ĐIỀU TRỊ TĂNG SINH LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT
BẰNG PHƯƠNG PHÁP TUNA
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá độ an toàn và tính hiệu quả của phương
pháp bốc hơi tuyến tiền liệt bằng kim qua niệu đạo (TUNA) trên bệnh nhân
bướu lành tuyến tiền liệt có triệu chứng rối loạn trung bình và nặng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thực hiện bốc hơi tuyến tiền liệt
bằng kim qua niệu đạo trên 41 bệnh nhân có bướu lành tuyến tiền liệt. Thực
hiện cắm kim 2 thùy bên, với chiều dài tuyến tiền liệt từ 3,3 đến 5,6 cm.
Vùng điều trị được giới hạn bên trên bởi mặt phẳng ngang dưới cổ bàng
quang khoảng 1cm, giới hạn bên dưới bởi mặt phẳng ngang trên ụ núi
khoảng 1cm. Tất cả các bệnh nhân được điều trị TUNA dưới 5 – 10mg
diazepam, kèm theo 10ml gel lidocain 2% bơm vào niệu đạo. Thời gian điều
trị trung bình khoảng 56 phút (30 – 80 phút). Tất cả các bệnh nhân được ra
viện trong ngày có mang theo ống thông Foley niệu đạo.
Kết quả: Thể tích trung bình của tuyến tiền liệt là 59,4cm
3
(từ 43 đến
82cm
3
). Sau điều trị 6 tháng, cải thiện điểm số I-PSS trung bình khoảng
53%, từ 20,7 còn 9,8. Cải thiện điểm số QoL trung bình khoảng 79%, từ 4,7
đến 1,04. Cải thiện trị số Qmax trung bình khoảng 80%, từ 8,5 đến 15,2.
Thời gian lưu thông niệu đạo trung bình là 5,75 ngày.
Kết luận: Với thời gian theo dõi 6 tháng, chúng tôi có nhận định rằng
TUNA là phương pháp can thiệp có tính an toàn, hiệu quả trong thời gian
ngắn, trong điều trị BL TTL gây triệu chứng. Đây là phương pháp điều trị ít
xâm hại, bệnh nhân xuất viện trong ngày.
ABSTRACT
Purpose: We determine the safety and efficacy of transurethral needle
ablation of the prostate in patients with moderate to severe symptoms of
benign prostatic hyperplasia.
Materials and Methods: Transurethral needle ablation of the prostate was
performed on 16 consecutive patients. For an average prostate of 3.3 to 5.6
cm. long treatments were performed in 2 separate planes at 2 lobes. The 2
planes were 1 cm. below the bladder neck and 1 cm. proximal to the
verumontanum. The procedure was performed under local anesthesia using
10 cc 2% intraurethral lidocaine gel or supplemented with intravenous 5 to
10 mg diazepam. Mean length of each procedure was 56 minutes (range 30
to 80). All procedures were done on an outpatient basis and patients were
released on the same operative day.
Results: Mean prostatic volume on abdominal ultrasound was estimated at
59.4 cc (range 43 to 82). Following treatment the International Prostate
Symptom Score decreased from a mean of 20.7 at baseline to 16.4 at 1
month, 10.6 at 3 months, 9.8 at 6 months. The peak flow rate improved from
a baseline mean of 8.5 to 10.4 at 1 months, 12.8 at 3 months and 15.2 at 6
months. The quality of life score improved from a baseline of 4.7 to 3.2, 1.9,
and 1.04 at 1, 3 and 6 months, respectively. Foley catheters were left in
place in all patients for an average of 4.75 days.
Conclusions: After a followup of up to 6 months, we conclude that
transurethral needle ablation of the prostate is an effective treatment for
symptomatic benign prostatic hyperplasia. This procedure has minimal
morbidity, and can be performed as an outpatient office procedure under
local anesthesia in a significant number of patients.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bướu lành tuyến tuyến tiền liệt (BL TTL) là bệnh tăng sản lành tính thường
gặp nhất ở nam giới. Về mô học, BL TTL chiếm tỉ lệ trên 50% nam giới ở
tuổi 60, nhưng ở tuổi 80 có đến 3/4 số bệnh nhân có biểu hiện triệu chứng
rối loạn chức năng đường tiểu dưới
(4,6)
.Hiện nay, cắt đốt nội soi tuyến tiền
liệt vẫn là tiêu chuẩn vàng trong điều trị BL TTL. Mặc dù hiệu quả đạt được
là rất lớn, nhưng CĐNS BL TTL có tỉ lệ biến chứng khoảng 3 -
18%
(6)
.Những biến chứng quan trọng như chảy máu, xuất tinh ngược dòng,
tiểu không kiểm soát, hội chứng sau CĐNS và rối loạn tình dục. Chính
những biến chứng này, đòi hỏi cần có những phương pháp điều trị khác an
toàn hơn. Trong rất nhiều phương pháp điều trị BL TTL ít xâm hại, bốc hơi
tuyến tiền liệt bằng kim qua niệu đạo (TUNA) sử dụng dòng điện gian mô
tần số thấp, là phương pháp có nhiều ưu điểm, đặc biệt là bệnh nhân được
điều trị ngoại trú. Điều trị bằng nhiệt gian mô trong bệnh lý tim mạch đã có
từ lâu, những năm gần đây, TUNA đang được thực hiện trên nhiều trung tâm
niệu khoa trên thế giới. Tại bệnh viện Bình Dân, TP. HCM, phương pháp
điều trị này đã được tiến hành từ năm 2005. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu
này nhằm đánh giá tính hiệu quả và độ an toàn của phương pháp trên bệnh
nhân có BL TTL. Từ đó góp phần giúp các bác sĩ niệu khoa cũng như bệnh
nhân lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp cho từng hoàn cảnh cụ thể,
nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Giữa năm 2005 đến tháng 10 năm 2007, chúng tôi thực hiện TUNA được 86
bệnh nhân. Tuy nhiên đây là phương pháp rất mới mẽ tại Việt nam, những
trường hợp ban đầu chúng tôi chưa khảo sát tiêu chuẩn chặt chẽ và không
theo dõi được sau thủ thuật, nên chỉ 41 bệnh nhân được lựa chọn trong
nghiên cứu này.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Các bệnh nhân có bướu tuyến tiền liệt với các tiêu chuẩn sau:
Điểm số I-PSS > 12 và QoL > 3.
Kết quả phép đo niệu dòng với trị số Qmax < 12 ml/giây.
Trị số PSA huyết thanh < 4 ng/ml, hoặc có kết quả sinh thiết tuyến tiền liệt
lành tính khi PSA > 4 ng/ml.
Đặc biệt bệnh nhân thích được thực hiện bằng phương pháp điều trị này.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Đang có tình trạng nhiễm trùng tiểu thể hiện qua kết quả của các xét
nghiệm sinh hóa nước tiểu: có hồng cầu, bạch cầu trong nước tiểu, nitrite
nước tiểu dương tính hoặc có kết quả cấy nước tiểu dương tính.
- Đã được xác định ung thư tuyến tiền liệt.
- Đã từng được phẫu thuật bóc bướu tuyến tiền liệt hoặc CĐNS bướu
tuyến tiền liệt trước đây.
- Có sỏi bàng quang kèm theo.
- Có hẹp niệu đạo được phát hiện trước hoặc trong lúc thực hiện
TUNA.
- Các bệnh nhân có bệnh lý bàng quang thần kinh.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu mô tả gồm 41 bệnh nhân được lựa chọn theo tiêu chuẩn
trên.
Phương thức thực hiện
Đánh giá bệnh nhân trước và sau thủ thuật
Tất cả các bệnh nhân đều được đánh giá chi tiết về tình trạng tổng quát cũng
như tiết niệu qua hỏi bệnh sử, thăm khám lâm sàng và các xét nghiệm cận
lâm sàng cần thiết:
-Khám phát hiện các rối loạn bàng quang thần kinh, khám sinh dục.
-Hướng dẫn bệnh nhân trả lời bảng câu hỏi I-PSS, và QoL.
-Tổng phân tích nước tiểu, đo trị số PSA hyết thanh, đo kích thước 3 chiều
tuyến tiền liệt qua siêu âm ngã bụng, đo lượng nước tiểu tồn lưu và trị số
Qmax qua phép đo niệu dòng.
Bệnh nhân được theo dõi sau thủ thuật 1, 3 và 6 tháng, qua các thông số I-
PSS, QoL và trị số Qmax qua phép đo niệu dòng.
Vấn đề vô cảm trong thủ thuật
Tất cả các bệnh nhân đều được sử dụng các thuốc an thần từ 5 – 10mg
diazepam, kèm theo gel lidocain 2% bơm vào niệu đạo 10ml trong quá trình
thủ thuật. Chưa có bệnh nhân nào cần phải gây mê hoặc gây te tủy sống.
Dụng cụ và thủ thuật thực hiện TUNA: (hình 1A,B)
Hình 1. A- Cây cần lỏi của dụng cụ TUNA. B- 2 kim cắm có thể điều chỉnh
được ở đầu dụng cụ.
Dụng cụ trong thủ thuật TUNA bao gồm: một vỏ máy soi cứng chuyên biệt
22F được gắn với máy phát tần số radio. Một cây cần lỏi có đầu hơi cong,
gắn 2 kim cách khoảng 1mm, có thể điều chỉnh thích hợp được. Khi đưa vào
niệu đạo, 2 kim được xếp lại ở đáy cách đầu mũi khoảng 5 – 6 mm và có bao
nilon bao bọc, nhằm tránh nhiệt làm thương tổn niêm mạc niệu đạo. Máy
phát dòng điện tần số radio thấp (khoảng 460kHz) đến đầu kim. Dòng điện
sẽ đốt nóng đầu kim cắm vào mô bướu tuyến tiền liệt, làm mô bướu được
đốt nóng một vùng có nhiệt độ khoảng 100 – 110
0
C. Thời gian điều trị kéo
dài khi đầu dò đo nhiệt độ niệu đạo khoảng 53
0
C (đạt được sau 5 phút) và
duy trì thêm khoảng 2 phút.
Vùng mô niệu đạo tuyến tiền liệt được thực hiện cắm kim vào được gọi là
vùng điều trị. Vùng này được giới hạn bên trên bởi mặt phẳng ngang dưới cổ
bàng quang khoảng 1cm, giới hạn bên dưới bởi mặt phẳng ngang trên ụ núi
khoảng 1cm. Có nhiều tác giả thực hiện 4 vị trí cắm kim trong vùng điều trị
chia đều cho 2 thùy. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ thực hiện cắm kim tại 2 vị trí
giữa vùng điều trị của mỗi thùy bên tuyến tiền liệt.
Chiều dài của kim cắm được xác định bằng bán kính chiều ngang tuyến tiền
liệt trừ cho 6mm, (khoảng cách an toàn cho vùng lân cận tuyến tiền liệt khi
thực hiện đốt nhiệt). Năng lượng khởi đầu đốt nóng khoảng 3W, rồi tăng lên
từ từ khoảng 4 – 5 phút, nhiệt độ niệu đạo đạt khoảng 53
0
C. trong quá trình
điều trị, đèn máy soi bàng quang nên đựoc tắt và nên bơm nước lạnh liên
tục, nhằm tránh nhiệt độ niệu đạo tăng lên quá mức sẽ làm thương tổn niệu
đạo. Sau khi đạt được một thùy, sẽ thực hiện tương tự ở thùy bên đối
diện
(1,4,6)
.
KẾT QUẢ
Từ giữa năm 2005 đến tháng 10 năm 2007, chúng tôi thực hiện TUNA được
86 bệnh nhân. Tuy nhiên, chỉ 41 bệnh nhân được theo dõi sau thủ thuật và
được chọn lựa đưa vào nghiên cứu này. Tuy nhiên, sau 6 tháng chỉ có 16
bệnh nhân tái khám. Các thông số cần theo dõi ghi nhận trước và sau điều trị
được liệt kê trong bảng 1.
Bảng 1: Các thông số theo dõi bệnh nhân trước và sau thủ thuật TUNA
Th
ời gian
theo dõi
Trung
bình
Qmax
(ml/giây)
Trung
bình I-
PSS
Trung
bình
QoL
Trư
ớc thủ
8,5 20,7 4,7
thuật
(41bn)
Sau 1 tháng
10,4 16,4 3,2
Sau 3 tháng
12,8 10,6 1,9
Sau 6 tháng
(16bn)
15,2 9,8 1,04
Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân là 72,5 (từ 55 đến 92 tuổi). Thể tích
trung bình của tuyến tiền liệt là 59,4cm
3
(từ 43 đến 82cm
3
), chiều dài trung
bình của niệu đạo tuyến tiền liệt là 4,54cm (từ 3,3 đến 5,6cm). Sau điều trị 6
tháng, cải thiện điểm số I-PSS trung bình khoảng 53%, từ 20,9 còn 9,8. Cải
thiện điểm số QoL trung bình khoảng 79%, từ 4,8 đến 1,04. Cải thiện trị số
Qmax trung bình khoảng 80%, từ 8,3 đến 15,2. Tất cả các bệnh nhân được ra
viện về nhà trong ngày có mang theo ống thông Foley niệu đạo. Bệnh nhân
được rút thông niệu đạo, uống thuốc kháng sinh và giảm đau kéo dài sau
điều trị khoảng 3 – 7 ngày.
Thời gian điều trị trung bình khoảng 56 phút (30 – 80 phút). Tất cả các bệnh nhân
đều chỉ được sử dụng các thuốc an thần 5 – 10mg diazepam tiêm mạch, kèm theo
gel lidocain 2% bơm vào niệu đạo 10ml trong quá trình thủ thuật, 23 bệnh nhân có
sử dụng thêm giảm đau bậc 3 pethidine 25 – 50mg bằng đường tĩnh mạch. Không
có bệnh nhân nào phải gây mê hoặc gây tê tủy sống.
Sau thủ thuật, hầu hết bệnh nhân đều bị tiểu máu nhẹ, tự hết sau vài ngày
hoặc 2 tuần. Không có bệnh nhân nào phải truyền máu hoặc có triệu chứng
rối loạn của tình trạng hấp thu dịch thủ thuật. Trung bình khoảng 2 lần thoát
lưu nước bơm vào bàng quang trong quá trình thực hiện thủ thuật. Chúng tôi
chưa thực hiện tắt đèn máy nội soi bàng quang trong lúc điều trị.
Các biến chứng
36 bệnh nhân có cảm giác bỏng rát nhẹ trong niệu đạo khi thực hiện thủ
thuật, tuy nhiên được giải quyết bằng thuốc giảm đau bậc 3 đường tĩnh
mạch. 26 bệnh nhân có cảm giác căng tức bàng quang, cần thoát lưu nước
qua niệu đạo. 17 bệnh nhân tiểu máu đại thể mức độ nhẹ, tự hết không cần
nằm lại viện. Không có bệnh nhân nào có triệu chứng sốt nhiễm trùng sau
thủ thuật.
Một bệnh nhân 83 tuổi không bế tắc dòng tiểu dưới, nhưng có tình trạng
tăng hoạt tính co bóp cơ bàng quang quá mức qua phép đo áp lực – niệu
dòng, sau thủ thuật 1 tháng. Bệnh nhân này được điều trị bằng thuốc kháng
đối giao cảm, và có cải thiện một phần triệu chứng tiểu gấp, tiểu lắt nhắt.
BÀN LUẬN
Bốc hơi TTL bằng kim qua niệu đạo (TUNA) là phương pháp can thiệp có
tính an toàn, hiệu quả trong thời gian ngắn, trong điều trị BL TTL gây triệu
chứng. Tất cả 41 bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi đều chỉ thực
hiện dưới thuốc tiền mê an thân và gây tê bằng gel qua niệu đạo mà không
gây khó chịu nhiều cho bệnh nhân. Rõ ràng đây là phương pháp rất đơn
giản. Những thông tin trên cũng giúp chúng tôi có nhận định rằng kỹ thuật
TUNA có thể thực hiện trên bệnh nhân có BL TTL lớn, kích thước bướu có
thể không phải là tiêu chuẩn loại trừ cho chỉ định điều trị bằng phương pháp
này
(6)
.
Cơ chế tạo nên hiệu quả của TUNA trên mô BL TTL, cho đến nay vẫn đang
được khám phá tích cực. Người ta tin rằng, dòng điện đi qua 2 kim cắm vào
mô tuyến tiền liệt tạo ra ma sát phân tử ở mức tế bào, kế quả tạo ra nhiệt đốt
nóng chỉ có ở mô, không đốt nóng đầu dò điện cực
(7)
. Nhiệt độ cao nhất
được tìm thấy tại vùng mô quanh kim cắm, làm đông, khô cháy và hoại tử
mô
(2)
. Những thương tổn do điều trị tạo thành dần dần trong nhiều tháng, kết
quả tạo nên những vùng khoang rỗng trong mô tuyến tiền liệt. Bằng siêu âm
qua ngã trực tràng, Scott A. Kahn và cs nhận thấy những khoang rỗng trong
mô tuyến tiền liệt sau điều trị TUNA 3 tháng. Trong khi đó, Schulman và
cs
(5)
thực hiện TUNA của tuyến tiền liệt ngay trên những bệnh nhân đang
phẫu thuật cắt tận gốc tuyến tiền liệt thì chứng minh rằng, thương tổn tức thì
của mô BL TTL chiếm một vùng 12 x 7mm trên đại thể, còn trên vi thể thì
vùng thương tổn này là 30 x 15mm. Đồng thời cũng nhận thấy, niệu đạo và
vỏ bọc tuyến tiền liệt vẫn không bị ảnh hưởng. Vỏ tuyến tiền liệt được bảo
tồn là do nhiệt độ gian mô giảm nhanh chóng khi càng xa điện cực đầu kim,
đã tạo nên bờ giới hạn rõ ràng giữa mô hoại tử và mô tuyến tiền liệt bình
thường
(2)
. Kích thước của vùng mô hoại tử phụ thuộc vào mức năng lượng
sử dụng, chiều dài của kim cắm và thời gian duy trì dòng điện. Tất cả các
yếu tố này đều có thể được bác sĩ điều chỉnh
(4,6)
.
Sau thời gian theo dõi, Scott A. Kahn và cs
(6)
nhận thấy, cổ bàng quang vẫn
còn nguyên vẹn hoàn toàn. Chính vì vậy tránh được tình trạng xuất tinh
ngược dòng. Trong nghiên cứu của chúng tôi, do tình trạng sức khỏe chung
của bệnh nhân, chức năng tình dục ở những bệnh nhân này hầu như không
còn, nên vấn đề có hay không tình trạng xuất tinh ngược dòng vẫn chưa
được ghi nhận.
Về tính hiệu quả của TUNA thì như thế nào? Đã có nhiều nghiên cứu báo
cáo kết quả điều trị TUNA: Campo và cs – 1997
(1)
báo cáo nghiên cứu gồm
108 bệnh nhân, theo dõi tạ thời điểm 12 và 18 tháng gồm 45 bệnh nhân với
điểm số I-PSS giảm từ 20,8 xuống tương ứng còn 6,2 ± 2,9 và 6,7 ± 3,8. Trị
số Qmax tăng từ 8,2 ± 3,4 đến 15,9 ± 2,1ml/giây và 14,1 ± 2,5ml/giây. Theo
dõi của Issa
(11)
sau 6 tháng trên 11 bệnh nhân cho thấy điểm số I-PSS giảm
62%, QoL giảm 70% và trị số Qmax tăng 73%. Trong nghiên cứu 41 bệnh
nhân của chúng tôi, theo dõi sau 6 tháng, cải thiện điểm số I-PSS trung bình
khoảng 53%, từ 20,7 còn 9,8. Cải thiện điểm số QoL trung bình khoảng
79%, từ 4,7 đến 1,04. Cải thiện trị số Qmax trung bình khoảng 80%, từ 8,5
đến 15,2. Như vậy, kết quả cải thiện các nghiên cứu về TUNA đều có ý
nghĩa. Kết quả của chúng tôi có cao hơn một số nghiên cứu khác, có lẽ do tỉ
lệ tái khám của bệnh nhân chúng tôi ít hơn nhiều. Chỉ những bệnh nhân có
quan tâm đến tình trạng sức khỏe của mình tái khám đầy đủ, làm cho tính
hiệu quả của điều trị tăng lên.
Chúng tôi và nhiều tác giả khác vẫn áp dụng chỉ 2 vị trí cắm kim điều trị
trong TUNA, nên thời gian điều trị, cảm giác bỏng rát khó chịu ở niệu đạo,
cũng như khả năng phải can thiệp gây mê hoặc gây tê tủy sống giảm hơn hẳn
so với kết quả của tác giả Scott A. Kahn và cs
(6)
. Họ đã sử dụng 4 vị trí điều
trị (4 vị trí cắm kim chia đều cho 2 thùy). Tuy nhiên, tác giả này đã nêu lên
một nhận xét rất có giá trị, đó là vấn đề kích thước tuyến tiền liệt không phải
là yếu tố loại trừ trong thủ thuật TUNA, khi họ đã thực hiện trên những
tuyến tiền liệt có kích thước lớn cho kết quả tương tự.
Vì tính an toàn của TUNA, hầu hết các tác giả đều khuyến cáo không cần
thiết phải ngần ngại khi cho bệnh nhân điều trị ngoại trú tiếp sau thủ
thuật
(1,2,3,4,5,7)
. Cũng như vậy, 16 bệnh nhân của chúng tôi đều được ra viện
trong ngày mà không có biến chứng đáng kể nào xảy ra.
Scott A. Kahn và cs
(6)
cũng cho rằng những bệnh nhân già có sự dung nạp
TUNA dưới gel lidocain 2% bơm niệu đạo kết hợp với thuốc an thần hơn là
những bệnh nhân trẻ. Chính vì vậy, dù bệnh nhân già yếu nhưng chỉ cần
không có biến dạng xương gây trở ngại đặt máy soi niệu đạo là có thể thực
hiện tốt thủ thuật TUNA.
Trong nhiều phương pháp điều trị ít xâm hại BL TTL có hiệu quả như laser,
đốt nhiệt bằng vi sóng… thì TUNA có ưu điểm là bảo tồn được niêm mạc
niệu đạo không bị thương tổn và chi phí cho đầu tư cơ bản ít hơn nhiều
(1,6)
.
Chưa kể đến ở các trung tâm niệu khoa của các nước tiên tiến, chi phí điều
trị TUNA còn thấp hơn nhiều so với cắt đốt nội soi BL TTL. Tuy nhiên, ở
Việt Nam do điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn, TUNA vẫn còn là
phương pháp điều trị khá mới lạ, chỉ rất ít trung tâm niệu khoa tiến hành
được, và chi phí điều trị còn cao hơn nhiều lần so với cắt đốt nội soi BL
TTL.
Một bệnh nhân của chúng tôi có tình trạng tăng hoạt tính co bóp cơ bàng quang
quá mức, mà không có tình trạng bế tắc dòng tiểu dưới. Sau điều trị, các triệu
chứng rối loạn vẫn còn trội bật, phải điều trị bằng thuốc kháng đối giao cảm. Như
vậy, chúng tôi cũng có nhận định, đối với những bệnh nhân có triệu chứng rối loạn
chủ yếu trong giai đoạn đổ đầy chứa đựng, thì nên khảo sát tình trạng bế tắc
đường tiểu dưới bằng phép đo áp lực-niệu dòng trước khi thực hiện điều trị bằng
TUNA cũng như cắt đốt nội soi BL TTL.
KẾT LUẬN
Với số lượng bệnh nhân còn ít, thời gian theo dõi chưa đủ dài, nhưng bước
đầu chúng tôi cũng có thể đưa ra những nhận định từ nghiên cứu này: TUNA
là phương pháp điều trị BL TTL gây bế tắc đường tiểu dưới cho kết quả an
toàn và hiệu quả ít nhất là trong thời gian ngắn, khi được chỉ định chặt chẽ
và chính xác. Đây là thủ thuật tối thiểu, chỉ dưới sự gây tê tại chổ, làm giảm
chi phí điều trị so với những phương pháp điều trị ít xâm hại khác. Đặc biệt
là phương pháp điều trị, được lựa chọn thích hợp cho những trường hợp mà
tổng trạng bệnh nhân không cho phép thực hiện CĐNS BL TTL. Tuy nhiên
hiệu quả về lâu về dài, cần phải có thêm nhiều nghiên cứu và thời gian theo
dõi dài hơn nữa, mới đưa ra những nhận định chính xác và khách quan hơn.