tỉ lệ cao nhất 13/33
(39,5%), tiếp theo là đột biến xóa đoạn chiếm tỉ lệ 7/33 (21,2%); đối với nhóm người lành mang gen bệnh,
32/33 người bố, 33/33 người mẹ và 5/12 thành viên gia đình khác (anh, chị, em) được xác định là người lành
mang gen bệnh. Kết quả thu được là cơ sở di truyền quan trọng cho chẩn đoán trước sinh và tư vấn di
truyền nhằm làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và có phác đồ điều trị sớm cho các thai nhi ngay từ những tuần đầu.
Từ khóa: tăng sản thượng thận bẩm sinh, đột biến gen CYP21A2, người lành mang gen bệnh

TCNCYH 82 (2) - 2013

187


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng sản thượng thận bẩm sinh
(congenital adrenal hyperplasia - TSTTBS) thể
thiếu enzym 21 - hydroxylase là bệnh di truyền
lặn trên nhiễm sắc thể số 6. Bệnh gây nên do
đột biến gen CYP21A2 làm rối loạn quá trình
sinh tổng hợp hormon vỏ thượng thận, gây
bệnh cảnh lâm sàng là cơn suy thượng thận
cấp hoặc nam hóa ở trẻ gái, dậy thì sớm giả ở
trẻ trai [1, 2].
Cho đến nay, rất nhiều dạng đột biến đã

được phát hiện như đột biến mất đoạn, đột
biến chuyển đoạn, đột biến lặp đoạn, đột biến
điểm; trong đó đột biến điểm chiếm tỷ lệ cao
nhất [3]. Bệnh có thể dự phòng bằng phương
pháp tư vấn di truyền như phát hiện người
lành mang gen bệnh, chẩn đoán trước sinh.
Nghiên cứu của Lee và cộng sự ước tính tỷ lệ
người lành mang gen bệnh tăng sản thượng
thận bẩm sinh là 1/83 đối với quần thể người
Trung Quốc [3]. Các báo cáo khác trên thế
giới cho thấy tỷ lệ chung người lành mang gen
bệnh là 1/55 [4, 5]. Ở Việt Nam, khoa Nội tiết
- Chuyển hóa - Di truyền, bệnh viện Nhi Trung
ương là một trong những nơi đang quản lí số
lượng lớn nhất bệnh nhân mắc tăng sản
thượng thận bẩm sinh với khoảng trên 600
bệnh nhân. Tuy nhiên, chưa có một nghiên
cứu nào toàn diện về phát hiện đột biến gen
trên bệnh nhân và phát hiện người lành mang
gen bệnh. Việc phát hiện đột biến và phát hiện
người lành mang gen bệnh sẽ giúp khẳng
định chẩn đoán và cho phép điều trị sớm,
phòng tránh cơn suy thượng thận cấp trong
các trường hợp xét nghiệm về hormon không
Địa chỉ liên hệ: Tạ Thành Văn - Trường Đại học Y Hà Nội
Số 1 Tôn Thất Tùng, Đống Đa, Hà Nội.
Email:
Ngày nhận: 04/03/2013
Ngày được chấp thuận: 26/4/2013


188

rõ rang; tư vấn tiền hôn nhân nhằm giảm trẻ
sinh ra bị mắc bệnh và chẩn đoán và điều trị
trước sinh cho thai nhi gái mắc bệnh để phòng
và làm giảm nam hóa chuyển giới gây mơ hồ
giới tính sau sinh. Xuất phát từ ý nghĩa thực
tiễn trên, đề tài được thực hiện với mục tiêu:
(1) xác định đột biến gen trên bệnh nhân tăng
sản thượng thận bẩm sinh thể thiếu hụt enzym 21- hydroxylase, (2) phát hiện người lành
mang gen bệnh cho các thành viên gia đình
có quan hệ huyết thống với bệnh nhân.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
33 bệnh nhân và 78 thành viên thuộc 33
gia đình của những bệnh nhân tăng sản
thượng thận bẩm sinh thể thiếu enzym 21hydroxylase bao gồm: bố, mẹ và anh, chị, em
ruột của bệnh nhân. Các bệnh nhân đang được
theo dõi và điều trị tại khoa Nội tiết - Chuyển hóa
- Di truyền bệnh viện Nhi Trung ương.
2. Phương pháp
2.1. Kỹ thuật tách chiết DNA
DNA được tách chiết từ bạch cầu máu
ngoại vi theo quy trình phenol/chloroform. Tất
cả mẫu DNA sẽ được tiến hành đo nồng độ và
độ tinh sạch, chỉ có mẫu DNA đạt giá trị OD
260/280 1.8 - 2 được sử dụng để phân tích
gen [6].
2.2. Kỹ thuật giải trình tự gen

Các cặp mồi đặc hiệu được sử dụng để
khuyếch đại gen CYP21A2. Chu trình nhiệt
phản ứng PCR: 900 - 10 giây, [980 - 10 giây,
550 - 15 giây, 720 - 2 phút] x 30 chu kỳ.
Sản phẩm PCR được tinh sạch và giải
trình tự trên máy ABI - 3100 tại trung tâm
nghiên cứu Gen - Protein, trường Đại học Y
Hà Nội. Kết quả được phân tích bằng phần
mềm CLC và so sánh kết quả phân tích gen
TCNCYH 82 (2) - 2013


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
của bệnh nhân với kết quả phân tích gen của
các thành viên gia đình.

của mỗi probe tỷ lệ thuận với số bản copy của
đoạn DNA đích đặc hiệu với probe đó.

2.3 Kỹ thuật MLPA (Multiplex ligation
dependent probe amplification)

2.4. Đạo đức nghiên cứu: Nghiên cứu
thực hiện theo đúng yêu cầu đạo đức trong
nghiên cứu.

Sử dụng kit MLPA P050B2 (MRC - Holland)
để phát hiện đột biến xóa đoạn trên bệnh
nhân và người lành mang gen bệnh. Thành
phần của kit gồm các probe để khuyếch đại

gen CYP21A2, mỗi probe tương ứng với một
vùng gen, ngoài ra còn có các probe đặc
trưng cho gen của người cũng được sử dụng
để làm đối chứng và 2 probe cho nhiễm sắc
thể X và Y để xác định giới tính. Sản phẩm
khuếch đại được điện di mao quản trên máy
giải trình tự. Số lượng sản phẩm khuếch đại

III. KẾT QUẢ
Bằng kỹ thuật giải trình tự gen và MLPA,
33/33 (100%) bệnh nhân đã được phát hiện
có đột biến gen CYP21A2, với 7 dạng đột biến
khác nhau. Đột biến 656 A/C > G (IVS2 - 13A/
C > G) chiếm tỷ lệ cao nhất là 13/33 (39,5%),
tiếp theo là đột biến xóa đoạn chiếm tỷ lệ 7/33
(21,2%), các dạng đột biến còn lại dao động
3 - 15,3%.

Bảng 1. Các dạng đột biến gen đã được phát hiện trên bệnh nhân

STT

Dạng đột biến

Thể lâm sàng

Số bệnh nhân
n

%


Mất muối

13

39,5

Nam hóa đơn thuần

1

3,0

Mất muối

2

6,0

Nam hóa đơn thuần

5

15,3

1

656 A/C > G (IVS2-13A/C > G)

2


I172N/I172N & 656 A/C > G (IVS2
- 13A/C > G)

3

IVS2 - 13A/C > G/R356W

4

I172N/I172N

5

IVS2 - 13A/C> G/R493S

Mất muối

1

3,0

6

R356W/R356W

Mất muối

4


12,0

7

Xóa đoạn

Mất muối

7

21,2

33

100

Tổng số

- Kỹ thuật giải trình tự gen và MLPA cũng được sử dụng để phát hiện người lành mang gen
bệnh, kết quả cho thấy 32/33 người bố, 33/33 người mẹ và 5/12 thành viên gia đình (anh, chị,
em) được xác định có đột biến.
- Phân tích phả hệ của 33 gia đình cho thấy cả 33 gia đình đều có con bị bệnh ở cùng 1 thế
hệ, trong đó 28 gia đình có 1 con bị bệnh, 5 gia đình có hai có 2 con bị bệnh (bảng 2).

TCNCYH 82 (2) - 2013

189


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

Bảng 2. Kết quả phát hiện đột biến gen của các thành viên gia đình bệnh nhân
Thành viên
gia đình khác

Người bố

Người mẹ

n

%

n

%

n

%

Có mang gen đột biến

32

32/33

33

33/33


5

5/12

Không mang gen đột biến

1

1/33

0

0

7

7/12

33

33/33

33

33/33

12

12/12


Kết quả

Tổng số

Hình ảnh minh họa một số dạng đột biến điển hình.
Phả hệ của gia đình mang gen đột biến IVS2 - 13A/C > G
I

II
III

Hình 1. Kết quả đột biến 656 A/C > G (IVS2 - 13A/C > G) trên gen CYP21A2
Mũi tên thẳng đứng chỉ vị trí đột biến, các chữ số trên mũi tên chỉ vị trí nucleotid. Hình ảnh giải
trình tự gen theo chiều ngược.
190

TCNCYH 82 (2) - 2013


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bệnh nhân có đột biến đồng hợp tử 656 A/C > G (IVS2 - 13A/C > G), mẹ bệnh nhân có đột
biến dị hợp tử nên là người lành mang gen bệnh, bố bệnh nhân có hình ảnh phân tích gen giống
người bình thường nên không mang gen bệnh.
Phả hệ của gia đình mang đột biến xóa đoạn.
I

II

III


Hình 2. Kết quả đột biến xóa đoạn từ gen C4B đến exon 8 của gen CYP21A2
Ex1, Ex3, Ex4, Ex6, Ex8, là các đỉnh tương
ứng với vị trí exon 1, 3, 4, 6, 8, của gen
CYP21A2; E1P, I2P, E10P là các đỉnh tương
ứng với vị trí exon 1, intron 2, và exon 10 của
gen CYP21A1P; C4A, C4B là đỉnh tương ứng
với gen C4A, C4B; Y là đỉnh tương ứng với
nhiễm sắc thể Y dùng để xác định giới tính.
Kết quả MLPA cho thấy ở bệnh nhân
không thấy xuất hiện các đỉnh tương ứng với

TCNCYH 82 (2) - 2013

gen C4B và các exon 1, 3, 4, 6, 8 của gen
CYP21A2, vì vậy bệnh nhân có đột biến xóa
đoạn từ gen C4B đến exon 8 của gen
CYP21A2. Chiều cao đỉnh của gen C4B và
các exon 1, 3, 4, 6, 8 của gen CYP21A2 ở
người bố và người mẹ bệnh nhân chỉ bằng
1/2 so với chiều cao đỉnh của mẫu đối chứng;
vì vậy bố và mẹ bệnh nhân là người lành
mang gen bệnh.

191


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

IV. BÀN LUẬN
Bằng kỹ thuật MLPA và giải trình tự gen,

33/33 (100%) bệnh nhân đã được phát hiện
đột biến với 7 dạng đột biến khác nhau, trong
đó đột biến 656 A/C > G (IVS2 - 13A/C > G)
chiếm tỉ lệ cao nhất 13/33 (39,5%), tiếp theo là
đột biến xóa đoạn chiếm tỷ lệ 7/33 (21,2%),
các dạng đột biến còn lại dao động từ 3 15,3%. Trên cơ sở các đột biến gen của
những bệnh nhân bị bệnh tăng sản thượng
thận bẩm sinh đã được phát hiện, nghiên cứu
tiến hành xác định trạng thái dị hợp tử cho các
thành viên gia đình bệnh nhân. Kết quả cho
thấy 32/33 người bố, 33/33 người mẹ và 5/12
thành viên gia đình khác (anh, chị và em)
được xác định có đột biến. Đột biến của gen
CYP21A2 đã được nghiên cứu rộng rãi ở
nhiều nước trên thế giới, cho đến nay đã có
hơn 150 đột biến khác nhau đã được báo cáo
[2, 7]. Các đột biến hay gặp của gen
CYP21A2 bao gồm 656 A/C > G (IVS2 - 13A/
C > G), I172N, R356W và đột biến xóa đoạn
với các tỷ lệ khác nhau tùy từng chủng tộc.
Kết quả nghiên cứu này phù hợp với các
nghiên cứu trên thế giới, đột biến 656 A/C > G
(IVS2 - 13A/C > G) là dạng đột biến rất hay
gặp với tỷ lệ dao động (12 - 56%) tùy thuộc
vào từng chủng tộc [8], trong đó, tỷ lệ gặp đột
biến này ở các nước châu Á như Trung Quốc
(27%), Hồng Kong (34%), Singapor (32,7%)
[1]. Nghiên cứu này phát hiện tỷ lệ đột biến
xóa đoạn cao hơn so với một số nước. Một
nghiên cứu ở Brazil tiến hành xét nghiệm gen

cho 41 gia đình có người bị bệnh tăng sản
thượng thận bẩm sinh thể thiếu enzym 21 OH nhận thấy dạng đột biến xóa đoạn là 8,1%
[9], trong đó đột biến xóa đoạn 30kb được tìm
thấy với tỷ lệ thấp ở những bệnh nhân thể mất
muối (4,5%), trong khi tỷ lệ này trong các
nghiên cứu khác tại châu Âu và châu Mỹ là
20% ở thể mất muối [3]. Tần số gặp các đột
192

biến xóa đoạn với tần số thấp đã được báo
cáo là ở Nhật (11,8%), Trung Hoa – Đài Loan
(9,5%) Singapo (gốc Trung Quốc, Ấn Độ,
Malaysia) (3,9%) [1, 10]. Đột biến xóa đoạn
lớn dẫn đến mất toàn bộ hoạt tính enzym do
đó sẽ dẫn đến thể lâm sàng nặng - thể cổ điển
mất muối [11]. Điều này hoàn toàn phù hợp
với các bệnh nhân trong nghiên cứu này.
Giải trình tự gen cho các thành viên gia
đình số 6 của bệnh nhân mang đột biến 656
A/C > G (IVS2 - 13A/C > G) dạng đồng hợp
tử, kết quả xét nghiệm cho thấy người mẹ là
người lành mang gen dị hợp tử, có cùng kiểu
đột biến với bệnh nhân nhưng người bố có kết
quả bình thường. Bệnh nhân mang hai allen bị
bệnh, trong đó một allen gây bệnh nhận từ
người mẹ và một allen gây bệnh phải được
nhận từ người bố, nhưng phương pháp giải
trình tự gen không phát hiện được đột biến
điểm ở người bố, do vậy có khả năng bệnh
nhân bị đột biến xóa đoạn mới trong quá

trình giảm phân hoặc người bố có mang đột
biến xóa đoạn mà chưa được phát hiện.
Theo tác giả White P.C chuyển đoạn gen mới
thường liên quan đến đột biến Ig2, trao đổi
chéo không tương xứng gây mất đoạn gen.
Tần số chuyển đoạn gen theo cách thức này
(1/104) phù hợp với tỷ suất chuyển đoạn gen
mới ở bệnh nhân thiếu enzym 21 - OH [7].
Khả năng người bố mang đột biến xóa đoạn
cần phải sử dụng phương pháp MLPA để xác
định chính xác.
Phát hiện đột biến gen trên bệnh nhân
không những đóng vai trò quan trọng để chẩn
đoán xác định bệnh, điều trị sớm tránh biến
chứng cho bệnh nhân mà còn là cơ sở quan
trọng để phát hiện người lành mang gen bệnh
cho các thành viên trong gia đình, đặc biệt
những gia đình có một con đang bị bệnh nếu
họ có kế hoạch tiếp tục sinh con thứ 2 [12].
Đây là cơ sở khoa học quan trong để chẩn
TCNCYH 82 (2) - 2013


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
đoán trước sinh cho các mẹ, hoặc chị, em gái
bệnh nhân khi mang thai, tránh sinh ra một
đứa trẻ bị bệnh và có phác đồ điều trị sớm
cho thai nhi khi được chẩn đoán sớm từ thời
kỳ bào thai.


V. KẾT LUẬN
33/33 (100%) bệnh nhân đã được phát
hiện đột biến với 7 dạng đột biến khác nhau,
trong đó đột biến 656 A/C > G (IVS2 - 13A/C >
G) chiếm tỷ lệ cao nhất 13/33 (39,5%), tiếp
theo là đột biến xóa đoạn chiếm tỷ lệ 7/33
(21,2%).
32/33 người bố, 33/33 người mẹ và 5/12
thành viên gia đình (anh, chị, em) được xác
định là người lành mang gen bệnh.

Lời cảm ơn
Nghiên cứu được hỗ trợ kinh phí của đề tài
cấp Bộ Y tế “Nghiên cứu quy trình phát hiện
người mang gen bệnh và chẩn đoán trước
sinh bệnh tăng sản thượng thận bẩm sinh
(TSTTBS) bằng kỹ thuật sinh học phân tử”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Angel.O.K Chan, But.M.W (2011).
Molecular analysis of congenital adrenal
hyperplasia due to 21- hydroxylase deficiency
in Hong Kong Chinese patients, Steroids 76,
1057 - 1062.
2. Saroj. N, New. M. I (2011). Congenital
adrenal hyperplasia due to 21 – hydroxylase
deficiency, Annals of the new york academy of
sciences, 1192, 5 - 11.
3. Lee. H. H (2004). The chimeric CYP21P/
CYP21 gene and 21-hydroxylase deficiency,

Journal Hum Genet, 49, 65 - 72.
4. Anastasovska.V, Kocova .M (2010).
Detected heterozygouts during the molecular
analysis of the common CYP21A2 point
mutations in Macedonian patients with con-

TCNCYH 82 (2) - 2013

genital adrenal hyperplasia and their relatives,
Contributions, Sec, Biol.Med.Sci, MASA,
XXXI, 2, 71 - 82.
5. Baumgartner Parzer. S.M, Nowotny. P
et al (2004). Carrier frequency of congenital
adrenal hyperplasia (21-hydroxylase deficiency) in a Middle European population, The
journal of clinical Endocrinology & Metabolism,
90(2), 775 - 778.
6. Tạ Thành Văn (2010). PCR và một số
kỹ thuật y sinh học phân tử, Nhà xuất bản Y
học, 28 - 32.
7. White. P.C, Speiser. P. W (2000). Congenital adrenal hyperplasia due to 21- hydroxylase deficiency, Endocrine reviews, 21
(3), 245 - 291.
8. Wilson RC, Nimkarn S, Dumic M et al,
(2007), Ethnic specific distribution of mutations
in 716 patients with congenital adrenal hyperplasia owing to 21- Hydroxylase deficiency,
Mol Genet. Meta, 90(4), 414 - 421.
9. Fernanda B Coeli., Fernanda C
Soardi., et al (2010). Novel deletion alleles
carrying CYP21A1P/A2 chimeric genes in Brazilian patients with 21-hydroxylase deficiency,
BMC medical Genetics, 11, 104 - 124.
10. Satomi.K, Takio.T et al (2002). Genetic Analysis of Japanese Patients with 21hydroxylase deficiency: Identification of a patient with a new mutation of a homozygous

deletion of adenine at codon 246 and patients
without demonstrable mutation within the
structural gene for CYP21, The Journal of
clinical Endocrinology & Metabolism, 87(6),
2668 - 2673.
11. Finkielstain GP, Chen W, Mehta SP,
Fujimura FK et al (2011). Comprehensive
genetic analysis of 182 unrelated families with
congenital adrenal hyperplasia due to 21hydroxylase deficiency, J Clin Endocrinol
Metab, 96 (1), 161 - 172.

193


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
12. Juan Tian., Guohua Yang et al
(2011). Molecular diagnosis of two families

with classic congenital adrenal hyperplasia,.
Gene, 05.019, 368 - 389.

Summary
MUTATION AND CARRIER DETECTION OF CONGENITAL ADRENAL
HYPERPLASIA CAUSED BY 21 - HYDROXYLASE DEFICIENCY
Congenital adrenal hyperplasia causes by 21- hydroxylase deficiency (CAH - 21OH) is an
autosomal recessive genetic disorder due to mutation in the CYP21A2 gene. The aim of this study
was to identify mutations of CYP21A2 gene in patients with CAH - 21OH and detect the carrier in
family members of CAH - 21OH patients. 33 CAH - 21OH patients and 78 family members were
selected for this study; direct DNA sequencing and MLPA were used to identify the mutation and
carriers in CYP21A2. The result showed that, in the patient group, 33/33 (100%) patients were

found to have mutation in CYP21A2 gene with 7 different types of mutation and 656 A/C > G
(IVS2 - 13A/C > G) was the most common mutation with 13/33 (39.5%) and following is the
deletion mutation with 7/33 (21.2%). In the carrier group, 32/33 fathers, 33/33 mother and 5/12
siblings were identified as carrier. Our results are important for prenatal diagnosis and genetic
counseling to reduce the ratio of disease and have suitable treatment for mother in initial weeks of
gestation.
Keywords: congenital adrenal hyperplasia, CYP21A2 mutation, carrier

CHẨN ĐOÁN TRƯỚC SINH BỆNH TĂNG SẢN THƯỢNG THẬN
BẨM SINH THỂ THIẾU 21 - HYDROXYLASE
Ngô Thị Thu Hương1, Trần Vân Khánh1, Nguyễn Phú Đạt1,
Nguyễn Viết Tiến2, Tạ Thành Văn1
1

Trường Đại học Y Hà Nội, 2Bệnh viện Phụ sản Trung ương

Tăng sản thượng thận bẩm sinh (TSTTBS) là một bệnh di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường, khoảng
trên 90% gây nên do thiếu hụt enzym 21- hydroxylase. Việc đưa ra một phác đồ điều trị thích hợp với các bà
mẹ mang thai sẽ là giải pháp hiệu quả để để tránh được hiện tượng nam hóa đối với trẻ gái bị bệnh. Nghiên
cứu này được tiến hành với mục tiêu chẩn đoán trước sinh cho các thai phụ mang gen đột biến dị hợp tử
bệnh tăng sản thượng thận bẩm sinh thể thiếu 21 - OH. Sử dụng kỹ thuật giải trình tự gen và MLPA để xác
định đột biến gen ở thai nhi tuần thứ 16 của 04 thai phụ thuộc 04 gia đình bệnh nhân tăng sản thượng thận
bẩm sinh. Kết quả cho thấy, 1 thai nhi mang đột biến dị hợp tử 656A/C > G/1763insT, 1 thai nhi mang đột
biến đồng hợp tử 2110C > T (R356W) và 2 thai nhi không mang gen đột biến gen.
Từ khóa: tăng sản thượng thận bẩm sinh, chẩn đoán trước sinh, đột biến gen CYP21A2

194

TCNCYH 82 (2) - 2013




×