Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo loạt ca bệnh tràn khí trung thất tự phát được chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện Phổi Trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 8 trang )

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

BÁO CÁO LOẠT CA BỆNH TRÀN KHÍ TRUNG THẤT TỰ PHÁT
ĐƯỢC CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN PHỔI
TRUNG ƯƠNG
Nguyễn Kim Cương, Lê Tuấn Long
Trường Đại học Y Hà Nội
Tràn khí trung thất tự phát (Spontaneous pneumomediastinum) là sự xuất hiện của khí tự do trong trung thất
mà không có nguyên nhân rõ ràng. Tại Bệnh viện Phổi Trung ương, từ tháng 5 năm 2012 đến tháng 10 năm 2015,
có 7 trường hợp tràn khí trung thất tự phát, trong đó nam giới chiếm 6/7 trường hợp, trẻ tuổi (trung bình 22 tuổi,
trong khoảng 15 - 41 tuổi), biểu hiện lâm sàng phổ biến là đau ngực và khó thở (6/7 trường hợp), tràn khí dưới
da (5/7 trường hợp). Dấu hiệu X-quang tràn khí trung thất trên phim thẳng thường quy (7/7 trường hợp). Điều trị
bảo tồn (7/7 trường hợp). Thời gian điều trị trung bình 8,86 ngày (6 - 14 ngày). Tràn khí trung thất tự phát lành
tính, gặp chủ yếu ở nam giới trẻ tuổi, tuy hiếm gặp nhưng cần được nghĩ tới đặc biệt khi có dấu hiệu tràn khí
dưới da. Chẩn đoán xác định bằng hình ảnh khí trung thất trên phim X-quang ngực hoặc chụp cắt lớp vi tính.
Từ khóa: Tràn khí trung thất tự phát, khó thở, đau ngực, tràn khí dưới da, nam giới trẻ tuổi

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tràn khí trung thất tự phát được định nghĩa
là sự xuất hiện của khí tự do trong trung thất
mà không có nguyên nhân rõ ràng [1; 2].
Những trường hợp mà nguyên nhân của tràn
khí trung thất rõ ràng như tràn khí trung thất
liên quan tới chấn thương, thủng tạng rỗng,
sau các thủ thuật/ can thiệp trên bệnh nhân,
nhiễm trùng hoặc phẫu thuật… không được coi
là tràn khí trung thất tự phát [2]. Tràn khí trung
thất tự phát đã được mô tả bởi Louis Hamman
vào năm 1939, đó là lý do tràn khí trung thất
tự phát được gọi là hội chứng Hamman [1; 2].
Tràn khí trung thất có thể xảy ra theo 3 cơ chế


khác nhau: (1) khí đi vào trung thất thông qua
Địa chỉ liên hệ: Lê Tuấn Long, Trường Đại học Y
Hà Nội
Email:
Ngày nhận: 31/8/2017
Ngày được chấp nhận: 29/9/2017

TCNCYH 109 (4) - 2017

sự phá vỡ hàng rào dưới da hoặc cơ (thường
ở cây phế quản hoặc thực quản); (2) Các sinh
vật sống sinh khí có trong ổ nhiễm trùng ở
trung thất hoặc vùng lân cận; (3) sự chênh lệch
áp suất giữa các phế nang và tổ chức kẽ phổi
dẫn đến vỡ phế nang. Cơ chế cuối cùng chính
là cơ sở sinh lý bệnh của tràn khí trung thất tự
phát [1].

Hình 1. Khí bên ngoài phế nang di chuyển
vào bao phế quản mao mạch [6]
Vỡ phế nang có thể xuất hiện bởi tăng áp
lực phế nang khi làm nghiệm pháp Valsalva;
1


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
hoặc giảm áp suất khoảng kẽ khi thở mạnh và
co thắt mạch máu; hoặc giảm áp suất khoang
màng phổi khi nghiệm pháp Mueller được tiến
hành trong hen phế quản. Các bất thường của

màng phế nang - mao mạch và các bệnh phổi
kẽ cũng có thể làm vỡ phế nang. Vỡ phế nang
dẫn đến sự tích tụ khí trong khoảng kẽ, sau
đó khí sẽ đi qua bao phế quản mao mạch vào
rốn phổi và trung thất (hiệu ứng Macklin). Điều
này xảy ra vì áp suất trong trung thất thấp hơn
vùng ngoại vi của phổi. Một khi vào trung thất,
khí sẽ bị nén đẩy vào phần mềm vùng cổ và
các phần mềm xung quanh khác, hoặc thậm
chí tới cả khoang sau phúc mạc [1; 7].
Tràn khí trung thất tự phát hiếm gặp, lành
tính và chủ yếu gặp ở người trẻ tuổi [1 - 3]. Đau
ngực, khó thở và tràn khí dưới da là những
biểu hiện lâm sàng hay gặp nhất. Do tỉ lệ mắc
thấp nên y văn trong và ngoài nước liên quan
chủ yếu được công bố đều là những ca lâm
sàng, loạt ca bệnh.
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm mô tả
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả
điều trị các trường hợp tràn khí trung thất tự
phát tại Bệnh viện Phổi Trung ương; bàn luận
cơ chế và cách tiếp cận xử trí.

II. GIỚI THIỆU CA BỆNH
Báo cáo hồi cứu 7 trường hợp tràn khí
trung thất tự phát được chẩn đoán và điều trị
tại Bệnh viện Phổi Trung ương. Các bệnh nhân
vào viện trực tiếp hoặc được chuyển đến từ
bệnh viện khác. Các thông tin được thu thập từ
bệnh nhân gồm: thông tin hành chính và nhân


khẩu học, các yếu tố thuận lợi, các yếu tố khởi
phát, các triệu chứng và dấu hiệu lâm sàng,
các thăm dò chẩn đoán, thời gian nằm viện,
phương pháp điều trị trong thời gian nằm viện,
kết quả điều trị [1].
Yếu tố thuận lợi được xem xét là những thói
quen hoặc bệnh lý trong tiền sử mà tạo điều
kiện thuận lợi cho sự xuất hiện của tràn khí
trung thất tự phát. Trong khi đó, yếu tố khởi
phát được định nghĩa là những hoạt động hoặc
sự kiện gần (trong vòng 1 tuần) được mô tả
trong bệnh án như là nguyên nhân tức thì có
khả năng gây tràn khí trung thất [2; 3].
Nghiên cứu được sự đồng ý của Bệnh viện
Phổi Trung ương. Thông tin trong hồ sơ bệnh
án được giữ bí mật, chỉ phục vụ mục đích
nghiên cứu.
Trong thời gian từ tháng 5 năm 2012 đến
tháng 10 năm 2015, chúng tôi ghi nhận 7
trường hợp được chẩn đoán và điều trị tràn
khí trung thất tự phát tại Bệnh viện Phổi Trung
ương với các đặc điểm như sau:
Lâm sàng
Trong số 7 bệnh nhân, chủ yếu là nam giới
(6/7, 85,7%). Tuổi trung bình là 22,0 (trong
khoảng 15 - 41 tuổi). Một số yếu tố thuận lợi
được xác định: 2 bệnh nhân hen phế quản
(28,6%) và 2 bệnh nhân có hút thuốc lá
(28,6%). Trong các yếu tố có thể khởi phát tràn

khí trung thất, ho là yếu tố hay gặp nhất (5/7,
71,4%), cơn hen phế quản (2/7, 28,6%) và vận
động gắng sức (1/7, 14,3%).

Bảng 1. Tuổi, giới, yếu tố thuận lợi trong tiền sử, yếu tố khởi phát và lý do vào viện của
bệnh nhân
TT

Tuổi

Giới

Yếu tố thuận lợi

Yếu tố khởi phát

Lý do vào viện

1

41

Nam

Hút thuốc lá

Ho

Khó thở, đau ngực


2

22

Nam

Hút thuốc lá

Vận động gắng sức

Khó thở, đau ngực

2

TCNCYH 109 (4) - 2017


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TT

Tuổi

Giới

Yếu tố thuận lợi

Yếu tố khởi phát

Lý do vào viện


3

15

Nam

-

Ho

Khó thở

4

15

Nam

Hen phế quản

Ho, cơn hen phế quản

Khó thở, đau ngực

5

16

Nam


-

Ho

Khó thở, đau ngực

6

30

Nữ

Hen phế quản

Cơn hen phế quản

Khó thở

7

15

Nam

-

Ho

Ho ra máu


Tất cả các bệnh nhân đều có một hoặc nhiều triệu chứng cơ năng có thể liên quan tới tràn khí
trung thất. Đau ngực và khó thở là các triệu chứng chủ yếu (6/7, 85,7%), ho (5/7, 71,4%), 1 trường
hợp ho ra máu. Sốt (3/7, 42,9%).
Tràn khí dưới da là dấu hiệu thực thể thường gặp nhất (5/7, 71,4%). Tất cả đều ở vùng cổ, có
2 trường hợp tràn khí dưới da vùng ngực (2/7, 28,6%). Dấu hiệu co thắt phế quản (2/7, 28,6%).
Bảng 2. Các triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân

TT

Đau
ngực

Khó
thở

Ho

Ho ra
máu

Sốt

Thở nhanh
(> 25 ck/
phút)

Mạch nhanh
(> 100 lần/
phút)


Tràn khí
dưới da

Co thắt
phế quản

1

+

+

+

-

+

-

-

-

+

2

+


+

-

-

-

-

-

+

-

3

+

+

+

-

-

-


-

+

-

4

+

+

+

-

-

-

-

-

-

5

+


+

+

-

+

-

-

+

-

6

-

+

-

-

-

-


+

+

+

7

+

-

+

+

+

-

-

+

-

Cận lâm sàng
Tất cả các bệnh nhân đều được chụp X-quang ngực, 6/7 ca được chụp CT ngực.
Bảng 3. Các dấu hiệu hình ảnh X-quang ngực thẳng thường quy
Dấu hiệu


*

**

***

Tràn khí dưới
da vùng cổ

Dấu hiệu vòm
hoành liên tục

Hình ảnh
xẹp phổi

Tràn khí
màng phổi

1

+

-

-

-

-


-

-

2

+

-

-

+

-

-

-

3

+

+

+

+


-

-

-

4

+

+

-

-

-

+

-

TT

TCNCYH 109 (4) - 2017

3



TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
5

+

+

+

+

-

-

+

6

+

+

+

+

-

-


-

7

+

+

+

+

+

-

-

Chú thích
(*): dải sáng (hyperlucency) (dải khí) chạy song song với bờ trái hoặc bờ phải của bóng tim,
cùng với một đường mờ biểu thị màng phổi trung thất bị đẩy lên.
(**): những dải sáng từ trung thất chạy lên phía cổ.
(***): hình sáng (khí) quanh các cấu trúc của trung thất như động mạch chủ, khí quản, thực quản
hoặc tuyến ức.
Dấu hiệu thấy được trên phim X-quang: dải sáng chạy song song với bờ trái hoặc bờ phải của
bóng tim cùng với một đường mờ biểu thị màng phổi trung thất bị đẩy lên (7/7,100%); tràn khí dưới
da vùng cổ (5/7, 71,4%); những đường sáng từ trung thất chạy lên phía cổ (5/7, 71,4%); hình ảnh
khí quanh các cấu trúc của trung thất như động mạch chủ, khí quản, thực quản hoặc tuyến ức (4/7,
57,1%), dấu hiệu vòm hoành liên tục (1/7, 14,3%). Ngoài ra, 1 trường hợp có xẹp phổi và 1 trường

hợp có tràn khí màng phổi một bên kèm theo. Tất cả các dấu hiệu tràn khí trung thất đều thấy được
trên phim CT ngực (7/7, 100%). Hai trường hợp nghi ngờ căn nguyên do thủng thực quản được
chụp phim có uống thuốc cản quang nhưng không thấy bất thường.

Hình 2. Hình ảnh X-quang và CT ngực
Hình ảnh X-quang: dải sáng chạy song song với bờ trái của tim và đường mờ của màng phổi
trung thất bị đẩy lên (mũi tên màu da cam); dải sáng chạy từ trung thất lên phía cổ và hình ảnh khí
quanh khí quản (mũi tên màu xám); tràn khí dưới da vùng cổ (mũi tên màu xanh).
Hình ảnh CT ngực: khí dưới da vùng nền cổ (mũi tên màu trắng), khí quanh cung động mạch
chủ (mũi tên màu đỏ), hình xẹp nhu mô phổi (mũi tên màu vàng).

4

TCNCYH 109 (4) - 2017


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Điều trị
Thời gian nằm viện trung bình là 8,86 ngày
(trong khoảng 6 - 14 ngày). Phương pháp điều
trị chủ yếu là điều trị hỗ trợ, gồm: nghỉ ngơi,
giảm đau, oxy liệu pháp, kháng sinh dự phòng,
giãn phế quản, vitamin. Tất cả các bệnh nhân
đều ra viện trong tình trạng ổn định, không ghi
nhận trường hợp nào tái phát.

III. BÀN LUẬN
Nghiên cứu này cho thấy tràn khí trung thất
tự phát chủ yếu xảy ra ở nam giới trẻ tuổi. Kết
quả này tương tự với rất nhiều báo cáo lâm

sàng khác [1; 2; 4; 5].
Những động tác tương tự nghiệm pháp
Valsalva có thể là yếu tố khởi phát tràn khí
trung thất tự phát đã được mô tả như: ho, hắt
hơi, nôn, rặn, hít cocaine, thổi bóng. Trong các
nghiên cứu trước đây, cơn hen phế quản được
mô tả là yếu tố khởi phát trong 8 - 39% trường
hợp và là một trong những yếu tố thường
gặp nhất. Sử dụng các chất kích thích (như
cocaine, cần sa) cũng được cho là có liên quan
tới tràn khí trung thất tự phát. Cuối cùng, động
tác thở mạnh khi thăm dò chức năng hô hấp
hoặc vận động gắng sức cũng có liên quan
tới tràn khí trung thất tự phát [1]. Trong nghiên
cứu này, yếu tố khởi phát ho hay gặp nhất (5/7
ca, 71,4%), cơn hen phế quản (2/7 ca, 28,6%)
và vận động gắng sức (1 ca, 14,3%).
Những triệu chứng thường gặp nhất được
mô tả trong y văn là đau ngực, khó thở và cảm
giác đau hoặc khó chịu ở cổ. Đau ngực là triệu
chứng được thấy nhiều nhất trong các báo cáo
và có đặc điểm là đau cấp tính, sau xương ức,
kiểu màng phổi và có thể lan lên cổ, vai hoặc ra
sau lưng. Những triệu chứng ít gặp hơn gồm
ho, nuốt khó, nuốt đau, đau lưng hoặc đau
bụng. Trong loạt ca bệnh này, 4 biểu hiện lâm
sàng hay gặp nhất là: đau ngực, khó thở, ho và
tràn khí dưới da, nhận xét này tương tự những
TCNCYH 109 (4) - 2017


nghiên cứu khác [1; 2; 4].
Toàn trạng của các bệnh nhân tràn khí
trung thất tự phát thường tốt, huyết động ổn
định. Tràn khí dưới da – đặc biệt là ở cổ - gặp ở
40 - 100% trường hợp là dấu hiệu thực thể hay
gặp nhất [1; 2; 4]. Đặc điểm này phù hợp với
nghiên cứu của chúng tôi khi tất cả 7/7 trường
hợp có tràn khí dưới da đều ở vùng cổ, trong
đó 2 trường hợp có cả tràn khí dưới da vùng
ngực (2/7, 28,5%).
Chẩn đoán tràn khí trung thất có thể được
xác định dựa trên phim X-quang ngực thẳng và
nghiêng thường quy. Phim chụp nghiêng cần
thiết vì một số tác giả thấy có tới 50% số ca có
thể không chẩn đoán được nếu chỉ chụp phim
ngực thẳng [4]. Tràn khí trung thất có các dấu
hiệu trên phim X-quang như: dải sáng chạy
song song với bờ trái của bóng tim cùng với
một đường mờ biểu thị màng phổi trung thất bị
đẩy lên; những đường sáng từ trung thất chạy
lên phía cổ; hình ảnh khí quanh các cấu trúc
của trung thất như động mạch chủ, khí quản,
thực quản hoặc tuyến ức; và dấu hiệu vòm
hoành liên tục [2], hình khí dưới da (đặc biệt
là ở cổ và ít gặp hơn ở ngực) cũng được quan
sát thấy ở nhiều trường hợp. Trong nghiên cứu
này, chúng tôi thấy các dấu hiệu X-quang gợi ý
tràn khí trung thất trong cả 7 ca. Tuy nhiên, một
nghiên cứu trên 33 bệnh có đến 30% trường
hợp bị tràn khí trung thất tự phát có hình ảnh

X-quang bình thường, những trường hợp này
được phát hiện dựa trên hình ảnh chụp cắt lớp
vi tính lồng ngực [8]. Phim CT ngực có khả
năng phát hiện tràn khí trung thất ở những
bệnh nhân có ít khí trong trung thất [1; 2].
Chẩn đoán phân biệt của tràn khí trung
thất tự phát gồm: hội chứng vành cấp, viêm
màng ngoài tim, tràn khí màng phổi, nhồi máu
phổi, thủng/ vỡ cây khí phế quản và hội chứng
Boerhaave. Hội chứng Boerhaave, thủng
thành thực quản tự phát do nôn, là tình trạng
5


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
nghiêm trọng nhất, nhiều điểm giống Tràn khí
trung thất tự phát, cần phải chẩn đoán phân
biệt. Cả hai đều có yếu tố khởi phát (ho, nôn,
gắng sức), biểu hiện lâm sàng như đau ngực,
khó thở, đau cổ, tràn khí trung thất và tràn
khí dưới da. Ngoài ra, hội chứng Boerhaave
có các dấu hiệu khác như: tình trạng không
ổn định của bệnh nhân với mạch nhanh, thở
nhanh, sốt, tụt huyết áp hoặc tràn khí-tràn dịch
màng phổi [1; 2; 4].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có 1
trường hợp được chụp CT lồng ngực và 1
trường hợp chụp dạ dày-thực quản có uống
thuốc cản quang để loại trừ thủng thực quản.
Do đó, chúng tôi gợi ý một cách tiếp cận xử trí

tràn khí trung thất như sơ đồ dưới đây. Tất cả
các bệnh nhân sau nôn nhiều, nôn mạnh, sau
thủ thuật nội soi thực quản, xuất hiện các dấu
hiệu của tràn khí trung thất cùng với tình trạng
nhiễm trùng, khó thở tăng dần, nên được chụp

phim dạ dày - thực quản có uống thuốc cản
quang loại trừ thủng thực quản, nếu trên phim
không loại trừ được hội chứng Boerhaave, cần
chỉ định chụp CT lồng ngực có uống thuốc cản
quang và nội soi dạ dày thực quản, hoặc kết
hợp nội soi phế quản nếu nghi ngờ có rò khíphế quản thực quản.
Kết quả điều trị trong nghiên cứu tương tự
những báo cáo trước đây khi không ghi nhận
trường hợp nào tử vong sau tràn khí trung thất
tự phát. Không có trường hợp tái phát. Trong
y văn cũng rất hiếm gặp trường hợp tái phát
và thường đáp ứng tốt với điều trị bảo tồn.
Điều trị bảo tồn tràn khí trung thất tự phát bao
gồm: nghỉ ngơi, giảm đau và thở oxy hỗ trợ
trong trường hợp bệnh nhân khó thở. Tất cả
các bệnh nhân trong nghiên cứu đều đáp ứng
tốt với điều trị và được ra viện sau 6 - 14 ngày
[1 - 5].

Hình 3. Sơ đồ tiếp cận xử trí trường hợp nghi ngờ tràn khí trung thất tự phát [1]
6

TCNCYH 109 (4) - 2017



TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

IV. KẾT LUẬN
Tràn khí trung thất tự phát là bệnh lý hiếm
gặp, lành tính gặp chủ yếu ở nam giới trẻ tuổi.
Cơ chế sinh lý bệnh do sự chênh lệch áp lực
giữa phế nang và khoảng kẽ phổi, dẫn đến vỡ
phế nang, khí thoát ra lách vào tổ chức lỏng
lẻo bao quanh phế quản, mạch máu, bóc tách
đi vào trung thất và hướng lên trên. Tam chứng
lâm sàng bao gồm: đau ngực, khó thở và tràn
khí dưới da vùng cổ. Thăm dò chẩn đoán cho
tràn khí trung thất bằng phim X-quang ngực
thẳng và nghiêng, CT ngực rất có giá trị chẩn
đoán xác định đặc biệt những trường hợp tràn
khí ít. Mặc dù là bệnh hiếm gặp nhưng tràn
khí trung thất nên được đặt ra trong chẩn đoán
phân biệt ở những bệnh nhân có đau ngực,
khó thở cấp. Phân biệt tràn khí trung thất tự
phát với hội chứng Boerhaave cần được đặt
ra ở bệnh nhân có nguy cơ thủng thực quản,
chỉ định chụp X-quang hoặc CT dạ dày - thực
quản có cản quang, nội soi dạ dày rất có giá trị.
Phần lớn tràn khí trung thất tự phát đáp ứng tốt
với điều trị bảo tồn, không có trường hợp nào
tái phát [1].

Lời cảm ơn
Chúng tôi xin cam đoan nghiên cứu này

không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào
khác. Các số liệu và thông tin nghiên cứu là
hoàn toàn chính xác, trung thực và khách quan.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Phòng
Kế hoạch Tổng hợp, lãnh đạo Bệnh viện Phổi
Trung ương đã tạo điều kiện thuận lợi để
chúng tôi hoàn thành nghiên cứu này. Chúng
tôi xin cảm ơn các bác sĩ nội trú chuyên ngành
Lao khóa 39, 40 của Trường Đại học Y Hà Nội
đã giúp đỡ chúng tôi trong quá trình thực hiện
nghiên cứu này.

TCNCYH 109 (4) - 2017

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. S. Kelly, S. Hughes, S. Nixon et al
(2010). Spontaneous pneumomediastinum
(Hamman's syndrome). Surgeon. 8(2), 63 - 66.
2. I. Macia, J. Moya, R. Ramos et al (2007).
Spontaneous pneumomediastinum: 41 cases.
Eur J Cardiothorac Surg. 31(6), 1110 - 1114.
3. V. Perna, E. Vila, J. J. Guelbenzu et
al (2010). Pneumomediastinum: is this really
a benign entity? When it can be considered
as spontaneous? Our experience in 47 adult
patients. Eur J Cardiothorac Surg. 37(3), 573
- 575.
4. K. Takada, S. Matsumoto, T. Hiramatsu
et al (2008). Management of spontaneous
pneumomediastinum based on clinical

experience of 25 cases. Respir Med. 102(9),
1329 - 1334.
5. A. Campillo-Soto, A. Coll-Salinas,
V. Soria-Aledo et al (2005). Spontaneous
Pneumomediastinum: Descriptive Study of
Our Experience With 36 Cases. Archivos de
Bronconeumología. 41(9), 528 - 531.
6. Broaddus V.C, Mason R.J, Ernst J.D
et al (2016). Disorders Of The Mediastinum,
Murray & Nadel's Textbook of Respiratory
Medicine, Sixth Edition. Elsevier Saunders. 2,
1496 - 1510.
7. V K. Kouritas, K. Papagiannopoulos, G.
Lazaridis et al (2015). Pneumomediastinum.
Journal of Thoracic Disease. 7(1), S44 - S49.
8. T. Kaneki, K. Kubo, A. Kawashima et
al (2000). Spontaneous pneumomediastinum
in 33 patients: yield of chest computed
tomography for the diagnosis of the mild type.
Respiration. 67(4), 408 - 411.

7


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

Summary
CASE SERIES REPORT OF SPONTANEOUS
PNEUMOMEDIASTINUM DIAGNOSED AND TREATED IN
NATIONAL LUNG HOSPITAL

Spontaneous pneumomediastinum is the presence of free air in the mediastinum in the absence
of any obvious precipitating cause. A total of 7 patients with spontaneous pneumomediastinum
were diagnosed and treated in National Lung Hospital from May 2012 to October 2015. Male
(6/7 cases), young (mean age 22, range 15 - 41), the most common clinical manifestations
are chest pain and dyspnea (6/7 cases), subcutaneous emphysema (5/7 cases). Signs of
pneumomediastinum on conventional chest X-ray were found in 7/7 cases. Observed and
symptomatic treatment were indicated in 7/7 cases. The average length of hospital stay was 8.86
days (range 6 - 14 days). Spontaneous pneumomediastinum is a benign illness, predominantly
affects young males. In spite of an uncommon condition, spontaneous pneumomediastinum
should be included in the differential diagnosis of patients with subcutaneous emphysema.
Definitive diagnosis is made by detecting mediastinal air on chest X-ray or computed tomography.
Key words: Spontaneous pneumomediastinum, dyspnea, chest pain, subcutaneous
emphysema, young males

8

TCNCYH 109 (4) - 2017



×