Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Kết quả điều trị tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt bằng phương pháp tuna

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.16 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TĂNG SINH LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT
BẰNG PHƯƠNG PHÁP TUNA
Vũ Lê Chuyên*, Nguyễn Tuấn Vinh*, Vĩnh Tuấn*, Nguyễn Đạo Thuấn*, Đỗ Vũ Phương*

TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá độ an toàn và tính hiệu quả của phương pháp bốc hơi tuyến tiền liệt
bằng kim qua niệu đạo (TUNA) trên bệnh nhân bướu lành tuyến tiền liệt có triệu chứng rối loạn trung bình
và nặng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thực hiện bốc hơi tuyến tiền liệt bằng kim qua niệu đạo trên
41 bệnh nhân có bướu lành tuyến tiền liệt. Thực hiện cắm kim 2 thùy bên, với chiều dài tuyến tiền liệt từ
3,3 đến 5,6 cm. Vùng điều trị được giới hạn bên trên bởi mặt phẳng ngang dưới cổ bàng quang khoảng 1cm,
giới hạn bên dưới bởi mặt phẳng ngang trên ụ núi khoảng 1cm. Tất cả các bệnh nhân được điều trị TUNA
dưới 5 – 10mg diazepam, kèm theo 10ml gel lidocain 2% bơm vào niệu đạo. Thời gian điều trị trung bình
khoảng 56 phút (30 – 80 phút). Tất cả các bệnh nhân được ra viện trong ngày có mang theo ống thông Foley
niệu đạo.
Kết quả: Thể tích trung bình của tuyến tiền liệt là 59,4cm3 (từ 43 đến 82cm3). Sau điều trị 6 tháng, cải
thiện điểm số I-PSS trung bình khoảng 53%, từ 20,7 còn 9,8. Cải thiện điểm số QoL trung bình khoảng
79%, từ 4,7 đến 1,04. Cải thiện trị số Qmax trung bình khoảng 80%, từ 8,5 đến 15,2. Thời gian lưu thông
niệu đạo trung bình là 5,75 ngày.
Kết luận: Với thời gian theo dõi 6 tháng, chúng tôi có nhận định rằng TUNA là phương pháp can thiệp
có tính an toàn, hiệu quả trong thời gian ngắn, trong điều trị BL TTL gây triệu chứng. Đây là phương pháp
điều trị ít xâm hại, bệnh nhân xuất viện trong ngày.

ABSTRACT
THE RESULTS OF TRANSURETHRAL NEEDLE ABLATION OF THE PROSTATE
IN TREATING SYMPTOMATIC BENIGN PROSTATIC HYPERPLASIA
Vu Le Chuyen, Nguyen Tuan Vinh, Vinh Tuan, Nguyen Dao Thuan, Do Vu Phuong


* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 295- 300
Purpose: We determine the safety and efficacy of transurethral needle ablation of the prostate in
patients with moderate to severe symptoms of benign prostatic hyperplasia.
Materials and Methods: Transurethral needle ablation of the prostate was performed on 16
consecutive patients. For an average prostate of 3.3 to 5.6 cm. long treatments were performed in 2 separate
planes at 2 lobes. The 2 planes were 1 cm. below the bladder neck and 1 cm. proximal to the verumontanum.
The procedure was performed under local anesthesia using 10 cc 2% intraurethral lidocaine gel or
supplemented with intravenous 5 to 10 mg diazepam. Mean length of each procedure was 56 minutes (range
30 to 80). All procedures were done on an outpatient basis and patients were released on the same operative
day.
Results: Mean prostatic volume on abdominal ultrasound was estimated at 59.4 cc (range 43 to 82).
Following treatment the International Prostate Symptom Score decreased from a mean of 20.7 at baseline to
16.4 at 1 month, 10.6 at 3 months, 9.8 at 6 months. The peak flow rate improved from a baseline mean of 8.5
to 10.4 at 1 months, 12.8 at 3 months and 15.2 at 6 months. The quality of life score improved from a
* Bệnh viện Bình Dân

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

1


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

baseline of 4.7 to 3.2, 1.9, and 1.04 at 1, 3 and 6 months, respectively. Foley catheters were left in place in all
patients for an average of 4.75 days.
Conclusions: After a followup of up to 6 months, we conclude that transurethral needle ablation of the
prostate is an effective treatment for symptomatic benign prostatic hyperplasia. This procedure has minimal
morbidity, and can be performed as an outpatient office procedure under local anesthesia in a significant

number of patients.
Việt nam, những trường hợp ban đầu chúng tôi
ĐẶT VẤN ĐỀ
chưa khảo sát tiêu chuẩn chặt chẽ và không theo
Bướu lành tuyến tuyến tiền liệt (BL TTL) là
dõi được sau thủ thuật, nên chỉ 41 bệnh nhân
bệnh tăng sản lành tính thường gặp nhất ở nam
được lựa chọn trong nghiên cứu này.
giới. Về mô học, BL TTL chiếm tỉ lệ trên 50%
Tiêu chuẩn chọn bệnh
nam giới ở tuổi 60, nhưng ở tuổi 80 có đến 3/4 số
Các bệnh nhân có bướu tuyến tiền liệt với
bệnh nhân có biểu hiện triệu chứng rối loạn chức
(4,6)
các tiêu chuẩn sau:
năng đường tiểu dưới .Hiện nay, cắt đốt nội
soi tuyến tiền liệt vẫn là tiêu chuẩn vàng trong
Điểm số I-PSS > 12 và QoL > 3.
điều trị BL TTL. Mặc dù hiệu quả đạt được là rất
Kết quả phép đo niệu dòng với trị số Qmax <
lớn, nhưng CĐNS BL TTL có tỉ lệ biến chứng
12 ml/giây.
khoảng 3 -18%(6).Những biến chứng quan trọng
Trị số PSA huyết thanh < 4 ng/ml, hoặc có
như chảy máu, xuất tinh ngược dòng, tiểu
kết quả sinh thiết tuyến tiền liệt lành tính khi
không kiểm soát, hội chứng sau CĐNS và rối
PSA > 4 ng/ml.
loạn tình dục. Chính những biến chứng này, đòi
Đặc biệt bệnh nhân thích được thực hiện

hỏi cần có những phương pháp điều trị khác an
bằng phương pháp điều trị này.
toàn hơn. Trong rất nhiều phương pháp điều trị
Tiêu chuẩn loại trừ
BL TTL ít xâm hại, bốc hơi tuyến tiền liệt bằng
- Đang có tình trạng nhiễm trùng tiểu thể
kim qua niệu đạo (TUNA) sử dụng dòng điện
hiện qua kết quả của các xét nghiệm sinh hóa
gian mô tần số thấp, là phương pháp có nhiều
nước tiểu: có hồng cầu, bạch cầu trong nước tiểu,
ưu điểm, đặc biệt là bệnh nhân được điều trị
nitrite nước tiểu dương tính hoặc có kết quả cấy
ngoại trú. Điều trị bằng nhiệt gian mô trong
nước tiểu dương tính.
bệnh lý tim mạch đã có từ lâu, những năm gần
đây, TUNA đang được thực hiện trên nhiều
trung tâm niệu khoa trên thế giới. Tại bệnh viện
Bình Dân, TP. HCM, phương pháp điều trị này
đã được tiến hành từ năm 2005. Chúng tôi thực
hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá tính hiệu
quả và độ an toàn của phương pháp trên bệnh
nhân có BL TTL. Từ đó góp phần giúp các bác sĩ
niệu khoa cũng như bệnh nhân lựa chọn
phương pháp điều trị thích hợp cho từng hoàn
cảnh cụ thể, nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất.

-

Đã được xác định ung thư tuyến tiền liệt.


- Đã từng được phẫu thuật bóc bướu
tuyến tiền liệt hoặc CĐNS bướu tuyến tiền liệt
trước đây.
-

Có sỏi bàng quang kèm theo.

- Có hẹp niệu đạo được phát hiện trước
hoặc trong lúc thực hiện TUNA.
- Các bệnh nhân có bệnh lý bàng quang
thần kinh.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Phương pháp nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu hồi cứu mô tả gồm 41 bệnh
nhân được lựa chọn theo tiêu chuẩn trên.

Giữa năm 2005 đến tháng 10 năm 2007,
chúng tôi thực hiện TUNA được 86 bệnh nhân.
Tuy nhiên đây là phương pháp rất mới mẽ tại

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
2



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
Phương thức thực hiện
Đánh giá bệnh nhân trước và sau thủ thuật
Tất cả các bệnh nhân đều được đánh giá chi
tiết về tình trạng tổng quát cũng như tiết niệu
qua hỏi bệnh sử, thăm khám lâm sàng và các xét
nghiệm cận lâm sàng cần thiết:
-Khám phát hiện các rối loạn bàng quang
thần kinh, khám sinh dục.
-Hướng dẫn bệnh nhân trả lời bảng câu hỏi
I-PSS, và QoL.
-Tổng phân tích nước tiểu, đo trị số PSA hyết
thanh, đo kích thước 3 chiều tuyến tiền liệt qua
siêu âm ngã bụng, đo lượng nước tiểu tồn lưu và
trị số Qmax qua phép đo niệu dòng.
Bệnh nhân được theo dõi sau thủ thuật 1, 3
và 6 tháng, qua các thông số I-PSS, QoL và trị số
Qmax qua phép đo niệu dòng.
Vấn đề vô cảm trong thủ thuật
Tất cả các bệnh nhân đều được sử dụng các
thuốc an thần từ 5 – 10mg diazepam, kèm theo
gel lidocain 2% bơm vào niệu đạo 10ml trong
quá trình thủ thuật. Chưa có bệnh nhân nào cần
phải gây mê hoặc gây te tủy sống.
Dụng cụ và thủ thuật thực hiện TUNA: (hình
1A,B)

Nghiên cứu Y học

đầu hơi cong, gắn 2 kim cách khoảng 1mm, có

thể điều chỉnh thích hợp được. Khi đưa vào
niệu đạo, 2 kim được xếp lại ở đáy cách đầu
mũi khoảng 5 – 6 mm và có bao nilon bao bọc,
nhằm tránh nhiệt làm thương tổn niêm mạc
niệu đạo. Máy phát dòng điện tần số radio
thấp (khoảng 460kHz) đến đầu kim. Dòng
điện sẽ đốt nóng đầu kim cắm vào mô bướu
tuyến tiền liệt, làm mô bướu được đốt nóng
một vùng có nhiệt độ khoảng 100 – 1100C. Thời
gian điều trị kéo dài khi đầu dò đo nhiệt độ
niệu đạo khoảng 530C (đạt được sau 5 phút) và
duy trì thêm khoảng 2 phút.
Vùng mô niệu đạo tuyến tiền liệt được
thực hiện cắm kim vào được gọi là vùng điều
trị. Vùng này được giới hạn bên trên bởi mặt
phẳng ngang dưới cổ bàng quang khoảng 1cm,
giới hạn bên dưới bởi mặt phẳng ngang trên ụ
núi khoảng 1cm. Có nhiều tác giả thực hiện 4
vị trí cắm kim trong vùng điều trị chia đều cho
2 thùy. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ thực hiện cắm
kim tại 2 vị trí giữa vùng điều trị của mỗi thùy
bên tuyến tiền liệt.
Chiều dài của kim cắm được xác định bằng
bán kính chiều ngang tuyến tiền liệt trừ cho
6mm, (khoảng cách an toàn cho vùng lân cận
tuyến tiền liệt khi thực hiện đốt nhiệt). Năng
lượng khởi đầu đốt nóng khoảng 3W, rồi tăng
lên từ từ khoảng 4 – 5 phút, nhiệt độ niệu đạo
đạt khoảng 530C. trong quá trình điều trị, đèn
máy soi bàng quang nên đựoc tắt và nên bơm

nước lạnh liên tục, nhằm tránh nhiệt độ niệu đạo
tăng lên quá mức sẽ làm thương tổn niệu đạo.
Sau khi đạt được một thùy, sẽ thực hiện tương
tự ở thùy bên đối diện(1,4,6).

KẾT QUẢ

Hình 1. A- Cây cần lỏi của dụng cụ TUNA. B- 2 kim
cắm có thể điều chỉnh được ở đầu dụng cụ.
Dụng cụ trong thủ thuật TUNA bao gồm:
một vỏ máy soi cứng chuyên biệt 22F được gắn
với máy phát tần số radio. Một cây cần lỏi có

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

Từ giữa năm 2005 đến tháng 10 năm 2007,
chúng tôi thực hiện TUNA được 86 bệnh nhân.
Tuy nhiên, chỉ 41 bệnh nhân được theo dõi sau
thủ thuật và được chọn lựa đưa vào nghiên cứu
này. Tuy nhiên, sau 6 tháng chỉ có 16 bệnh nhân
tái khám. Các thông số cần theo dõi ghi nhận
trước và sau điều trị được liệt kê trong bảng 1.

3


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
Bảng 1: Các thông số theo dõi bệnh nhân trước và
sau thủ thuật TUNA
Thời gian theo Trung bình Trung bình Trung

dõi
I-PSS
bình QoL
Qmax (ml/giây)
Trước thủ thuật
8,5
20,7
4,7
(41bn)
Sau 1 tháng
10,4
16,4
3,2
Sau 3 tháng
12,8
10,6
1,9
Sau 6 tháng
15,2
9,8
1,04
(16bn)

Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân là 72,5
(từ 55 đến 92 tuổi). Thể tích trung bình của tuyến
tiền liệt là 59,4cm3 (từ 43 đến 82cm3), chiều dài
trung bình của niệu đạo tuyến tiền liệt là 4,54cm
(từ 3,3 đến 5,6cm). Sau điều trị 6 tháng, cải thiện
điểm số I-PSS trung bình khoảng 53%, từ 20,9
còn 9,8. Cải thiện điểm số QoL trung bình

khoảng 79%, từ 4,8 đến 1,04. Cải thiện trị số
Qmax trung bình khoảng 80%, từ 8,3 đến 15,2.
Tất cả các bệnh nhân được ra viện về nhà trong
ngày có mang theo ống thông Foley niệu đạo.
Bệnh nhân được rút thông niệu đạo, uống thuốc
kháng sinh và giảm đau kéo dài sau điều trị
khoảng 3 – 7 ngày.
Thời gian điều trị trung bình khoảng 56 phút
(30 – 80 phút). Tất cả các bệnh nhân đều chỉ được
sử dụng các thuốc an thần 5 – 10mg diazepam
tiêm mạch, kèm theo gel lidocain 2% bơm vào niệu
đạo 10ml trong quá trình thủ thuật, 23 bệnh nhân
có sử dụng thêm giảm đau bậc 3 pethidine 25 –
50mg bằng đường tĩnh mạch. Không có bệnh nhân
nào phải gây mê hoặc gây tê tủy sống.
Sau thủ thuật, hầu hết bệnh nhân đều bị tiểu
máu nhẹ, tự hết sau vài ngày hoặc 2 tuần. Không
có bệnh nhân nào phải truyền máu hoặc có triệu
chứng rối loạn của tình trạng hấp thu dịch thủ
thuật. Trung bình khoảng 2 lần thoát lưu nước
bơm vào bàng quang trong quá trình thực hiện
thủ thuật. Chúng tôi chưa thực hiện tắt đèn máy
nội soi bàng quang trong lúc điều trị.

Các biến chứng
36 bệnh nhân có cảm giác bỏng rát nhẹ trong
niệu đạo khi thực hiện thủ thuật, tuy nhiên được
giải quyết bằng thuốc giảm đau bậc 3 đường

Chuyên

Đề HN KH KT BV Bình Dân
4

Nghiên cứu Y học

tĩnh mạch. 26 bệnh nhân có cảm giác căng tức
bàng quang, cần thoát lưu nước qua niệu đạo. 17
bệnh nhân tiểu máu đại thể mức độ nhẹ, tự hết
không cần nằm lại viện. Không có bệnh nhân
nào có triệu chứng sốt nhiễm trùng sau thủ
thuật.
Một bệnh nhân 83 tuổi không bế tắc dòng
tiểu dưới, nhưng có tình trạng tăng hoạt tính co
bóp cơ bàng quang quá mức qua phép đo áp lực
– niệu dòng, sau thủ thuật 1 tháng. Bệnh nhân
này được điều trị bằng thuốc kháng đối giao
cảm, và có cải thiện một phần triệu chứng tiểu
gấp, tiểu lắt nhắt.

BÀN LUẬN
Bốc hơi TTL bằng kim qua niệu đạo (TUNA)
là phương pháp can thiệp có tính an toàn, hiệu
quả trong thời gian ngắn, trong điều trị BL TTL
gây triệu chứng. Tất cả 41 bệnh nhân trong
nghiên cứu của chúng tôi đều chỉ thực hiện dưới
thuốc tiền mê an thân và gây tê bằng gel qua
niệu đạo mà không gây khó chịu nhiều cho bệnh
nhân. Rõ ràng đây là phương pháp rất đơn giản.
Những thông tin trên cũng giúp chúng tôi có
nhận định rằng kỹ thuật TUNA có thể thực hiện

trên bệnh nhân có BL TTL lớn, kích thước bướu
có thể không phải là tiêu chuẩn loại trừ cho chỉ
định điều trị bằng phương pháp này(6).
Cơ chế tạo nên hiệu quả của TUNA trên mô
BL TTL, cho đến nay vẫn đang được khám phá
tích cực. Người ta tin rằng, dòng điện đi qua 2
kim cắm vào mô tuyến tiền liệt tạo ra ma sát
phân tử ở mức tế bào, kế quả tạo ra nhiệt đốt
nóng chỉ có ở mô, không đốt nóng đầu dò điện
cực(7). Nhiệt độ cao nhất được tìm thấy tại vùng
mô quanh kim cắm, làm đông, khô cháy và hoại
tử mô(2). Những thương tổn do điều trị tạo thành
dần dần trong nhiều tháng, kết quả tạo nên
những vùng khoang rỗng trong mô tuyến tiền
liệt. Bằng siêu âm qua ngã trực tràng, Scott A.
Kahn và cs nhận thấy những khoang rỗng trong
mô tuyến tiền liệt sau điều trị TUNA 3 tháng.
Trong khi đó, Schulman và cs(5) thực hiện TUNA
của tuyến tiền liệt ngay trên những bệnh nhân
đang phẫu thuật cắt tận gốc tuyến tiền liệt thì


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
chứng minh rằng, thương tổn tức thì của mô BL
TTL chiếm một vùng 12 x 7mm trên đại thể, còn
trên vi thể thì vùng thương tổn này là 30 x
15mm. Đồng thời cũng nhận thấy, niệu đạo và
vỏ bọc tuyến tiền liệt vẫn không bị ảnh hưởng.
Vỏ tuyến tiền liệt được bảo tồn là do nhiệt độ
gian mô giảm nhanh chóng khi càng xa điện cực

đầu kim, đã tạo nên bờ giới hạn rõ ràng giữa mô
hoại tử và mô tuyến tiền liệt bình thường(2). Kích
thước của vùng mô hoại tử phụ thuộc vào mức
năng lượng sử dụng, chiều dài của kim cắm và
thời gian duy trì dòng điện. Tất cả các yếu tố này
đều có thể được bác sĩ điều chỉnh(4,6).
Sau thời gian theo dõi, Scott A. Kahn và cs(6)
nhận thấy, cổ bàng quang vẫn còn nguyên vẹn
hoàn toàn. Chính vì vậy tránh được tình trạng
xuất tinh ngược dòng. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, do tình trạng sức khỏe chung của
bệnh nhân, chức năng tình dục ở những bệnh
nhân này hầu như không còn, nên vấn đề có hay
không tình trạng xuất tinh ngược dòng vẫn chưa
được ghi nhận.
Về tính hiệu quả của TUNA thì như thế nào?
Đã có nhiều nghiên cứu báo cáo kết quả điều trị
TUNA: Campo và cs – 1997(1) báo cáo nghiên cứu
gồm 108 bệnh nhân, theo dõi tạ thời điểm 12 và
18 tháng gồm 45 bệnh nhân với điểm số I-PSS
giảm từ 20,8 xuống tương ứng còn 6,2 ± 2,9 và
6,7 ± 3,8. Trị số Qmax tăng từ 8,2 ± 3,4 đến 15,9 ±
2,1ml/giây và 14,1 ± 2,5ml/giây. Theo dõi của
Issa(11) sau 6 tháng trên 11 bệnh nhân cho thấy
điểm số I-PSS giảm 62%, QoL giảm 70% và trị số
Qmax tăng 73%. Trong nghiên cứu 41 bệnh nhân
của chúng tôi, theo dõi sau 6 tháng, cải thiện
điểm số I-PSS trung bình khoảng 53%, từ 20,7
còn 9,8. Cải thiện điểm số QoL trung bình
khoảng 79%, từ 4,7 đến 1,04. Cải thiện trị số

Qmax trung bình khoảng 80%, từ 8,5 đến 15,2.
Như vậy, kết quả cải thiện các nghiên cứu về
TUNA đều có ý nghĩa. Kết quả của chúng tôi có
cao hơn một số nghiên cứu khác, có lẽ do tỉ lệ tái
khám của bệnh nhân chúng tôi ít hơn nhiều. Chỉ
những bệnh nhân có quan tâm đến tình trạng

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

Nghiên cứu Y học

sức khỏe của mình tái khám đầy đủ, làm cho
tính hiệu quả của điều trị tăng lên.
Chúng tôi và nhiều tác giả khác vẫn áp dụng
chỉ 2 vị trí cắm kim điều trị trong TUNA, nên
thời gian điều trị, cảm giác bỏng rát khó chịu ở
niệu đạo, cũng như khả năng phải can thiệp gây
mê hoặc gây tê tủy sống giảm hơn hẳn so với kết
quả của tác giả Scott A. Kahn và cs(6). Họ đã sử
dụng 4 vị trí điều trị (4 vị trí cắm kim chia đều
cho 2 thùy). Tuy nhiên, tác giả này đã nêu lên
một nhận xét rất có giá trị, đó là vấn đề kích
thước tuyến tiền liệt không phải là yếu tố loại trừ
trong thủ thuật TUNA, khi họ đã thực hiện trên
những tuyến tiền liệt có kích thước lớn cho kết
quả tương tự.
Vì tính an toàn của TUNA, hầu hết các tác
giả đều khuyến cáo không cần thiết phải ngần
ngại khi cho bệnh nhân điều trị ngoại trú tiếp
sau thủ thuật(1,2,3,4,5,7). Cũng như vậy, 16 bệnh

nhân của chúng tôi đều được ra viện trong ngày
mà không có biến chứng đáng kể nào xảy ra.
Scott A. Kahn và cs(6) cũng cho rằng những
bệnh nhân già có sự dung nạp TUNA dưới gel
lidocain 2% bơm niệu đạo kết hợp với thuốc an
thần hơn là những bệnh nhân trẻ. Chính vì vậy,
dù bệnh nhân già yếu nhưng chỉ cần không có
biến dạng xương gây trở ngại đặt máy soi niệu
đạo là có thể thực hiện tốt thủ thuật TUNA.
Trong nhiều phương pháp điều trị ít xâm hại
BL TTL có hiệu quả như laser, đốt nhiệt bằng vi
sóng… thì TUNA có ưu điểm là bảo tồn được
niêm mạc niệu đạo không bị thương tổn và chi
phí cho đầu tư cơ bản ít hơn nhiều(1,6). Chưa kể
đến ở các trung tâm niệu khoa của các nước tiên
tiến, chi phí điều trị TUNA còn thấp hơn nhiều
so với cắt đốt nội soi BL TTL. Tuy nhiên, ở Việt
Nam do điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn,
TUNA vẫn còn là phương pháp điều trị khá mới
lạ, chỉ rất ít trung tâm niệu khoa tiến hành được,
và chi phí điều trị còn cao hơn nhiều lần so với
cắt đốt nội soi BL TTL.
Một bệnh nhân của chúng tôi có tình trạng
tăng hoạt tính co bóp cơ bàng quang quá mức, mà
không có tình trạng bế tắc dòng tiểu dưới. Sau điều

5


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

trị, các triệu chứng rối loạn vẫn còn trội bật, phải
điều trị bằng thuốc kháng đối giao cảm. Như vậy,
chúng tôi cũng có nhận định, đối với những bệnh
nhân có triệu chứng rối loạn chủ yếu trong giai
đoạn đổ đầy chứa đựng, thì nên khảo sát tình
trạng bế tắc đường tiểu dưới bằng phép đo áp lựcniệu dòng trước khi thực hiện điều trị bằng TUNA
cũng như cắt đốt nội soi BL TTL.

KẾT LUẬN
Với số lượng bệnh nhân còn ít, thời gian theo
dõi chưa đủ dài, nhưng bước đầu chúng tôi
cũng có thể đưa ra những nhận định từ nghiên
cứu này: TUNA là phương pháp điều trị BL TTL
gây bế tắc đường tiểu dưới cho kết quả an toàn
và hiệu quả ít nhất là trong thời gian ngắn, khi
được chỉ định chặt chẽ và chính xác. Đây là thủ
thuật tối thiểu, chỉ dưới sự gây tê tại chổ, làm
giảm chi phí điều trị so với những phương pháp
điều trị ít xâm hại khác. Đặc biệt là phương pháp
điều trị, được lựa chọn thích hợp cho những
trường hợp mà tổng trạng bệnh nhân không cho
phép thực hiện CĐNS BL TTL. Tuy nhiên hiệu
quả về lâu về dài, cần phải có thêm nhiều nghiên
cứu và thời gian theo dõi dài hơn nữa, mới đưa
ra những nhận định chính xác và khách quan
hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.


2.

3.

4.
5.

6.

Camp, B., Bergamaschi, F., Corrada, P. and Ordesi, G.:
“Transurethral needle ablation (TUNA) of the prostate: a
clinical and Urodynamic evaluation”. Urology, 49 -847, 1997.
Goldwasser, B., Ramon, J., Engelberg, S., Ohad, D.,
Sharkey, H., Strughl, B., Rasor, J. S. and Edwards, S. D.:
“transurethral needle ablation (TUNA) of the prostate
using low-level radio frequency energy: an animal
experimental study”. Eur.Urol.,
Issa, M.: “Transurethral needle ablation of the prostate:
report of initial United States clinical trial”. J. Urol., 156
413, 1996.
Nicolas A Muruve, “Transurethral Needle Ablation of the
Prostate (TUNA)”, eMedicine, WebMD. June 23, 2005.
Schulman, C. C., Zlotta, A. R., Rasor, J. S., Hourriez, L.,
Noel, J. C. and Edwards, S. D.: “Transurethral needle
ablation (TUNA): safety, feasibility, and tolerance of a new
office procedure for treatment of benign prostatic
hyperplasia”. Eur. Urol., 24 415, 1993.
Scott A. Kahn, Paul Alphonse, Ashutosh Tewari And
Perinchery Narayan: “An Open Study On The Efficacy
And Safety Of Transurethral Needle Ablation Of The

Prostate In Treating Symptomatic Benign Prostatic

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
6

7.

Nghiên cứu Y học

Hyperplasia: The University Of Florida Experience”. The
Journal Of Urology.Vol. 160, 1695-1700, November 1998.
“Vida Med Transurethral Needle Ablation System,
Clinical Applications Workshop Manual: The principles of
radio fiequency lesion making”. Vida Med, February 1996.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

Nghiên cứu Y học

7



×