Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tán sỏi thận qua da bằng kim nhỏ (microperc) thực hiện tại Medic

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (785.3 KB, 6 trang )

16
4%
100%

Thời gian thủ thuật

Giới tính: nam có 30 ca chiếm 60 %. nữ có 20
ca chiếm 40%.

+ Trung bình: 42.9 ± 2.3 phút.
+ Nhanh nhất: 15 phút.

Độ ứ nước

+ Lâu nhất: 80 phút.

Bảng 1: tỉ lệ độ ứ nước thận
Không ứ nước
Ứ nước độ 1
Ứ nước độ 2
Ứ nước độ 3

SỐ CA
18
22
8
2
50

Số ca
15


18
14
3

Tỉ lệ
30%
36 %
28 %
6%

Kích thước sỏi:
- Trung bình: 17.97 ± 0.54mm.
- Nhỏ nhất: 12 mm.

Theo tác giả Tepeler A(Turkey) báo cáo trong
21 ca: 62.8 ± 25.2 phút.

Thời gian nằm viện
Thời gian nằm viện trung bình: 26.4 ± 1.0
giờ.
Theo tác giả Mahesh R. Desai(India) báo cáo
trong 10 ca đầu tiên: 2.3 ± 1.2 ngày.
Tepeler A(Turkey) báo cáo trong 21 ca: 37.5 ±
14.4 giờ.

- Lớn nhất: 30 mm.
Trong khi lô nghiên cứu của Mahesh R.
Desai thì kích thước sỏi trung bình là 14.3mm
còn Teleper A thì kích thước sỏi trung bình
17.8 mm.


Biến chứng
+ Đau sau mổ: 2 ca chiếm 4%.
+ Chảy máu: 2 ca chiếm 4%.
+ Nhiễm trùng: 1 ca chiếm 2%.
+ Sỏi kẹt niệu quản: 16 ca chiếm 32%.
Tỉ lệ sạch sỏi trong lúc mổ là 94% (47 ca), còn
sỏi nhỏ là 6% (3 ca).

a

b

c

Hình 5: a: sỏi trước tán, b: trong lúc tán, c: sau tán(sạch sỏi)

Lượng máu mất
+ Lượng máu mất trung bình là: 0.7 ± 0.6
g/dL

+ Lượng máu mất nhiều nhất: 2.1 g/dL
Theo Mahesh R. Desai (India) trong 10 ca
đầu tiên: 1,4 ± 1,0 gm/dL(0,3 - 3,6g/dL)

+ Lượng máu mất ít nhất: 0.08 g/dL

108

Chuyên Đề Thận – Niệu



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
Theo Tepeler A (Turkey) trong 21 ca: 0.8±0.6
(0.1 - 2.3) g/dL (0.1 - 2.3 g/dL).

Vị trí đường đi vào thận
+ Đài trên: 22 ca chiếm 44%
+ Đài giữa: 6 ca chiếm 12%
+ Đài dưới: 22 ca chiếm 44%

Kết hợp thêm thủ thuật
Có 14 ca sau PNL phải kết hợp thêm các thủ
thuật khác để làm sạch sỏi.
+ Tán sỏi ngoài cơ thể: 2 ca chiếm 4%
+ Soi niệu quản: 16 ca chiếm 32%.

Vấn đề lưu stent
+ Mono- J stent: có 25 ca.
+ Double - J stent: có 2 ca.
+ Kết hợp cả hai: có 23 ca

BÀN LUẬN
Từ khi PNL được giới thiệu vào năm 1976(1),
PNL đã đóng vai trò quan trọng trong chiến lượt
điều trị cho các nhà niệu khoa. Ngày nay đã có
nhiều dấu hiệu tiến bộ trong PNL như là mini
PNL đã làm giảm biến chứng do giảm kích
thước đường nong vào thận, nhưng vẫn thực
hiện nhiều bước như nong vào thận, rút guide

rồi mới gắn optic fiber soi vào bể thận(2,3).
Hiện tại chúng tôi chỉ sử sụng kim đi vào
thận là 4.85 Fr (16 gauge), nong đến 8 Fr, soi vào
đài bể thận và quan sát thấy sỏi trực tiếp, sau đó
tán sỏi bằng laser, Chúng tôi sử dụng laser tán
nát sỏi thành những mảnh nhỏ, không giống
như PNL và mini PNL là sau khi tán sỏi phải lấy
sỏi ra qua kênh thủ thuật, microperc do sử dụng
kim nhỏ và không phải nong đường nong lớn
vào thận nên những mảnh sỏi sau tán sẽ theo
đường niệu ra ngoài. Do đó những chỉ định của
chúng tôi là những sỏi thận có kích thước vừa
phải, những sỏi đài thận có hẹp cổ đài thận
không tán sỏi ngoài cơ thể được.
Trong nhóm bệnh nhân này, sau khi tán
nát hết sỏi, chúng tôi đặt thông mono-J vào bể
thận thường qui để theo dõi an toàn và cầm

Chuyên Đề Thận – Niệu

Nghiên cứu Y học
máu, rút thông mono-j khi hết sỏi, ngày hôm
sau cho bệnh nhân xuất viện. Hẹn một tháng
sau tái khám chụp KUB kiểm tra để rút thông
mono-J. Trường hợp đặt thông JJ khi thấy sỏi
lớn hoặc nghi có hẹp niệu quản hoặc có sỏi
nhỏ kẹt niệu quản trước khi rút mono-J.
Về phần biến chứng, trong ca đầu tiên bệnh
nhân chỉ đau hông phải sau thủ thuật một giờ và
được xử lí giảm đau thì hết, ngày hôm sau hết

đau. Bệnh nhân ít chảy máu trong lúc thủ thuật
và chỉ thấy nước tiểu đỏ qua thông mono-J sau
hậu phẫu, chúng tôi điều trị cầm máu qua
đường tĩnh mạch thì khỏi.
Có ba ca phải tán sỏi qua da lần hai, một ca
chảy máu nhiều trong lúc mổ không thấy sỏi và
phải đặt thông mono-J cầm máu và làm lại sau
hai tuần, một ca vào thận sai vị trí(đài dưới)nên
chỉ tán sỏi 1 phần và làm lại lần hai 1 tháng sau
bằng đường vào mới(đài trên), ca còn lại là sỏi
lớn phải tán làm hai lần.
Chúng tôi chuộng đi vào thận bằng đài
trên hơn do dễ kiểm soát được sỏi ở tất cả các
vị trí, tuy nhiên nếu không cẩn thận có thể vào
màng phổi.
Vấn đề steintrasse (sỏi kẹt niệu quản thành
chuỗi), trong nhóm nghiên cứu chúng tôi có 16
ca sỏi kẹt niệu quản, bệnh nhân đau và sốt phải
nhập viện lại và lấy sỏi niệu quản bổ sung. Lý
giải vấn đề này là do tỉ lệ chon bệnh của chúng
tôi, chúng tôi chọn sỏi khá lớn so với các nghiên
cứu khác(kích thước sỏi trung bình là 18.96 mm)
trong khi lô nghiên cứu của Mahesh R. Desai thì
kích thước sỏi trung bình là 14.3mm.
Sỏi khúc nối bể thận niệu quản cũng là chỉ
định lý tưởng để tán sỏi qua da bằng kim nhỏ.

KẾT LUẬN
Microperc được thực hiện lần đầu tiên tại
việt nam, là phương pháp điều trị ít xâm lấn, khả

thi, an toàn và hiệu quả, thay thế phần nào của
PNL tiêu chuẩn và làm giảm biến chứng của nó.
Hiệu quả tốt với những bệnh nhân có sỏi thận <
30 mm. Bệnh nhân có thể xuất viện trong ngày
hoặc ngày hôm sau.

109


Nghiên cứu Y học
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

110

Fernström I and Johansson B (1976): Percutaneous
pyelolithotomy: a new extraction technique. Scand J Urol
Nephrol; 10: 257.
Helal M, Black T, Lockhart J et al (1997): The Hickmanpeelaway
sheath:
alternative
for

pediatric
percutaneousnephrolithotomy. J Endourol; 11:171.
Knoll T, Wezel F, Michel MS et al (2010): Do patients benefit
from miniaturized tubeless percutaneous nephrolithotomy? A
comparative prospective study. J Endourol; 24: 1075.
Mahesh R. Desai et al (2011): Single-Step Percutaneous
Nephrolithotomy (Microperc): The Initial Clinical Report. J
Urol; 186, 140-145.
Markus Bader, Gratzke C, Schlenker B et al (2010): The “Allseeing needle”—an optical puncture system confirming
percutaneous access in PNL. J Urol, suppl.; 183: e734, abstract
1890.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
6.

7.

8.

Mauric Stephan Michel, Lutz Trojan and Jens Jochen
Rassweiler
(2007):
Complicationsin
percutaneous
nephrolithotomy. EurUrol; 51: 899.
Mcdougall EM (2002): Percutaneous approaches to the upper
urinary tract. In: Walsh PC, et al., editors. Campbell’s urology.
ed 8. Philadelphia: Sanders; p. 3320.
Nagele U, Schilling D, Anastasiadis AG, Walcher U, Sievert
KD, Merseburger AS, Kuczyk M, Stenzl A: Minimally

invasive percutaneous nephrolitholapaxy (MIP). Urologe A.
2008 Sep;47(9):1066, 1068-73. doi: 10.1007/s00120-008-1814-2.

Ngày nhận bài báo:

10/05/2015

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

01/06/2015

Ngày bài báo được đăng:

15/07/2015

Chuyên Đề Thận – Niệu



×